Tải bản đầy đủ (.doc) (130 trang)

Nhu cầu và điều kiện tiếp nhận sản phẩm báo chí của sinh viên các trường đại học khu vực hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (672.97 KB, 130 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gắn liền với sự phát triển rất nhanh chóng của công nghệ thông tin
trong thời đại ngày nay, không có lĩnh vực hoạt động xã hội nào lại không
chịu ảnh hưởng của sự bùng nổ thông tin. Nó có tác động mạnh mẽ trên phạm
vi toàn thế giới và ảnh hưởng sâu sắc tới mọi mặt của đời sống xã hội hiện
đại. Chính vì vậy, tất cả các sự kiện đang xảy ra trên thế giới, không bị lệ
thuộc hay bị ngăn cản bởi không gian và thời gian, đều được mọi người tiếp
nhận, biết đến. Đó chính là sức mạnh của báo chí, một trong các phương tiện
truyền thông đại chúng. Báo chí đã trở thành món ăn tinh thần, một thói quen
tiếp nhận thông tin hàng ngày không thể thiếu được đối với các tầng lớp dân cư.
Mục đích hướng tới của báo chí chính là công chúng, phục vụ công
chúng. Báo chí không thể tồn tại bên ngoài xã hội, vì sứ mạng của báo chí trước
hết đó là thỏa mãn các nhu cầu xã hội. Bên cạnh đó, xã hội hiện đại cũng không
thể tồn tại mà không có báo chí. Đó là sự phụ thuộc và ảnh hưởng lẫn nhau giữa
các phương tiện thông tin đại chúng và xã hội, mang ý nghĩa nhiều mặt và đa
dạng. Các nhà báo và công chúng hưởng thụ thông tin đều tuân theo những luận
thuyết và quan điểm cụ thể về báo chí. Những luận thuyết và quan điểm ấy
quyết định mục tiêu, nhiệm vụ, các hình thức và phương pháp hoạt động của các
phương tiện thông tin đại chúng.
Trong mối quan hệ với dư luận xã hội (hay chính là công chúng tiếp
nhận), báo chí có vai trò đặc biệt quan trọng. Đầu tiên, phải kể đến vai trò khơi
nguồn, tức là năng lực xã hội hóa các sự kiện và các vấn đề từ một góc phố,
làng quê, ở một không gian hẹp thành sự kiện và vấn đề toàn xã hội, thậm chí
toàn cầu, để báo chí có thể nhanh chóng hoặc ngay lập tức đưa các sự kiện đến
với mọi người. Thứ đến, báo chí có vai trò phản ánh dư luận xã hội, phản ánh
càng kịp thời, càng sâu sát và đầy đủ bao nhiêu thì báo chí càng sinh động và
hấp dẫn bấy nhiêu. Sau cùng, báo chí có vai trò định hướng xã hội, tác động



2
điều chỉnh nhận thức, thay đổi thái độ và hành vi, hoạt động của con người, đây
là vai trò có ý nghĩa quyết định hiệu quả tác động của báo chí.
Với cách tiếp cận của khoa học xã hội, sinh viên là một cộng đồng xã
hội - dân cư đặc thù, đang trong quá trình xã hội hoá, đang trong quá trình
hoàn thiện bản thân về nhân cách và tri thức với tốc độ phát triển nhanh
chóng; trong tương lai gần, là đội ngũ lao động - tri thức có trình độ học vấn,
tư duy cao, có khả năng phán đoán và nhận diện vấn đề một cách nhanh nhạy;
có khả năng hòa nhập và thích ứng nhanh với cái mới,... Đối với họ, tiếp nhận
thông tin về tình hình kinh tế - chính trị - văn hoá - xã hội trong và ngoài nước
là nhu cầu thiết yếu cho việc nâng cao nhận thức, trau dồi kiến thức, kỹ năng
sống, lao động và giải trí hàng ngày.
Từ cách tiếp cận của báo chí học, sinh viên là nhóm công chúng - đối
tượng trẻ có nhu cầu rất lớn về nâng cao và hoàn thiện nhận thức, thái độ và
kỹ năng sống, trang bị kiến thức toàn diện và thích ứng với môi trường sống.
Họ là nhóm đối tượng sống tập trung trong môi trường đặc thù chủ yếu với
những mối quan hệ xã hội gần gũi như thầy - trò, bạn bè, cư dân lân cận,...và
với tâm lý hướng mạnh vào khả năng hội nhập bình đẳng với môi trường và
cộng đồng trên phạm vi ngày càng rộng lớn hơn. Đó là nhóm công chúng đối tượng nhạy bén với tình hình thời cuộc và môi trường, yêu thích lao động
sáng tạo, dễ tiếp thu cái mới, cái lạ và hình thành thị hiếu riêng. Nhóm công
chúng sinh viên cũng có những hoàn cảnh, điều kiện sống đặc thù: phần đông
trong số họ mới sống xa gia đình và bắt đầu hình thành lớp bạn bè mới trong
sinh viên; phụ thuộc vào điều kiện kinh tế và nếp sống của gia đình…. Do đó,
phần lớn ít có điều kiện để thỏa mãn nhu cầu sống, nhất là nhu cầu tiếp nhận
sản phẩm báo chí - truyền thông.
Việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng tiếp cận các các sản phẩm báo chí
của sinh viên để nắm bắt những thông tin cần thiết phải được tiến hành
thường xuyên nhằm giúp các cơ quan thông tin tuyên truyền có sự điều chỉnh
hợp lý...



3
Xuất phát từ đòi hỏi đó, tác giả lựa chọn vấn đề "Nhu cầu và điều kiện
tiếp nhận sản phẩm báo chí của sinh viên các trường đại học khu vực Hà
Nội hiện nay", làm đề tài luận văn với hi vọng góp phần đưa nhận thức về
đối tượng sinh viên theo hướng cụ thể, rõ ràng, chính xác hơn; đặc biệt là trên
cơ sở nhận diện nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí và điều kiện tiếp nhận nó
nhằm tìm kiếm giải pháp rút ngắn khoảng cách giữa nhu cầu và điều kiện tiếp
nhận để có thể nâng cao năng lực và hiệu quả tác động của báo chí vào nhóm
công chúng sinh viên.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về nhu cầu và điều kiện tiếp nhận sản phẩm báo chí của
thanh niên nói chung và thanh niên sinh viên nói riêng hiện nay là một vấn đề
có tính cấp bách, song ở nước ta những công trình nghiên cứu lĩnh vực này
còn chưa được đề cập tới thường xuyên và đối với thực tiễn xã hội đặt ra.
Mặc dù vậy, đã có những công trình nghiên cứu sau:
Luận án tiến sĩ xã hội học "Truyền thông đại chúng và công chúng trường hợp thành phố Hồ Chí Minh" của Trần Hữu Quang (1998), là công
trình mang tính đại diện và nghiên cứu công chúng truyền thông, mức độ và
cách thức tiếp cận các phương tiện truyền thông đại chúng của người dân
Thành phố Hồ Chí Minh, phân tích tương quan giữa đọc báo, xem truyền hình
và nghe đài phát thanh, "các trục nội dung thường được theo dõi", "các mô
thức tiếp nhận truyền thông đại chúng", "sự tác động của một số nhân tố",
những luận giải khoa học từ kết quả điều tra xã hội học.
Có một số luận văn thạc sĩ xã hội học về công chúng truyền thông,
nhưng chỉ là những nhóm công chúng đặc trưng: Nhu cầu đọc báo của sinh
viên Thành phố Hồ Chí Minh, của Bành Tường Chân (1999) (chỉ với báo in);
Sinh viên Hà Nội và truyền thông đại chúng của Lý Hoàng Ngân (2000), dựa
trên số liệu điều tra của chương trình nghiên cứu "Sinh viên Hà Nội trong
giao tiếp đại chúng", Tạp chí Xã hội học, tháng 2-1998.



4
Cuộc điều tra xã hội học của Đài Tiếng nói Việt Nam và Ban Tư tưởng
- Văn hoá Trung ương (2001), tiến hành trên 30 tỉnh, thành phố trong cả
nước, với 2615 người trả lời, cho thấy mức độ, cách thức nghe đài của thính
giả, thay đổi theo giới tính, độ tuổi, mức sống, nơi sống, học vấn... tại mỗi
tỉnh, thành phố điều tra, những lý do thính giả không nghe đài, những đánh
giá chất lượng, nguyện vọng và đề xuất của thính giả.
Ở một nhóm công chúng đặc thù, qua nghiên cứu của Đỗ Thu Hằng
(2000): Tâm lý tiếp nhận sản phẩm báo chí của công chúng thanh niên sinh
viên hiện nay (khảo sát một số trường Đại học, Cao đẳng tại Hà Nội) đã lý
giải những đặc điểm, những vấn đề có tính quy luật trong tâm lý tiếp nhận của
thanh niên, sinh viên Việt Nam với các sản phẩm báo chí, từ đó đưa ra những
kiến nghị nhằm tăng cường hiệu quả tiếp nhận của nhóm đối tượng này.
Trong Báo Phát thanh (2002), tác giả Nguyễn Văn Dững khi bàn về công
chúng phát thanh, có định nghĩa khái niệm công chúng, các loại công chúng báo
chí, vai trò công chúng, các nội dung và phương pháp nghiên cứu công chúng.
Phương pháp điều tra thính giả (2003) của Đài Tiếng nói Việt Nam,
tập hợp một số chuyên luận của Nguyễn Đình Lương, Nguyễn Văn Dững,
Dương Xuân Sơn, Phạm Chiến Khu... vừa nêu rõ vai trò của điều tra dư luận
xã hội, dư luận thính giả, vừa đề cập một số vấn đề về công chúng, lý luận về
phương pháp và ngôn ngữ điều tra thính giả.
Trong Báo chí với trẻ em (2004), bàn về "nghiên cứu công chúng nhóm đối tượng trẻ em", các tác giả nêu lên vai trò, vị trí của việc nghiên cứu
công chúng - nhóm đối tượng, các nội dung nghiên cứu, quy trình nghiên cứu
và một số phương pháp thu thập thông tin, dữ liệu.
Ở công trình Truyền thông - Lý thuyết và kỹ năng cơ bản (2006),
(Nguyễn Văn Dững chủ biên), với phương pháp tiếp cận hệ thống, các tác giả
đề cập vấn đề nghiên cứu công chúng - nhóm đối tượng trong mối quan hệ một
chu trình truyền thông, phân tích nội dung của nghiên cứu ban đầu về công

chúng, gồm ba bình diện, các bước tiến hành và phương pháp nghiên cứu.


5
Có những cách tiếp cận phổ biến: tiếp cận công chúng - nhóm đối
tượng đặc thù (theo độ tuổi, theo giới...) và tiếp cận công chúng theo nhóm
đối tượng của từng loại hình báo chí, tiếp cận từ đề tài thông tin, từ địa bàn
sống của cư dân,... Cách thứ nhất, có thể thấy ở các nghiên cứu chọn nhóm
công chúng thanh niên - sinh viên, nghiên cứu sự tác động của báo chí tới họ
với tư cách họ là nhóm công chúng đặc thù (Phân viện Báo chí và Tuyên
truyền, 1998, Nghiên cứu tác động của báo chí đối với việc xây dựng lối sống
tích cực của thanh niên, sinh viên hiện nay, Kỷ yếu Đề tài khoa học cấp Bộ).
Xã hội học báo chí của Trần Hữu Quang (2006), là công trình nghiên
cứu tương đối toàn diện, có hệ thống, trực tiếp về lĩnh vực xã hội học báo chí
ở nước ta. Tác giả trình bày có hệ thống cách tiếp cận xã hội học đối với các
quá trình truyền thông, đối với nghề báo, những quan điểm và phương pháp
nghiên cứu xã hội học về công chúng và nội dung truyền thông về ảnh hưởng
xã hội của truyền thông đại chúng. Đây là công trình đầu tiên ở trong nước đề
cập trực tiếp, chuyên sâu về xã hội học báo chí.
Mới đây nhất, Trần Bảo Khánh (2007), trong công trình “Đặc điểm
công chúng truyền hình Việt Nam” (Luận án tiến sĩ - Truyền thông đại chúng)
đã chỉ ra một số đặc điểm nhìn từ công chúng của kênh truyền thông này.
Nhìn chung, trên cả hai hướng nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực
nghiệm, giới nghiên cứu truyền thông trên thế giới và Việt Nam đã tiếp cận
dưới nhiều góc độ, nhiều quan điểm và phương pháp nghiên cứu, đều đề cao
vai trò tác động tích cực trở lại của công chúng đối với truyền thông; đề cao
việc nghiên cứu công chúng - đối tượng tác động của truyền thông; coi đây là
một bộ phận, một khâu không thể thiếu trong khi nghiên cứu truyền thông đại
chúng như một quá trình; là hoạt động có ý nghĩa sống còn đối với các cơ
quan truyền thông trên phương diện hoạch định chiến lược phát triển cũng

như phương diện tác nghiệp hằng ngày.
Ở Việt Nam, rất ít những công trình nghiên cứu tác động của cả 4 loại
hình báo chí tới tất cả các nhóm công chúng có tính đại diện, nhất là từ khi xuất


6
hiện loại hình báo mạng điện tử - internet. Các công trình thường chỉ nghiên cứu
riêng rẽ tác động của từng loại hình báo chí (báo in, truyền hình, phát thanh...).
Mặt khác, ý nghĩa của việc nghiên cứu công chúng và thực tế nghiên cứu ở Việt
Nam, là những gợi mở ban đầu đối với chúng tôi khi chọn nghiên cứu vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: nhằm nhận diện, đánh giá thực trạng nhu cầu,
điều kiện tiếp nhận sản phẩm báo chí của sinh viên hiện nay, góp phần hình
thành cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc đề ra các giải pháp nhằm cải thiện
điều kiện tiếp nhận và định hướng nhu cầu của công chúng thanh niên sinh
viên hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, trong phạm vi đề tài, tác giả xác định những
nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau:
- Làm rõ khái niệm về công chúng báo chí; các cơ sở lý thuyết, phương
pháp luận và cơ sở thực tiễn của việc nghiên cứu nhu cầu và điều kiện tiếp nhận
sản phẩm báo chí của công chúng sinh viên.
- Mô tả, khảo sát và phân tích làm rõ được thực trạng nhu cầu, điều
kiện tiếp nhận sản phẩm báo chí của công chúng sinh viên hiện nay.
- Nghiên cứu các mối quan hệ có tính quy luật, những nhân tố tác động,
ảnh hưởng tới nhu cầu tiếp nhận sản phẩm báo chí của sinh viên.
- Dự báo xu hướng tiếp nhận cũng như xu hướng biến đổi điều kiện tiếp
nhận sản phẩm báo chí.
- Tìm kiếm các khuyến nghị khoa học - thực tiễn nhằm cải thiện điều
kiện tiếp nhận sản phẩm báo chí; điều chỉnh nội dung và phương thức truyền
tải thông tin trong các sản phẩm báo chí đáp ứng nhu cầu của công chúng

thanh niên sinh viên hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nhu cầu và điều kiện tiếp nhận
sản phẩm báo chí của sinh viên; phạm vi khảo sát là sinh viên các trường Đại
học khu vực Hà Nội hiện nay. Việc nghiên cứu đối tượng này được thực hiện


7
thông qua việc kết hợp phân tích, so sánh với số liệu điều tra có sẵn về nghiên
cứu công chúng sinh viên với khách thể nghiên cứu là một số nhóm công chúng
thanh niên sinh viên đại diện qua điều tra xã hội học tại 8 trường Đại học, Cao
đẳng trên địa bàn Hà Nội: Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Học viện Ngân
hàng, Học viện Tài chính, Đại học Ngoại thương, Đại học Kinh tế quốc dân, Đại
học Thương mại, Đại học Mỏ - Địa chất, Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường.
Đề tài khảo sát nhu cầu tiếp nhận, điều kiện tiếp nhận của công chúng sinh
viên đối với tất cả các loại hình báo chí: báo in, báo phát thanh, báo hình, báo
mạng điện tử.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu: Cơ sở phương pháp luận
tiếp cận đối tượng là những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về báo chí, lý thuyết xã hội học về
truyền thông; lý thuyết công chúng và nghiên cứu công chúng báo chí - truyền
thông; lý thuyết tiếp nhận và tâm lý sáng tạo báo chí; ...
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng các phương pháp tiếp cận gồm
phương pháp điều tra xã hội học, kết hợp với một số phương pháp thu thập, xử
lý thông tin (phân tích thống kê, tổng hợp và phân tích tài liệu, văn bản).
Các phương pháp thu thập thông tin:
- Nghiên cứu tài liệu (Nguồn: Các cuộc điều tra xã hội học gần đây, về
khán, thính giả phát thanh - truyền hình, bạn đọc của báo...).
- Điều tra xã hội học: thông qua phỏng vấn bằng bảng hỏi (an-két) để

thu thập thông tin từ phía sinh viên, về nhu cầu và điều kiện đã được đáp ứng
và cần được đáp ứng trong việc tiếp nhận các sản phẩm báo chí. Để bổ sung
cho phần thông tin định lượng, chúng tôi có sử dụng kỹ thuật phỏng vấn sâu
(phỏng vấn cá nhân) với 30 người, theo phương pháp nghiên cứu định tính,
để hỏi sâu những vấn đề không thể hiện được trong bảng hỏi.
- Trò chuyện, trao đổi ý kiến: nhằm nghiên cứu thăm dò để hình thành
nên các giả thuyết khoa học cho đề tài.


8
- Quan sát: nhằm xác định các biểu hiện bên ngoài cũng như động cơ
bên trong của sinh viên.
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn bước đầu làm sáng rõ về nhu cầu tiếp cận sản phẩm báo chí
của sinh viên, từ đó đi vào nhận diện và tìm hiểu vấn đề, chúng ta có thể lựa
chọn, điều chỉnh lượng thông tin, hình thức truyền tải thông tin và nội dung
thông tin để nâng cao hiệu quả thông tin, tuyên truyền trên báo chí, đáp ứng
nhu cầu của công chúng nói chung và công chúng sinh viên nói riêng. Góp
phần mô tả mô thức và điều kiện tiếp cận sản phẩm báo chí của sinh viên.
Đây là một đề tài nghiên cứu công chúng báo chí mà đối tượng là nhóm
công chúng sinh viên. Tìm hiểu đặc điểm, thị hiếu, nhu cầu của công chúng
để tác động một cách có hiệu quả không chỉ là vấn đề của riêng nhà báo mà
còn là của cả một tập thể trong cơ quan báo chí. Đồng thời góp phần hệ thống
hoá những nhận thức lý luận về vai trò của báo chí với nhóm công chúng đặc
biệt là sinh viên, nắm bắt đặc điểm về nhu cầu và khả năng tiếp nhận các sản
phẩm báo chí của sinh viên. Qua đó, tổng kết những kinh nghiệm, tìm kiếm
những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của báo chí trong
việc giáo dục thanh niên, sinh viên hiện nay. Vì vậy, luận văn không chỉ có ý
nghĩa khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn trong hoạt động giáo dục chính
trị, tư tưởng, giáo dục nhân cách toàn diện cho sinh viên.

Luận văn là công trình nghiên cứu đề cập một cách cơ bản và hệ thống về
nhu cầu và điều kiện tiếp nhận các sản phẩm báo chí của sinh viên. Do đó có ý
nghĩa tích cực, góp phần tổng kết, chia sẻ kinh nghiệm với các cơ quan báo chí.
Mặt khác giúp cho các nhà quản lý báo chí có một cái nhìn tổng quan và thực tế
về thực trạng nhu cầu và điều kiện tiếp nhận các sản phẩm báo chí của sinh viên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết, 87 trang.


9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NHU CẦU VÀ ĐIỀU KIỆN
TIẾP NHẬN SẢN PHẨM BÁO CHÍ
1.1. BÁO CHÍ VÀ CÔNG CHÚNG BÁO CHÍ

1.1.1. Khái niệm báo chí
Báo chí theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), báo chí là “Báo
và tạp chí; xuất bản phẩm định kỳ (nói khái quát)” [48, tr.54].
“Khái niệm báo chí được hiểu như một thiết chế, một chỉnh thể từ ý đồ
của quyền lực chính trị đến đối tượng tác động và các mối quan hệ trực tiếp,
gián tiếp” [9, tr.23].
Ở khía cạnh khác, khái niệm báo chí được định nghĩa: Những sản phẩm
truyền thông đại chúng chuyển tải thông tin mang tính thời sự thông qua
phương pháp phản ánh hiện thực khách quan, trực tiếp và tác động vào công
chúng xã hội theo định kỳ.
Trong luận văn, chúng tôi sử dụng khái niệm báo chí là sản phẩm của
hoạt động báo chí để khảo sát sự tiếp nhận của công chúng.
Các loại hình báo chí đề cập trong luận văn bao gồm: báo in, phát
thanh, truyền hình và báo mạng điện tử (internet).

1.1.2. Công chúng báo chí
Công chúng báo chí chính là đối tượng mà báo chí trực tiếp hay gián
tiếp tác động hoặc hướng tác động tới nhằm gây ảnh hưởng trong quá trình
chuyển tải thông tin. Công chúng báo chí cũng chính là mục tiêu, là đích
hướng tới của mọi tờ báo, mọi chương trình phát thanh, truyền hình. Như vậy,
có công chúng trực tiếp, công chúng gián tiếp; công chúng đích, công chúng
tiềm năng;...
Trong thuật ngữ "truyền thông đại chúng" từ "đại chúng" dùng để chỉ
đông đảo đối tượng tiếp nhận thông tin. Đó là quần thể dân cư theo vùng địa
lý, theo lứa tuổi, theo lĩnh vực hoạt động hay các tiêu chí khác. Nó cũng


10
tương đương như chữ "mass" trong tiếng Anh dùng để chỉ người nghe người
xem và người đọc, tức là chỉ đối tượng tiếp nhận qua kênh (phương tiện thông
tin đại chúng).
Trong cuốn “Xã hội học báo chí” của tác giả Trần Hữu Quang (2006),
khái niệm “công chúng” được hiểu: tính chất quảng đại (đông đảo), tính chất
không đồng nhất (bao gồm rất nhiều giới và tầng lớp khác nhau), và tính chất
nặc danh (không ai biết ai) [53, tr.26-27].
Tuỳ theo đặc điểm của mỗi loại hình truyền thông mà có thể xác định
những khác biệt của từng loại công chúng, từng nhóm công chúng. Chẳng hạn
như với: báo in, công chúng chính là bạn đọc (độc giả); với báo phát thanh,
công chúng chính là người nghe (thính giả) và truyền hình, công chúng chính
là người xem (khán giả).
Báo chí là loại hình thông tin mang tính phổ biến, nhanh nhạy. Khi
được công chúng đón nhận hay tham gia vào hoạt động báo chí, cũng chính là
khi báo chí hoàn thành một công đoạn rất quan trọng của mình; đó là làm cho
hoạt động báo chí gây ảnh hưởng, hướng tới hiệu quả nhất định.
Sự đa dạng của công chúng báo chí phản ánh sự khác biệt của các loại

hình báo chí, cũng như sự phong phú của các đầu báo. Có thể dựa vào tính
chất của mỗi tờ báo để xác định được các nhóm công chúng khác nhau.
Chẳng hạn như, công chúng của báo chuyên ngành; công chúng các tờ báo
chính trị - xã hội, văn hoá xã hội; công chúng của báo địa phương...
Mỗi tờ báo thực hiện tôn chỉ mục đích của mình bằng việc đáp ứng nhu
cầu cho một nhóm công chúng nhất định. Nếu báo Hoa học trò chủ yếu dành
cho lứa tuổi học sinh thì công chúng chính là học sinh; thì báo Người cao tuổi
có công chúng là những người cao tuổi. Hay như Thời báo kinh tế, công chúng
không thể là học sinh phổ thông, mà thường là những người hoạt động trong
lĩnh vực kinh tế, có trình độ tương đối và tuổi đời cũng không phải còn trẻ.
Tất nhiên việc khác biệt này, là tương đối bởi sự giao thoa của các
nhóm công chúng không phải là không có. Cũng như trong các loại hình


11
tuyên truyền, công chúng báo chí cũng có thể là công chúng âm nhạc hay
công chúng hội họa. Xét ở từng góc độ sự thích ứng của mỗi nhóm công
chúng, cũng như mỗi loại hình truyền thông, đều có thể đưa lại những xem
xét đánh giá về đặc điểm, vai trò một cách khác nhau.
1.1.3. Vai trò của công chúng báo chí
Có thể xuất phát từ vai trò của quần chúng trong lịch sử để nói về vai
trò của công chúng báo chí, bởi lẽ khái niệm công chúng gần gũi với khái
niệm quần chúng. Quần chúng chủ yếu nhìn từ góc độ tuyên truyền vận động
cách mạng; công chúng chủ yếu nhìn từ góc độ truyền thông - tương tác bình
đẳng. Quần chúng nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp cách
mạng. Chính trong quá trình đấu tranh cách mạng, giai cấp vô sản đã dựa vào
lực lượng vĩ đại là quần chúng nhân dân để tiến hành đấu tranh với giai cấp tư
sản và các thế lực phản động khác. Báo chí trong suốt quá trình này, cũng đã
trở thành một thứ vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản. Và
ngay trong lĩnh vực này quần chúng cách mạng cũng góp một phần rất lớn.

Thực tế cách mạng Nga và cách mạng nước ta đã khẳng định: báo chí
cách mạng không thể ra đời và phát triển nếu không có phong trào đấu tranh
của quần chúng. Trong lịch sử báo chí nước ta, việc hình thành những tờ báo
cũng như duy trì hoạt động của nó trong những thời kỳ hoạt động bí mật,
không thể không nói tới sự hỗ trợ của quần chúng nhân dân.
Công chúng báo chí cũng chính là quần chúng nhân dân khi họ tham
gia vào các hoạt động báo chí, từ việc tiếp nhận sản phẩm, giao lưu gặp gỡ,
viết tin bài hoặc tham gia sản xuất chương trình,.... Có thể đánh giá vai trò của
công chúng bằng quá trình truyền tin như sau:
Nguồn tin

Côn

Thông điệp

Kênh

Công chúng


12
Công chúng chính là nơi cung cấp nguồn thông tin, là những nguồn đề
tài vô tận cho hoạt động báo chí. Thực tiễn hoạt động sản xuất, đời sống của
nhân dân vô cùng phong phú sinh động. Có biết bao nhiêu những điển hình về
tập thể, con người; có biết bao nhiêu những nhân tố mới, những kinh nghiệm
sáng tạo nảy sinh trong phong trào lao động sản xuất. Báo chí chỉ có thể thực
hiện tôn chỉ mục đích của mình khi phản ánh được toàn diện và sâu sắc cuộc
sống của nhân dân, những đổi thay của nhân dân.
Sự đa dạng của các thông tin trên báo chí, không phải chỉ được tạo bởi
những cây viết xông xáo, năng nổ mà còn bởi sự góp sức đông đảo của quần

chúng nhân dân. Công chúng báo chí là lực lượng công tác đắc lực cho mỗi tờ
báo, mỗi chương trình. Những cây viết "nghiệp dư" ấy đã làm cho báo chí
thực sự là diễn đàn dân chủ của nhân dân. Lênin đã từng chỉ ra rằng "Cơ quan
báo sẽ sinh động, đầy sức sống khi nào cứ 5 nhà văn lãnh đạo và thường
xuyên viết sách thì lại có 500 và 5.000 nhân viên công tác không phải là nhà
văn" [34, tr.86].
Cuộc sống sôi động và đầy phức tạp, bản thân mỗi nhà báo chuyên
nghiệp dù có hăng say, năng nổ đến đâu cũng không thể nắm bắt được mọi
vấn đề. Do đó, nếu không có sự tham gia đông đảo của quần chúng thì báo chí
không thể phản ánh được tình hình một cách toàn diện; cũng không thể kịp
thời phát hiện những nhân tố mới, những hạn chế, tiêu cực trên mọi lĩnh vực.
Vừa là nguồn cung cấp đề tài vô tận, vừa là lực lượng viết đông đảo, và
quan trọng hơn cả công chúng báo chí là người thưởng thức và tiêu thụ sản
phẩm báo chí. Yếu tố này là cơ sở để duy trì sự tồn tại của hoạt động báo chí.
Tác phẩm báo chí (nhiều thể loại như tin tức, bài báo, chương trình phát
thanh, truyền hình) đều chứa những thông điệp và là một nhịp cầu chuyển tải
thông tin đến công chúng. Thông tin trong tác phẩm báo chí khi chưa được
công chúng tiếp nhận, mới chỉ là thông tin khả năng. Việc công chúng không
tiếp nhận các văn bản thông báo, không mua và đọc báo, không nghe các


13
chương trình phát thanh, không xem các chương trình truyền hình sẽ phá vỡ
khả năng thực hiện thông tin trong mối quan hệ nhà báo - tác phẩm - công
chúng. Và như thế hoạt động báo chí mới chỉ thực hiện được một nửa chức
năng của mình.
Trong chế độ ta hầu như tất cả các loại hình báo chí đều có chung mục
đích phấn đấu: Vì nhân dân phục vụ! Những gì trái ngược với lợi ích của
nhân dân, không có lợi cho nhân dân đều đi ngược lại với mục đích lý tưởng
của báo chí. Vì vậy, người thẩm định những giá trị của báo chí chính là công

chúng nhân dân. Khi công chúng đọc báo, nghe đài, xem truyền hình tức là
khi thành quả lao động báo chí của toàn thể cơ quan báo chí nói chung và
từng phóng viên nhà báo nói riêng được đón nhận. Tuy nhiên, việc đánh giá
các tác phẩm báo chí ấy hay hay dở, đúng hay sai, có ý nghĩa hay không có ý
nghĩa cũng là một điều không thể thiếu được. Do vậy, công chúng báo chí
cũng chính là những người tham gia vào việc góp ý, biểu dương hay phê bình
báo khi họ đã thẩm định được những giá trị đích thực của thông tin trong mỗi
tác phẩm báo chí.
Thước đo kết quả của báo chí không phải là ở số lượng tin bài đăng
trên báo hoặc số lượng báo phát hành mà chủ yếu ở chỗ bạn đọc xem và làm
theo như thế nào. Công chúng chính là đối tượng mà báo chí hướng tới là mục
tiêu phục vụ của báo chí. Mỗi tờ báo, mỗi chương trình phát thanh đều xác
định một nhóm đối tượng để tác động. Bản thân công chúng của mỗi tờ báo
cũng là người hiểu rõ hơn ai hết nội dung báo đã đáp ứng kịp thời đầy đủ hay
chưa, những yêu cầu thiết thực và nóng hổi nhất của công chúng đồng thời
mới khẳng định được những vấn đề báo nêu ra có phù hợp với chân lý hay
không, chính họ mới đánh giá được cách diễn đạt của báo có sát với trình độ
của quần chúng hay không.
Công chúng báo chí có thể nói là một vấn đề hết sức cơ bản và quan
trọng của lý luận báo chí bởi lẽ cái đích cuối cùng của báo chí là phục vụ cho
lợi ích đông đảo của quần chúng nhân dân. Nghiên cứu về báo chí mà chỉ


14
nghiên cứu về quá trình truyền thông và người truyền thông (nhà báo) thì sẽ
không phản ánh được đầy đủ tính chất, mục tiêu cũng như hiệu quả của hoạt
động báo chí.
Tìm hiểu về công chúng cũng chính là tìm hiểu những thị hiếu, nhu cầu
riêng biệt của một nhóm đối tượng bạn đọc. Qua đó, xây dựng cơ sở để đối
chiếu xem hoạt động, cách thức, phương pháp nội dung chuyển tải thông tin

có phù hợp và đem lại những hiệu quả đối với công chúng hay không.
1.2. NHU CẦU TIẾP NHẬN CÁC SẢN PHẨM BÁO CHÍ

1.2.1. Khái niệm nhu cầu
Theo nghĩa từ, "nhu" là cần thiết, "cầu' là đòi hỏi, mong muốn. Sự đòi
hỏi, mong muốn ấy xuất hiện do chủ thể cảm giác thấy cơ thể thiếu hụt một
cái gì đó rất cần thiết cho sự sinh tồn. Cảm giác ấy thôi thúc con người đến
những hành vi nào đấy, để có thể thoả mãn sự thiếu thốn đang diễn ra, nhằm
duy trì sự cân bằng, bảo đảm sự tồn tại và phát triển. Ví dụ như cảm giác đói
thôi thúc động vật đi tìm thức ăn và ăn...
Nhu cầu có cơ sở sinh vật của chúng. Và cũng do vậy nên chắc chắn có
một phạm vi trong đó các nhu cầu có thể thừa nhận một cách khách quan. Ví
dụ, để sống còn, người phải ăn, uống, che thân thể, phải có chỗ ở..., và bất kỳ
ở nơi nào, thời kỳ nào của lịch sử cũng đều phải như vậy, dù thức ăn, quần áo
mặc, nhà ở có khác đi đến thế nào.
Song không thể từ cơ sở sinh vật ấy của nhu cầu mà cho rằng nhu
cầu là cái tiên thiên bất biến trong bản chất người, coi nhu cầu là biểu hiện
của bản tính người tồn tại nguyên dạng từ đời này sang đời khác. Thời tiền
sử, để no con người chỉ biết săn bắn, hái lượm; để ấm dùng lá cây, vỏ cây.
Thời đại ngày nay, con người đã biết trồng lúa, trồng mì chế biến thành
cơm, thành bánh hoặc nuôi cừu, trồng bông, chế tạo vải tơ, len, dạ ... họ
không bao giờ quay trở lại thoả mãn nhu cầu như người tiền sử. Không
những thế người ngày nay còn có vô số những nhu cầu mà thời kỳ trước


15
không có: giao thông bằng ôtô, máy bay; giao tiếp hữu tuyến, vô tuyến;
xem vô tuyến truyền hình, phim ảnh, sử dụng máy vi tính...
Chính vì vậy, khó có thể có một định nghĩa chung về "nhu cầu", tức
một định nghĩa bao trùm cả tính sinh vật và tính xã hội của "nhu cầu".

A. Maslow (1908 - 1966), đại diện phái tâm lý học nhân văn đã đưa ra
những quan điểm tiến bộ về bản tính của con người đó là: "Bản tính có ý
thức, là nhu cầu bậc cao chứ không phải là những bản năng tình dục... và với
sự phân cấp nhu cầu, ông cho rằng việc thoả mãn các nhu cầu từ thấp đến
cao là cơ sở để con người càng văn minh, thoát xa các loài vật" [31, tr.8].
Nhu cầu tự hoàn thiện
Nhu cầu uy tín
Nhu cầu xã hội
Nhu cầu an toàn
Nhu cầu sinh học

Thang nhu cầu của Maslow
Theo thang nhu cầu này chúng ta thấy:
- Nhu cầu sinh học là nhu cầu cơ bản nhất, cấp thiết nhất. Con người
trước hết phải đáp ứng nhu cầu sinh học rồi mới có thể quan tâm đến các nhu
cầu tiếp theo;
- Trong cuộc sống, ai cũng mong muốn được an toàn yên ổn, không bị
chi phối bởi những bất trắc. Đó là nhu cầu an toàn. Đáp ứng được nhu cầu này
con người mới thực sự an tâm thực hiện các hoạt động sống của mình;


16
- Con người không thể tồn tại đơn lẻ nên không thể không tham gia vào
các quan hệ xã hội và thực hiện các hoạt động xã hội. Đây là biểu hiện của
nhu cầu xã hội;
- Khi tham gia vào các hoạt động xã hội, con người mong muốn thành
công, có uy tín, được xã hội tôn trọng. Đó là nhu cầu uy tín;
- Chủ động thực hiện quá trình xã hội hoá; tự ý thức để điều chỉnh hành
vi với mục đích hoàn thiện nhân cách; tự học hỏi khám phá, tìm hiểu để nâng
cao kiến thức... Đó là nhu cầu tự hoàn thiện.

Nhu cầu là khái niệm rộng, là đối tượng nghiên cứu của triết học, sinh
vật học, tâm lý học, kinh tế học, xã hội học... Trong luận văn, khái niệm nhu
cầu được xem xét như là đối tượng nghiên cứu của lĩnh vực xã hội học.
Theo Đại Bách khoa toàn thư Liên Xô, nhu cầu, theo nghĩa chung nhất,
là "Sự cần đến hay sự thiếu một cái gì đó cần thiết để duy trì hoạt động đời
sống của cơ thể, của con người cá nhân, của một tập đoàn xã hội, của toàn bộ
xã hội" [1, tr.3]. Từ điển tiếng Việt định nghĩa nhu cầu là: "Điều đòi hỏi của
đời sống, tự nhiên và xã hội" [48, tr.719].
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin phân biện hai loại nhu
cầu: Những nhu cầu tự nhiên và những nhu cầu do xã hội tạo ra. C.Mác
thường xuyên nhấn mạnh "tính chất xã hội chung của tất cả các dạng nhu
cầu cá nhân và xã hội" [1, tr.9].
Từ những cơ sở trên đây, khái niệm nhu cầu tiếp nhận sử dụng trong
luận văn được hiểu là thuộc loại nhu cầu xã hội.
Luận văn chú ý đến các bình diện nhu cầu và mục đích của nhu cầu, sử
dụng trong quá trình nghiên cứu (nhất là khâu xây dựng bộ câu hỏi điều tra xã
hội học và khâu phân tích, dự báo nhu cầu).
Các bình diện nhu cầu gồm: Nhu cầu đã được đáp ứng, nhu cầu chưa
được đáp ứng, nhu cầu tiếp nhận để phát thông tin.


17
1.2.2. Công chúng sinh viên - những đặc điểm cơ bản
- Về lứa tuổi và trình độ: Sinh viên thường là những người ở độ tuổi từ
18 đến 25, phát triển khá đầy đủ cả về thể chất và tinh thần. Ở thời điểm này,
nhân cách của sinh viên đang được hình thành và hoàn thiện nên chưa có sự
ổn định mà ngược lại nó luôn ở trạng thái giao động, phân luồng, cần định
hướng đúng đắn để phát triển nhân cách một cách tốt nhất.
- Về trình độ: sinh viên là những người có kiến thức cơ bản, mặt bằng
văn hoá khá (đã qua 12 năm phổ thông và trúng tuyển vào các trường Đại

học). Họ có tư duy nhanh, tiếp cận nhanh mọi vấn đề. Đây là một lợi thế để
sinh viên khai thác thông tin, phân tích và xử lý thông tin. Tuy nhiên, hiện
nay có thể thấy trình độ sinh viên không đồng đều.
- Về môi trường, hoàn cảnh sống: Sinh viên là đối tượng có môi trường
và hoàn cảnh sống khá đặc thù. Đối với sinh viên, việc học tập giữ vai trò chủ
đạo nên môi trường chính của sinh viên là học đường, là thư viện. Không gian
học tập và sinh hoạt chính là giảng đường và khu Ký túc xá sinh viên.
Trong các mối quan hệ hàng ngày thì mối quan hệ xuất hiện với tần số
nhiều nhất là quan hệ thầy - trò, quan hệ bạn bè. Phần lớn sinh viên là những
người sống xa gia đình. Họ thuê nhà trọ, hoặc sống trong khu ký túc xá sinh
viên. Đây là một môi trường sống, sinh hoạt tập thể nhưng khá độc lập. Chính
môi trường tập thể đã tạo điều kiện để hình thành nên nét đặc thù của tâm lý
sinh viên. Vốn là những người năng động, thích tìm tòi và khám phá cái mới,
cái lạ nhưng do trẻ tuổi, nông nổi, bồng bột nên sinh viên cũng dễ bị lôi kéo
vào những tệ nạn xã hội, những tiêu cực nảy sinh hàng ngày. Vì vậy, môi
trường tập thể trở thành một môi trường dễ lây lan, theo cả chiều hướng tiêu
cực và tích cực.
Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác đã đặc biệt quan tâm đến thanh
niên, sinh viên. Mác đã gọi thanh niên là cội nguồn sự sống của dân tộc.
Theo Lênin, thanh niên, sinh viên là bộ phận nhạy cảm nhất trong giới
trí thức. Vì vậy nếu họ được tổ chức lại, được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng


18
thì phong trào sinh viên trong những điều kiện nhất định có thể mở đầu cho
cao trào đấu tranh cách mạng.
Mác, Ăngghen, Lênin đều rất quan tâm đến giáo dục và rèn luyện thế
hệ trẻ, trong đó có sinh viên. Giáo dục là biện pháp hàng đầu có ảnh hưởng
quyết định đến việc phát triển nhân cách của họ, đến tiến trình phát triển của
xã hội. Ngoài việc giáo dục thể lực, trí lực, kiến thức còn phải quan tâm đến

giáo dục thẩm mỹ, lao động, giáo dục giá trị văn hoá tư tưởng, giáo dục lý
luận kết hợp với thế hệ trẻ. Mác viết, chúng ta không tin vào việc giáo dục,
rèn luyện và học tập nếu những việc đó chỉ đóng khung trong nhà trường và
tách rời cuộc sống sôi nổi.
Xác định vai trò, vị trí của sinh viên đối với tương lai của đất nước,
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì
lợi ích trăm năm thì phải trồng người". Theo Bác, trong giáo dục phải chú ý
đào tạo thế hệ trẻ thành những người vừa "hồng" vừa "chuyên" (có cả đức lẫn
tài): "Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung
phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần chăm lo giáo dục đạo
đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ
nghĩa xã hội, vừa hồng, vừa chuyên" [39, tr. 510].
Quan điểm chiến lược của Đảng ta về thanh niên, sinh viên đã được
trình bày một cách cụ thể trong Nghị quyết lần thứ IV của Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa VII, đã chỉ rõ, thanh niên sinh viên là lực lượng đóng
vai trò xung kích trong sự nghiệp đổi mới và đưa đất nước đi vào thời kỳ phát
triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa. Họ là lớp người đang thực
hiện những nhiệm vụ trọng đại, với ước vọng cao đẹp mà thế hệ trước chưa
có điều kiện hoàn thành hoặc chưa làm được và nâng nó lên một tầm cao mới,
chính thanh niên sinh viên mới là lớp người đủ tài trí và sức khỏe đáp ứng
được quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, bắt kịp trình độ của thời đại để
đưa đất nước vào tương lai.


19
Như vậy, thanh niên ta ngày nay là lực lượng xã hội to lớn, có tiềm
năng hùng hậu. Kế thừa tinh hoa của dân tộc và những thành quả cách mạng,
qua mở rộng giao lưu quốc tế, thanh niên có mặt mạnh cơ bản là trình độ học
vấn cao hơn trước, tầm nhìn rộng, nhạy cảm với thời cuộc, giàu lòng yêu
nước, có khát vọng nhanh chóng đưa đất nước vượt qua nghèo nàn và lạc hậu,

thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Sinh viên Việt
Nam chính là lực lượng chính trị, xã hội quan trọng và ưu tú nhất trong thanh
niên cả nước. Đây là lực 1ượng bổ sung to lớn cho đội ngũ trí thức của đất
nước, là những người tiên phong nòng cốt trong cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ, có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình đổi mới, sinh viên đã và đang kế tục xuất sắc truyền
thống cách mạng qua các thế hệ đi trước, luôn luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo
của Đảng, hăng hái tham gia vào công cuộc đổi mới đất nước, sớm có ý chí
lập thân, lập nghiệp, khát khao được cống hiến và trưởng thành. Trong cơ chế
mới đã xuất hiện nhiều tài năng trẻ trên các lĩnh vực: nghiên cứu khoa học kỹ
thuật, văn hoá nghệ thuật... Chính sự nghiệp đổi mới đất nước đã trở thành
môi trường thuận lợi, là cơ hội tốt để thanh niên, sinh viên rèn luyện, phát huy
vai trò, vị trí, tiềm năng của mình.
Trong giai đoạn hiện nay, sinh viên chú trọng đến việc học hành, tiếp
thu những thành quả của các cuộc cách mạng khoa học công nghệ thế giới để
vận dụng vào quá trình phát triển kinh tế của nước mình. Mặt khác, sinh viên
năng động sáng tạo, tạo ra nhiều công trình khoa học có khả năng thực thi cao
trong cuộc sống. Các thế hệ cha anh đi trước có nhiều kinh nghiệm hoạt động
thực tiễn trên các lĩnh vực đời sống xã hội nhưng lại hạn chế hơn so với sinh
viên về trình độ khoa học kỹ thuật, về cách tiếp cận các thiết bị khoa học tiên
tiến hiện nay. Đặc biệt trong giai đoạn này, khi mà nền kinh tế tri thức đang là
mối quan tâm của nhiều quốc gia, khu vực một nền kinh tế với những bản


20
chất cơ bản là: của cải vật chất có được chủ yếu từ nắm bắt những gì chưa
biết, không phải từ những gì đã biết - môi trường lý tưởng để nuôi dưỡng
những gì chưa biết chính là sự phát triển nhanh của việc ứng dụng công nghệ
thông tin - sự tiếp nhận những gì chưa biết hầu như đồng nghĩa với loại bỏ

những gì đã biết, mặc dù chúng đang cho những kết quả cao thì ta có thể thấy
được rằng, cần có một lực lượng trí thức đủ kiến thức để tiếp cận nền kinh tế
đầy ẩn số này. Lực lượng ấy là ai nếu không phải là chính những sinh viên
đang được đào tạo theo hướng hiện đại nhất và hiệu quả nhất của chúng ta
hiện nay. Sự năng động nhiệt tình của sinh viên, mức độ tiếp cận nhanh chóng
các thông tin, các tiến bộ khoa học kỹ thuật chính là điểm khởi đầu cho việc
xây dựng và phát triển một nền kinh tế phù hợp với ưu thế phát triển chung
của toàn nhân loại. Hơn nữa, khi tham gia vào nền kinh tế này thì vấn đề nắm
bắt thông tin trở thành điều sống còn đối với mỗi cá nhân và các tổ chức. Sinh
viên lại một lần nữa phát huy ưu thế của mình. Vì vậy mà có thể nói sinh viên
hiện nay chính là lực lượng chủ chốt trong việc xây dựng một nền kinh tế tri
thức cho đất nước trong một tương lai không xa.
Trong sự nghiệp đổi mới chung của đất nước, sinh viên không chỉ tham
gia vào việc tạo dựng nền kinh tế tri thức mà còn tham gia vào các công tác
xã hội. Trong những năm qua, cả nước đã ghi nhận những đóng góp của sinh
viên tình nguyện trong các hoạt động xã hội: lên miền núi dạy học, xoá mù
chữ cho người dân; giúp đỡ các gia đình khó khăn, gia đình có công với cách
mạng… Sinh viên tham gia tích cực vào việc cổ động phong trào phòng
chống các tệ nạn xã hội, tham gia vào việc bảo vệ môi trường, cảnh quan đô
thị... Tất cả những công tác đó đã góp phần thực hiện tốt các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta đã đề ra.
Qua đây, chúng ta có thể nhận thấy tiềm năng của sinh viên là rất lớn.
Nếu được đào tạo, giáo dục, bồi dưỡng thường xuyên và nghiêm túc, hiệu quả
thì trong tương lai sinh viên sẽ là một nhân tố quan trọng đưa đất nước phát
triển đi lên theo hướng hiện đại.


21
Trong quá trình sống và học tập, sinh viên luôn phải đối mặt với rất
nhiều vấn đề. Trước hết và cơ bản nhất là việc học hành song học tập như thế

nào, họ có đủ điều kiện để học tập không, có ý thức vươn lên không lại là cả
một vấn đề lớn cần bàn bạc và trao đổi. Đối với những gia đình khá giả, có
điều kiện thì việc học hành của sinh viên được đảm bảo nhưng với những gia
đình còn nghèo thì việc chi trả các khoản cho con theo học đại học không hề đơn
giản. Vì thế, không ít sinh viên một buổi lên giảng đường, một buổi vừa tự học,
vừa lăn lộn làm thuê kiếm tiền đóng học. Sinh viên làm xe ôm, sinh viên làm
tiếp thị, sinh viên làm gia sư... bây giờ đã không còn xa lạ với mọi người.
Là đối tượng công chúng đặc thù, sống tập trung trong môi trường tập
thể nên vấn đề nơi ăn chốn ở của sinh viên cũng được đặt ra hết sức gay gắt.
Tình trạng nhiều ký túc xá quá tải không phải là điều hiếm, rồi tình trạng mất
nước, mất điện, thậm chí cả hiện tượng đánh bài bạc trong ký túc xá. Những
vấn đề ấy vẫn làm đau đầu ban quản lý ký túc xá và vẫn đang làm ảnh hưởng
đến chất lượng sinh viên ở những chừng mực nhất định.
Một vấn đề khá trăn trở trong sinh viên là việc lập nghiệp sau khi ra
trường. Tìm việc làm không phải dễ, nhất là trong điều kiện hiện nay không
phải sự cạnh tranh nào cũng lành mạnh, cũng là công bằng và bình đẳng. Từ
đó xảy ra những hiện tượng trái ngược nhau trong đời sống. Nhiều sinh viên
tốt nghiệp loại khá, giỏi ra trường không xin được việc trong khi những sinh
viên kém về trình độ nhưng bằng đường này, đường khác lại có một vị trí
không phù hợp với năng lực của họ. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến sinh
viên mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế nói chung của đất
nước khi chúng ta không trân trọng sử dụng người tài.
Trong đời sống sinh viên hiện nay, xuất hiện các hiện tượng tiêu cực và
tích cực trên nhiều phương diện khác nhau. Mặt tích cực ghi nhận ở sinh viên
là quá trình thích nghi nhanh chóng với sự chuyển đổi kinh tế xã hội, nhạy
cảm, nắm bắt kịp thời cái mới và hướng hoạt động sống của mình vào tương


22
lai. Nhiều sinh viên coi trọng thang giá trị đạo đức hăng say học tập, tích cực

nghiên cứu các đề tài khoa học các cấp, đòi hỏi cao trong việc thưởng thức
văn hoá nghệ thuật và sáng tạo ra các giá trị văn hoá, thẩm mỹ mới mẻ. Đặc
biệt, sinh viên còn tham gia vào các hoạt động chính trị, nhiều sinh viên ưu tú
được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng tỏ rằng sinh viên rất
quan tâm đến tương lai chính trị của đất nước. Đây là một điều đáng vui
mừng vì khi sinh viên trực tiếp tham gia và quan tâm đến tình hình chính trị
của đất nước thì mới có thể đưa đất nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa
mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Song, trong sinh viên, đặc biệt là trong giai
đoạn hiện nay thì cũng nảy sinh không ít những hiện tượng tiêu cực, đang làm
xói mòn đạo đức và lối sống của chính họ. Không ít sinh viên coi những lợi
ích cá nhân là trên hết mà bỏ qua lợi ích cộng đồng, coi giá trị kinh tế lớn hơn
giá trị tinh thần, lấy lợi ích trước mắt mà không quan tâm đến lợi ích lâu dài,
lấy giá trị hiện đại để phủ nhận giá trị truyền thống, lấy hưởng thụ làm mục
đích sống duy nhất... Về mặt học tập, chiếm một số lượng không ít sinh viên
có biểu hiện thiếu động cơ đúng đắn: gian lận trong thi cử, chạy bằng cấp;
một số ngại tham gia vào hoạt động đoàn thể... Ngoài ra sinh viên còn sa vào
các tệ nạn xã hội như: sinh viên nghiện hút, sinh viên cờ bạc, sinh viên nhiễm
HIV/AIDS, sinh viên đọc và xem những sản phẩm văn hoá độc hại... Bằng ấy
những vấn đề nổi cộm trong sinh viên đã được Nghị quyết Trung ương 2 khoá
VIII nhận định: Đặc biệt đáng lo ngại là một bộ phận học sinh, sinh viên có
tình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt lý tưởng, thiếu hoài bão lập thân, lập
nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước.
Sinh viên là đối tượng tác động quan trọng của các loại hình báo chí.
Trên báo, tạp chí, Đài truyền hình đều có các chuyên trang, chuyên mục dành
riêng viết về đề tài sinh viên và viết cho sinh viên. Ngoài ra còn có các tờ báo,
tạp chí dành riêng cho sinh viên như: báo Sinh viên Việt Nam - cơ quan ngôn
luận của Hội sinh viên Việt Nam; tạp chí Sinh viên của Bộ Giáo dục và đào


23

tạo; tờ Thanh niên của Trung ương Hội liên hiệp Thanh niên Việt Nam.
Những tờ báo, tạp chí này phần lớn nội dung là viết về thanh niên, sinh viên,
viết cho thanh niên sinh viên, sinh viên viết về chính mình trên nhiều khía
cạnh khác nhau. Hiện nay hệ thống báo chí, xuất bản của Trung ương Đoàn
bao gồm 12 đơn vị báo chí, phát thanh truyền hình với 19 đầu báo viết, một
trung tâm truyền hình và ban phát thanh thiếu nhi; 2 nhà xuất bản: Kim Đồng
và Thanh niên. Hàng tháng, hệ thống báo chí của Trung ương Đoàn phát hành
gần 7 triệu bản, là công cụ quan trọng cho hoạt động công tác tư tưởng - văn
hoá của Đảng, Đoàn, Hội. Hệ thống báo chí này không ngừng được đổi mới
cả về nội dung và hình thức, thông tin kịp thời chủ trương, đường lối của
Đảng, Nhà nước, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Trong đó nổi bật
lên là 2 tờ báo lâu năm và có chất lượng: báo Thanh niên và báo Tiền Phong.
1.2.3. Báo chí với việc đáp ứng nhu cầu của sinh viên
* Báo chí là cầu nối giữa sinh viên với nhiều tri thức, thông tin đa
dạng và phong phú
Tuổi trẻ vốn khát khao tri thức và khát khao tiếp nhận những tri thức
mới. Xã hội đang chuyển biến, sinh viên không thể thờ ơ với sự phát triển
nhanh, mạnh như vũ bão của thế giới cũng như những bước tiến của quốc gia
mình. Vì vậy, ngoài môi trường học tập tại các trường Đại học, sinh viên nắm
thông tin chủ yếu qua báo chí. Có thể nói báo chí là nguồn cung cấp thông tin
đầy đủ và toàn diện nhất cho sinh viên.
Chưa bao giờ xã hội chúng ta đang sống có một lượng thông tin trải ra
trên mọi lĩnh vực, ngày càng lớn và phong phú như ngày nay. Thông tin đã
trở thành một trong những động lực phát triển quyết định nhất của mọi lĩnh
vực. Là lực lượng trí thức cơ bản nhất của đất nước trong tương lai, sinh viên
có quyền và phải có trách nhiệm tiếp cận thông tin một cách hiệu quả nhất.
Ngoài thông tin về các bài giảng, kiến thức học ở trường, sinh viên còn am
hiểu nhiều vấn đề kinh tế - chính trị - xã hội khác. Trên thực tế, Đảng và Nhà



24
nước ta đã rất chú trọng đến việc cung cấp một lượng thông tin đầy đủ và
chính xác nhất cho mọi đối tượng, trong đó có sinh viên. Nhận thức, nắm bắt
được thông tin, thông qua quá trình sàng lọc, sinh viên tự biến những thông
tin đó thành tri thức để làm giàu kiến thức cho mình và góp phần vào sự
nghiệp đổi mới của đất nước. Thiếu thông tin, sinh viên không thể có điều
kiện phát triển toàn diện cả về trình độ và nhân cách.
* Báo chí có vai trò giáo dục lý tưởng, lối sống cho thanh niên, sinh viên
Sinh viên là một nguồn sức mạnh tiềm năng lớn trong sự nghiệp đổi
mới đất nước. Để tiềm năng ấy biến thành kết quả thực sự và phát huy được
hết sức mạnh của nó trong tương lai thì việc giáo dục sinh viên cần được coi
trọng, đặc biệt là giáo dục về lý tưởng và lối sống.
Giáo dục lý tưởng cho sinh viên nhằm hình thành trong sinh viên một
hệ thống những quan niệm sống phù hợp với đặc điểm tình hình hiện tại và
định hướng cho sinh viên giá trị tốt đẹp của cuộc sống để từ đó giúp sinh viên
xây dựng những ước mơ, hoài bão đẹp, lành mạnh có tác động tích cực đến sự
phát triển nhân cách và trí tuệ của chính họ.
Việc giáo dục lý tưởng cho sinh viên hiện nay được đặt ra như một
nhiệm vụ cấp bách, hàng đầu của báo chí. Như chúng ta đã biết, sinh viên
Việt Nam ngày càng vững tin vào con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và
nhân dân ta đã lựa chọn, biết kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, đã và đang thể hiện bản thân của mình trong việc tham gia tích
cực vào công cuộc đổi mới của đất nước. Việt Nam đã đi qua hơn 20 năm đổi
mới những thành tựu mà chúng ta đạt được đã tạo ra một môi trường lành
mạnh và thuận lợi cho sự phát triển toàn diện của sinh viên. Song cùng với
quá trình đổi mới đi lên của đất nước sự hình hành và phát triển ngày càng
nhanh, mạnh của cơ chế thị trường đã ít nhiều tác động đến sinh viên theo cả
hai hướng tích cực và tiêu cực; một mặt hình thành trong sinh viên sự năng
động, nhạy bén, mặt khác nó lại dễ cuốn sinh viên theo những ham muốn vật



25
chất tầm thường, những cám dỗ, những cạm bẫy nguy hiểm, khó lường trước
được. Từ đó có bao vấn đề nảy sinh trong sinh viên như: việc làm, thu nhập,
tệ nạn xã hội, điều kiện học hành, lối sống hưởng thụ cá nhân... Trước bối
cảnh đó, báo chí phải đóng vai trò là người chỉ đường, dẫn lối, giáo dục sinh
viên kiên định theo lý tưởng xã hội chủ nghĩa, nắm vững hai nhiệm vụ chiến
lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhằm mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ và văn minh", góp phần hình thành lớp thanh niên
mới mang trong mình lý tưởng cách mạng, giàu về trí tuệ, giỏi về chuyên môn
cường tráng về thể lực, trong sáng về đạo đức, phong phú về tâm hồn và lành
mạnh về lối sống.
Trên thực tế, sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống báo chí trong
những năm gần đây đã tạo ra cơ hội tốt cho sinh viên tiếp nhận thông tin
đồng thời tiếp nhận những giá trị tinh thần để hình thành lý tưởng cho
mình. Đặc biệt đối với báo Tiền Phong và báo Thanh Niên vấn đề này được
đặt ra như một nhiệm vụ thường xuyên, liên tục. Không phải giáo dục lý
tưởng một cách khô khan theo kiểu tuyên truyền dưới dạng những văn bản,
báo Thanh Niên và báo Tiền Phong đã có cách làm linh hoạt, phù hợp với
sự tiếp nhận của đông đảo công chúng sinh viên thông qua việc mở các
diễn đàn trên báo; thông qua mục Người thật việc thật với những gương
điển hình, đúc kết những bài học cả thành công và thất bại ở những con
người cụ thể đang sống và học tập cùng thời với đội ngũ sinh viên. Phản
ánh những tấm gương như thế là báo chí đã tham gia vào quá trình giáo dục
lý tưởng và truyền thống cách mạng cho sinh viên. Ngoài ra, báo Thanh
Niên và báo Tiền Phong còn tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về chính trị - xã
hội mà chủ đề cuộc thi liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến lý tưởng,
truyền thống cách mạng, thu hút đông đảo sinh viên trên cả nước tham gia
nhiệt tình, sôi nổi và hiệu quả.



×