Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Skkn một số kinh nghiệm dạy tập làm văn miêu tả lớp 5 đạt kết quả tốt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.23 KB, 33 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ PLEIKU

TÊN ĐỀ TÀI:

MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY
TẬP LÀM VĂN MIÊU TẢ LỚP 5 ĐẠT KẾT QUẢ TỐT
MÃ SKKN: TH

1


PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TP. PLEIKU
TRƯỜNG: TIỂU HỌC TRẦN ĐẠI NGHĨA
TỔ: 5

TÊN ĐỀ TÀI
MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY
TẬP LÀM VĂN MIÊU TẢ LỚP 5 ĐẠT KẾT QUẢ TỐT
MÃ SKKN: TH

Họ và tên người viết: Nguyễn Thị Huyền
Chức danh: Giáo viên

2


MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY TẬP LÀM VĂN MIÊU TẢ
LỚP 5 ĐẠT KẾT QUẢ TỐT.
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Đất nước đang trong thời kì công nghiệp hoá - hiện đại hoá đòi hỏi nguồn


nhân lực trí tuệ cao. Hơn nữa quá trình hội nhập khu vực và quốc tế với xu thế toàn
cầu hóa đang là một thách thức đối với nước ta, đòi hỏi Nhà nước và Ngành Giáo
dục phải có một chiến lược phát triển nhân tài. Để đáp ứng được yêu cầu này đòi
hỏi phải có sự điều chỉnh mục tiêu, nội dung giáo dục một cách phù hợp. Vì vậy,
mục tiêu của giáo dục Tiểu học đặt ra là: “Giúp học sinh hình thành những cơ sở
ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, phẩm chất, thẩm
mĩ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên bậc Trung học cơ sở”. (Trích
Điều 27, Luật giáo dục)
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, có thể nói Giáo dục Tiểu học có vị trí đặc
biệt quan trọng trong việc đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Bước
vào bậc Tiểu học các em được học tập Tiếng Việt, chữ Việt với phương pháp học
tập tiếng mẹ đẻ thật sự khoa học. Học sinh Tiểu học chỉ có thể học tập được các
môn học khác khi có kiến thức tiếng Việt bởi đối với người Việt, tiếng Việt là
phương tiện giao tiếp, là công cụ trao đổi thông tin và chiếm lĩnh tri thức. Trong
môn Tiếng Việt có nhiều phân môn như: Học vần, Tập đọc, Tập viết, Chính tả,
Luyện từ và câu, Kể chuyện, Tập làm văn. Mỗi phân môn chứa đựng một bộ phận
kiến thức nhất định, chúng bổ trợ cho nhau để giúp các em học tốt môn Tiếng Việt.
Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn
Tiếng Việt và các môn học khác. Vì nó quyết định nhiều mặt như: khi làm bài tất
cả các môn học khác đều sử dụng đến hành văn, kể cả sau này không còn học dưới
mái trường nữa thì Tập làm văn vẫn là hành trang để các em bước vào đời. Do đó
để học tốt phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức tổng hợp
từ nhiều môn học khác nhau. Vì thế để làm được một bài văn, không những học
3


sinh phải sử dụng cả bốn kỹ năng: nghe - nói - đọc - viết mà còn phải vận dụng các
kỹ năng về Tiếng Việt, về cuộc sống thực tiễn xung quanh mình. Phân môn Tập
làm văn rèn cho học sinh tạo lập văn bản, góp phần dạy học sinh sử dụng Tiếng
Việt trong đời sống sinh hoạt. Vì vậy, Tập làm văn là phân môn có tính tổng hợp,

có liên quan mật thiết đến các môn học khác.
Trong quá trình dạy Tập làm văn, để đạt được mục tiêu đề ra, ngoài phương
pháp của thầy, học sinh cần phải có vốn kiến thức, ngôn ngữ về đời sống thực tế.
Học tốt Tập làm văn sẽ giúp các em học tốt các môn học khác, đồng thời giáo dục
các em những tình cảm lành mạnh, trong sáng, rèn luyện khả năng giao tiếp và góp
phần đắc lực vào việc giữ gìn, phát huy sự trong sáng của Tiếng Việt, hình thành
nhân cách con người Việt Nam hiện đại.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1) Thực trạng tình hình :
Năm học 2015 – 2016 là năm học thứ hai tiếp tục thực hiện đánh giá học
sinh Tiểu học theo thông tư 30/2014/TT-BGDĐT và tiếp tục thực hiện lồng ghép
tích hợp giáo dục Bảo vệ môi trường, tài nguyên biển, hải đảo, sử dụng năng
lượng tiết kiệm và hiệu quả vào các môn học và hoạt động giáo dục cấp Tiểu học.
Tăng cường giáo dục kĩ năng sống, giáo dục pháp luật cho học sinh, đồng thời tiếp
tục thực hiện tốt các cuộc vận động và phong trào: Xây dựng trường học thân thiện
học sinh tích cực.
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm ở lớp 5 và nghiên cứu môn Tiếng Việt tôi
nhận thấy phân môn Tập làm văn nối tiếp một cách tự nhiên các bài học khác nhau
trong môn Tiếng việt. Nội dung các bài Tập làm văn lớp Năm thường được gắn với
chủ điểm đang học của các bài Tập đọc theo chương trình. Kiến thức Tập làm văn
lớp Năm trang bị cho học sinh lớp Năm thông qua các bài luyện tập, thực hành.
Nội dung các bài luyện tập trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp Năm giúp học
sinh hoàn thiện những hiểu biết ban đầu về văn miêu tả (tả cảnh, tả người), có một
số hiểu biết về mục đích giao tiếp và hoàn cảnh giao tiếp để thực hành vận dụng
các loại văn bản khác như: Làm báo cáo thống kê; làm đơn; làm biên bản; thuyết
trình tranh luận; lập chương trình hoạt động; tập viết đoạn đối thoại.
4


Ngoài việc cung cấp một số kiến thức mới, nội dung dạy học Tập làm văn

lớp Năm còn có các bài ôn tập nhằm củng cố, hệ thống hoá những kiến thức đã học
về văn kể chuyện, về văn miêu tả chuẩn bị cho học sinh những điều kiện cần thiết
để học lên lớp trên.
Có thể nói rằng phân môn Tập làm văn giúp học sinh sau một quá trình
luyện tập lâu dài, có ý thức dần dần nắm được cách viết các bài văn theo nhiều loại
phong cách khác nhau. Các em được học tiếp về kĩ năng miêu tả như tả cảnh, tả
người với những yêu cầu cao hơn. Học tốt phân môn Tập làm văn chính là học tốt
môn Tiếng Việt và ngược lại.
Để làm được bài văn miêu tả hay học sinh phải biết quan sát tìm ý lập dàn
bài. Sau đó các em sẽ trình bày bài nói hoặc bài viết, thể hiện kĩ năng diễn đạt trôi
chảy qua việc sử dụng cách dùng từ đặt câu, diễn ý, dựng đoạn. Bố cục của bài văn
phải được trình bày mạch lạc, dùng từ chính xác, câu văn đúng ngữ pháp. Trong
một bài văn học sinh phải tả được những nét tiêu biểu đặc sắc của cảnh vật gắn với
hoàn cảnh không gian và thời gian cụ thể. Cảnh bao giờ cũng gắn với con người,
được tạo dựng, tô điểm thành một bức tranh nho nhỏ sinh động bằng ngôn ngữ nói
và viết. Kết quả cuối cùng của việc dạy Tiếng Việt lớp 5 là hiệu quả của những bài
văn hay.
Bài văn hay là bài văn đạt tốt các yêu cầu về nội dung, nghệ thuật và giàu
cảm xúc, đẹp cả về mặt hình thức lẫn nội dung. Bài văn hay do các em viết ra phải
miêu tả sự vật một cách chân thật, thể hiện được tình cảm, cảm xúc phù hợp với
lứa tuổi, thể hiện ngôn ngữ trong sáng, giàu màu sắc, hình ảnh gợi tả và gợi cảm
xuất phát từ những rung động trẻ thơ hồn nhiên giản dị.
Mục tiêu cần đạt của Phân môn Tập làm văn là như vậy nhưng thực tế việc
học Tập làm văn của các em còn nhiều hạn chế như:
Cách dùng từ đặt câu chưa đúng, chưa sáng tạo, liên kết các câu thành đoạn
văn, bài văn còn rời rạc, lủng củng, bố cục chưa khoa học.
Nhiều bài viết còn sáo rỗng, câu từ, lời văn vay mượn quá nhiều. Một số bài
viết sa vào kể lể lan man dài dòng.

5



Một vài em chưa phân biệt rõ giữa văn kể chuyện và văn miêu tả vì vậy bài
văn khô khan thiếu hẳn câu văn hay hình ảnh đẹp. Bài viết còn nghèo nàn, đơn
điệu các em chưa biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong miêu tả.
Một số em chưa biết vận dụng lồng ghép kiến thức các môn học khác để hỗ
trợ cho môn học Tập làm văn và các em cũng chưa biết học tập cách miêu tả đặc
sắc những sự vật cùng đối tượng của các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng mà các em đã
được học.
2) Tìm hiểu nguyên nhân:
a) Về phía học sinh:
- Các em chưa hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn miêu tả; chưa phân biệt
được sự khác biệt giữa văn miêu tả với các kiểu bài văn khác. Khả năng quan sát
và lựa chọn hình ảnh để quan sát và miêu tả chưa tinh tế.
- Vốn từ ngữ của các em chưa nhiều, các em chưa biết cách chọn lọc các từ
ngữ khi miêu tả. Nhiều em chưa hiểu hết nghĩa của những từ mà các em dùng để
tả. Một số em còn vụng về khi liên kết các câu văn thành đoạn văn, các đoạn văn
thành bài văn.
- Đặc biệt kĩ năng sống của các em còn hạn chế vì vậy các em chưa biết cách
xen lồng những suy nghĩ, cảm xúc của mình trong khi tả mà chỉ kể hoặc liệt kê ra
những gì mình thấy.
- Nhiều em chưa có thói quen sử dụng các biện pháp tu từ, biện pháp nghệ
thuật trong viết văn, khả năng giao cảm với đối tượng miêu tả còn hạn chế, cảm
xúc tình cảm không tự nhiên, còn gượng ép và khô cứng.
- Một số em dựa vào văn mẫu nên bài viết sáo rỗng. Các em chưa biết biến
bài văn tham khảo được thành bài văn của riêng mình, phù hợp với yêu cầu thực tế.
- Một số em có tâm lí không thích học văn, không thích làm văn. Thích học
các môn tự nhiên hơn. Có thể do gia đình hoặc xã hội tác động nên hầu hết các em
tập trung vào học Toán.
Cụ thể qua khảo sát đầu năm phân môn Tập làm văn lớp tôi chủ nhiệm như

sau:

6


Hoàn thành
Bài làm
sáng tạo, bố
Lớp

Sĩ số

cục chặt

Bài làm có ý

Bài làm đúng yêu

tưởng sáng tạo, có

cầu, song còn hạn

cảm xúc, song bố

chế về bố cục và

cục còn hạn chế.

cách dùng từ đặt câu.


16 em

11 em

2em

45,7%

31,5 %

5,7%

chẽ, giàu

51

35 em

cảm xúc.
6 em
17,1%

Chưa
hoàn thành

b) Về phía giáo viên :
- Một số giáo viên còn hạn chế trong việc truyền cảm hứng yêu thích môn
học và giúp học sinh vận dụng kiến thức Tiếng Việt để rèn cho các em thói quen
cảm nhận cái hay, cái đẹp của Tiếng Việt, giúp các em tìm ra những hình ảnh đẹp,
những câu văn đặc sắc… của các tác giả mà các em được học. Từ đó bồi dưỡng

cho các em khả năng cảm thụ văn học.
- Một số giáo viên còn hạn chế trong việc tích hợp, lồng ghép các kĩ năng
sống và truyền cảm hứng yêu thích môn học cho các em qua từng bài giảng, lời
giảng hàng ngày và nếu có thì việc tích hợp, lồng ghép cũng chưa thường xuyên
hay còn vụng về nên học sinh khó tiếp nhận hay tiếp nhận một cách gượng ép nên
hiệu quả chưa cao. Chính vì vậy việc bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, mỹ cảm cho
học sinh thông qua các môn học còn hạn chế
- Đôi khi giáo viên chưa chú ý đến việc dạy cho học sinh cách lập dàn ý cho
một bài văn và chưa kiên trì thường xuyên rèn kĩ năng viết bài cũng như kĩ năng
giao tiếp cho học sinh.
- Một số giáo viên còn ngại khi dạy Tập làm văn (vì các em thích học những
môn học khác hơn) và chưa tạo được hứng thú cho học sinh trong giờ học cũng
như thực sự chú ý đến việc hình thành cho các em thói quen tích luỹ những hiểu
biết về thế giới tự nhiên trong cuộc sống và trong văn học.
- Một số giáo viên chỉ biết nội dung chương trình của lớp mình đang dạy
chứ chưa nắm được cấu trúc chương trình toàn cấp học để biết các lớp trước học
sinh đã được học những gì, có những bài văn, bài thơ nào viết về cùng đối tượng
7


mà mình đang dạy hôm nay và các lớp sau học sinh sẽ được học những gì nối tiếp
chương trình mình đang dạy.
Đứng trước nhiệm vụ năm học và yêu cầu giảng dạy tôi đã băn khoăn, suy
nghĩ và tìm ra một số biện pháp giúp học sinh làm văn miêu tả đạt kết quả tốt. Đây
chính là lí do tôi chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm dạy Tập làm văn miêu tả lớp
5 đạt kết quả tốt”

8



B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Xuất phát từ những cơ sở đã nêu trên, tôi đã đưa ra những giải pháp giúp học
sinh học tốt phân môn Tập làm văn, nhất là đối với văn miêu tả. Cụ thể như sau:
1. Truyền cảm hứng yêu thích môn học và giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh.
Tôi đã đọc được câu nói của Nhà thi hào William A Waard: “Người thầy
trung bình là người thầy chỉ biết nói, người thầy giỏi biết giải thích, người thầy
xuất chúng thích minh họa còn người thầy vĩ đại biết truyền cảm hứng”. Vì vậy
trong tình hình thực tế hiện nay, bản thân tôi nghĩ rằng làm một người thầy giỏi
chưa đủ mà có thể mong muốn cao hơn và vươn tới đích là người thầy vĩ đại. Do
đó trong quá trình giảng dạy, tôi luôn tìm cách truyền cảm hứng yêu thích môn học
đến từng học sinh. Vì khi đã có lòng đam mê, yêu thích môn học chắc chắn các em
sẽ say mê tìm tòi, chịu khó vươn lên và học tốt. Trước hết tôi đã giúp học sinh
nhận thấy môn học Tập làm văn là môn học sáng tạo vì nó là môn học ứng dụng tất
cả các kiến thức đã được học ở các phân môn như: Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể
chuyện, Chính tả và tất cả các môn học khác trong nhà trường. Vì vậy học tốt Tập
làm văn giúp các em rất nhiều trong việc học các môn học khác. Các em sẽ biết sử
dụng ngôn ngữ nói, viết của mình để trao đổi, diễn đạt một cách chặt chẽ các vấn
đề mà mình cần tìm hiểu. Những bạn học tốt phân môn Tập làm văn cũng chính là
những bạn có năng lực học rất tốt, được giao nhiều việc của chi đội, của Liên đội
và các bạn đó đều hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Bên cạnh đó các em
cũng thấy rõ các bạn đó đều được nhiều người yêu mến vì ăn nói dịu dàng, lịch sự
và giao tiếp tốt. Tôi cũng chỉ rõ cho học sinh biết, thông thường những người làm
văn hay khi lớn lên sẽ có nhiều cơ hội trong việc lựa chọn nghề nghiệp, nếu ra đời
đi làm hay đi học thì những người giao tiếp tốt sẽ dễ dàng gặt hái được thành công
hơn là những người nói năng vụng về, giao tiếp kém. Qua đó các em thấy rõ sự cần
thiết cũng như vai trò to lớn của phân môn Tập làm văn đối với mỗi người trong
học tập cũng như trong cuộc sống. Từ đó học sinh lớp tôi không sợ, không ghét
phân môn Tập làm văn nữa mà các em dần dần yêu thích nhiều em đã say mê môn
học này.

9


Bên cạnh đó, tôi luôn giáo dục kĩ năng sống cho học sinh một cách bền vững
nhất. Trước hết, tôi giúp các em cảm nhận một sự vật, một sự việc, một con người
bằng tư duy tình cảm và lí trí. Thông qua hình ảnh đẹp, câu văn hay, những từ chìa
khóa… trong các đoạn, bài văn, bài thơ (qua môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Tập
làm văn…) tôi đã giúp các em nhận ra cái đẹp tự nhiên hiển hiện rõ ràng hoặc ẩn
giấu của cuộc sống làm cho cuộc đời có nhiều người tốt đẹp, có đạo đức và các em
cũng tự rút ra cho mình bài học sâu sắc nhất từ cách giao tiếp, ứng xử đối với gia
đình, bản thân, bè bạn, giúp các em biết cách đối nhân xử thế. Biết cảm thông, biết
bày tỏ tình cảm cần có của một con người như tình yêu thiên nhiên cỏ cây hoa lá,
biển trời, núi đồi…tình làng nghĩa xóm, trân trọng con người dù họ lành lạnh, xinh
xắn, đáng yêu hay tàn tật, xấu xí. Các em biết yêu thương gia đình, quý mến bạn
bè, thương yêu loài vật…
Ví dụ: Khi dạy về văn tả cảnh tôi hướng dẫn, gợi ý giúp các em nhận ra vẻ
đẹp của cảnh vật xung quanh mình, mặc dù những cảnh vật đó rất gần gũi với các
em như: Tả cảnh buổi sáng (buổi trưa, buổi chiều) trong vườn cây (hoặc trong
công viên, đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy). Tả cơn mưa, tả ngôi trường, tả
ngôi nhà, tả một cảnh đẹp ở địa phương em, tả cảnh sông nước...nhưng qua những
câu văn, hình ảnh đẹp các em đã biết thổi hồn vào cảnh vật làm cho cảnh vật thân
thiện và như là bạn của con người. Hay khi dạy văn tả người như: Tả người thân
trong gia đình; tả thầy, cô giáo; tả một người bạn của em… các em cũng hiểu được
nỗi vất vả của cha mẹ, thầy cô, …hiểu được tính nết đáng yêu, đáng học tập của
các bạn,… Từ đó các em bộc lộ bày tỏ tình cảm đối với những cảnh, những người
mà các em chọn tả.
Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả cao thì giáo viên cần có
kĩ năng sống tốt, và biết vận dụng linh hoạt kĩ năng sống vào trong từng bài giảng
mỗi ngày cho học sinh, mỗi năm cho một lứa học sinh. Giáo viên cần có suy nghĩ
sâu sắc, chính xác mà cụ thể dễ hiểu, những lời nói chân thành, sinh động giàu sức

thuyết phục cao về bài học, những cách ứng xử hợp với tâm lí lứa tuổi, những lời
nói thực sự đi đôi với việc làm của mỗi giáo viên sẽ góp phần đào tạo ra những con
người có tâm hồn nhạy cảm, trong sáng, lương thiện, có thể chất khoẻ mạnh, có tri
10


thức dồi dào, hiểu biết rộng rãi, phân biệt rạch ròi tốt xấu. Đây cũng chính là mục
tiêu mà Giáo dục hướng tới để đào tạo ra lớp người có đủ đức, tài gánh vác trọng
trách của đất nước trong thời đại hiện nay. Vì vậy, bản thân tôi đã không ngừng
học tập, tu dưỡng rèn luyện để có một tâm hồn nhạy cảm, vốn kiến thức uyên thâm
và có kĩ năng sống tốt để nắm bắt được tâm lí lứa tuổi của học sinh Tiểu học.
Trong quá trình giảng dạy, tôi luôn gần gũi, tận tình với các em. Đôi khi phải đóng
một lúc cả ba vai: là cô, là mẹ, là chị và đôi lúc là bạn của các em để giáo dục kĩ
năng sống một cách dễ dàng và hiệu quả nhất.
Từ những cách làm trên tôi đã giúp học sinh yêu thích môn học và có kĩ
năng sống tốt. Nhờ đó mà các em thấy được cái hay, cái đẹp của cảnh vật, của con
người. Tạo cho các em tâm lí phấn khởi tự tin, thể hiện được những gì mình đã
thấy, đã yêu, đã thích bằng ngôn ngữ chân thành của các em. Vì vậy mà khả năng
giao tiếp của học sinh lớp tôi được nâng lên rõ rệt, góp phần không nhỏ trong
phong trào: Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực. Và các em cũng làm
tốt công tác tuyên truyền, hợp tác với mọi người xung quanh để bảo vệ thiên nhiên
tươi đẹp, bảo vệ tài nguyên quý báu của quốc gia. Đây cũng chính là mục tiêu,
nhiệm vụ chúng ta cần lồng ghép, tích hợp trong giảng dạy để bảo vệ môi trường,
bảo vệ biển, hải đảo quê hương…Hơn nữa qua những việc làm trên đã góp phần
tích cực trong việc đánh giá học sinh theo Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT (Học
sinh tham gia nhận xét, đánh giá bạn bằng những từ, những câu, những lời nhận
xét thật chính xác, xuất sắc của các em).
2. Giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn miêu tả.
Ở lớp 4 các em đã học: Thế nào là văn miêu tả? (TV4-tập 1- trang 140). Các
em đã biết miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người,

của vật để giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy. Lên lớp
5, tôi đã giúp học sinh hiểu thêm: Miêu tả là một thể loại văn bản mà trong đó
người viết dùng ngôn ngữ có tính chất nghệ thuật của mình để tái hiện, sao chụp lại
hình ảnh chân dung của đối tượng miêu tả với những đặc điểm nổi bật cả về hình
thức bên ngoài lẫn những phẩm chất bên trong nhằm giúp người tiếp nhận có

11


những hiểu biết và rung cảm, cảm nhận về đối tượng đó như được trực tiếp tiếp
xúc với đối tượng thông qua các giác quan của mình.
Bài văn miêu tả được xây dựng trên cơ sở những hình ảnh, những ấn tượng
về đối tượng mà người viết thu lượm, cảm nhận được thông qua các giác quan trực
tiếp của mình. Bài văn miêu tả là thể loại văn bản mang tính nghệ thuật cao, mang
tính sáng tạo. ngôn ngữ trong văn miêu tả là thứ ngôn ngữ nghệ thuật giàu sức gợi
tả gợi cảm và là ngôn ngữ của những biện pháp tu từ. Tả là mô phỏng, là tô vẽ lại,
là so sánh ví von, nhân hóa bằng hình ảnh… chứ không phải là kể lể. Văn miêu tả
thể hiện được cái mới, cái riêng biệt của đối tượng thông qua cảm nhận của mỗi
con người.
* Chẳng hạn, khi nhìn thấy một bầu trời đầy sao, Vích- to Huy-gô thấy nó
giống như một cánh đồng lúa chín, ở đó người gặt đã bỏ quên lại một cái liềm con
là vành trăng non. Mai-a-cốp-xki thì lại thấy những ngôi sao kia như những giọt
nước mắt của người da đen. Còn đối với Ga-ga-rin thì những vì sao là những hạt
giống mới mà loài người vừa gieo vào vũ trụ. (TV5 - Tập 1- trang 160). Đối với
nhà văn Nam Cao thì vành trăng và ánh sao lại được nhìn nhận, được cảm nhận
theo một cách hoàn toàn khác: Trăng là cái liềm vàng giữa cánh đồng đầy sao,
trăng là cái đĩa bạc trên tấm thảm nhung da trời. Trăng tỏa mộng xuống trần gian.
Trăng tuôn suối mát để những tâm hồn khao khát ngụp lặn. Còn với Trần Đăng
Khoa thì trăng được cảm nhận một cách tinh tế bằng tình yêu của tâm hồn trẻ thơ,
rất hồn nhiên trong sáng:

Trăng hồng như quả chín/ Lơ lửng mà không rơi…
Trăng tròn như mắt cá/ Chẳng bao giờ chớp mi;
Trăng tròn như quả bóng/ Bạn nào đá lên trời.
Như vậy, cũng là vầng trăng, là bầu trời mỗi người sẽ cảm nhận theo cách
riêng của mình, đó là những gì người khác không thấy hoặc chưa thấy. Với học
sinh, mỗi bài tập làm văn là sản phẩm của từng cá nhân các em trước một đề tài.
Sản phẩm này ít nhiều in dấu ấn riêng của từng em trong cách suy nghĩ, cách tả,
cách diễn đạt… thái độ đúng đắn của giáo viên là tôn trọng sự độc lập sự suy nghĩ
sáng tạo đó nếu nó không biểu lộ những lệch lạc.
12


Nhà văn Phạm Hổ đã nói: “Cái riêng, cái mới trong văn miêu tả phải gắn với
cái chân thật”. Văn miêu tả không hạn chế sự tưởng tượng, không ngăn cản sự
sáng tạo của người viết nhưng như vậy không có nghĩa là cho phép người viết
“bịa” một cách tùy ý. Vì vậy để giúp học sinh tả đúng, tả hay thì trước hết tôi
thường yêu cầu các em phải tả chân thật, tôi đã uốn nắn để học sinh tránh thái độ
giả tạo, giả dối, bệnh công thức sáo rỗng.
Ví dụ: Đối với đề bài tả người thân trong gia đình em. Hay tả thầy cô giáo.
Tôi đã giúp các em nhận ra rằng: mỗi người có một đặc điểm riêng biệt không thể
mẹ của ai cũng da trắng, tóc dài… Hay cô giáo nào cũng giống cô giáo nào… Từ
đó học sinh lớp tôi đã biết lựa chọn những đặc điểm tiêu biểu, đặc sắc của người
mình sẽ tả để đưa vào bài viết. Do đó lớp tôi có bao nhiêu học sinh thì có bấy
nhiêu bài viết khác nhau. Mỗi bài viết đều mang nét khác biệt, đặc sắc theo cảm
nhận riêng của từng em.
3. Giúp học sinh tích lũy vốn từ, làm giàu tưởng tượng và lựa chọn từ
ngữ trong làm văn miêu tả.
+)Tích lũy vốn từ:
Vốn từ miêu tả có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc làm văn miêu tả. Vốn
từ được tích lũy từ nhiều nguồn: Giao tiếp hàng ngày; đọc sách, báo, xem, nghe

truyền hình truyền thanh; trao đổi với bạn bè; thầy cô giáo cung cấp…
Đầu tiên tôi giúp các em tích lũy vốn từ ngữ miêu tả qua các bài Tập đọc,
nhiều bài Tập đọc là các bài miêu tả hay của nhà văn, nhà thơ. Số lượng từ ngữ
miêu tả ở các bài đó phong phú, cách sử dụng rất sáng tạo.
Như các bài Tập đọc: Quang cảnh làng mạc ngày mùa (TV 5 - Tập 1 - Trang
10); Bài: Sắc màu em yêu (TV 5 - Tập 1 - Trang19, 20 ), Bài: Đất Cà Mau (TV5 Tập 1 - trang 89, 90). Các em có thể tìm thấy rất nhiều từ chỉ màu sắc và những
hình ảnh mà các sắc màu gợi ra. Như lúa chín vàng xuộm; Nắng vàng hoe; Mía
vàng xọng, tàu đu đủ, lá sắn héo: vàng tươi, lá mít: vàng ối, con gà, con chó vàng
mượt…; áo mẹ, đất đai, gỗ rừng: màu nâu; đồng bằng, rừng núi, biển, bầu trời:
màu xanh ...

13


Hay bài: Tiếng đàn ba - la - lai - ca trên sông Đà (TV 5 - Tập 1 - Trang 69),
Bài Kì diệu rừng xanh (TV5 - Tập 1 - Trang 75); Bài Chuyện một khu vườn nhỏ
(TV5 - Tập 1 - Trang 102, 103); Bài Mùa thảo quả (TV5 - Tập 1 - Trang 113); Bài
Hạt gạo làng ta (TV5 - Tập1 - Trang139); Bài Về ngôi nhà đang xây (TV5 - Tập 1
- Trang 148)... Các em cũng thấy được cách dùng từ đặc sắc, những liên tưởng thú
vị và các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hoá trong các bài Tập đọc...Ví dụ:
“…Những cái nấm như cái ấm tích. Mỗi chiếc nấm là một lâu đài kiến trúc tân kì.
Tác giả cảm giác mình là người khổng lồ đi lạc vào kinh đô của vương quốc những
người tí hon. Đền đài, miếu mạo, cung điện của họ lúp xúp dưới chân”(Kì diệu
rừng xanh TV5 - Tập 1 - Trang 75 ); “…Cây hoa ti gôn thích leo trèo, cứ thò
những cái râu ra theo gió mà ngọ nguậy như những cái vòi voi bé xíu…” (Bài
Chuyện một khu vườn nhỏ TV5 - Tập 1 - Trang 102, 103).
Tôi cũng đã khuyến khích các em lập sổ tay từ ngữ miêu tả, để ghi chép lại
các từ ngữ khi nhận được. Sau mỗi bài tập đọc lựa chọn một vài từ ngữ miêu tả
hoặc câu văn miêu tả đặc săc ghi vào sổ. Thỉnh thoảng các em giở sổ ra xem lại,
đọc lại nhất là khi chuẩn bị cho tiết tập làm văn.Với yêu cầu này học sinh lớp tôi

làm rất tốt nhiều em thích thú, say mê sưu tầm những từ ngữ hay, hình ảnh đẹp
trong các bài Tập đọc và trong Báo Đội các em đọc hàng ngày. Ở chuyên mục
Tiếng Việt phong phú, Tiếng Việt giàu đẹp (trong Báo Đội) nhiều học sinh lớp tôi
đã tích cực sưu tầm và học thuộc nhiều từ ngữ, câu văn đặc sắc và vận dụng trong
quá trình học tập. Tôi đã hướng dẫn các em ghi chép các từ ngữ dùng để miêu tả
theo các chủ đề cụ thể như:
Các từ thường dùng trong miêu tả đồ vật: tròn xoe; vuông vắn; nhỏ nhắn;
xinh xắn; đo đỏ...
Các từ thường dùng trong miêu tả con vật: oai vệ; rón rén; lặc lè; nhanh
thoăn thoắt; chậm chạp; ì ạch; tinh nhanh; ranh mãnh…
Các từ thường dùng trong miêu tả người: Tả em bé: mịn màng; mũm mĩm;
mập mạp; chập chững; bập bẹ; mếu máo; hau háu; ngộ nghĩnh; bướng bỉnh; nghịch
ngợm…,Tả cụ già: nhăn nheo; hom hem; dò dẫm; bỏm bẻm; móm mém; lẩm cẩm;

14


run rẩy…Các từ thường được dùng để miêu tả cây cối: xanh mướt; mơn mởn; rung
rinh; um tùm; khẳng khiu; rực rỡ; mỡ màng; vàng úa; xơ xác; lác đác…
Ngoài ra các tiết học Luyện từ và câu đã giúp các em hiểu rõ nghĩa của từ và
mở rộng vốn từ theo từng chủ điểm cụ thể. Khi các em tìm từ đồng nghĩa, từ trái
nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm.
- Ví dụ: Trong bài: Mở rộng vốn từ: Thiên nhiên(TV5-tập 1- Trang 87,88).
Chỉ với một đoạn văn ngắn miêu tả về bầu trời mùa thu nhưng các em đã
đưa ra những từ ngữ, hình ảnh thật độc đáo, sáng tạo:
+ Bầu trời xanh như mặt nước mệt mỏi trong ao.
+ Bầu trời được rửa mặt sau cơn mưa.
+ Bầu trời xanh biếc.
+ Bầu trời buồn bã.
+ Bầu trời trầm ngâm. Nó nhớ đến tiếng hót của của bầy chim sơn ca.

+ Bầu trời ghé sát mặt đất…
- Với yêu cầu của bài: Tổng kết vốn từ. (TV5 - tập 1 - Trang 151, 152).
Các em đã tìm được rất nhiều từ miêu tả hình dáng của người:
+ Miêu tả mái tóc: đen nhánh, óng ả, đen mượt, mượt mà, xơ xác, lơ thơ,
dày dặn, hoa râm, muối tiêu, bạc phơ…
+ Miêu tả đôi mắt: hai mí, một mí, bồ câu, đen láy, hiền hậu, mơ màng....
+ Miêu tả khuôn mặt: trái xoan, vuông vức, thanh tú, chữ điền, tròn, phúc
hậu, bầu bĩnh….
+ Miêu tả làn da: trắng trẻo, hồng hào, rám nắng, bánh mật, mịn màng, ngăm
đen, đen giòn, nhăn nheo, ….
+ Miêu tả vóc người: vạm vỡ, mập mạp, cân đối, dong dỏng, tầm thước,
thon thả, mảnh khảnh….
Tôi cũng khuyến khích các em sử dụng từ láy, từ tượng hình, tượng thanh để
miêu tả cho bài văn sinh động.
+) Giúp học sinh làm giàu thêm trí tưởng tượng:
Theo tôi tưởng tượng trong miêu tả rất quan trọng. Có tưởng tượng mới có
hình ảnh hoàn chỉnh về đối tượng miêu tả. Tưởng tượng như một sự hình dung về
15


đối tượng mà ta nhắm mắt lại thì đối tượng sẽ hiện ra rõ nét hơn, cụ thể hơn, gần
gũi với ta hơn. Tưởng tượng giúp ta thấy được nét đặc sắc của đối tượng, thấy
được những nét tương đồng với đối tượng khác, thấy được mối quan hệ của đối
tượng với sự vật hiện tượng xung quanh, với những kỉ niệm hay kí ức mang dấu ấn
sâu sắc trong lòng người viết. Từ tưởng tượng, học sinh sẽ cảm nhận được đối
tượng miêu tả bằng tình cảm, tình yêu của chính mình, thấy được tầm quan trọng
của đối tượng được tả đối với mình và cả những người xung quanh. Miêu tả gắn
với tưởng tượng là một cách bộc lộ cảm xúc, tình cảm và khả năng cảm thụ cái đẹp
của người viết văn miêu tả. Tưởng tượng làm cho đối tượng được miêu tả hoàn
thiện hơn, đẹp hơn, sống động và gần gũi với con người hơn. Vì vậy trong quá

trình dạy tập làm văn tôi đã giúp học sinh của mình tưởng tượng bằng cách: Không
trực tiếp quan sát, tập trung tất cả các giác quan vào đối tượng. Nhắm mắt, hình
dung về đối tượng: hình ảnh, hoạt động của đối tượng, những ảnh hưởng, tác động
của đối tượng đến sự vật xung quanh. So sánh đối tượng miêu tả với các đối tượng
khác tương đồng. Phân tích, đánh giá cái hay, cái đẹp có ở đối tượng. Nhân hóa
hay tự nhiên hóa một vài hình ảnh đặc sắc ở đối tượng. Dự đoán trước khả năng và
những điều tốt đẹp mà đối tượng có thể vươn tới. Liên tưởng về những điều mình
đã biết, đã nghe, đọc, cảm nhận được về đối tượng từ trước tới nay. Và cuối cùng
là cần ghi chép lại những gì mà mình đã tưởng tượng được để lựa chọn, chắt lọc
đưa vào bài viết của mình.
Ví dụ : Khi tả cảnh sông nước, tôi hỏi các em: Chúng ta đã được học những
bài thơ, bài văn nào miêu tả về cảnh sông nước?
Nhiều em học sinh lớp tôi sẽ nhớ lại những bài viết về cùng đối tượng như:
Bài Cửa Tùng (TV3 - Tập 1), Vàm cỏ Đông (TV3 - Tập 1), Bè xuôi sông La (TV4
- Tập 2); Dòng sông mặc áo (TV4 - Tập 2)…Từ đó tôi lại dẫn dắt các em nhớ đến
những câu văn hay, với hình ảnh so sánh, nhân hóa đặc sắc và những cảm nhận rất
chính xác và tinh tế của tác giả.
Ví dụ:

"Dòng sông mới điệu làm sao
Nắng lên mặc áo lụa đào thiết tha
Trưa về trời rộng bao la
16


Áo xanh sông mặc như là mới may...
…Sáng ra thơm đến ngẩn ngơ
Dòng sông đã mặc bao giờ áo hoa...
(Bài Dòng sông mặc áo TV4-Tập 2)
Hay khi tả người thân của em. Các em có thể nhớ lại hình ảnh người bà trong

bài Bà tôi của Mác-Xim Go- Rơ-Ki (TV5 - tập 1, trang 122, 123). Các em so sánh,
liên tưởng sự khác nhau giữa một người bà ở nước ngoài và một người bà ở Việt
Nam. Nếu tả mẹ các em nhớ lại những bài thơ, bài văn, những câu văn viết về mẹ
mà các em đã được học như: “…Bao năm tháng mẹ bế chúng con trên đôi tay mềm
mại ấy…”, “…Mẹ là ngọn gió của con suốt đời…”, “…Bình yêu nhất là đôi bàn tay
mẹ, những ngón tay gầy gầy, xương xương…”. Từ đó các em lựa chọn được những
nét đặc sắc để miêu tả làm cho bài văn sinh động, hấp dẫn người đọc hơn.
Ngoài ra khi dạy các bài Tập đọc, sau khi tìm hiểu nội dung tôi đã yêu cầu
học sinh tả lại vẻ đẹp của cảnh vật được thể hiện trong bài.
Ví dụ: Khi dạy bài: Tiếng đàn ba-la-lai-ca trên sông Đà (TV5- tập 1- trang 69)
Tôi yêu cầu học sinh dựa vào đoạn thơ: “…Lúc ấy…… Với một dòng trăng lấp
loáng sông Đà…”. Em hãy tưởng tượng và tả lại cảnh sông Đà trong đêm trăng kì
diệu ấy. Mặc dù không tận mắt chiêm ngưỡng cảnh đẹp đó nhưng nhiều học sinh
của lớp tôi đã miêu tả cảnh công trường sông Đà trong đêm trăng thật tuyệt vời.
Hay sau khi học xong bài: Người gác rừng tí hon.(TV5-tập 1, trang 124,125)
tôi yêu cầu học sinh: Hãy tưởng tượng và tả lại người bạn nhỏ trong bài.
Bên cạnh đó khi dạy Tập đọc tôi cũng đã hướng dẫn các em hiểu ý nghĩa
một số từ ngữ có giá trị nghệ thuật và một số biện pháp nghệ thuật. Vì ở nhiều bài
Tập đọc nhà văn đã dùng từ rất tinh tế, sáng tạo. Nhiều từ ở đó học sinh khó có thể
hiểu được. Trong trường hợp đó tôi đã giúp học sinh huy động vốn hiểu biết của
mình để phát hiện, chiếm lĩnh kiến thức mới.
Tôi thường gợi ý hướng dẫn các em tìm ra từ ngữ miêu tả đặc sắc nhất, từ
chìa khoá để phân tích cái hay khi tác giả sử dụng chúng. Nhờ các từ đó mà bài
văn bài thơ trở nên đặc sắc, để lại ấn tượng đẹp đẽ trong lòng người đọc, người
nghe. Vì vậy mà vốn từ của các em càng thêm phong phú.
17


+) Lựa chọn từ ngữ trong làm văn miêu tả.
Có vốn từ rồi nhưng phải biết dùng chúng đúng lúc, đúng chỗ cho nên tôi

luôn coi trọng việc lựa chọn từ ngữ khi diễn đạt của các em. Tôi đã giúp các em
thấy được mỗi chi tiết miêu tả thường chỉ có một từ ngữ, một hình ảnh thích hợp
nhất. Do đó có tác dụng gợi hình, gợi cảm nhất. Một số học sinh lớp tôi ngay từ
đầu đã nắm được những từ ngữ hay, hình ảnh đẹp song nhiều em vẫn còn lúng
túng khi chọn từ ngữ, hình ảnh đặc sắc để miêu tả. Những lúc đó tôi hướng dẫn các
em so sánh các từ đó với từ đồng nghĩa với nó hoặc từ trái nghĩa với nó để tìm
được từ hay nhất, cần dùng trong đoạn văn, bài văn.
Bên cạnh các phân môn như Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Kể chuyện
ở môn Tiếng Việt thì các môn học khác như : Địa lí, Lịch sử, Đạo đức đã góp phần
không nhỏ trong việc viết nên những đoạn văn, bài văn hay của các em. Trong quá
trình dạy các môn học này tôi cũng đã lồng ghép, đưa ra một số yêu cầu cụ thể đối
với từng bài giúp các em khắc sâu kiến thức của bài học. Đồng thời phát huy được
tính sáng tạo trong việc dùng từ diễn đạt của các em, ý đoạn của các em muốn thể
hiện. Qua đây cũng hình thành cho các em bước đầu biết cách tổng hợp, chắt lọc nội
dung kiến thức có liên quan giữa các môn học để làm tiền đề, nền tảng cho việc dạy
học tích hợp liên môn ở cấp học trên mà nền Giáo dục nước nhà đang hướng tới.
Ví dụ: Khi dạy bài: Em yêu Tổ quốc Việt Nam (Đạo đức lớp 5 - Bài 11). Tôi
đã yêu cầu các em: Nếu em là hướng dẫn viên du lịch Việt Nam, em sẽ giới thiệu
như thế nào với khách du lịch về một danh lam thắng cảnh hoặc di tích lịch sử của
nước ta mà em biết?... Một số em học tốt môn văn của lớp tôi có những bài thuyết
trình rất hay được các đồng nghiệp và chuyên môn nhà trường ghi nhận. Hay khi
dạy bài Việt Nam đất nước chúng ta (Địa lí lớp 5 trang 66). Hay bài Vùng biển
nước ta (SGK Địa lí 5 trang 77, 78 , 79) các em quan sát những hình ảnh minh hoạ
trong bài học kết hợp với các thông tin trong bài học và vốn hiểu biết của các em
(vốn hiểu biết có được qua tích luỹ các năm học trước, qua ti vi, sách báo). Khi
củng cố bài tổ chức cho các em thi nhau giũa các nhóm, các tổ chơi trò chơi "Tập
làm hướng dẫn viên du lịch " giới thiệu với bạn bè trong nước và quốc tế về vẻ đẹp
của đất nước, của vùng biển Việt Nam. Đặc biệt trong tình hình hiện nay nhiều học
18



sinh lớp tôi có những bài thuyết trình về tình yêu biển đảo, chủ quyền biển đảo và
quyết tâm giữ gìn biển đảo của thế hệ các em làm cho tôi vô cùng xúc động và tin
tưởng thế hệ tương lai sẽ làm tốt những việc mà hôm nay các em đã nghĩ tới. Đây
cũng là niềm vui, niềm động lực lớn để bản thân tôi cố gắng hơn nữa trong công
tác giảng dạy.
Về phần các em sau khi tham gia trò chơi này đã rất mạnh dạn, tự tin hứng thú
trong học tập, khả năng thể hiện ngôn ngữ nói của các em cũng được nâng lên rõ rệt.
4. Sự chuẩn bị cho giờ học của giáo viên – học sinh.
a) Giáo viên:
Giáo viên cần phải đọc kĩ đề , nắm vững mục đích yêu cầu trọng tâm của bài
dạy, tự đặt mình vào một vài địa điểm, thời điểm khác nhau trong ngày (Đối với
văn tả cảnh); nhập vai nhân vật (Tả người), để có hướng gợi ý cho học sinh miêu tả
khác nhau, giúp các em sáng tạo khi làm bài, tránh rập khuôn máy móc.
Ví dụ 1: Tả cảnh đồng lúa.
+ Em tả cánh đồng vào buổi sáng, buổi trưa hay buổi chiều.
+ Buổi sáng trên cánh đồng có gì đặc sắc? Những giọt sương mai còn đọng
trên kẽ lá giống hình ảnh gì?
+ Buổi trưa ở trên cánh đồng khác buổi chiều trên cánh đồng như thế nào?
+ Em tả cánh đồng lúa xanh tươi đang thì con gái hay cánh đồng lúa chín
vàng?...
+ Từ xa nhìn lại, cánh đồng lúa chín vàng mênh mông, bát ngát khiến ta liên
tưởng đến hình ảnh gì?
Ví dụ 2: Tả người thân trong gia đình.
Trong gia đình em có nhiều người, nhưng người em chọn tả sẽ là ai? Vì sao
em lại tả người đó? Người em miêu tả có đặc điểm gì nổi bật về hình dáng, tính
tình...? Em có những kỉ niệm, ấn tượng sâu sắc gì về người em chọn tả?...
Theo tôi, chúng ta cũng nên chuẩn bị sẵn cho mình những hình thức gợi mở
và một số từ ngữ trong ý chính để giúp các em sáng tạo với suy nghĩ của mình.
b) Học sinh:


19


Để chuẩn bị cho tiết học sắp tới các em cần phải quan sát trước. Quan sát để
phát hiện ra những chi tiết sinh động phong phú của sự vật ở từng lúc, từng nơi cụ
thể, bằng những nét riêng biệt. Vì bước quan sát rất quan trọng là cơ sở để giúp các
em tìm ý, tìm "cái để viết ra nội dung của bài văn".
Để bước quan sát có kết quả tốt các em cần xác định được đối tượng và mục
đích quan sát, quan sát là để tìm ý cho bài văn. Khi đã có đề tài các em chủ động
quan sát sự vật để tìm ý. Trong cuộc sống hàng ngày do tiếp xúc, quan hệ với sự
vật, các em đã tích luỹ được những hiểu biết chi tiết về sự vật đó.
Ví dụ : Khi tả cánh đồng hay nương rẫy tôi đã dặn các em quan sát cánh
đồng, nương rẫy mỗi khi có dịp. Có thể các em lên rẫy cà phê cùng bố mẹ, anh chị.
Các em hãy quan sát kĩ xem cảnh vật ở đó như thế nào? Rừng cà phê mùa này như
thế nào? xanh thẫm bạt ngàn, nở hoa trắng xoá, hương thơm nồng nàn hay rừng cà
phê chín rộ sai trĩu quả ...
Hay: Tả con đường từ nhà đến trường. Tôi dặn các em khi đi học (hoặc khi
về) vừa đi vừa quan sát kĩ con đường (hình dáng, mặt đường, lề đường, cảnh vật
hai bên đường,...)
Nhớ lại hình ảnh con đường làng mà các em đã được đọc, các em sẽ thấy có
những nét tả thật cụ thể, thật sinh động và hình ảnh con đường hiện ra thật đẹp:
" Đường mềm như dải lụa
Uốn mình dưới cây xanh "
Con đường đến trường của các em như thế nào? Có giống con đường được
miêu tả như trong bài không? Ven đường có hàng cây xanh, những dãy nhà cao
tầng, những quán hàng tạp hoá hay có vườn cà phê mùa này đang nở bông trắng
xoá, hương thơm nồng nàn.
Hay khi dạy tả người, tôi đã hướng dẫn các em xác định rõ đối tượng cần
miêu tả. Nếu tả người thân em sẽ tả ai? Tả mẹ, tả bố hay tả ông, bà,...? Mỗi người

có những nét về ngoại hình, tính cách riêng biệt. Mỗi độ tuổi có những thói quen
sinh hoạt, đặc điểm khác nhau. Vì vậy các em cần chuẩn bị bài thật chu đáo mới
viết được một bài văn hay.

20


5. Hướng dẫn học sinh cách quan sát và hình thức tổ chức quan sát đối
tượng miêu tả.
a) Bước hướng dẫn quan sát:
Trước khi học văn miêu tả các em đã tiến hành quan sát một cách tự phát
nhưng chưa có phương pháp, chưa có sự định hướng vì vậy khi học văn miêu tả
chúng ta cần giúp các em tìm ra những đặc điểm riêng biệt, đặc sắc của đối tượng
sẽ tả. Trong quá trình dạy văn miêu tả tôi đã hướng dẫn các em quan sát như sau:
+ Quan sát theo trình tự không gian: Quan sát toàn bộ đến quan sát từng bộ
phận hoặc ngược lại quan sát từng bộ phận rồi quan sát toàn bộ, quan sát từ trái
sang phải, từ trên xuống dưới hay từ ngoài vào trong hoặc ngược lại.
Ví dụ: Bài Quang cảnh làng mạc ngày mùa(TV 5 - Tập 1 -Trang 10)
+ Quan sát theo trình tự thời gian: Đó là cách quan sát cảnh vật, cây cối theo
mùa trong năm, theo thời gian trong ngày vào buổi sáng, buổi trưa buổi chiều.
Ví dụ: Bài Hoàng hôn trên sông Hương ( TV 5 - Tập 1 - trang 11 ).
Bài: Mùa thảo quả (TV5-Tập 1- trang 113,114)
+ Quan sát theo trình tự tâm lí: Thấy đặc điểm gì nổi bật nhất, thu hút bản
thân, gây cảm xúc mạnh cho bản thân (buồn, vui, yêu, ghét…) thì tập trung quan
sát trước, tả trước; các bộ phận khác quan sát sau, tả sau…. Trình tự này thường
được vận dụng khi tả người, tả đồ vật, tả con vật. Chỉ cần miêu tả những điểm nổi
bật nhất, không nhất thiết phải tả đầy đủ, chi tiết tất cả các đặc điểm của đối tượng.
Ví dụ: Trong bài Bà tôi của Mác-Xim-Go-Rơ-Ki (TV 5 - Tập 1 - trang 123).
Tác giả chỉ tập trung miêu tả những nét nổi bật nhất ở bà: “Bà tôi ngồi cạnh tôi,
chải đầu. Tóc bà còn đen, dày kì lại, phủ kín cả hai vai, xõa xuống ngực, xuống

đầu gối…Giọng nói bà tôi đặc biệt trầm bổng, nghe như tiếng chuông đồng…Khi
bà tôi mỉm cười hai con ngươi đen sẫm nở ra long lanh dịu hiền khó tả…”
Hay khi tả Chú bé vùng biển, tác giả Trần Vân đã tập trung tả những nét đặc
điểm tiêu biểu nhất của một cậu bé vùng biển, khác hẳn với cậu bé ở thành phố hay
một nơi khác đó là: “Nước da rám đỏ, khoẻ mạnh của những đứa trẻ lớn lên với
nắng, nước mặn và gió biển. Thân hình rắn chắc, nở nang, cổ mập, vai rộng…hai
cánh tay gân guốc như hai cái bơi chèo…Cặp đùi dế to chắc nình nịch…”. Đặc biệt
21


ở đây, tác giả đã so sánh hai cánh tay và cặp đùi của Thắng với những sự vật rất
gần gũi với người dân chài vùng biển làm cho đoạn văn thêm đặc sắc hơn, hấp dẫn
người đọc hơn. Tôi đã hướng dẫn học sinh hiểu rằng dù quan sát theo trình tự nào
chúng ta cũng cần tập trung vào bộ phận chủ yếu và trọng tâm của đối tượng sẽ tả.
Thông thường học sinh chỉ dùng thị giác (mắt) để quan sát. Các nhận xét
thu được và cảm xúc gắn liền với thị giác. Đây là mặt mạnh nhưng cũng là mặt yếu
của các em. Vì vậy tôi đã rèn cho các em có thói quen quan sát thường xuyên khi
tiếp xúc với mọi vật ở quanh ta mọi nơi, mọi lúc. Biết sử dụng kết hợp các giác
quan: Thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác,... để quan sát tỉ mỉ, quan sát kĩ thực
tế đối tượng miêu tả tìm ra nét đặc sắc nổi bật của cảnh vật giúp cho việc miêu tả
sinh động mới mẻ.
Ví dụ: Tả cảnh mùa hè thì ta dùng thị giác (mắt) để nhìn đất đai, cỏ cây...;
xúc giác (da) để cảm nhận cái nóng nực đến khó chịu. Tả cảnh biển ta phải dùng
mắt để nhìn thấy biển rộng mênh mông, sóng biển trắng xoá, những con tàu...; xúc
giác (da) để cảm thấy gió mát, mũi để cảm nhận hương của biển; vị giác (lưỡi)
thấy vị mặn của nước biển, thính giác (tai) nghe sóng biển rì rào... Còn tả người thì
ngoài cách quan sát thông thường ta cần cảm nhận bằng khối óc, con tim, bằng
những cảm xúc chân thành… Từ đó các em đã biết cách quan sát những gì mà các
em miêu tả. Ngoài ra tôi cũng luôn hướng dẫn các em cách quan sát trong giao
tiếp, trong học tập nhất là trong sách báo để tìm đọc các bài viết về cùng đối tượng.

Trong Báo Đội các em đọc hằng ngày cũng có rất nhiều bài viết về cảnh
đẹp thiên nhiên, cảnh làng quê yên bình và cũng có nhiều bài thơ, bài văn viết về
ông, bà, mẹ, cô giáo, bạn bè bằng những cảm nhận rất hồn nhiên phù hợp với lứa
tuổi các em. Tôi thường khuyến khích học sinh tìm đọc và phát biểu cảm nghĩ của
mình sau khi đọc những bài văn, bài thơ đó. Qua bài văn, bài thơ đó em đã học tập
được những gì về cách dùng từ, đặt câu, cách vào bài, kết luận…
b) Hình thức tổ chức quan sát:
Thông thường giáo viên giao việc, gợi ý cho học sinh tự quan sát, ghi lại
những ý mà các em tự quan sát được. Đây là hình thức cá nhân độc lập, phù hợp
với một số dạng đề bài: Tả ngôi nhà, tả cảnh buổi sáng. Tả người thân, tả bạn…
22


Hạn chế của hình thức này: Trong quá trình quan sát các em không có sự thảo
luận, trao đổi, phát hiện được có thể độc đáo riêng biệt nhưng hơi nghèo nàn.
Do đó với một số đề bài tôi đã hướng dẫn quan sát tập trung theo nhóm hoặc
cả lớp như đề bài Tả ngôi trường, tả một cảnh đẹp; Tả cô giáo... Khi được cùng
quan sát các em sẽ có dịp trao đổi, thảo luận cùng khám phá thi đua phát hiện tìm
ra nhiều chi tiết mới.
Khi đặt câu hỏi cho các em tìm ý lập dàn bài tôi cũng đặt ra những câu hỏi
có tác dụng tìm ra những chi tiết miêu tả, chứ không đặt câu hỏi một cách ra lệnh
khô khan mang tính chất khoa học.
Ví dụ: Tả cảnh đẹp ở địa phương, tôi nêu những câu hỏi gợi ý sau:
+ Em quan sát cảnh đẹp nào, ở đâu, vào thời điểm nào? Tại sao em lại chọn
tả cảnh đó?
+ Khi quan sát bao quát toàn cảnh, em thấy vị trí, phạm vi không gian của
cảnh thế nào? Cảnh có đặc điểm gì nổi bật nhất? Nó gây ấn tượng, tình cảm gì đối
với em?
+ Quan sát từng phần của cảnh theo trình tự từ gần tới xa, từ trên xuống
dưới, từ phải sang trái hoặc ngược lại, em thấy có những chi tiết, hình ảnh, âm

thanh gì tiêu biểu?
+ Quan sát theo từng thời điểm khác nhau trong ngày, em thấy mây trời
nắng gió, chim chóc, màu sắc của cây cối sông nước... có sự biến đổi ra sao?
+ Cảm nghĩ của em về cảnh đẹp? Cảnh đẹp có những giá trị gì? Nó gắn bó
với bản thân em và mọi người như thế nào?
Hay khi dạy bài Tả cô giáo. Tôi gợi ý các em:
+ Cô giáo (thầy giáo) em sẽ tả có đặc điểm gì nổi bật về ngoại hình, tính tình?
Cô giáo (thầy giáo) đã để lại những kỉ niệm, ấn tượng gì sâu sắc đối với em?...
Sau khi học sinh đã quan sát đối tượng miêu tả, bước tiếp theo giáo viên đặt
câu hỏi gợi ý để học sinh hồi tưởng lại những gì đã quan sát được.
Đối với học sinh Tiểu học mỗi em có thể có những suy nghĩ sáng tạo riêng
nên cách sắp xếp ý của mỗi học sinh có đặc điểm riêng. Vì vậy chúng ta nên tôn
trọng đặc điểm, suy nghĩ độc đáo, sáng tạo riêng đó. Nếu dàn ý của các em vẫn bảo
23


đảm, thể hiện bố cục 3 phần, với nội dung từng phần đầy đủ, phù hợp yêu cầu của
đề bài.
6. Tổ chức tốt các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Ngoài các tiết học chính khóa, để giúp học sinh củng cố thêm kiến thức các
môn học chúng tôi đã xây dựng kế hoạch và tổ chức tốt hoạt động ngoài giờ lên
lớp. Đối với môn Tiếng Việt nói chung phân môn tập làm văn nói riêng, tôi cùng
các đồng chí giáo viên trong tổ 5 đã xây dựng kế hoạch hoạt động ngoài giờ lên
lớp theo từng chủ điểm ngay từ đầu năm học, cụ thể như sau:
Tháng 10, tổ chúng tôi xây dựng ngoại khóa bằng hình thức viết văn, làm
thơ ca ngợi công lao to lớn của bà, của mẹ và cô giáo. Đa số học sinh trong khối
tích cực tham gia và có những bài viết rất tốt. Các em đã thể hiện được tình cảm
của mình đối với những người mà các em yêu quý. Qua đó cũng bày tỏ được
những mong muốn, ước mơ, định hướng của bản thân để đền đáp lại công ơn to
lớn mà bà, mẹ và cô đã dành cho các em.

Tháng 12, tổ chúng tôi lại tổ chức cho học sinh tham gia buổi ngoại khóa với
chủ đề “Em yêu thơ”. Nhằm mục đích củng cố, phát hiện và bồi dưỡng niềm đam
mê thơ mà các em được học trong chương trình và tích lũy qua từng năm tháng.
Trong buổi ngoại khóa này học sinh trong khối tham gia rất tích cực. Các em thi
nhau sưu tầm những bài thơ, đoạn thơ, câu thơ hay đặc sắc của những nhà thơ nổi
tiếng, và các em đã viết những cảm nhận của bản thân khi đọc những bài thơ, đoạn
thơ hay đó bằng những suy nghĩ chân thật, cảm động rất đáng yêu. Một số em có
năng khiếu thơ văn đã tập sáng tác những câu thơ, vần thơ theo cảm nhận của các
em. Nhiều em cũng đã chỉ ra những nghệ thuật đặc sắc trong cách dùng từ, đặt câu,
gieo vần của các tác giả. Buổi ngoại khóa đã tạo được không khí vui tươi, sôi nổi,
sự đoàn kết thân thiện, góp phần thúc đẩy hoạt động học tập và là dịp để các em
thể hiện năng khiếu, vốn kiến thức về thơ của mình. Trong buổi ngoại khóa, các
em được đọc thơ, nghe thơ, tập làm thơ nên các em rất vui, tâm hồn thêm bay
bổng. Thơ đã chắp cánh cho ước mơ của các em bay cao, bay xa hơn để vươn tới
những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Và các em cũng hiểu rõ hơn về truyền thống
cách mạng của cha ông, tình yêu quê hương đất nước, gia đình, thầy cô, bè bạn và
24


tự hào về dân tộc Việt Nam. Qua buổi ngoại khóa các em đã hiểu thêm giá trị của
những vần thơ hay giàu tính nghệ thuật, những bài thơ đó sẽ luôn đọng mãi trong
lòng người đọc, người nghe. Từ đó giúp các em thêm yêu thơ và có ý thức trau dồi
ngôn ngữ nói, viết của mình, góp phần vào việc viết văn của các em ngày một tốt
hơn.
Tháng 5, tổ chúng tôi lại tổ chức cho học sinh ngoại khóa với chủ đề “Tri ân
thầy cô”. Tôi tin chắc rằng học sinh khối 5 sẽ rất hào hứng, tham gia sôi nổi và có
những bài viết, những bài phát biểu thật là xúc động. Các em sẽ gửi lại thầy cô,
mái trường những bài viết đẹp cả nội dung lẫn hình thức.
7. Đánh giá, nhận xét bài làm của học sinh.
Hiện nay, việc đánh giá, nhận xét bài làm của học sinh đã đi vào nề nếp, ổn

định theo tinh thần Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT. Theo tôi đây là một việc làm
hết sức quan trọng chúng ta cũng cần đầu tư nhiều thời gian và tâm trí mới thực
hiện tốt việc đánh giá và đưa ra những biện pháp giúp các em sữa chữa những hạn
chế của mình trong bài viết.
Để các em có bài viết tốt, tôi luôn hướng dẫn bài về nhà và kiểm tra bài cũ
một cách thường xuyên. Đánh giá, nhận xét bằng lời khi học sinh đọc bài, khi các
em trả lời câu hỏi. Những lúc đó tôi luôn chăm chú lắng nghe để đưa ra lời nhận xét
chính xác đồng thời nêu ra những hạn chế cũng như các biện pháp giúp các em điều
chỉnh tồn tại kịp thời. Khi đánh giá, nhận xét vào vở của các em tôi luôn thực hiện
một cách cẩn thận, chu đáo để phát hiện được tính độc lập, tự tin, kỹ năng diễn đạt
của học sinh. Tôi cũng không ngại ngần khi ghi vào vở các em những lời nhận xét
cụ thể, tỉ mỉ và đưa ra những giải pháp giúp các em sửa lỗi hoặc những định hướng
giúp các em làm bài tốt hơn. Tôi nghĩ đánh giá nhận xét chi tiết, rõ ràng sẽ hình
thành cho chúng ta tính vô tư, công bằng khách quan với tất cả học sinh. Điều này sẽ
tạo sự tự tin phấn khởi của các em, động viên các em phấn đấu vươn lên học tập tốt
hơn. Do đó khi đánh giá bài tập làm văn cho các em tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần
để đánh giá đúng công sức học tập của các em và có lời phê rõ ràng, giúp học sinh
thấy được ưu khuyết điểm của bài làm để phát huy và sửa chữa.

25


×