Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Rồng Thời Lý, Rồng Và Tiên Trong Lịch Sử Đồ Tượng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (732.1 KB, 29 trang )

Rồng thời lý
Rồng và Tiên trong lịch sử đồ tượng Việt Nam
Thứ 7, 29/07/2006

• 29922 lượt xem

CÁC TIN KHÁC
 Mỹ thuật cổ truyền
 Kiến trúc Việt Nam
 Tranh dân gian
 Điêu khắc cổ Việt Nam
 Gốm sứ cổ truyền
Truyện Họ Hồng Bàng (Lĩnh Nam chích quái, thế kỷ 15) có chi tiết đáng chú ý: Lạc
Long Quân dạy dân vùng cao xăm mình để tránh bị giao long làm hại. Con rồng Việt
Nam xuất phát cụ thể từ con vật gọi là giao long/ thuồng luồng.
Một số nhà nghiên cứu khẳng định vật tổ của người Việt là con "cá sấu" (Theo Từ điển
Tiếng Việt của Văn Tân), là con "lân trùng" (rắn có vảy) hay con "giao long", một loài cá
sấu (Ðinh Gia Khánh và Chu Xuân Diên - Văn học dân gian Việt Nam). Và Nguyễn
Minh Hiệu đã chứng minh bằng nhiều cứ liệu: con rồng Việt chính là con cá sấu, vật tổ
chính của người Việt cổ (tạp chí Khảo cổ học, 1983, số 2). Khởi đi từ con rồng - sấu, con
rồng Việt trong lịch sử đã biến đổi nhiều do sự tích hợp các yếu tố du nhập từ bên ngoài.
A. Các dạng Rồng.
1. Rồng - Sấu: Hình 1a
2. Rồng sấu - Rắn:
Rồng (đầu là cá sấu, dưới là rắn cuộn) trên tấm yểm tâm của áo giáp ở Ninh Bình.
3. Rồng - Rắn với đầu cá sấu:
Rìu vai, đồng, thế kỷ 5-3 trước CN, Ðồng Sơn, Bảo tàng lịch sử Hà Nội.


4. Rồng Mèo:
Rồng - Mèo là hình dạng rồng in trên mảnh sành được phát hiện ở Bắc Ninh: đầu sấu đã


biến mất, đầu ngắn hơn và cổ dài, cánh và vây lưng là những đường vạch dài, râu và
lông ở khuỷu chân đã có hình dạng của con rồng Ðại Việt.
5. Con Rồng thời Ngô (939 - 965):
Thể hiện trên một viên gạch tìm thấy ở Cổ Loa, chiều dài chung có ngắn, thân mèo,
vây lưng cá.

6. Rồng - Rắn:
Là hình dạng loài rồng nổi tiếng của Thời Lý (1010 - 1225). Hình (6. a).
Và Thời Trần (1225-1400). Rồng thời kỳ này là biểu tượng cho vua, cho sự thịnh
vượng. Có điều, con rồng Lý là rồng-văn, còn rồng Trần là rồng - võ, tức rồng Trần dũng
mãnh hơn rồng Lý. Hình (6. b).
7. Rồng - Ðầu sư tử/ Lân:


Con rồng đời Lê tuy vẫn kế thừa hình tướng của rồng thời Lý - Trần, nhưng cũng đã du
nhập ngoại dạng của rồng phương Bắc: dữ, uy nghi. Thời Tây Sơn phục hồi hình dạng
của rồng đời Trần và Lê Sơ: thân rồng đẹp, mềm mại và cái đầu dũng mãnh. Ðầu rồng
này giống như hình rồng trên đồng tiến Cảnh Thịnh (1792-1802): đầu sư tử/ lân.
8. Rồng thời Nguyễn:
Giai đoạn 1802-1883; sự mới mẻ của nó là đuôi xoắn ốc và toả nhiều vây dạng đao lửa
dài. Rồng thời Nguyễn giai đoạn 1883-1945 biến đổi theo sự suy đổi của nghệ thuật giai
đoạn này: mất đi vẻ tự nhiên và dũng mãnh, trở nên thô cứng và ước lệ.
B. Các dạng Tiên.
Chim lạc và Âu cơ:
Nếu truyện Họ Hồng Bàng trong Lĩnh Nam chích quái nói về tục vẽ mình theo hình giao
long đã cho thấy người Việt cổ đồng nhất mình với vật tổ giao long, thì hình người hoá
trang/ đội lốt chim trên các trống đồng đã cho thấy người Việt cổ cũng đồng hoá mình
với chim. Giao long và chim là vật tổ của người Việt cổ (Văn Lang hay Lạc Việt).
Chim thấy trên trống đồng gồm loại chim bay và chim đứng. Loại chim bay là chim lạc.
Chim đứng trên mái nhà hình thuyền giống chim công, gà và đa số đứng dưới đất là loài

chim nước: cò, bồ nông, xít...
Kết hợp thể "âm dương lưỡng hợp" chim-rồng ở đây là giao long và chim lạc. Ðó là
những biểu hiện đơn nhất ở một số mặt trống đồng (Hoà Bình, Phú Xuyên) và không
thuần nhất, tức chim lạc xen với các loại chim nước(âu) khác ở một số mặt trống đồng
khác. Phải chăng do hiện tượng không thuần nhất này mà Lạc - Long đã thành Lạc Long
Quân - Âu cơ? Chim-rồng là đề tài còn bảo lưu mãi về sau: hình in trên viên gạch phát
hiện ở chùa Lim trong một ngôi mộ cổ (Thế kỷ 1, sau CN).


Cha Rồng - Mẹ Tiên:
Lạc Long Quân - Âu cơ ở đây đã là tôn danh: Quân (vua) và Cơ (cũng gọi là ky: mỹ hiệu
của phụ nữ) theo Ðào Duy Anh (Hán Việt từ điển). ở đây vấn đề cần giải quyết là tại sao
"Lạc Long Quân - Âu cơ" lại trở thành "Cha Rồng - mẹ Tiên"?
Việc xác định tông tích của Âu Cơ là tiên xuất hiện lần đầu trong Lĩnh Nam chích quái
(thế kỷ 15) tại đoạn đối thoại của Lạc Long Quân: "Ta là nòi rồng, đứng đầu thuỷ tộc,
nàng là giống tiên, sống ở trên đất...". Do đó việc giải đáp vấn nạn trên buộc phải truy
cứu các dữ liệu lịch sử-văn hoá của thời đại đó, tức trong và trước thế kỷ 15: thời Lý Trần. Cụ thể trong nghệ thuật đồ tượng Lý -Trần, các công trình nghiên cứu đã cho chúng
ta thấy có rất nhiều phù điêu, hình chạm khắc và tượng tròn (gỗ và đá) về đề tài "tiên" ở
nhiều di tích khác nhau (chùa Phật Tích, Chương Sơn, Long Ðội, chùa Dâu, chùa Bối,
Thái Lạc...) dưới các tên gọi và chú thích (chưa thật sự chính xác) là: "tiên nữ/ Apsara",
"nhạc công/ Gandharva", "nữ thần chim/Kinnari"...Rõ ràng đây là kết quả có gốc từ tám
loại chúng sanh gọi là "bát bộ chúng" của Phật giáo gồm: 1. Thiên (Ðêva); 2. Long
(Naga); 3. Dạ xoa (Yasha); 4. Atula (Asura; phi thiên); 5. Ca lâu la (Garuda: chim thần
Kim Sí điểu); 6. Càn - thát bà (Gandharva); 7. Khẩnnala (Kinnara); 8. Ma hầu la già


(Mahôraga: đại xà vương). Trong tám loại chúng này có ít ra bốn loại có thể được coi là
tiên. Hình minh hoạ:

Bốn loại có thể được coi là tiên gồm:

- Ðêva là thiên, Ðêvi: thiên nữ: tiên nữ. Xét về hình tướng thì đây là các loại tiên nữ trang
trí mũ miện, đầu tóc mỹ lệ như vũ công, ca công hầu hạ, tán tụng việc thuyết pháp.
- Atula là loại phi thiên, thường có hình tướng tiên nhân đang bay lượn kèm với các dây
lụa dài uốn lượn gọi là "phong đai" như vũ công múa lụa.
- Càn thát bà là nhạc thần, hương thần (thần chỉ sống bằng hương thơm). Ðây là thần
Bàlamôn giáo (có đến 6.333 vị); trong kinh Diệu pháp liên hoa của Phật giáo có bốn loại.
ở ấn Ðộ, Càn thát bà được hiểu là "diễn viên". Về hình tướng có thuyết cho rằng loại này
thân có nhiều lông vũ, nửa ngưòi nửa chim, hình dáng đẹp. Có thuyết chỉ rõ; thân lộ màu


da thịt, tay trái cầm sáo trúc, tay phải cầm bảo kiếm.
- Khẩnnala, dịch nghĩa là nghi thần (đầu có sừng nên khi thấy sinh tâm hoài nghi vì
không giống người). Loại chúng này có biệt tài ca múa giỏi, chuyên tẩu các bài nhạc nói
về đạo pháp. Về hình tướng thường có một cái trống nằm ngang hay hai cái trống đứng
trước mặt, tư thế là nhạc công chơi trống.
Trong bốn loại tiên này thì Càn thát bà do có hình tướng người �" chim nên dễ được
đồng nhất với Âu Cơ (nói như vậy là xét về lý, còn trong thực tế về hình tướng cụ thể đều
có khả năng tham chiếu cả Atula và Kanara/Kanari...). Phải chăng đó là cơ sở lịch sử văn hoá của thời kỳ đạo Phật là quốc giáo mà tác giả Lĩnh Nam chích quái đã dựa vào đó
mà "tiên hoá" mẹ Âu Cơ, tức chim đã được biến thành tiên. Ðó là nguyên nhân lịch sử
mà cụ thể là sự tích hợp cũ- mới, nội sinh - ngoại sinh để "Lạc Long Quân - Âu Cơ"
thành "Cha rồng - mẹ tiên" đầy thiêng liêng và tự hào đối với mỗi con dân Việt.

Mỹ Thuật Phật Giáo thời kỳ nhà Lý.
Nhà Lý kéo dài từ năm 1009 đến 1225, thời gian trị vì đất nước kéo dài 215 năm. Giai
đoạn này đất nước độc lập, tự chủ, và đủ sức mạnh chống giặc ngoại xâm. Phật giáo trở
thành quốc giáo. Các vị vua Triều Lý đều hướng đạo Phật và hơn phân nữa dân số trong
nước thời kỳ này theo Phật giáo. Việc giao lưu văn hóa Phật Giáo thời kỳ này với Trung
Quốc cũng được đẩy mạnh. Điều đó dẫn đến các công trình kiến trúc, mỹ thuật thời kỳ
này mang đậm dấu ấn của Phật Giáo. Rất nhiều chùa, đền được xây dựng với quy mô lớn.
Ngày nay vẫn còn một số ít công trình vẫn còn tồn tại nhưng đa phần đều qua phục chế

và thay đổi theo thời gian.
Các công trình kiến trúc nổi bật thời đó là: Chùa Một Cột ( chùa Diên Hựu), Đền Đô
(Chùa Lý Bát Đế), Chùa Phật Tích, Chuông Quy Điền, chùa Dạm,…
Chùa Một Cột (Chùa Diên Hựu) ngày nay tọa lạc tại Quận Ba Đình Hà Nội, cạnh bên
lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là di tích lịch sử còn lại của Chùa Diên Hựu. Theo chiều dài
lịch sử Chùa này đã nhiều lần thay đổi, xây dựng lại. Vì thế mà những gì ta thấy ngày nay
thì rất nhỏ so với một công trình to lớn gấp vài chục lần và lộng lẫy vào thời Lý. Chùa
gồm 1 cột đá lớn ở trong hồ Linh Chiểu, đỉnh cột tỏa ra đóa hoa sen nghìn cánh, trên đó
dựng một điện đỏ thẩm, bên trong điện là một tượng Phật bằng vàng. Quanh hồ có hành
lang bao bọc, ngoài hành lang có ao Bích trì, có cầu vòng bắc qua, phía sân trước 2 bên
cầu có bảo tháp Lưu ly.
Đền Đô được xây dựng để làm nơi thờ các vị vua thời Lý. Được xây dựng vào thời Vua
đầu tiên của nhà Lý là Lý Thái Tổ. Trong 1 lần về thăm quê, dân Làng nơi đây đã xây
dựng một ngôi nhà lớn để nghênh tiếp Nhà vua, sau nay khi ông chết, vị Vua kế nhiệm
là Lý Thái Tông đã cho sửa lại làm nơi thờ tự vua cha và cũng từ đó ngôi đền là nơi thờ
tự cho các vị Vua sau này khi băng hà.
Một công trình nổi tiếng thời Lý nữa có là Chùa Phật Tích. Ngôi chùa sở hữu tượng A di
Đà lớn nhất Việt nam bằng đá hoa cương xanh cao 1,87m tính luôn bệ là 2,77m. Tượng


phật ngồi thuyết pháp trên đài sen, hai tay để ngửa trong lòng, dáng ve thanh cao, thư
giản. Những đường nét mềm mại của tượng kết hợp với khuon mặt thoát tục tạo nên vẽ
đẹp dịu dàng phi giới tính. Đây là một kiệt tác mỹ thuật Việt Nam thời Lý.
Các chùa thời lỳ thường được xây men theo triền núi, trên mặt bằng hình vuông hoặc
tròn, trung tâm chùa là tháp cao, trung tâm là tượng Phật . hình ảnh mái chùa cong và
lưỡng long triều nguyệt ta cũng thường thấy trên nóc các ngôi chùa thời ấy.
Qua nhiều năm bị đô hộ bởi Phương Bắc, văn hóa cũng bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, hình
ảnh rồng thời Lý cũng là một sản phẩm mỹ thuật đặc sắc mà các đời sau phải noi theo và
học hỏi. Rồng thời Lý uốn lượn mềm mại hình sin với 12 đoạn cong, đầu rồng có bòm,
miệng rồng ngậm ngọc và Rồng có 4 chân. Dáng vẽ rồng mềm mại, đậm chất vị tha của

Phật giáo.
Thời lý có 3 trong số 4 tứ đại khí đó là Tháp Bảo Thiên, Tượng phật Di Lặt và chuông
Quy Điền.
Mỹ thuật thời nhà Lý mang đậm chất Phật Giáo, thời kỳ này là được xem là thời kỳ vàng
son của lịch sử mỹ thuật Việt nam.

Phật giáo và đời sống
Phật giáo và đời sống - Văn Hóa và Giáo Dục Viết bởi Chu Quang Trứ ...Các vua Lý
rất tin theo Phật giáo, Hoàng hậu Ỷ Lan được dân tôn là Quan Âm nữ. Vì thế vô số Chùa
Tháp được xây dựng, mà ở thời Lý, Tháp chính là đền thờ Phật, là kiến trúc chủ yếu của
Chùa giống như kiến trúc Phật giáo của Ấn Độ và nhiều nước Đông Nam Á.
...Trên pho tượng Phật ở Chùa Phật Tích, chúng ta thấy nghệ sĩ xưa đã đưa vào đây cái
nhìn chung của thẩm mỹ Đông Nam Á trên cơ sở cái chuẩn gốc Ấn Độ: Tượng ngồi kiết
già là thế ngồi hoa sen, lưng dướn thẳng để xương sống gần vuông góc với mặt đất, mắt
khép hờ nhìn xuống nơi chót mũi. Đó là thế ngồi cân đối, vững chắc lâu mỏi, điều hoà
được hai luồng điện âm dương để cho thần kinh thảnh thơi minh mẫn, và trí não phát
triển. Tuân giữ cái chung ấy, nhưng nghệ sĩ thời Lý đã Việt Nam hóa theo vẻ đẹp lý
tưởng của phụ nữ Việt Nam là mặt hơi trái xoan, lông mày cong thanh, mắt phượng, mũi
dọc dừa, miệng mỉm cười, cổ cao ba ngấn, thân hình thon thả dong dỏng...
...Nhân dân Đại Việt tiếp thu Phật giáo từ rất sớm, chắc chắn đã tiếp nhận thần thoại Ấn
Độ, cũng tôn sùng Indra như người Aryan. Nhà Lý thấy rõ điều đó, đồng hóa Indra với
Phật, năm 1057 đã xây hai Chùa Thiên Phúc và Thiên Thọ, đồng thời đúc lại hai tượng
Phạm Vương và Đế Thích để thờ ở đó, đầu năm các vua vẫn đến đấy làm lễ.


Mỹ Thuật Lý Trong Quan Hệ Với Mỹ
Thuật Đông Nam Á
Chu Quang Trứ (Viện Mỹ thuật)
Nằm ở sườn Đông Nam của lục địa Châu Á nhìn ra nơi gặp gỡ của hai đại dương là Thái
Bình Dương và Ấn Độ Dương, điều kiện địa lý đã đặt nước ta vào giữa vùng Đông Nam

Á, sau lưng liền khoảng đất với các nước Đông Nam Á lục địa (Lào, Campuchia, Thái
Lan, Miến Điện, và miền Hoa Nam của Trung Hoa), trước mặt nhìn ra biển Đông, có thể
bằng thuyền giao tiếp dễ dàng với các nước Đông Nam Á hải đảo (Philippin, Indonexia,
Malaixia). Đấy là một khu vực từ điều kiện địa lý chung có đủ biển khơi và đất liền với
đồng bằng và rừng núi, cùng chịu tác động của khí hậu nhiệt đới và gió mùa, do đó cùng
có nền kinh tế chủ đạo là nông nghiệp trồng lúa nước, được đan xen thêm các yếu tố của
kinh tế khai thác biển và rừng núi. Từ cơ sở kinh tế chung ấy mà các nước Đông Nam Á
có sự gần gũi nhau về phong tục tập quán mà trong đó có vấn đề quan trọng là sử lý nước
để trồng cấy lúa.
Các cư dân nông nghiệp Đông Nam Á trong điều kiện sống cụ thể ấy mà về mặt văn hóa
nặng yếu tố nữ, cùng thờ tổ tiên và các lực lượng tự nhiên để hy vọng được phù hộ trong
công việc làm ăn, mà ở dưới khía cạnh nghệ thuật cùng có cái thẩm mỹ nhịp điệu, uyển
chuyển của nông nghiệp, kết hợp với cái hào hùng, phóng túng của biển khơi. Trong
những mẫu số chung ấy, lại tùy từng nước và ở vào những giai đoạn lịch sử cụ thể mà có
sự nhấn mạnh yếu tố này hay yếu tố kia.
Gắn các nước Đông Nam Á thành một khối về không gian và đặt nó trong tiến trình lịch
sử về thời gian, xu hướng chung của các nhà Đông Nam Á học Việt Nam là chia nó ra
làm 5 giai đoạn lớn: từ sơ sử đến đầu công nguyên là thời kỳ “Đông sơn” hội tụ nhiều
mặt để xây dựng truyền thống văn hóa trên cơ sở văn minh nông nghiệp; từ đầu công
nguyên đến thế kỷ X trên cơ sở vốn văn hóa đã có, tiếp thu thêm văn hóa Ấn và Hoa để
định hình bản sắc dân tộc; từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII ra đời các quốc gia dân tộc, tạo sự
hưng khởi văn hóa; thế kỷ XIV và XV tập trung sức chống sự xâm lược của quân
Nguyên; từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX tiếp xúc văn hóa phương Tây.
Trong khuôn khổ mà đề tài quy định, chúng tôi chỉ xin trình bày đôi nét về nghệ thuật
Đại Việt dưới thời Lý trong quan hệ với nghệ thuật Đông Nam Á, với tính cách là mấy
gợi ý ban đầu để chúng ta sẽ cùng nghiên cứu.
Đối chiếu với cách phân kỳ lịch sử Đông Nam Á của các nhà Đông Nam Á học Việt
Nam, nghệ thuật Đại Việt dưới thời Lý là thuộc về giai đoạn thứ 3 (thế kỷ X - XIII);
nhưng không thể giới hạn giữa hai lát cắt ngang thời gian, vì lịch sử là dòng chảy liên tục
và cái sau bao giờ cũng gắn với cái trước, nên cũng cần dành đôi nét lần kiếm từ nguồn.

Cho đến khi các cư dân ở các miền khác nhau của Đông Nam Á đã tiến từ vùng rừng núi
xuống và từ ven biển vào chinh phục được vùng đồng bằng, cùng nhau phát triển kinh tế


trồng cấy lúa nước, thì trên cơ sở đó đã cùng sáng tạo ra một nền văn hóa Đông Sơn với
sự hội tụ của các yếu tố văn hóa đồng bằng, biển, rừng núi, mà qua chứng cứ chắc chắn là
một loạt trống đồng Đông Sơn (tức trống đồng loại I Hê gơ) phát hiện được trong toàn
khu vực Đông Nam Á (trong đó tập trung nhất ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng
sông Mã của Việt Nam), đã gắn các nước này thành một chỉnh thể thống nhất và độc đáo.
Trên cơ sở sức mạnh văn hóa Đông Sơn, vào khoảng trước sau Công nguyên, từng
“nước” ở đây lại có cuộc tiếp xúc với mức độ khác nhau và bằng những hình thức khác
nhau với văn hóa Ấn và văn hóa Hán. Trong cuộc tiếp xúc ấy, văn hóa Ấn đã thâm nhập
hòa bình, được các nước Đông Nam Á (nhất là khu vực hải đảo) tiếp nhận tự giác để
hoàn thiện quá trình dựng nước, qua chọn lọc đã đồng hóa những cái bên ngoài vào thành
sở hữu của mình, sáng tạo ra những công trình nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc tuy học
theo Ấn Độ nhưng đều thoát xác, uốn nắn, vuốt ve để phù hợp với đời sống và thẩm mỹ
của mình, làm thành tài sản riêng của nghệ thuật Đông Nam Á.
Trái lại, văn hóa Hán đã tiến hành một cuộc thâm nhập cưỡng bức bằng bạo lực. Từ thế
kỷ III trước công nguyên, những người Việt trong Bách Việt ở vùng Ngũ Lĩnh (miền Hoa
Nam ngày nay) đã bị đế quốc Tần thôn tính và dần đồng hóa văn hóa. Đến bán đảo đông
Dương, đế quốc Tần bị những người Lạc Việt và Âu Việt ở đây chặn lại và đánh bại.
Nhưng sau đó đế quốc Hán đã chiếm được nước Âu Lạc và chia thành quận, huyện để cai
trị, du nhập ồ ạt văn hóa Hán nhằm đồng hóa, chính vì sự thử thách khốc liệt ấy của lịch
sử, dân tộc ta vốn là chủ nhân của trung tâm văn hóa Đông Sơn, bằng tất cả sức mạnh
dồn nén đã phải vừa đấu tranh vũ trang vừa đấu tranh văn hóa, chống lại sự Hán hóa, có
cưỡng nhận nhiều yếu tố văn hóa Hán nhưng rồi tiêu thụ linh hoạt thành phong cách bản
địa để nâng mình lên.
Thế là trong nhiều thế kỷ đầu của kỷ nguyên thiên chúa, dân tộc ta vừa phải đưa vào
trong dân gian những mảnh của văn hóa Đông Sơn bị đế quốc Hán đập vỡ, để bảo lưu,
giữ truyền thống và nuôi sức mạnh; rồi trên sơ sở đó tiếp thu chọn lọc một cách tự giác

văn hóa Ấn thâm nhập hòa bình, đồng thời vừa cưỡng chế vừa tiếp thu chọn lọc văn hóa
Hán, để rồi từ thế kỷ X giành được độc lập bước vào kỷ nguyên Đại Việt thì cũng gấp rút
xây dựng một nền văn hóa nghệ thuật riêng của mình mà vào thời Lý sẽ nở rộ.
Trong khi bọn thống trị Hán lùng thu trống đồng, với cách ứng xử thông minh, dân tộc ta
vẫn đúc trống đồng dưới hình thức trống chậu: thực chất của đồ vật về cả tạo dáng và
trang trí là trống đồng, nhưng khi cần trá hình thì lật ngược lại có thể xem như chiếc chậu
đồng. Đó là trường hợp chiếc trống đồng Kon Tum đúc vào đầu công nguyên. Trong khi
người Hán đưa ra những chiếc ấm gốm mà vòi là con thao thiết, thì người Việt đã thay
hình con thao thiết xa lạ bằng hình con voi quen thuộc để tạo ra ấm nước của mình.
Điển hình là việc dân tộc ta đã sáng tạo ra nhiều chuyện đối chọi với bọn đô hộ Hán. Khi
chúng tung tin “Cao Biền có tài trừ yểm long mạch và điều khiển âm binh”, thì dân gian
ta có ngay chuyện “Quân Cao Biền dậy non” lẩy bẩy thành đống đất, chuyện thần núi
Tản Viên nhổ nước bọt vào đàn tràng của Cao Biền khiến y phải than rằng: “Linh khí của
phương Nam không thể lường được. Ôi, cái vượng khí của đất này đời nào hết được!” Và
thật sảng khoái là chuyện thần núi Long Đỗ đã làm mưa dông, gió giật phá tan việc lập


đàn chôn bùa yểm của Cao Biền, buộc y phải thú nhận: “Xứ này có thần kinh dị, ở lâu tất
chuốc lấy tai vạ, ta phải về Bắc mau thôi!”
Bên cạnh thái độ đối với văn hóa Hán, dân tộc ta cũng như các nước Đông Nam Á khác,
đã tự giác tiếp nhận chọn lọc sự thâm nhập hòa bình của văn hóa Ấn, sáng tạo ra nhiều
kiến trúc và những phù điêu trang trí kiến trúc có hoạ tiết, có chủ đề. Bắt nguồn từ Tôn
giáo, thần thoại và nghệ thuật Ấn Độ, được tái tạo thành tài sản riêng của Đông Nam Á,
thành sợi dây gắn bó văn hóa gia đình Đông Nam Á.
Ở Việt Nam cuộc tiếp xúc với văn hóa Ấn Độ qua các thương nhân và các nhà sư diễn ra
nhẹ nhàng nhưng sâu sắc. Câu chuyện người con gái vùng Dâu, nàng Man Nương, được
cha mẹ, do vốn rất phục “phép mầu” của sư Khâu Đà La người Ấn Độ, vẫn tôn thờ sư
làm Thầy, bèn đưa vào Chùa để nhờ sư dạy dỗ; rồi một tối Man Nương ngủ quên ở cửa
phòng, khi sư hành lễ về “bước qua” mà nàng mang thai, sau sinh ra đứa trẻ và gửi vào
cây dung thụ, được cây ấp ủ để thành hòn đá thiêng và cùng với cây có đầy phép mầu

làm lợi cho nông nghiệp lúa nước, được thờ dưới danh nghĩa “Tứ Pháp”... mà mọi người
đều biết, thực chất là cuộc giao tiếp mạnh mẽ, sâu sắc, tôn trọng và rất tự giác của văn
hóa Việt với văn hóa Ấn; trong đó dân tộc ta đã tiêu hóa nhuần nhuyễn, thai nghén những
yếu tố ngoại lai, để sản sinh ra một thành tựu văn hóa mới cao đẹp hơn, được đẩy lên
đỉnh điểm bất diệt.
Trong cuộc tiếp xúc với văn hóa Ấn, tập trung và trước hết là tiếp thu Phật giáo. Theo
nhận xét của nhà sư Trung Quốc thời Tùy là Đàm Thiên (mà thiền sư Trí Không thời Lý
trong khi đàm đạo với hoàng hậu Ỷ Lan đã dẫn): “Xứ Giao Châu có đường thông sang
Thiên Trúc. Khi Phật giáo vào Trung Quốc chưa phổ cập tới Giang Đông mà ở vùng Luy
Lâu của xứ ấy đã xây dựng hơn 20 bảo Tháp, độ được 500 vị Tăng và dịch được 15 bộ
kinh. Thế là xứ ấy theo đạo Phật trước ta (Trung Quốc). Bấy giờ có các vị sư Mâu Bác,
Ma La Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương đến ở đó truyền đạo”. Trong bốn
vị sư trên, Mâu Bác sống ở thế kỷ II. Như vậy Phật giáo có thể thâm nhập vào ta từ đầu
công nguyên và bằng con đương trực tiếp từ Ấn Độ sang: Bằng đường thủy từ phía Nam
lên, rồi về sau lại thêm đường bộ từ phía Tây (qua Tây Tạng, Vân Nam và Lào) đến. Phật
giáo với những nhà sư có nhiều “phép lạ”, đã kết hợp được với tín ngưỡng nguyên thủy
bản địa, mau chóng chiếm được lòng dân và trở thành ngọn cờ cứu nước, trong đó phong
trào do một Phật tử họ Lý (quen gọi là Lý Phật tử) cầm đầu ở thế kỷ VI là một điển hình,
ở thế kỷ X, các nhà sư đã tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến chống Tống của nhà
Tiền Lê, đã chuẩn bị dư luận đảo chính lập ra nhà Lý. Các vua Lý rất tin theo Phật giáo,
Hoàng hậu Ỷ Lan được dân tôn là Quan Âm nữ. Vì thế vô số Chùa Tháp được xây dựng,
mà ở thời Lý, Tháp chính là đền thờ Phật, là kiến trúc chủ yếu của Chùa giống như kiến
trúc Phật giáo của Ấn Độ và nhiều nước Đông Nam Á.
Từ nền kinh tế nông nghiệp lúa nước, dân tộc ta cũng như các dân tộc khác ở Đông Nam
Á lại có tín ngưỡng thờ tổ tiên và thờ các lực lượng tự nhiên để mong được phù hộ cho
mưa thuận gió hòa có lợi cho cây lúa phát triển. Lại từ thờ tổ tiên trong gia đình được mở
ra thành thờ tổ tiên của cả nước. Các vua Lý rất chú ý phong thần cho các anh hùng dân
tộc, lập Đền Hùng thờ tổ nước và các đền Gióng thờ anh hùng thần thoại, đền Hai Bà
Trưng, đền Bà Triệu thờ anh hùng lịch sử. Từ việc thờ tổ tiên gắn với kinh tế nông



nghiệp lúa nước, mà mọi người không hề tiếc công sức và tiền của để xây những Chùa
Tháp quy mô to lớn. Những Chùa Tháp ở thời Lý vừa trải rộng vừa tôn cao, có thể là bạn
đồng hành của nhiều công trình Phật giáo ở Đông Nam Á.
Trong những lực lượng tự nhiên liên quan nhiều đến nông nghiệp, trước hết phải kể đến
các hiện tượng mây – mưa - sấm - chớp đều được thần thánh hóa với các yếu tố nữ, thành
Tứ Pháp là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện được rước vào Chùa và Phật hoá,
thờ ở vị trí trang trọng nhất thay cho tượng Phật. Các Chùa trong hệ thống Tứ Pháp đều
có từ rất sớm, thời Lý rất được coi trọng, nhưng dấu tích vật chất còn lại thì đều muộn
hơn.
Dưới góc độ mỹ thuật và đặt vào giai đoạn lịch sử văn hóa Đại Việt mà thời Lý là đỉnh
cao hưng thịnh của Phật giáo; rồi kế liền là thời Trần, Phật giáo vẫn phát triển lại được
dân gian hóa với các biểu hiện là các Chùa làng; chúng ta thấy ngay ở điêu khắc Lý và
điêu khắc Trần đã hội tụ những yếu tố của văn hoá Ấn trong việc tái tạo, nâng lên thành
nghệ thuật Đông Nam Á.
Tượng Phật đời Lý còn lại được vài pho, trong đó chắc chắn nhất và được nhiều người
biết là pho tượng Phật Chùa Phật Tích. Còn thời Trần, cho đến nay vẫn chưa giao cho
chúng ta pho tượng Phật nào được khẳng định chắc chắn. Trên pho tượng Phật ở Chùa
Phật Tích, chúng ta thấy nghệ sĩ xưa đã đưa vào đây cái nhìn chung của thẩm mỹ Đông
Nam Á trên cơ sở cái chuẩn gốc Ấn Độ: Tượng ngồi kiết già là thế ngồi hoa sen, lưng
dướn thẳng để xương sống gần vuông góc với mặt đất, mắt khép hờ nhìn xuống nơi chót
mũi. Đó là thế ngồi cân đối, vững chắc lâu mỏi, điều hoà được hai luồng điện âm dương
để cho thần kinh thảnh thơi minh mẫn, và trí não phát triển. Tuân giữ cái chung ấy,
nhưng nghệ sĩ thời Lý đã Việt Nam hóa theo vẻ đẹp lý tưởng của phụ nữ Việt Nam là mặt
hơi trái xoan, lông mày cong thanh, mắt phượng, mũi dọc dừa, miệng mỉm cười, cổ cao
ba ngấn, thân hình thon thả dong dỏng...
Trong mối liên hệ của thần thoại và nghệ thuật Phật giáo Việt Nam với thần thoại và
nghệ thuật Ấn Độ, ta thấy có sự hòa đồng trong tổng thể di tích Tôn giáo và nghệ thuật cổ
ở Đông Nam Á xưa, với những biến dạng của các đề tài về thần Indra và thế giới của
Inda hoàn toàn sung sướng có những vũ nữ Apsaras, những ca sĩ Kinnaras và những nhạc

sĩ thiên thần Gandharla đều không ngừng biểu diễn và phô diễn những đường nét, dáng
dấp, màu sắc và thanh âm đẹp đẽ ở trong đất trời.
Trong thế giới thần thoại Ấn Độ, Indra với chức năng thần Mưa và thần Sấm sét, được
người Aryan khi định cư ở Punjab (Tây Bắc Ấn Độ) mưa nhiều đất tốt thuận lợi cho
trồng trọt và chăn nuôi, nhưng luôn diễn ra cảnh ráng đỏ, mây đen ùn ùn, sấm chớp kinh
hoàng, mưa tuôn xối xả... đã gây ấn tượng sâu sắc về lực lượng thiên nhiên, để rồi sáng
tạo ra vị thần tối cao của các thần có nhiệm vụ bảo vệ các thành viên của cộng đồng và
của cải của cộng đồng. Nhân dân kính trọng và yêu quý Indra vô cùng, thì giai cấp thống
trị lợi dụng nhận làm con cháu Indra, suy tôn Indra làm ngọc hoàng Thượng đế cai quản
cõi trời, còn mình cai quản cõi đất theo lệnh Ngọc hoàng Thượng đế. Indra truyền qua
các nước Đông Nam Á còn có các tên là Phạm Vương hay Đế Thích. Theo một vài tài
liệu, Phạm Vương chính là Brahma.


Nhân dân Đại Việt tiếp thu Phật giáo từ rất sớm, chắc chắn đã tiếp nhận thần thoại Ấn
Độ, cũng tôn sùng Indra như người Aryan. Nhà Lý thấy rõ điều đó, đồng hóa Indra với
Phật, năm 1057 đã xây hai Chùa Thiên Phúc và Thiên Thọ, đồng thời đúc lại hai tượng
Phạm Vương và Đế Thích để thờ ở đó, đầu năm các vua vẫn đến đấy làm lễ. Ngày nay
chúng ta không còn hai tượng Phạm Vương và Đế Thích, nhưng một số nhân vật của thế
giới của Indra vẫn còn. Chân cột Chùa Phật Tích cả bốn mặt đều chạm lặp lại dàn nhạc
thiên thần gồm mười nhạc công kiểu Gandharva biểu diễn. Thành bậc tháp Chương Sơn
mỗi mặt chạm bảy vũ nữ kiểu Apsara đang múa dâng hoa. Chùa Phật Tích và Chùa Đọi
còn có tượng những người chim kiểu Kinnara đang biểu diễn. Những nhạc công vũ nữ
(Gandharva và Apsara) ấy trong tư thế biểu diễn cùng theo công thức tạc tượng múa của
Ấn Độ uốn né người vặn thành ba khúc duyên dáng và sinh động. Cho đến cuối thời
Trần, khi Chùa trở thành của làng, Phật giáo dân gian hóa để càng gần quần chúng, ta lại
gặp ở Chùa Thái Lạc (vốn xưa thuộc Kinh Bắc, nay thuộc Hải Hưng), trên chạm gỗ
những hình tượng tương đồng với Kinnara và Gandharva, được diễn tả sôi nổi, hồ hởi
trong cả một loạt bức khác nhau.
Chúng ta còn gặp trong hình tượng rất độc đáo Việt nam, là con rồng thời Lý chắc chắn

là sáng tạo của cư dân làm nông nghiệp lúa nước, thuộc văn hoá phương Nam. Ở con
rồng Lý có sự thu nhận những yếu tố của con rắn vào thân mình, và của con Makara vào
đầu mào, phối hợp rất nhuần nhuyễn thành con rồng rắn sinh động, uyển chuyển nhịp
nhàng. Điều này nhất quán trong suốt thời Lý, đầu thời Trần vẫn được tôn trọng, nhưng
như thời Lê Sơ với xu hướng giai cấp thống trị muốn bá chiếm hình rồng thì cái nguồn
gốc và ý nghĩa xưa cũng bị lãng quên dần.
Chúng ta còn gặp ở mỹ thuật Đại Việt, nhất là trong thời Lý, cái tư tưởng lưỡng hợp của
cư dân Đông Nam Á trong kết cấu mô típ các cặp đôi đối lập nhưng lại thống nhất, hài
hoà trong thế cân bằng của trang trí gợi sự hòa hợp âm dương giữa hoa sen và hoa cúc,
đôi khi cả giữa rồng với phượng. Và nó toát ra cả từ bố cục của các đồ án trang trí Lý cái
uyển chuyển của động tác trồng cấy, cái nhịp điệu của thời vụ nông nghiệp mà rồi sang
trang trí Trần lại có thêm cái phóng khoáng của biển khơi... tất cả như gợi lại cái thẩm mỹ
của Đông Sơn gốc của thẩm mỹ cả khu vực Đông Nam Á.
Đặt mỹ thuật Việt Nam xưa trong tiến trình phát triển chung của Đông Nam Á, trong sự
giao lưu với văn hóa Ấn Độ và văn hóa Trung Hoa, từ giới hạn của bài này là thời Lý,
nhìn lại cả chiều sâu các giai đoạn trước và sau, thực tế lịch sử với những bằng cứ khoa
học, chúng ta trở về bản thể cội nguồn tổng hòa văn hóa với cả khu vực Đông Nam Á
(lục địa và hải đảo), tạo lập của một thế ứng xử thích đáng với bất cứ một sự giao lưu hoà
bình hay cưỡng chế, để vượt lên với thời gian bằng một nền văn hoá dân tộc hiện đại của
chính mình.
(Trích tập văn Phật đản, PL.2533 - 1989)

Văn học nghệ thuật
Văn học nghệ
thuật


Văn học thời Lý- Trần phản ánh những tư tưởng và tình cảm của con người thời
đại, nhìn chung mang nhiều yếu lố tích cực, lạc quan của những
vương triều đang ở thế đi lên. Cơ sở tư tưởng của nó là Phật giáo và Nho giáo.

Có 2 dòng văn học chính : văn học Phật giáo và văn học yêu nước dân tộc.
Tư tưởng Phật giáo trong thơ văn Lý - Trần chủ yếu là tư tưởng của phái Thiền
tông. Nó bao gồm các tác phẩm về triết học và những cảm hứng Phật giáo, cùng
là những tác phẩm về lịch sử Phật giáo thời Lý - Trần. Nhiều bài thơ phú, kệ,
minh do các sư tăng trí thức viết, bàn về các khái niệm sắc - không, tử - sinh,
hưng - vong, quan hệ giữa Phật và Tâm, đạo và đời, con người và thiên nhiên,
phản ánh sự minh triết và niềm lạc quan của cá nhân trong cuộc sống và thời đại.
Sư Mãn Giác để lại những câu thơ nổi tiếng về cảm hứng đó.
"Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai"
(nghĩa là : Chớ tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước nở cành mai)
Một số nhà vua và quý tộc sùng Phật đã biên soạn những tác phẩm về giáo lý
nhà Phật như các cuốn Khóa hư lục, bài Thiền tông chi nam của Trần Thái Tông,
Thiền lâm thiết chủy ngữ lục của Trần Nhân Tông, Tuệ trung thượng sĩ ngữ lục
của Trần Tung. Về lịch sử Phật giáo có các cuốn Thiền uyển tập anh ngữ lục,
Tam tổ thực lục nói về thiền phái Trúc tâm. Một số cuốn sách, cùng với những
bản kinh Phật giáo, đã được nhà nước cho đem khắc in và phổ biến.
Dòng thơ văn yêu nước, dân tộc cũng đã giữ một vị trí rất quan trọng trong thơ
văn Lý - Trần. Nó phản ánh tinh thần bất khuất, anh dũng chống giặc, lòng trung
quân ái quốc cũng như lòng tự hào dân tộc qua những cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm. Thuộc loại này có thể kể bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường
Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, bài Phú sông Bạnh Đằng của Trương
Hán Siêu, hoặc những bài thơ của vua tôi nhà Trần trong cuộc kháng Nguyên
như 2 câu thơ nổi tiếng của Trần Nhân Tông:
"Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu”
(Xã tắc hai phen chồn ngựa đá
Non sông ngàn thuở vững âu vàng)
Một số tác phẩm đã nói lên ý thức tìm về cội nguồn, sưu tập những truyền thuyết,



thần tích nói về lịch sử và nhân vật lịch sử thời quốc sơ Văn Lang - Âu Lạc cũng
như các thời kỳ sau. Hai tác phẩm tiêu biểu là Việt Điện u linh của Lý Tế Xuyên
và Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp.
Tinh thần dân tộc cũng đã được thể hiện trong các bộ quốc sử. Có thể kể đến
Việt sử cương mục và Việt Nam thế chí của Hồ Tông Thốc, Đại Việt sử lượt (hay
Việt sử lược) của một tác giả khuyết danh. Nổi tiếng là bộ Đại Việt sử ký của Lê
Văn Hưu, được coi là bộ chính sử đầu tiên của Việt Nam. Hai tác phẩm An Nam
chí lược của Lê Trắc và Nam Ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng được viết ở
Trung Quốc, cũng có nhiều đóng góp cho sự tìm hiểu lịch sử, nhân vật lịch sử
điển chương và địa chí của Đại Việt thời Lý - Trần.
Một thành tựu quan trọng của văn học Lý- Trần là việc phổ biến chữ Nôm, vừa
mang tính dân tộc (Nam Nôm), vừa mang tính dân gian (nôm na), cải biến và Việt
hóa chữ Hán. Chữ Nôm lúc bấy giờ được gọi là "Quốc ngữ", “ Quốc âm”.
Chữ Nôm có thể đã xuất hiện từ lâu (thời Bắc thuộc) nhưng chưa phổ biến. Thời
Lý, người ta có thể tìm thấy một số dấu vết chữ Nôm trên một số chuông đồng
(chùa Vân Bản, Đồ Sơn) và văn bia (bia chùa Báo Ân, Vĩnh Phúc). Đến thế kỷ
XIII, chữ Nôm được phổ biến với giai thoại về Nguyễn Thuyên (sau được đổi là
Hàn Thuyên) viết bài Văn tế cá sấu bằng văn Nôm. Một số tác giả khác được biết
cũng sáng tác thơ văn bằng chữ Nôm như Nguyễn Sĩ Cố, Trần Nhân Tông, Mạc
Đĩnh Chi, Chu Văn An (viết cuốn Quốc âm thi tập, nay không còn), Hồ Quý Ly.
Chữ Nôm cũng đã được phổ biến trong dân gian như một số câu vè châm biếm
cuộc hôn nhân giữa Huyền Trân công chúa và vua Champa Chế Mân, hoặc việc
Trần Nguyên Đán kết giao với Hồ Quý Ly. Một số câu thơ Nôm cũng thấy trong
các cuốn Lĩnh Nam chích quái (truyện Hà Ô Lôi) hoặc trong Tam tổ thực lục (giai
thoại về sư Huyền Quang và nàng Điểm Bích). Chữ Nôm còn được dùng để ghi
chép một số bản nhạc, ca khúc thời kỳ này.
Thời Lý - Trần - Hồ cũng để lại nhiều công trình về nghệ thuật kiến trúc- điêu
khắc. Nhìn chung, kiến trúc thời Lý mang tính hoành tráng, quy mô; kiến trúc thời

Trần mang tính thực dụng, khoẻ khoắn. Tinh thần Phật giáo đã thấm đượm trong
các công trình này.
Cung điện và thành quách là những công trình kiến trúc do nhà nước đứng ra chỉ
huy xây dựng, huy động sức lực của dân chúng theo chế độ lao dịch, trưng tập
và phần nào là lao động làm thuê.
Thành Thăng Long (với 3 vòng thành Đại La, Hoàng thành và Cấm thành) là
công trình kiến trúc lớn thời Lý - Trần. Hoàng thành mở ra 4 cửa: Tường Phù
(Đông), Quảng Phúc (Tây), Đại Hưng (Nam) và Diệu Đức (Bắc). Thời Lý có các
điện Càn Nguyên (sau đổi thành Thiên An), Tập Hiền, Giảng Võ, các cung Long
Thuỵ, Thuỷ Hoa, lầu Chính Dương coi giờ giấc, điện Long Trì đặt chuông thỉnh
nguyện ngoài thềm. Thời Trần có các cung điện Quan Triều (vua ở), Thánh Từ


(Thượng hoàng ở), Thiên An (vua làm việc), Tập Hiền (tiếp sứ), Diên Hồng (mở
hội nghị....). Hòa vào các cung điện là một cảnh quan thiên nhiên được bố trí lộng
lẫy và xứng hợp như các hồ, ngòi, vườn tược, cầu cống, vườn bách thảo bách
thú v.v... Một số lớn các cung điện được xây dựng bằng gỗ, sơn son thếp vàng,
đã bị hủy hoại qua chiến tranh.
Các cung điện ở khu Tức Mặc - Thiên Trường (Nam Định) là nơi các Thượng
hoàng đời Trần lui về ở và làm việc. Thời đầu Trần, Phùng Tá Chu là người được
giao trọng trách xây dựng khu cung điện này, được coi như một kinh đô thứ hai.
Nổi tiếng nhất là hai cung Trùng Quang và Trùng Hoa. Chung quanh còn có các
khu biểu diễn nghệ thuật (múa hát, bơi thuyền, đánh cờ, múa bông) và khu kinh
tế (chăn nuôi, chế biến, làm đồ gốm). Gạch ngói ở đây được in dòng chữ "Thiên
Trường phủ chê”.
Thành nhà Hồ (An Tôn, Vinh Lộc, Thanh Hóa), còn gọi là Tây Đô, là công trình
kiến trúc đồ sộ và độc đáo bằng đá, xây dựng thời cuối Trần tồn tại qua 6 thế kỷ.
Diện tích thành khá rộng (khoảng 630.000 m 2), ngoài thành có lũy đất trồng tre
gai, sát thành có hào nước sâu bảo vệ. Riêng tòa thành hiện còn cao gần 6m,
xây ghép bằng những phiến đá tảng nguyên khối, có phiến dài 7m, nặng 17 tấn,

với nhiều cửa vòm kiên cố, trên có vọng lâu. Trong thành còn có một số di vật
như các viên gạch đắp hoa, rồng đá, sấu đá.
Cùng với thành quách, thời Lý- Trần còn có các khu lăng mộ và phủ đệ. Nhà Lý
có khu sơn lăng ở Đình Bảng (Bắc Ninh), nhà Trần có khu lăng mộ ở Long Hưng
(Thái Bình) và An Sinh (Đông Triều), với nhiều tượng đá khắc họa hình người và
muông thú. Các dinh thự của quý tộc đời Trần xây dựng ở các địa phương trấn
trị, một số có quy mô đồ sộ, như phủ đệ của Trần Quốc Khang Ở Diễn Châu
(Nghệ An).
Chùa tháp là kiến trúc Phật giáo đặc biệt thời Lý- Trần. Chùa làng có số lượng rất
nhiều, nhưng quy mô thường nhỏ, kiến trúc đơn giản. Một số ngôi chùa có kiến
trúc độc đáo hoặc quy mô bề thế. Chùa Diên Hựu (Một Cột) ở Thăng Long mô
phỏng hình ảnh một đóa hoa sen mọc trên hồ nước, hài hòa với cảnh quan thiên
nhiên. Chùa Phật Tích, Long Đội và quần thể chùa ở Yên Tử đều được xây dựng
trên núi cao, cảnh trí kỳ vĩ. Chùa Thái Lạc và 'Phổ Minh có những bức phù điêu
chạm trổ độc đáo.
Tháp Phật có nguồn gốc từ các stupa ở Ấn Độ được biến cách, là những kiến
trúc tưởng niệm, khá phổ biến ở thời Lý- Trần. Tháp Báo Thiên (nay không còn)
xây dựng đời Lý, ở giữa kinh thành Thăng Long có 12 tầng. Những tháp đời Trần
còn lại là tháp Phổ Minh (Nam Định) 14 tầng, tháp Bình Sơn (Vĩnh Phúc) 11 tầng.
Tương truyền trong bảo tháp có chứa đựng tro xương của các vị sư tổ kết tinh
lại, gọi là xá lị, như xá lị của Trần Nhân Tông trong lòng tháp Phổ Minh.
Điêu khắc và đúc tạo hình thời Lý-Trần có các loại tượng. chuông, vạc, các bức


phù điêu. Ngoài các tượng Chu Công, Không Tử, Tứ Phối được bày trong Văn
Miếu, phổ biến là các tượng Phật, nổi tiếng nhất là pho tượng đá Adiđà ở chùa
Phật Tích và pho Di Lặc bằng đồng ở chùa Quỳnh Lâm. Năm 1231, triều đình đã
xuống chiếu sai tô tượng Phật để thờ ở tất cả những nơi có đình trạm (trạm nghỉ
dọc đường). Năm l256, sai đúc 330 quả chuông. Những chuông đồng nổi tiếng là
chuông chùa Sùng Khánh Báo Thiên (nặng 12000 cân) và chuông Quy Điền

khổng lồ ở chùa Diên Hựu. Vạc đồng lớn ở chùa Phổ Minh cũng là một sản phẩm
đúc nổi tiếng, được người Trung Quốc xếp vào danh mục "An Nam tứ đại khí”
(chỏm tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, vạc Phổ Minh, tượng Quỳnh Lâm).
Các bức phù điêu đời Lý- Trần phần lớn đều chạm khắc các hình tượng Phật
giáo (toà sen, lá đề, sóng nước), hình tượng các tiên nữ múa hát, các hình tượng
rồng uốn khúc (loại rồng giun đơn giản và khoẻ khoắn). Các bức phù điêu chạm
khắc gỗ nổi tiếng ở chùa Thái Lạc và chùa Phổ Minh. Tại khu lăng vua Trần, có
nhiều tượng người và thú vật bằng đá. Trong điêu khắc Lý- Trần, có ảnh hưởng
của nhiều yếu tố mỹ thuật Champa.
Thuộc mỹ thuật thời Lý- Trần, còn có các đồ gốm, dáng hình đơn giản, thanh
thoát. Có các loại men đàn hoa nâu, men hoa lam và loại men ngọc trắng xanh
nổi tiếng. Nghệ thuật biểu diễn ca múa nhạc thời Lý- Trần phát triển phong phú,
chịu ảnh hưởng của cả nghệ thuật Nam Á và Đông Á, được biểu diễn rộng rãi
trong dân gian cũng như được ưa chuộng trong sinh hoạt cung đình.
Nghệ nhân sử dụng các nhạc cụ như sáo, tiêu, chũm choẹ, trống cơm (phạn cổ
ba, gốc Chăm), các loại đàn cầm, đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn thất huyền, đàn Ba lỗ
(gốc Chăm), các khúc ca “Trang Chu mộng điệp”, “Bạch lạc Thiên mẫu biệt tử”,
“Đạp ca”, "Thanh ca”, “Ngọc lân xuân”, “Nam thiên”, “Tây thiên”, “Lý liên”, “Mộng
tiên du”, “Canh lậu trường”... Trong các buổi tiệc yến ở điện Tập hiền, có biểu
diễn ca vũ của các đào, kép. Sứ giả Trung Quốc tả : “Con gái đi chân không,
mười ngón tay dịu dàng đứng múa, hơn 10 người con trai mình đều cởi trần, kề
vai giậm chân, quây quần chung quanh mà hát theo…”. Chèo, tuồng được nhiều
người ưa chuộng, tích diễn phổ biến là vở “ Tây vương mẫu hiến bàn đào”.
Múa rối nước là môn nghệ thuật đặc sắc, phát triển từ đời Lý, có liên quan đến
nhà sư Từ Đạo Hạnh, đã được trình diễn trong các hội đèn Quảng Chiếu, với
nhiều trò rất sinh động. Trong các lễ hội, có nhiều trò vui tạp kỹ mang tính dân
gian như đấu vật, chọi gà, cờ người, bơi chải, đánh đu, leo dây, đá cầu, trò nhại,
hất phết, cưỡi ngựa đánh cầu... Đinh Bàng Đức, nối tiếng về trò leo dây, múa rối,
Trần Cụ là người giỏi xuất sắc trong môn bắn nỏ, đá cầu. Một số vua Trần
thường tổ chức các cuộc thi ca múa trong giới quý tộc. Trần Nhật Duật được coi

là người sành điệu nổi tiếng. Các chùa chiền cũng tổ chức nhiều lễ hội đông vui
như hội Thiên Phật ở chùa Quỳnh Lâm và hội Vô Lượng ở chùa Phổ Minh.
Những thành tựu khoa học kỹ thuật thời Lý- Trần- Hồ chủ yếu được biết ở một
số ngành như y học cổ truyền, thiên văn lịch pháp, đóng thuyền chiến, cũng như


những kỹ thuật truyền thống trong các nghề luyện đúc đồng, dệt, gốm, xây
dựng...
Danh y Phạm Bân nổi tiếng về y đức, trách nhiệm đối với người bệnh. Tuệ Tĩnh
(Nguyễn Bá Tĩnh) đề cao tác đụng của thuốc nam (với nhiều vị quy như sâm,
trầm, củ mài...) là tác giả bộ Nam dược thần hiệu (có 580 vị thuốc nam, 3873
phương thuốc trị 184 loại bệnh). Các thày thuốc Trâu Tôn, Trâu Canh (người gốc
Hoa) hay Nguyễn Đại Năng đã có nhiều kết quả về khoa châm cứu.
Kỹ thuật xây dựng và tính toán đã đạt đến trình độ cao trong các công trình
thành quách (như thành Tây Đô), cung điện, chùa tháp. Phùng Tá Chu là người
nổi tiếng trong việc xây dựng cung Thiên Trường.
Về thiên văn lịch pháp, Đặng Lộ đã sáng chế ra “Linh lung nghi" là một dụng cụ
chiêm nghiệm chính xác thiên văn khí tượng, còn là người đã đổi lịch Thụ thời ra
lịch Hiệp kỷ. Trần Nguyên Đán thông thạo lịch pháp, là tác giả cuốn Bách thế
thông kỷ thư chép về các hiện tượng nhật nguyệt thực trong nhiều thế kỷ, cũng là
người đổi lịch Hiệp kỷ thành lịch Thuận thiên.
Hồ Nguyên Trừng đã sáng chế ra loại súng lớn thần cơ sang pháo đúc bằng
đồng, chuyên chở trên xe, có bầu nhồi thuốc và lỗ đặt ngòi. Cổ lâu thuyền tải
lương là loại thuyền chiến lớn hai tầng, bên trên có đường sàn, bên dưới cứ hai
người chèo một mái chèo, tốc độ nhanh.
Nguồn: Tiến trình Lịch Sử Việt Nam – Nhà Xuất Bản Giáo Dục – PGS.TS Nguyễn
Quang Ngọc. Tr 100 đến105

Hình tượng rồng trong các triều đại
Lý,Trần, Lê, Nguyễn

Là biểu tượng của sự cao quý, của sức sống vĩnh hằng và sức mạnh vũ trụ
nên hình tượng rồng được sử dụng nhiều trong kiến trúc cung đình, đình
chùa, trang phục vua chúa. Hình tượng con rồng cũng thay đổi theo dòng
lịch sử qua các triều đại. Việc xác định phong cách thể hiện con rồng qua
các thời kỳ sẽ là một căn cứ để xác định niên đại công trình kiến trúc nào
đó.

Hình tượng rồng thời Lý


Trên các hiện vật điêu khắc đá và gốm còn truyền cho đến nay, các nhà
khoa họcchỉ thấy rồng tạc dưới dạng phù điêu, không thấy chạm chìm và
chạm tròn. Đó là nhưng con rồng thân tròn lẳng, khá dài và không có vẩy,
uốn khúc mềm mại và thon dài từ đầu đến chân, rất nhẹ nhàng và thanh
thoát. Các nhà nghiên cứu gọi đây là rồng hình giun hay hình dây và điều
đập vào mắt mọi người là nó mang hình dạng của một con rắn.
Rồng thời Lý thường ngẩng đầu lên, miệng thì há to, mép trên của miệng
không có mũi, kéo dài ra thành một cái vòi uốn mềm mại, vươn lên cao,
vuốt nhỏ dần về cuối. Một chiếc răng nanh mọc từ cuối hàm trên, uốn
cong và vắt qua vòi mép ở trên, có trường hợp răng nanh rất dài, uốn lượn
mềm mại để vươn lên, hoặc với vòi lên bao lấy viên ngọc.
Thân rồng dài, dọc sống lưng có một hàng vảy thấp tỉa riêng ra từng cái,
đầu vây trước tua vào hàng vây sau. Bụng là đốt ngắn như bụng rắn, có
bốn chân, mỗi chân có ba ngón phiá trước, không có ngón chân sau. Vị trí
của chân bao giờ cũng đặt ở một chỗ nhất định. Chân trước mọc gần giữa
khúc uốn thứ nhất, chân đối xứng phía bên kia nằm gần cuối khúc uốn
này. Hai chân sau bao giờ cũng ở gần khoảng giữa khúc uốn thứ ba. Cả
bốn chân đều có khủy phía sau và có móng giống chân loài chim.

Hình tượng rồng thời Trần



Từ nửa cuối thế kỷ XIV, con rồng đã rời khỏi kiến trúc cung đình để có
mặt trong các kiến trúc dân dã, không những chỉ có trên điêu khắc đá và
gốm, mà còn xuất hiện trên điêu khắc gỗ ở chùa. Rồng cũng không chỉ có
ở các vị trí trang nghiêm mà rồng còn có mặt ở các bậc thềm (như ở chùa
Phổ Minh).
Thân rồng thời Trần vẫn giữ dáng dấp như thời Lý, với các đường cong
tròn nối nhau, các khúc trước lớn, các khúc sau nhỏ dần và kết thúc như
đuôi rắn. Vẩy lưng vẫn thể hiện từng chiếc, nhưng không tựa đầu vào nhau
như rồng thời Lý. Có khi vảy lưng có dạng hình răng cưa lớn, nhọn, đôi
khi từng chiếc vẩy được chia thành hai tầng. Chân rồng thường ngắn hơn,
những túm lông ở khủy chân không bay ra theo một chiều nhất định như
rồng thời Lý mà lại bay lên phía trước hay phía sau tùy thuộc vào khoảng
trống trên bức phù điêu. Và có sự xuất hiện chi tiết cặp sừng và đôi tay
Đầu rồng không có nhiều phức tạp như rồng thời Lý. Rồng vẫn có vòi
hình lá, vươn lên trên nhưng không uốn nhiều khúc. Chiếc răng nanh phía
trước khá lớn, vắt qua sóng vòi. Miệng rồng há to nhưng nhiều khi không
đớp quả cầu.
Rồng thời Trần lượn khá thoải mái với động tác dứt khoát, mạnh mẽ. Thân
rồng thường mập chắc, tư thế vươn về phía trước. Cách thể hiện rồng
không chịu những quy định khắc khe như thời Lý.
Hình ảnh rồng chầu mặt trời sớm nhất là trong lòng tháp Phổ Minh ( Nam
Định) có niên đại khoảng 1305 -1310. Đôi rồng ở đây được bố trí trong
một ô tròn, chạy ngược chiều kim đồng hồ, đầu ngoái lại chầu một vòng
tròn nhỏ ở giữa. Thể hiện mặt trời dưới dạng một vòng tròn đơn giản.

Hình tượng rồng thời Lê



Đến thời Lê, rồng có sự thay đổi hẳn, rồng không nhất thiết là một con vật
mình dài uốn lượn đều đặn nữa mà ở trong nhiều tư thế khác nhau. Đầu
rồng to, bờm lớn ngược ra sau, mào lửa mất hẳn, thay vào đó là một chiếc
mũi to. Mép trên của miệng rồng vẫn kéo dài nhưng được vuốt gần như
thẳng ra, bao quanh có một hàng vải răng cưa kết lại như hình chiếc lá.
Răng nanh cũng được kéo dài lên phía trên và uốn xoăn thừng ở gốc. Lông
mày vẫn giữ hình dáng biểu tượng ômêga, nhưng được kéo dài ra và đuôi
vuốt chếch lên phía sau. Trên lông mày và chiếc sừng hai chạc, đầu sừng
cuộn tròn lại. Rồng có râu ngắn và một chân trước thường đưa lên đỡ râu,
tư thế thướng thấy ở các con rồng đời sau. Cổ rồng thường nhỏ hơn thân,
một hiện tượng ít thấy ở những con rồng trước đó. Như vậy rồng mang
dạng thú xuất hiện cuối đời Trần đã thấy phổ biến ở đời Lê Sơ nhưng vẫn
còn mang dáng dấp truyền thống của loài rắn.

Hình tượng rồng thời Nguyễn

Rồng thời Trịnh Nguyễn vẫn còn đứng đầu trong bộ tứ linh nhưng đã
được nhân cách hóa, được đưa vào đời thường như hình rồng mẹ có bầy
rồng con quây quần, rồng đuổi bắt mồi, rồng trong cảnh lứa đôi.
Con rồng thời Nguyễn trở lại vẻ uy nghi tượng trưng cho sức mạnh thiêng
liêng. Rồng được thể hiện ở nhiều tư thế, ẩn mình trong đám mây, hoặc
ngậm chữ thọ, hai rồng chầu mặt trời, chầu hoa cúc, chầu chữ thọ… Phần


lớn mình rồng không dài ngoằn mà uốn lượn vài lần với độ cong lớn. Đầu
rồng to, sừng giống sừng hươu chĩa ngược ra sau. Mắt rồng lộ to, mũi sư
tử, miệng há lộ răng nanh. Vậy trên lưng rồng có tia, phân bố dài ngắn đều
đặn. Râu rồng uốn sóng từ dưới mắt chìa ra cân xứng hai bên. Hình tượng
rồng dùng cho vua có năm móng, còn lại là bốn móng.
Ngày nay, hình tượng rồng tuy không còn mang tính chất thiêng liêng, tối

thượng nhưng vẫn được đưa vào trang trí cho các công trình kiến trúc, hội
họa, chạm, khắc nghệ thuật… Dù ở bất cứ thời điểm nào, rồng vẫn là một
phần trong cuộc sống văn hóa của người Việt.

Tóm lược ý nghĩa hình tượng các con vật trên một số
kiến trúc xưa ở Việt Nam
Hình tượng Rồng:
Đối với các nước phương Đông, con rồng là kiệt tác sáng tạo nghệ thuật có lịch sử
lâu đời. Trên thực tế, rồng chỉ là sản phẩm của nghệ thuật, vì nó không tồn tại trong
thế giới tự nhiên mà là sự sáng tạo nghệ thuật siêu tự nhiên. Cùng với sự phát triển
của lịch sử, từ lâu các nước phương Đông hình thành nên quan niệm phổ biến về
con rồng, tổng hợp trong con vật linh thiêng này là trí tuệ, tín ngưỡng, niềm tin, lý
tưởng, nguyện vọng, sức mạnh… Trải qua bao đời, các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ ở
mỗi nước phương Đông đã dần tạo cho con rồng trở thành biểu tượng cao quý và
sức sống vĩnh hằng, có ảnh hưởng to lớn, ý nghĩa sâu sắc đối với đời sống xã hội ở
mỗi nước.
Đối với dân tộc Việt Nam, ngoài nét chung nói trên, rồng còn có ý nghĩa riêng, đó là
nó chỉ dân tộc Việt Nam có xuất xứ từ con rồng cháu tiên. Từ câu chuyện huyền
thoại chàng Lạc Long Quân lấy nàng Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng, sau nở thành
một trăm người con, hình ảnh con rồng đã dần dần ăn sâu vào tâm thức của người
Việt. Hà Nội là thủ đô cả nước, với tên gọi đầu tiên: Thăng Long (rồng bay). Vùng
Đông Bắc nước ta có Hạ Long (rồng hạ), một trong những thắng cảnh đẹp nhất
nước. Đồng bằng Nam Bộ phì nhiêu được làm nên bởi dòng sông mang tên Cửu
Long (chín rồng). Không những là biểu tượng cho xuất xứ nòi giống dân tộc Việt
Nam, rồng còn là thần linh, chủ của nguồn nước, mang lại sức sống mãnh liệt, làm
cho mùa màng tốt tươi. Rồng là biểu tượng của sức mạnh, chính vì vậy mà các vua
chúa đã lấy hình tượng rồng đại diện cho uy lực triều đình. Thời Lê, rồng trở thành
bản mệnh của nhà vua. Hình tượng rồng được thêu lên tấm áo vua mặc.
Trong thời kỳ đất nước ta bị lệ thuộc vào phong kiến phương Bắc, rồng Việt Nam
chịu ảnh hưởng của những con rồng các thời Tần, Hán, Đường, Tống… và được

cách điệu hóa dần dần để biến thành rồng hoàn chỉnh, tượng trưng cho uy quyền
độc tôn của vua chúa phong kiến và thường được trang trí ở những nơi linh thiêng.
Vào thế kỷ XI, dưới triều Lý, chế độ phong kiến Việt Nam bắt đầu được xác lập.
Con rồng thật sự của Việt Nam đã được ra đời. Cho đến nay, rồng vẫn được sử
dụng trong kiến trúc tôn giáo theo một số nét: mắt quỷ, sừng nai, tai thú, trán lạc


đà, miệng lang, cổ rắn, vảy cá chép, chân cá sấu, móng chim ưng. Và con rồng luôn
là hình ảnh sâu đậm trong tâm hồn mỗi người Việt Nam.
- Hình tượng con Rùa: Về mặt sinh học, rùa là loài bò sát lưỡng cư có tuổi thọ cao
và thân hình vững chắc. Nó có thể nhịn ăn uống mà vẫn sống trong một thời gian
dài. Rùa không ăn nhiều, nhịn đói tốt nên được coi là một con vật thanh cao, thoát
tục. Trên bàn thờ ở các đền chùa, miếu mạo, chúng ta thường thấy rùa đội hạc, rùa
đi với hạc trong bộ đỉnh thơm ngát và thanh tịnh.
Rùa tượng trưng cho sự trường tồn và bất diệt. Hình ảnh rùa đội bia đá, trên bia đá
ghi lại sử sách của dân tộc Việt Nam chứng tỏ rùa là loài vật chuyển tải thông tin và
văn hóa. Tuy không phải là con vật của Phật giáo, nhưng rùa cũng là biểu trưng cho
sự trường tồn của Phật giáo. Trong một số ngôi chùa thời Lý – Trần, rùa được
chạm thành tường bằng đá làm bệ đội bia. Dáng rùa đầu to, mập, vươn ra khỏi mai,
mõm thuôn nhọn, mắt nhỏ, bốn chân khép sát vào thân mai. 82 tấm bia đã ghi tên
tiến sĩ đỗ đạt được đặt trên lưng rùa, một con vật biểu hiện sự trường tồn, hiện còn
lưu giữ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hà Nội là bằng chứng hùng hồn biểu hiện
nền văn hiến bất diệt của dân tộc Việt Nam.
- Hình tượng chim Phượng: Phượng là linh vật được biểu hiện cho tầng trên.
Phượng thường có mỏ vẹt, thân chim, cổ rắn, đuôi công, móng chim cứng đứng trên
hồ sen. Với ý nghĩa đầu đội công lý, mắt là mặt trời, mặt trăng, lưng cõng bầu trời,
lông là cây cỏ, cánh là gió, đuôi là tinh tú, chân là đất, vì thế phượng tượng trưng
cho cả vũ trụ. Khi phượng ngậm lá đề hoặc ngậm cành hoa đứng trên đài sen, nó
biểu hiện là con chim của đất Phật. Tức là có khả năng giảng về đạo pháp, làm
nhiệm vụ giống như các nữ thần chim: nhảy múa, hát ca chào mừng Phật pháp.

Quan niệm của người Việt Nam cho rằng phượng xuất hiện báo hiệu đất nước được
thái bình. Chim phượng là loài chim đẹp nhất trong 360 loài chim. Nó có thân hình
quyến rũ, kết tinh được vẻ đẹp, sự mềm mại, thanh lịch, vẻ duyên dáng của tất cả
các loài chim. Chim phượng còn tượng trưng cho nữ tính, cho phái đẹp của tầng lớp
quý phái.
- Hình tượng con Hạc: ở Việt Nam hạc là con vật của đạo giáo. Hình ảnh hạc chầu
trên lưng rùa trong nhiều ngôi chùa, miếu…, hạc đứng trên lưng rùa biểu hiện của
sự hài hòa giữa trời và đất, giữa hai thái cực âm – dương. Hạc là con vật tượng
trưng cho sự tinh tuý và thanh cao. Theo truyền thuyết rùa và hạc là đôi bạn rất
thân nhau. Rùa tượng trưng cho con vật sống dưới nước, biết bò, hạc tượng trưng
cho con vật sống trên cạn, biết bay. Khi trời làm mưa lũ, ngập úng cả một vùng
rộng lớn, hạc không thể sống dưới nước nên rùa đã giúp hạc vượt vùng nước ngập
úng đến nơi khô ráo. Ngược lại, khi trời hạn hán, rùa đã được hạc giúp đưa đến
vùng có nước. Điều này nói lên lòng chung thuỷ và sự tương trợ giúp đỡ nhau trong
lúc khó khăn, hoạn nạn giữa những người bạn tốt.


Trong tứ linh ” Long, Lân, Qui, Phụng” , con nghê biểu tượng thuần Việt đã thay
thế con Lân do vậy tứ linh thú của người Việt là ” Long, Nghê, Qui, Phụng”. Xem
thêm bài về hình tượng con nghê.
MỘT SỐ HỌA TIẾT HOA SEN TIÊU BIỂU TRONG NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH
TRUYỀN THỐNG THỜI LÝ- TRẦN
Ở Việt Nam, đề tài hoa sen xuất hiện khá sớm trong nghệ thuật tạo hình. Hầu như ở
thời nào đề tài này cũng có trong các đồ án trang trí nơi thờ tự hoặc ở các công
trình văn hoá cộng đồng. Họa tiết hoa sen được khai thác, thể hiện dưới nhiều bố
cục khác nhau góp phần tạo nên sự đa dạng, đẹp đẽ và cao quý cho các đồ án trang
trí. Nó xuất hiện hằng xuyên theo chiều dài của lịch sử mỹ thuật ở những công trình
kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ. Trong khuôn khổ bài viết này, người viết chỉ xin đưa
ra một vài nhận xét mang tính nghiên cứu của mình về hoạ tiết hoa sen trong Mỹ
thuật Việt thuộc giai đoạn đầu của thời độc lập quân chủ Lý – Trần.

1. Họa tiết hoa sen ở bệ đỡ chân cột để bảo vệ chân cột gỗ khỏi bị ẩm thấp và chống
mối mọt ở các chùa cổ Việt Nam.
Thời Lý hoa sen được bố cục các cánh thành một vòng tròn theo kiểu nhìn chính
diện từ trên xuống. Hoa bao gồm 16 cánh chính và 16 cánh phụ ở dưới. Đáng chú ý
nữa là lòng của các cánh sen thời Lý được chạm thêm đôi rồng dâng chầu ngọc quý.
Nét chạm tỉ mỉ tinh tế, tôn vẻ cao quý của cánh sen. Các nghệ nhân đã trang trí các
cánh sen viền quanh, tạo cảm giác như toàn bộ ngôi chùa được dựng trên các đoá
hoa sen.


Tác giả bên bệ đỡ chân cột thời Lý ở chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh, Hậu
Lộc – Thanh Hoá

Họa tiết hoa sen đỡ chân cột thời Trần có nhiều trên các tảng đá kê chân cột như ở
thời Lý. Số lượng cánh và bố cục giống thời Lý. Nhưng các họa tiết trong lòng các
cánh sen thời Lý thường có các hình rồng, còn thời Trần thì hoàn toàn không có.
Người thợ chạm bệ đá thời Trần thường chỉ đục thêm một đường gờ chìm viền theo
các cánh sen
2. Họa tiết hoa sen đỡ các vật thiêng
Thời Lý họa tiết này thường đỡ chân chim phượng, trong các đồ án phượng múa ở
các thành bậc chùa Bà Tấm, chùa Lạng hoặc phượng chầu ở trán bia chùa Diên
Phúc (Hưng Yên). Các vật thiêng có hình lá đề trong các đồ án về dàn nhạc các tiên
nữ, và rồng chầu ở chùa Phật Tích và chùa Chương Sơn v.v…Họa tiết này được thể
hiện theo lối nhìn nghiêng, tức là hoa sen được bổ dọc nên tạo thành một đài sen dẹt,
gồm hai lớp với nhiều cánh, xuất phát từ giữa và choãi đần dần ra hai bên. Lớp trên
thể hiện các cánh mới nở ôm lấy đài gương khuất ở trong. Lớp dưới là các cánh sen
đã tàn, đổ dài ra hai bên.

Hoa sen đỡ chân Phượng, Chùa Bà Tấm, Gia lâm – Hà Nội



Sang thời Trần họa tiết này vẫn được các nghệ nhân vận dụng để trang trí làm bệ
đỡ cho các vật thiêng như thời Lý như đồ án trán bia chùa Tổng, hoặc đỡ ngọc báu
đang toả sáng hình lá đề trong đồ án ở chùa Thái Lạc, chùa Dâu ( phỏng theo Lục
tự chú Phật giáo: Úm Ma Ni Bát Mê Hum). Trên các chân cột trốn của vì nóc, vì kèo
chùa Thái Lạc cũng thấy có chạm đài sen đỡ phía dưới. Nói chung nó vẫn giữ bố cục
kiểu có từ thời Lý. Nghĩa là vẫn hai lớp cánh sen được dàn mỏng theo hai hướng
trên dưới chạy dài từ giữa ra hai phía. Bởi vậy các nhà nghiên cứu quen gọi loai này
là “cánh sen dẹo”.

Sen cánh “dẹo”, Bệ tháp Phổ Minh – Nam Định

3. Họa tiết hoa sen kết hợp hoa cúc của thời Lý mà nay còn thấy ở hai di tích chùa
Long Đọi và tháp Chương Sơn .. Sắp xếp thay đổi cứ một hoa sen lại đến một hoa
cúc trong những vòng tròn của hoa dây. Những vòng tròn này gần như tiếp tuyến
nhau và chỗ gặp nhau là hình các thiên thần nhỏ bé đang trong động tác múa hoặc
nhào lộn. Đồ án này cách điệu khá cao và có bố cục rất đẹp.
Đến thời Trần, họa tiết hoa sen được cách điệu thành hoa dây lúc thì thành băng dài
chạy phía dưới đôi rồng đang trịnh trọng dâng chầu ngọc báu lúc lại uốn lượn phía
trên các tầng mây, nơi có hình các tiên nữ đầu người mình chim đang vừa múa vừa
dâng hoa cho Phật. Họa tiết này được bố cục từ một sợi dây được uốn lượn thành
sóng hình sin và giữa các quãng trống người ta lại thể hiện một bông hoa sen cách
điệu cao. Các cánh sen thể hiện như những dấu ngoắc, từng đôi đăng đối nhau, theo
lối nhìn nghiêng, đơn giản và rành mạch. Mỗi bông hoa chỉ có 6 cánh sen và một
chút nhuỵ hương.


×