Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Luận văn thạc sĩ - vận DỤNG QUAN điểm TRIẾT học mác lê NIN về mối QUAN hệ GIỮA KINH tế và CHÍNH TRỊ TRONG PHÁT HUY VAI TRÒ của hệ THỐNG CHÍNH TRỊ ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.63 KB, 66 trang )

3

Quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối quan hệ cơ bản của đời sống xã hội.
Việc nhận thức và xử lý mối quan hệ này trong thực tiễn có ý nghĩa quyết định đối
với sự hưng vong của nền kinh tế và chế độ chính trị - xã hội của đất nước. Do
hạn chế về nhận thức, vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị cho nên
nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã mắc phải những sai lầm trong quá trình cải tổ, đổi
mới. Nước ta, trong thời kỳ đầu việc nhận thức và vận dụng mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị theo quan điểm triết học Mác - Lênin còn ở những mức độ
nhất định. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho nền kinh tế - xã hội của
đất nước rơi vào tình trạng trì trệ và khủng hoảng trước thời kỳ đổi mới.
Nhận thức được những hạn chế đó, trên cơ sở tổng kết thực tiễn đất nước
và nghiên cứu, nắm vững thực chất khoa học quan điểm của các nhà kinh điển chủ
nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, Đảng ta đã đề ra đường
lối đổi mới đúng đắn. Đường lối chiến lược phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa là sự vận dụng sáng tạo quan điểm mácxít về mối quan hệ giữa kinh
tế và chính trị trong điều kiện nước ta hiện nay. Đường lối đó đã giải phóng được
mọi năng lực sản xuất, kích thích kinh tế phát triển, đảm bảo sự định hướng phát
triển kinh tế theo mục tiêu chính trị mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Qua hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã đạt được những
thành tựu đáng kể. Kinh tế phát triển, chế độ chủ nghĩa xã hội được giữ vững. Tuy
nhiên, công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu thì càng nảy sinh nhiều vấn đề phức
tạp cần phải nhận thức và giải quyết. Thực tiễn cho thấy, quá trình phát triển nền kinh
tế ở nước ta bên cạnh những mặt tích cực còn bộc lộ những hạn chế nhất định.
Hơn nữa, việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là chưa có
tiền lệ trong lịch sử. Quá trình này đòi hỏi chúng ta vừa làm, vừa phải tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn, nhằm tìm ra hình thức và bước đi thích hợp. Quá trình đó tất yếu



4

đòi hỏi cần phải có vai trò to lớn của hệ thống chính trị trong định hướng mục tiêu
chủ nghĩa xã hội.
Chương 1
QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VÀ NHỮNG YÊU CẦU
PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRONG PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. Quan điểm triết học Mác-Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị
1.1.1. Quan điểm của Mác-Ănghen về mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị
Kinh tế là một khái niệm được hiểu theo nhiều góc độ. Ngày nay, khái
niệm kinh tế được hiểu theo hai nghĩa cơ bản.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử tiếp cận khái niệm kinh tế theo nghĩa rộng
của nó, đây là các phương diện cơ bản của đời sống kinh tế xã hội, là cơ sở
kinh tế; qui luật kinh tế; lợi ích kinh tế .v.v…Trong đó lợi ích kinh tế được
xem là yếu tố quan trọng hàng đầu của mọi hoạt động cải biến xã hội.
Kinh tế hiểu theo nghĩa hẹp là tổng thể các quan hệ sản xuất nhất định
trong lịch sử phù hợp với mỗi trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất,
là hoạt động tạo ra của cải vật chất, là lĩnh vực liên quan tới lợi ích vật chất.
Như vậy nói đến kinh tế là nói đến điều kiện vật chất của đời sống xã
hội, hay nói cách khác, đó là phương tiện để con người tồn tại. Chẳng hạn,
muốn tồn tại, con người cần phải có cái ăn, cái mặc, thuốc men để chữa
bệnh... Tất cả những gì thuộc kinh tế theo nghĩa đó - còn gọi là tư liệu sinh
hoạt - không phải do thần thánh sinh ra, mà do con người dùng công cụ lao
động của mình tác động vào tự nhiên tạo ra. Ngay cả công cụ lao động mà
con người dùng để làm ra của cải vật chất đó cũng do chính con người tạo ra.



5

Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, con người không thể tiến
hành sản xuất một cách biệt lập, riêng lẻ được. Trái lại, muốn tiến hành sản
xuất, con người chẳng những phải có quan hệ với tự nhiên mà còn phải quan
hệ với nhau để cùng hoạt động, trao đổi kinh nghiệm và kết quả lao động.
Khẳng định tính tất yếu của mối quan hệ này C.Mác nói: "Người ta không thể
sản xuất được, nếu không biết hợp tác với nhau theo một cách nào đó để hoạt
động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta
phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau và quan hệ của họ
với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất, chỉ diễn ra trong khuôn khổ những mối
liên hệ và quan hệ xã hội đó [24, tr. 552]. Vì lẽ đó, khái niệm "kinh tế" đã
chứa đựng trong nó cả những quan hệ giữa người với tự nhiên, lẫn những
quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, tức là quan hệ sản
xuất. Khái niệm "kinh tế" cũng có thể dùng để chỉ tổng thể các quan hệ sản xuất
của một xã hội nhất định, tạo nên cơ sở kinh tế của xã hội đó. C.Mác viết: "Toàn
bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ
sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và
những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó" [25,
tr. 15].
Nói đến nền tảng kinh tế của xã hội cụ thể là nói đến toàn bộ những
quan hệ sản xuất cũng như sự tác động lẫn nhau giữa các quan hệ ấy trong
một xã hội cụ thể. Trong các chế độ xã hội tồn tại cho đến nay, bên cạnh quan
hệ sản xuất thống trị vẫn còn quan hệ sản xuất tàn dư của chế độ xã hội cũ và
quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Cho nên kinh tế của một xã
hội cụ thể được đặc trưng, trước hết, bởi kiểu quan hệ sản xuất thống trị tiêu
biểu cho xã hội ấy đồng thời bao gồm cả những quan hệ sản xuất tàn dư và
quan hệ sản xuất mầm mống. Trong cơ sở kinh tế đó, cái giữ địa vị chi phối,

có vai trò chủ đạo và có tác dụng quyết định đối với sự phát triển kinh tế là
quan hệ sản xuất thống trị.


6

Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng khái niệm "kinh tế" theo nghĩa là
toàn bộ những quan hệ sản xuất tạo thành cơ cấu kinh tế của một xã hội cụ thể.
Chính trị theo nguyên nghĩa của nó, là những công việc nhà nước, là
phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ giai cấp, dân tộc và các nhóm xã
hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng chính
quyền nhà nước.
Trong sự phát triển của lịch sử loài người không phải bao giờ cũng tồn
tại chính trị. Chính trị chỉ xuất hiện và tồn tại trong những giai đoạn phát triển
nhất định của lịch sử, đồng thời nó sẽ mất đi khi cơ sở tồn tại của nó không còn
nữa.
Trước khi xã hội có sự phân chia giai cấp và nhà nước, xã hội loài
người chưa xuất hiện vấn đề chính trị. Khi nền sản xuất xã hội phát triển đến
một mức độ nhất định, sự phát triển của lực lượng sản xuất đã đem lại năng
suất lao động cao hơn. Xã hội bắt đầu có của cải dư thừa, tạo điều kiện khách
quan cho sự ra đời của chế độ tư hữu. Sự ra đời của chế độ tư hữu là cơ sở của
sự bất bình đẳng về kinh tế trong xã hội, đồng thời là nguyên nhân dẫn đến sự
hình thành các giai cấp đối kháng. Sự đối kháng giữa các giai cấp ngày càng
trở nên gay gắt, không thể điều hòa đã dẫn đến sự ra đời của nhà nước. Từ đó
bắt đầu xuất hiện vấn đề chính trị. Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp, các
tập đoàn, các tầng lớp xã hội có vị trí khác nhau trong việc quản lý nhà nước.
Do đó, các giai cấp, các tập đoàn xã hội đấu tranh với nhau để giành, giữ và
sử dụng nhà nước. Như vậy, chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các
tập đoàn, các tầng lớp xã hội về mặt nhà nước.
Vậy, chính trị là những quan điểm, tư tưởng chính trị và những thiết

chế xã hội tương ứng với nó như nhà nước, đảng phái, các tổ chức chính trị xã hội... là một bộ phận quan trọng của kiến trúc thượng tầng, khái niệm
chính trị được sử dụng trong luận văn này được hiểu theo nghĩa đó.


7

Vấn đề quan hệ giữa kinh tế và chính trị theo quan điểm MácĂngghen
Vấn đề quan hệ giữa kinh tế và chính trị đã được đặt ra từ rất sớm trong
lịch sử triết học. Tất cả các nhà triết học trước Mác đều đi tìm nguyên nhân của
các sự biến lịch sử không phải trong kinh tế mà ở trong chính trị, tôn giáo hoặc
trong các nhân tố tinh thần khác. Khác với các nhà triết học trước đó, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã đi tìm nguyên nhân của chính trị trong lĩnh vực kinh tế.
Theo C.Mác, kinh tế có vai trò hết sức to lớn, quyết định đối với chính
trị.
Vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị được thể hiện ở chỗ: Kinh
tế tạo ra những cơ sở cho sự xuất hiện giai cấp và đối kháng giai cấp; kinh tế tạo
ra điều kiện để hình thành các chính đảng của các giai cấp thông qua các cuộc
đấu tranh giai cấp, đồng thời kinh tế còn là cơ sở cho sự ra đời của nhà nước...
Thứ nhất, kinh tế tạo ra những cơ sở cho sự xuất hiện giai cấp và đối
kháng giai cấp
C.Mác và Ăngghen cho rằng "Quan niệm duy vật về lịch sử xuất phát
từ luận điểm cho rằng, sản xuất và tiếp theo sau sản xuất là trao đổi sản phẩm
của sản xuất, là cơ sở của mọi chế độ, xã hội, rằng trong mỗi xã hội xuất hiện
trong lịch sử, sự phân phối sản phẩm và cùng với sự phân phối ấy là sự phân
chia xã hội thành giai cấp hoặc đẳng cấp đều được quyết định bởi tình hình:
người ta sản xuất ra cái gì và sản xuất ra bằng cách nào và những sản phẩm
của sản xuất đó được trao đổi như thế nào" [1, tr. 371]. Như vậy, theo
Ph.Ăngghen, kinh tế - sản xuất và trao đổi là cơ sở của sự xuất hiện giai cấp
trong xã hội. Vì vậy, cần tìm nguyên nhân của sự xuất hiện giai cấp, của
những biến đổi xã hội, đặc biệt là những biến đổi về chính trị, ở ngay trong

kinh tế chứ không phải ở những lực lượng thần bí, hay ở ý thức chủ quan
của con người. Ph.Ăngghen viết: "Phải tìm những nguyên nhân cuối cùng


8

của tất cả những biến đổi xã hội và những đảo lộn chính trị không phải trong
đầu óc người ta, không phải ở nhận thức ngày càng tăng thêm của người
ta..., mà là trong những biến đổi của phương thức sản xuất và phương thức
trao đổi; cần phải tìm những nguyên nhân đó không phải trong triết học, mà
là trong kinh tế của thời đại tương ứng" [1, tr. 371].
Đồng thời, kinh tế không chỉ là nguyên nhân làm xuất hiện giai
cấp trong xã hội mà còn là nguyên nhân làm nảy sinh đối kháng giai cấp.
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào chiếm được tư liệu sản xuất thì giai
cấp đó chiếm được địa vị thống trị về kinh tế trong đời sống xã hội. Và tất
yếu dẫn đến sự đối lập về lợi ích kinh tế giữa một bên là giai cấp bị trị,
không có tư liệu sản xuất với một bên là giai cấp thống trị, nắm toàn bộ tư
liệu sản xuất của xã hội. Sự đối lập về kinh tế không thể điều hòa được,
tất yếu sẽ dẫn đến đối kháng giai cấp về chính trị. Vì vậy, Ph.Ăngghen đã
khẳng định rằng kinh tế là "cơ sở cho sự xuất hiện của những đối kháng
giai cấp hiện nay" [2, tr. 321].
Thứ hai, kinh tế tạo ra điều kiện để hình thành các chính đảng của
các giai cấp thông qua các cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời kinh tế còn là
cơ sở cho sự ra đời của nhà nước...
Trong đấu tranh giai cấp, tất yếu các giai cấp phải lập ra chính đảng
của mình để lãnh đạo phong trào. Như vậy, kinh tế còn là cơ sở gián tiếp của
sự hình thành các chính đảng của các giai cấp và cuộc đấu tranh chính trị giữa
các chính đảng đó với nhau.
Đồng thời, sự ra đời của nhà nước, sự xuất hiện các quan điểm
chính trị của một giai cấp nhất định có tác dụng chi phối hoạt động của giai

cấp, của nhà nước trong xã hội... cũng đều bắt nguồn từ nguyên nhân kinh
tế, từ lợi ích kinh tế.


9

Nhà nước ra đời cùng sự ra đời của chế độ tư hữu và sự phân chia
xã hội thành các giai cấp đối kháng. Giai cấp thống trị không thể duy trì
địa vị thống trị nếu không dựa vào bộ máy bạo lực và các công cụ của nó
như quân đội, pháp luật... Tất cả những cái đó đều bắt nguồn một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp từ những nguyên nhân kinh tế. Ph.Ăngghen đã
khẳng định: "Tất cả mọi quyền lực xã hội và tất cả mọi bạo lực chính trị
đều bắt nguồn từ những tiền đề kinh tế, từ phương thức sản xuất, trao đổi
của mỗi một xã hội nhất định trong lịch sử" [1, tr. 303]. Vì vậy, sự ra
đời, tồn tại và tiêu vong của nhà nước không phải do ý muốn chủ quan
của một cá nhân của một giai cấp nào, mà trái lại, là một tất yếu khách
quan, do yêu cầu phát triển tất yếu của các quan hệ kinh tế.
Thứ ba, hệ tư tưởng chính trị chi phối mọi hoạt động chính trị như đấu
tranh giai cấp, hoạt động của nhà nước, chính đảng... cũng đều là biểu hiện
của kinh tế.
Mặc dù chưa trực tiếp chỉ rõ rằng, hệ tư tưởng chính trị là biểu hiện
của kinh tế nhưng khi nói về mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng của một xã hội nhất định, C.Mác, Ph.Ăngghen đều coi chính trị
(gồm có hệ tư tưởng chính trị và các thiết chế tương ứng cũng như mối quan
hệ nội tại giữa chúng) là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng được sinh ra
từ quan hệ kinh tế nhất định và phản ánh những quan hệ kinh tế đó.
Như vậy, mọi nhân tố của chính trị, từ việc hình thành các giai cấp,
đối kháng giai cấp đến đấu tranh giai cấp; từ việc hình thành nhà nước, chính
đảng đến những hoạt động của nhà nước, của chính đảng cũng như những
quan điểm chi phối những hoạt động đó và toàn bộ lịch sử nói chung đều có

nguồn gốc trực tiếp hoặc gián tiếp từ kinh tế. Vì thế, C.Mác cho rằng: "Phải
lấy những quan hệ kinh tế và sự tiến triển của những quan hệ ấy để giải thích
chính trị và lịch sử chính trị chứ không phải ngược lại" [2, tr. 321].


10

Thứ tư, những biến đổi căn bản trong kinh tế sớm muộn sẽ dẫn đến
những biến đổi căn bản trong chính trị.
Theo Mác, Ph.Ăngghen, kinh tế là cái có trước, còn chính trị là cái có
sau và là sự biểu hiện của kinh tế; kinh tế là tính thứ nhất, còn chính trị là tính
thứ hai, cho nên sự biến đổi của chính trị bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi
trong kinh tế. Nhưng không phải cứ có sự biến đổi nào về kinh tế thì ngay lập
tức dẫn đến sự biến đổi về chính trị... Song, sự biến đổi của kinh tế sớm hay
muộn cũng sẽ dẫn đến sự biến đổi về chính trị.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, sự biến đổi của chính trị càng diễn
ra rõ rệt hơn khi cơ sở kinh tế của xã hội này được thay thế bằng cơ sở kinh tế
của xã hội khác. Sự biến đổi này phù hợp với quy luật khách quan chi phối sự
phát triển của xã hội, đó là quy luật về sự tác động biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng. C.Mác nói rằng, khi "cơ sở kinh tế thay đổi thì
toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng"
[25, tr. 15]. Sự đảo lộn trước tiên của kiến trúc thượng tầng khi cơ sở hạ tầng
thay đổi trước hết là về chính trị.
Tóm lại, kinh tế có vai trò quyết định đối với chính trị, cho nên mọi
hoạt động chính trị đều nhằm đạt đến mục đích kinh tế.
Chính trị được sinh ra từ những nguyên nhân kinh tế và mọi sự biến đổi
của nó đều do kinh tế quyết định một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhưng chính
trị không phải là yếu tố thụ động mà có tác động trở lại kinh tế. Khẳng định điều
đó Ph.Ăngghen viết: "Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo,
văn học, nghệ thuật v.v... đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả

chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế" [4, tr. 271].
Chính trị tác động trở lại kinh tế được biểu hiện:
Thứ nhất, Nhà nước đóng một vai trò hết sức quan trọng và có tác
dụng to lớn đối với kinh tế.


11

Do được nảy sinh trên một cơ sở kinh tế nhất định nên nhà nước tác
động trở lại đối với sự phát triển kinh tế. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, các
giai cấp đấu tranh với nhau để giành, giữ chính quyền cũng là để tạo cho giai cấp
mình một sức mạnh kinh tế. Dựa vào nhà nước, giai cấp nắm chính quyền không
ngừng phát triển lực lượng kinh tế của mình ngày càng vững mạnh. Khi kinh tế
phát triển lại là cơ sở đảm bảo cho quyền lực nhà nước càng được tăng cường
mạnh mẽ. Có như vậy, địa vị và quyền lực kinh tế của giai cấp nắm chính quyền
nhà nước luôn luôn được đảm bảo vững chắc. Nghĩa là cơ sở kinh tế của một xã
hội nhất định được ổn định và vững chắc là phần lớn nhờ vào sự vững mạnh của
chính quyền nhà nước tương ứng. Vì thế, khi nói về cuộc đấu tranh chính trị của
giai cấp vô sản, Ph.Ăngghen viết: "Chúng tôi đấu tranh cho chuyên chính chính
trị của giai cấp vô sản để làm gì, nếu quyền lực chính trị bất lực về kinh tế? Bạo
lực (tức là quyền lực nhà nước) - cũng là một lực lượng kinh tế" [3, tr. 683].
Thứ hai, hệ tư tưởng chính trị tác động đến kinh tế thông qua thực
tiễn chính trị của nhà nước,
Chỉ có thông qua những hoạt động thực tiễn chính trị của nhà nước, của
chính đảng của một giai cấp nhất định thì hệ tư tưởng chính trị mới có tác dụng
to lớn trong việc bảo vệ hoặc xóa bỏ chế độ kinh tế hiện đang tồn tại. Nếu hệ tư
tưởng chính trị phản ánh một cách khoa học và được cụ thể hóa trong các cương
lĩnh, đường lối của các chính đảng, trong pháp luật và các chính sách của nhà
nước của giai cấp nắm chính quyền thì sẽ có tác dụng bảo vệ và thúc đẩy kinh tế
phát triển nhanh chóng. Ngược lại, nó sẽ cản trở sự phát triển của kinh tế.

Thứ ba, vai trò tác động của chính trị đối với kinh tế có thể có thể
diễn ra theo hai chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực.
Chính trị sẽ có tác động tích cực, nếu nó tác động cùng chiều với các quy
luật phát triển kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển. Trái lại, sự tác động ngược chiều


12

của chính trị đối với các quy luật kinh tế sẽ dẫn đến sự xung đột giữa kinh tế và
chính trị, lúc đó chính trị là chướng ngại vật cản trở sự phát triển của kinh tế.
Như vậy, thông qua sự tác động của hệ tư tưởng chính trị của một giai cấp
nhất định trong xã hội, thông qua hoạt động của nhà nước, chính đảng của giai cấp
đó, chính trị có vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển kinh tế, ở một mức độ
nhất định, chính trị có thể làm thay đổi cơ sở kinh tế. Vai trò của chính trị đối với
kinh tế có thể tác động theo hai chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực. Chính trị sẽ có
tác động tích cực, nếu nó tác động cùng chiều với các quy luật phát triển kinh tế,
thúc đẩy kinh tế phát triển. Trái lại, sự tác động ngược chiều của chính trị đối với
các quy luật kinh tế sẽ dẫn đến sự xung đột giữa kinh tế và chính trị, lúc đó chính
trị là chướng ngại vật cản trở sự phát triển của kinh tế.
1.1.2 Quan điểm của Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trên cơ sở bảo vệ, kế thừa và phát triển quan điểm Mác-Ănghen về mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị, Lênin đã phân tích, chỉ rõ mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội.
Theo V.I.Lênin, khi giai cấp vô sản chưa giành được chính quyền, chưa
nắm được quyền lực nhà nước thì giai cấp vô sản chưa có quyền lực kinh tế.
Giai cấp vô sản chỉ có được quyền lực ấy khi hoàn thành nhiệm vụ chính trị là
lật đổ chính quyền của giai cấp tư sản và thiết lập nên chính quyền của giai cấp
vô sản. Và trong bất cứ cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nào, giai cấp vô sản

sau khi đã làm xong nhiệm vụ giành chính quyền thì tất nhiên có một nhiệm vụ
căn bản khác được đặt lên hàng đầu, đó là thiết lập một chế độ xã hội mới cao
hơn chủ nghĩa tư bản. Để thực hiện nhiệm vụ đó, giai cấp vô sản phải đưa ra
được cách tổ chức lao động cao hơn, tức là nhiệm vụ kinh tế. Lúc đó, mối quan
hệ giữa kinh tế và chính trị biểu hiện ở chỗ, giai cấp vô sản đã thiết lập được bộ


13

máy nhà nước của mình, có quyền sử dụng bộ máy nhà nước đó để giải quyết
những nhiệm vụ tiếp theo trong lĩnh vực kinh tế, tổ chức lại và phát triển kinh
tế quốc dân, quản lý sản xuất. Vì thế, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
nhiệm vụ chính trị giữ địa vị phụ thuộc so với nhiệm vụ kinh tế.
Lênin cho rằng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vai trò
quyết định của kinh tế đối với chính trị còn biểu hiện ở chỗ, nhu cầu phát
triển khách quan của nền kinh tế quyết định phương hướng hoạt động của
đảng, của nhà nước của giai cấp vô sản, quyết định tính chất và khả năng ảnh
hưởng của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Nghĩa là, chính trị là sự
phản ánh tập trung của kinh tế. Sự phản ánh đó biểu hiện thông qua việc hình
thành các tổ chức chính trị, những chính sách, từ đó giải quyết những vấn đề,
quyết định mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Sự phản ánh tập trung nhu cầu phát triển khách quan của kinh tế được
thể hiện ở các chính sách kinh tế, ở phương thức hoạt động của các bộ phận
trong hệ thống chính trị. Theo V.I.Lênin thì bất cứ một vấn đề chính trị nào
cũng có thể là một vấn đề tổ chức, và ngược lại... Không thể tách những vấn
đề tổ chức khỏi những vấn đề chính trị được. Chính trị tức là kinh tế được cô
đọng lại. Trong thời kỳ quá độ, mặc dù chính trị giữ địa vị phụ thuộc so với kinh
tế, song giải quyết những vấn đề chính trị cũng chính là vì mục tiêu kinh tế:
"Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế".[23, tr.349]
Trong mối quan hệ biện chứng với kinh tế, chính trị không phải là

nhân tố thụ động mà là nhân tố tác động mạnh mẽ trở lại đối với kinh tế. Vai
trò của chính trị đối với kinh tế thể hiện trong luận điểm nổi tiếng của
V.I.Lênin về vị trí ưu tiên của chính trị đối với kinh tế. Lênin viết: "Chính trị
không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế. Lập luận một cách
khác đi, tức là quên mất những điều sơ đẳng của chủ nghĩa Mác" [23, tr. 349].


14

Theo V.I.Lênin, vị trí hàng đầu của chính trị đối với kinh tế là việc
thừa nhận ý nghĩa quyết định của việc giành chính quyền nhà nước, thay thế
chính quyền của giai cấp tư sản bằng chính quyền nhà nước của giai cấp vô
sản để thực hiện lợi ích kinh tế cơ bản của giai cấp vô sản, để giải quyết
những nhiệm vụ kinh tế. Vì vậy, cần phải có thái độ chính trị đúng đắn đối
với tất cả các vấn đề kinh tế, văn hóa, và tổ chức (đặc biệt là vấn đề tổ chức).
Sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền, được tự do về chính
trị và hoàn thành về căn bản nhiệm vụ đấu tranh lật đổ chính quyền của giai
cấp tư sản, thì những vấn đề về kinh tế, về tổ chức nền kinh tế quốc dân, quản
lý sản xuất, nổi lên vị trí hàng đầu. V.I.Lênin gọi đó là nhiệm vụ chính trị chủ
yếu hàng đầu sau khi giành chính quyền. Ông viết: “Chính trị chủ yếu của
chúng ta lúc này là xây dựng nước nhà về mặt kinh tế, để tích góp được nhiều
lúa mì hơn, để sản xuất được nhiều than hơn, để sử dụng được những lúa mì
và than đó được hợp lý hơn sao cho không có người đói nữa. Chính trị của
chúng ta phải là như vậy... Chúng ta sẽ chuyển hướng sang thực hiện chính trị
trong lĩnh vực kinh tế” [22, tr. 483].
Vì thế, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, để phát triển được
kinh tế, phát triển được đời sống xã hội, thì mọi hoạt động của đảng, của nhà
nước, của giai cấp vô sản phải được tổ chức một cách thận trọng, tránh những
sai lầm trong chính trị, vì bất cứ một sai lầm nào trong chính trị cũng gây khó
khăn cho việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế.

Trong khi nêu lên vị trí hàng đầu của chính trị đối với kinh tế, V.I.Lênin
cho rằng, trong thời quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, việc củng
cố chính quyền vô sản là tuyệt đối cần thiết. Bởi vì, sau khi giai cấp vô sản giành
được chính quyền, các giai cấp vẫn còn tồn tại, mặc dù quan hệ giữa giai cấp có
những biến đổi; song sự chống đối của giai cấp bóc lột (đã mất chính quyền)
ngày càng gay gắt; nền kinh tế còn tồn tại nhiều thành phần. Do đó, nhà nước xã
hội chủ nghĩa có vai trò to lớn đối với sự phát triển nền kinh tế quốc dân. Trong


15

thời kỳ này, sự lãnh đạo nền kinh tế quốc dân là nhiệm vụ chủ yếu và cơ bản của
đảng cộng sản và của nhà nước xã hội chủ nghĩa, vì công tác kinh tế là sự nghiệp
của nhân dân lao động. Do đó, nếu giai cấp vô sản không thiết lập bộ máy nhà
nước của mình và sử dụng nó để quản lý, kiểm kê, kiểm soát được các hoạt động
sản xuất, trao đổi, phân phối sản phẩm trong nền kinh tế thì giai cấp vô sản
không thể nào giữ vững được chính quyền và không thể xây dựng được chế độ
xã hội chủ nghĩa mà còn có nguy cơ quay trở lại chế độ tư bản chủ nghĩa. Ông
viết "Nếu nhà nước không tiến hành kiểm kê và kiểm soát toàn diện đối với việc
sản xuất và phân phối các sản phẩm, thì chính quyền của những người lao động,
nền tự do của họ sẽ không thể nào duy trì được và nhất định họ sẽ phải sống trở
lại dưới ách của chủ nghĩa tư bản" [20, tr. 224].
Rõ ràng, cũng như nhà nước tư sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng
có chức năng kinh tế. Song nhà nước xã hội chủ nghĩa khác về căn bản với
nhà nước tư sản (đặc biệt là nhà nước tư sản trong giai đoạn độc quyền) trong
việc thực hiện chức năng kinh tế. Nhà nước tư sản cũng thực hiện chức năng
kinh tế, sử dụng hàng loạt những đòn bẩy kinh tế để quản lý kinh tế, phân
phối lại thu nhập quốc dân, nhưng nhằm phục vụ lợi ích của bọn độc quyền,
để tăng cường bóc lột người lao động. Cái chính trong hoạt động của nhà
nước tư sản là trấn áp những người bị bóc lột - tức đa số những người lao

động - nhằm bảo vệ nền tảng của chế độ tư bản chủ nghĩa. Trái lại, hoạt động
của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong việc quản lý nền kinh tế đất nước nhằm
phục vụ lợi ích của đa số nhân dân lao động; còn chức năng trấn áp của nhà
nước xã hội chủ nghĩa đối với sự chống đối của giai cấp bóc lột chỉ là hoạt
động thứ yếu; nó sẽ mất đi cùng với việc xóa bỏ giai cấp bóc lột.
Như vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa chủ yếu thực hiện chức năng quản
lý kinh tế, xây dựng đất nước. Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội, việc thực hiện chức năng kinh tế của nhà nước gắn liền với sự quá
độ từ nền kinh tế nhiều thành phần sang nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thống nhất.


16

Bởi vì, theo V.I.Lênin, chủ nghĩa xã hội là sự xóa bỏ giai cấp, nhiệm vụ này
không phải làm một lần là xong ngay được. Đây là nhiệm vụ vô cùng khó khăn;
nó chỉ có thể thực hiện được bằng cách cải tạo toàn bộ nền kinh tế xã hội, bằng
cách chuyển từ nền kinh tế hàng hóa nhỏ, cá thể, riêng lẻ sang nền kinh tế
tập thể lớn [21, tr. 315-316]. Có như vậy, đảng và nhà nước của giai cấp vô
sản mới có thể thực hiện được nhiệm vụ của mình là xây dựng chủ nghĩa
cộng sản. Vì chủ nghĩa cộng sản không thể xây dựng trên cơ sở của một nền
kinh tế nghèo nàn, lạc hậu mà chỉ có thể được ra đời trên cơ sở phát triển
cao của nền sản xuất hiện đại. Điều này đã giải thích tại sao đảng và nhà
nước của giai cấp vô sản lại nêu lên nhiệm vụ chủ yếu của mình trong thời
kỳ quá độ là xây dựng nền kinh tế quốc dân, kiểm kê, kiểm soát đối với sản
xuất, nâng cao năng suất lao động, phổ biến kinh nghiệm thực tiễn... Việc
xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và xây dựng quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa nhằm thực hiện các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội phụ thuộc
vào việc xây dựng cơ sở kinh tế - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Những
nhiệm vụ đó được giải quyết có hiệu quả hay không lại tùy thuộc vào sự
lãnh đạo của đảng cộng sản, vào vai trò quản lý của nhà nước. Do đó, sự

hoạt động của đảng cộng sản, của nhà nước xã hội chủ nghĩa có vai trò hết
sức to lớn để tạo ra sự phát triển của kinh tế - xã hội; tạo ra sự thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội đối với chủ nghĩa tư bản. Vì thế, V.I.Lênin đã cho rằng, để
có thể chiến thắng được giai cấp tư sản, giai cấp vô sản phải đưa ra và thực
hiện cho được một kiểu tổ chức lao động xã hội mang lại năng suất cao hơn
chủ nghĩa tư bản.
Rõ ràng, với những chủ trương, chính sách của đảng cộng sản, của nhà
nước xã hội chủ nghĩa, với sự kiểm kê, kiểm soát trong quản lý kinh tế, đảng và
nhà nước xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản có vai trò rất to lớn trong sự phát


17

triển nền kinh tế quốc dân, trong cuộc đấu tranh cho sự thắng lợi của chủ nghĩa
xã hội đối với chủ nghĩa tư bản, trong việc bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, theo quan điểm của V.I.Lênin, trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực của đời sống xã hội có mối quan
hệ biện chứng với nhau, trong đó kinh tế, xét đến cùng, là nhân tố quyết định sự
hình thành phát triển của chính trị, song chính trị có vai trò hết sức to lớn, nó tác
động trở lại đối với sự phát triển của kinh tế. Điều này thể hiện trước hết là ở
chỗ; mọi hoạt động kinh tế, mọi sự phát triển của nền kinh tế không chỉ gắn liền
với việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, mà còn
là điều kiện đảm bảo cho hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa vững mạnh, đảm
bảo cho chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện trong thực tế trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó cũng chính là cơ sở vững chắc cho sự thắng
lợi của chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa đối với chế độ xã hội cũ. Tất
cả những điều đó có ý nghĩa chính trị to lớn. Ngược lại, chính sách kinh tế của
đảng cộng sản, sự quản lý của nhà nước, v.v... đối với kinh tế đều tạo ra động lực
thúc đẩy cho kinh tế xã hội chủ nghĩa phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Vì thế, V.I.Lênin quan niệm rằng, chính trị là sự biểu hiện tập

trung của kinh tế và chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh
tế. Đó là hai kết luận cơ bản của Lênin về biểu hiện của sự tác động biện chứng
giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại, theo quan điểm của V.I.Lênin, trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực của đời sống xã hội có mối
quan hệ biện chứng với nhau, trong đó kinh tế, xét đến cùng, là nhân tố quyết
định sự hình thành phát triển của chính trị, song chính trị có vai trò hết sức to
lớn, nó tác động trở lại đối với sự phát triển của kinh tế.
1.2. Những yêu cầu phương pháp luận trong phát huy vai trò của
hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay


18

1.2.1.Quan niệm về phát huy vai trò của hệ thống chính trị ở Việt
Nam hiện nay
Theo quan điểm của triết học Mác-Lênin, hệ thống chính trị được hiểu là
tổ hợp có tính chỉnh thể của các thể chế chính trị được xây dựng trên các
quyền và chuẩn mực xã hội nhất định, phân bố theo một kết cấu chức năng
nhất định, vận hành theo những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể, nhằm
thực thi quyền lực chính trị. Hệ thống chính trị bao trùm và điều chỉnh mọi
quan hệ của xã hội. Ở nước ta, khái niệm hệ thống chính trị được sử dụng
chính thức trong Văn kiện của Đảng lần đầu tiên trong Nghị quyết Trung
ương 6 khoá VI (tháng 3-1989). Khái niệm hệ thống chính trị ở Việt Nam
được sử dụng với quan niệm bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân, nó nhấn mạnh đến tính hệ thống của chỉnh thể trong
quan hệ giữa các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị. Đề tài KX10-01 đã
đưa ra quan niệm mới về hệ thống chính trị: “Hệ thống chính trị là hình thức
tổ chức tổng quát nhất của chính trị và dân chủ, xác lập cơ chế thực hiện
quyền lực chính trị “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”

trên những nền tảng chính trị, kinh tế, xã hội mới, với bối cảnh mới của đất
nước và quốc tế trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”
Vai trò là chức năng, tác dụng của cái gì hoặc của ai trong sự vận động
phát triển của nhóm, của tập thể nói chung. Vì vậy, có thể hiểu vai trò của hệ
thống chính trị ở Việt Nam là chức năng, là ý nghĩa tác dụng của hệ thống
chính trị trong quá trình phát triển chế độ chính trị-kinh tế-xã hội đất nước.
Vai trò của hệ thống chính trị được thể hiện qua các chức năng đó là: tổ chức
thực hiện quyền lực của nhân dân; xây dựng và tăng cường khối đại đoàn kết
dân tộc; thực hiên cơ chế đảm bảo quyền làm chủ thực sự của nhân dân...
Theo từ điển Tiếng Việt thì “Phát huy là làm cho cái hay, cái tốt toả tác
dụng và tiếp tục làm nảy nở thêm” [31, 742].


19

Như vậy, phát huy vai trò của hệ thống chính trị ở Việt Nam là làm cho
các yếu tố của hệ thống chính trị được tăng cường, phát triển, tác động mạnh
mẽ theo chiều hướng tích cực đến các lĩnh vực kinh tế, văn hoá - xã hội, quốc
phòng - an ninh của đất nước.
Về thực chất, việc phát huy vai trò của hệ thống chính trị đối với kinh tế
ở Việt Nam là phát huy những nhân tố tích cực, khắc phục những nhân tố tiêu
cực, làm cho hệ thống chính trị hoạt động hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế của đất nước trong giai đoạn cách mạng mới.
Cụ thể đó là việc phát huy vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá
trình lãnh đạo, chỉ đạo, lựa chọn khai thác các mặt thuận lợi tạo ra hợp lực cho
kinh tế thị trường phát triển, đề ra chủ trương nhằm hạn chế tối đa tác động tiêu
cực của kinh tế thị trường và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát
triển kinh tế thị trường ở nước ta
Đó là việc phát huy vai trò của Nhà nước trong quá trình tổ chức hoạt động,
đề ra các chính sách kinh tế vĩ mô, tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi cho tiến hành

phát triển kinh tế đất nước nhằm tăng cường hiệu lực quản lý, hiệu quả kinh tế xã
hội của đất nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính trị xã hội
trong việc tích cực, chủ động đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, khai
thác mọi tiềm năng vật chất và tinh thần của quần chúng nhân dân đáp ứng
yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2.2 Một số yêu cầu phương pháp luận trong phát huy vai trò của
hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay
Một là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị để đảm
bảo định hướng XHCN cho sự phát triển kinh tế đất nước
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa kinh
tế và chính trị đã trở thành lý luận khoa học và cách mạng cho việc nhận thức và cải
tạo xã hội, đặc biệt là đối với các nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


20

Quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối quan hệ cơ bản của đời sống xã
hội. Việc nhận thức và giải quyết tốt mối quan hệ này trong thực tiễn phát triển
kinh tế nước ta đúng hay sai có ý nghĩa quyết định đến sự hưng vong của nền
kinh tế và chế độ chính trị – xã hội của đất nước. Sau khi đất nước Việt Nam
được hoàn toàn thống nhất, trên cơ sở nhận định đúng những đặc điểm cơ bản
của tình hình cách mạng đất nước và xu thế của thời đại, Đảng ta chủ trương đưa
cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, đề ra đường lối chung và đường lối kinh tế
trong cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trong suốt quá trình
lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, bên cạnh những thành công, Đảng và Nhà nước ta
cũng đã vấp phải một số những hạn chế trong việc giải quyết mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị. Trong một thời gian dài (trước thời kỳ đổi mới) chúng ta đã
mắc phải những lệch lạc như chủ quan, duy ý chí, cường điệu vai trò của chính
trị.

Vì vậy, việc nghiên cứu và giải quyết tốt mối quan hệ này ở nước ta
có ý nghĩa lý luận và phương pháp luận quan trọng nhằm tiếp tục sự nghiệp
đổi mới của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì cần phải nhận thức
đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, trong đó kinh tế là gốc, là
thước đo tính hợp lý của chính trị, tương ứng với một trình độ phát triển nhất
định về kinh tế thì có một trình độ phát triển về mặt chính trị. Cơ sở kinh tế
như thế nào thì cơ cấu thể chế chính trị thích ứng như thế ấy. Sự biến đổi,
phát triển của kinh tế là nguồn gốc sâu xa của mọi biến đổi và đảo lộn về
chính trị. Kinh tế phát triển thì chính trị tiến bộ, ngược lại kinh tế khủng
hoảng là dấu hiệu cho thấy sự bất cập của chính trị và đòi hỏi phải có sự điều
chỉnh về chính trị. Điều đó có nghĩa, nếu không giải quyết đúng đắn các quan
hệ kinh tế, lợi ích kinh tế, không thúc đẩy kinh tế phát triển thì sự vận động
của chính trị sẽ khó khăn, thậm chí có thể bế tắc, thất bại. Đồng thời chính trị


21

được coi là tiến bộ, hợp lý khi nó hướng vào sự phát triển kinh tế, phục vụ
kinh tế. Trong mối quan hệ trên thì kinh tế là tính thứ nhất, chính trị là tính
thứ hai, là cái phản ánh của kinh tế. Kinh tế có vai trò quyết định đối với
chính trị, song chính trị cũng có tính độc lập tương đối và tác động mạnh mẽ
trở lại đối với kinh tế. Sự tác động của chính trị đối với kinh tế có thể theo
những hướng khác nhau: thúc đẩy, kìm hãm hoặc vừa thúc đẩy mặt này, kìm
hãm mặt kia do đó có thể làm thay đổi cơ sở kinh tế ở một chừng mực nhất
định. Như vậy, để phát triền kinh tế cần phải quan tâm đến chính trị, đến hệ
thống chính trị mà đặc biệt là vai trò của đảng cộng sản và bộ máy nhà nước.
Thực chất của sự tác động của chính trị đối với kinh tế là tạo môi trường xã
hội ổn định, đáp ứng điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế, giải phóng
sức sản xuất, tạo động lực cho phát triển kinh tế. Điều đó đòi hỏi phải ưu tiên

chính trị, đổi mới, hoàn thiện, dân chủ hoá chính trị, tạo tiền đề cho kinh tế
phát triển.
Quan hệ chính trị với kinh tế là quan hệ cơ bản có ý nghĩa quyết định,
chi phối trong các mối quan hệ xã hội. Vì vậy đòi hỏi trong xử lý các vấn đề
cụ thể phải chủ động, sáng tạo, tránh tuyệt đối hoá hoặc đồng nhất kinh tế với
chính trị. Tuyệt đối hoá kinh tế sẽ dẫn đến tình trạng phát triển kinh tế tự phát,
vô chính phủ, tập trung tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá, hy sinh các mặt
khác; tuyệt đối hoá chính trị trong phát triển kinh tế sẽ làm cho nền kinh tế bị
can thiệp, áp đặt một cách duy ý chí, không theo quy luật khách quan. Đồng
nhất chính trị với kinh tế sẽ làm cho chính trị trở nên cứng nhắc, giáo điều.
Mắc phải một trong những khuynh hướng trên đều ảnh hưởng tiêu cực, kìm
hãm sự phát triển kinh tế nói riêng và xã hội nói chung.
Quán triệt quan điểm có tính nguyên tắc nêu trên, Đảng ta đã chủ trương
chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước


22

theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương đó phản ánh đúng đắn mối quan
hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Đồng thời, để đảm bảo vai trò tác động của chính trị đối với kinh tế
nhằm định hướng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế đất nước thì chúng ta phải
xây dựng một hệ thống chính trị vững chắc, đảm bảo vai trò lãnh đạo xã hội, và
tạo được niềm tin cho quần chúng. Trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, hệ thống chính trị nước ta tiếp tục được đổi mới cho phù hợp với cơ
chế kinh tế mới và đáp ứng những yêu cầu của nền kinh tế đó. Và đó cũng là cơ
sở để chúng ta giữ vững được ổn định về chính trị - xã hội, tạo điều kiện cần
thiết cho quá trình phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, tích cực đổi mới hệ thống chính trị thận trọng, từng bước, theo

chiều sâu để phát huy cao độ vai trò của nó trong phát triền nền kinh tế
Trên cơ sở nhận thức và giải đúng đắn mối quan hệ kinh tế và chính
trị Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
Trong đó việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị là vấn đề cơ bản có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế đất nước
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị, Đảng ta xác định rằng, cần phải kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi
mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời
từng bước đổi mới chính trị. Đây là một chủ trương đúng đắn, đảm bảo không gây
nên những đảo lộn làm mất cân bằng trong đời sống xã hội; đồng thời giữ vững
được sự ổn định chính trị một tiền đề tiên quyết cho sự phát triển của đời sống
kinh tế - xã hội. Trong khi khẳng định sự cần thiết phải phát triển kinh tế thị
trường, Đảng ta cũng thấy được mặt trái và những ảnh hưởng tiêu cực của nó đối
với đất nước. Do đó trên lĩnh vực chính trị và đặc biệt là hệ thống chính trị, việc
đổi mới về thể chế, tổ chức, nội dung và phương hướng hoạt động được thực hiện


23

đồng bộ trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể khác thuộc hệ
thống chính trị theo hướng dân chủ hoá; khắc phục và loại bỏ cơ chế tập trung
quan liêu hành chính mệnh lệnh, xơ cứng, giáo điều, tách rời và cản trở sự phát
triển kinh tế. Chính vì vậy, để phát huy cao độ vai trò của hệ thống chính trị đối
với sự phát triển kinh tế đất nước, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa phải tiếp
tục tích cực đổi mới hệ thống chính trị một cách thận trọng, từng bước theo chiều
sâu.
Muốn vậy, phải đổi mới nhận thức, tư duy cũng như phương thức làm
việc trong các cơ quan công quyền Nhà nước, phải thực hiện dân chủ hoá xã hội,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế
của Nhà nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể
tách rời vai trò quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên cần phân định rõ vai trò, chức
năng quản lý Nhà nước với chức năng quản lý kinh doanh. Trong kinh tế thị
trường, sự quản lý tác của nhà nước đối với hoạt động kinh tế chủ yếu thông qua
chiến lược phát triển, kế hoạch mang tính định hướng, thông qua hệ thống đòn
bẩy, như sự đảm bảo về mặt pháp luật, cơ chế chính sách tài chính, tiền tệ, chính
sách đầu tư, chính sách thu nhập, bằng các công cụ quản lý vĩ mô và sức mạnh kinh
tế của nhà nước… Vì vậy, cần đẩy mạnh việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chế độ chính sách, tạo môi trường
chính trị, pháp lý thuận lợi cho kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ra
đời và phát triển. Cần triệt để xoá bỏ cơ chế quản lý hành chính tập trung quan liêu,
cơ chế bao cấp xin cho, xoá bỏ tình trạng đặc quyền, đặc lợi, tình trạng nhà nước
can thiệp vào công việc sự vụ, làm thay doanh nghiệp và công dân. Tiếp tục đổi
mới, cải cách hành chính, chấn chỉnh tổ chức, tinh giản bộ máy hành chính, chống
quan liêu, tham nhũng, xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, phát triển các nguồn lực mà đặc biệt là nguồn lực con người.


24

Để đáp ứng vai trò lãnh đạo đất nước nói chung và lãnh đạo kinh tế
nói riêng của Đảng trong tình hình mới, cần tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn
Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Vì vậy cần phải kịp thời thể
chế hoá, cụ thể hoá, đưa các quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng vào
cuộc sống, nhất là quan điểm, đường lối chính sách kinh tế. Mọi đảng viên, tổ
chức Đảng phải gương mẫu thực hiện, đồng thời kiểm tra đôn đốc việc thực
hiện, kịp thời phát hiện những sai lệch để sửa chữa, điều chỉnh, bổ sung. Tiếp tục
đổi mới và đẩy mạnh công tác cán bộ, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và
quản lý cán bộ hợp lý hiệu quả. Thường xuyên quan tâm đến những vấn đề

“sống còn” của nền kinh tế và coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu
những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra, nhất là vấn đề đổi mới hệ thống chính
trị nhằm thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đi đến thành
công
Ba là, phải có chủ trương, chính sách đúng đắn để phát huy cao độ vai trò
của hệ thống chính trị đối với sự phát triển kinh tế đất nước
Lựa chọn và phát triển kinh tế đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa
là phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng,
đó là quá trình đầy khó khăn và phức tạp. Trong quá trình phát triển nền kinh tế,
khuynh hướng tự phát tư bản chủ nghĩa đối với nước ta là không thể coi thường.
Chính vì vậy, để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần ở nước ta, vai trò của hệ thống chính trị mà trước hết là vai trò
lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước là không thể thiếu được.
Chính vì vậy việc phát huy vai trò của hệ thống chính trị đặc biệt là vai
trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước có ý nghĩa quyết định
trong việc đảm bảo sự phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Vai trò của hệ thống chính trị là định hướng, tổ chức và quản lý nền kinh tế
thị trường vận động theo quỹ đạo xã hội chủ nghĩa. Muốn làm được điều đó, Đảng
và Nhà nước phải có chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp để phát triển kinh tế


25

nhà nước, làm cho thực lực kinh tế nhà nước phát triển mạnh mẽ, có đủ sức để có
thể giữ được vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà
nước phải xây dựng và phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa
dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Để làm được điều đó Đảng và Nhà nước phải
thông qua chủ trương, chính sách, pháp luật và các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà
nước như kế hoạch, tài chính, ngân hàng, giá cả... Nhờ vào những công cụ và
phương tiện đó, Đảng và Nhà nước có thể tiến hành kiểm kê, kiểm soát, điều tiết

đối với sản xuất và lưu thông hàng hóa, đối với sự vận động của các thành phần
kinh tế ngoài kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đi theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đồng thời, phải phát huy cao độ vai trò của hệ thống chính trị trong xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện
mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy phải ra sức
thực hiện công nghiệp hoá, hiên đại hoá đất nước phù hợp với điều kiện cụ thể của
nước ta và bối cảnh quốc tế, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển
kinh tế; kết hợp chặt chẽ giữa nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp cho
phát triển, trong đó nội lực giữ vai trò quyết định; có đường lối đối ngoại và hoạt
động đối ngoại đúng đắn, bảo vệ được chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc, đồng
thời chủ động hội nhập quốc tế và ứng phó được với các tình huống phức tạp về
kinh tế và chính trị đối ngoại, bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
Vai trò của hệ thống chính trị đối với sự phát triển của nền kinh tế còn
thể hiện ở việc kiểm soát chặt chẽ những vấn đề cơ bản và then chốt của hoạt
động kinh tế thông qua các chủ trương, chính sách, các công cụ tài chính,
công cụ pháp luật. Đồng thời hệ thống chính trị còn phải động viên, khơi dậy
và phát huy cao độ các nguồn lực, tiềm năng to lớn của đất nước cho sự phát
triển kinh tế. Đó là việc huy động sức dân tạo nên sức mạnh nội sinh, Đảng và
Nhà nước phải có phương pháp lãnh đạo đúng đắn, có chủ trương, chính sách
đúng để giải quyết hài hòa các mối quan hệ lợi ích, kích thích mọi người, mọi


26

chủ thể kinh tế tham gia vào quá trình phát triển, khuyến khích mọi người làm
giàu hợp pháp, tuân theo pháp luật.
Tóm lại, để mặc kinh tế phát triển tự do, tự phát hoặc chỉ đạo, can
thiệp thô bạo, duy ý chí, không tính tới các quy luật khách quan của nền
kinh tế đều là những sai lầm ở các cực khác nhau trong sự lãnh đạo của
hệ thống chính trị đối với kinh tế. Vì vậy, phải tính tới và tôn trọng

những yếu tố, những liên hệ kinh tế tồn tại một cách khách quan do lịch
sử để lại, coi chúng là những dữ kiện, cơ sở để hoạch định chủ trương
chính sách theo những quy luật kinh tế khách quan, đó là một trong
những yêu cầu cơ bản của sự lãnh đạo đúng đắn, có hiệu quả của hệ
thống chính trị đối với kinh tế.
Kết luận chương 1
Như vậy, trong mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị, thì kinh
tế quyết định chính trị và chính trị luôn tác động mạnh mẽ trở lại đối với kinh tế.
Vì thế khi nhận thức, vận dụng quan hệ biện chứng này trong đời sống thực tiễn
phải xuất phát từ kinh tế, đồng thời luôn coi trọng yếu tố chính trị. Nếu tách rời
kinh tế với chính trị, tuyệt đối hoá mặt kinh tế và coi nhẹ yếu tố chính trị sẽ dẫn
đến sai lầm của chủ nghĩa duy vật kinh tế tầm thường. Ngược lại, tuyệt đối hoá
mặt chính trị, coi nhẹ yếu tố kinh tế sẽ dẫn đến sai lầm chủ quan, duy ý chí và sẽ
phải trả giá đắt dẫn đến thất bại trong hoạt động thực tiễn.
Để hoạt động kinh tế của đất nước phát triển đúng quỹ đạo của nó, vận
động đúng các quy luật khách quan, đòi hỏi hệ thống chính trị phải được xây
dựng, hoàn thiện và phát huy cao độ vai trò của nó trong tính tương thích và phù
hợp với chính nền tảng kinh tế của chế độ xã hội đó. Điều đó có nghĩa phải phát
huy vai trò của hệ thống chính trị trong việc định hướng, tổ chức và quản lý,
điều hành nền kinh tế thị trường vận động theo đúng quỹ đạo xã hội chủ
nghĩa. Muốn làm tốt điều đó thì trước hết Đảng và Nhà nước phải có những
chủ trương, chính sách phát triển kinh tế đúng đắn, có phương thức lãnh đạo


27

phù hợp, động viên được mọi nguồn lực, thực hiện tốt vấn đề dân chủ trong
lĩnh vực kinh tế, thực hiện được một nền kinh tế nhân dân, làm cho mọi người
dân tự ý thức, tự tham gia xây dựng nền kinh tế ấy.
Như vậy, trong điều kiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước

ta hiện nay, hệ thống chính trị có một vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát
triển của nền kinh tế và sự phát triển xã hội. Trong một chừng mực nhất định, nó
có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của kinh tế, ổn định xã hội. Vì vậy,
thực hiện đổi mới kinh tế gắn liền với đổi mới chính trị, cùng với đổi mới kinh tế
phải từng bước đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị, thực hiện đổi mới
phương thức lãnh đạo, tổ chức thực hiện, tổng kết thực tiễn, đổi mới quản lý,
điều tiết nền kinh tế là yêu cầu khách quan và là cơ sở để đất nước ta phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng
mới.
Chương 2
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng phát huy vai trò của hệ thống chính trị ở Việt
Nam hiện nay
2.1.1. Những thành tựu đạt được trong phát huy vai trò của hệ
thống chính trị ở Việt Nam trong những năm đổi mới
Tổng kết hơn 20 năm đổi mới đã cho chúng ta nhiều bài học kinh
nghiệm quý báu, trong đó "đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết
định thành công của sự nghiệp đổi mới" [13, tr. 19]. Sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng thể hiện ngay trong đường lối đổi mới và trong suốt quá trình thực hiện
đổi mới; thể hiện ở những quyết sách với những hình thức và bước đi thích
hợp cho sự phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước.


×