Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm urê của công ty tnhh một thành viên phân đạm và hóa chất hà bắc tại thị trường miền bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 116 trang )

MỤC LỤC
Lời cam đoan

i

Lời cảm ơn

ii

Mục lục

iii

Danh mục bảng

v

Danh mục biểu đồ

vii

Danh mục sơ đồ

vii

Danh mục hình

vii

Danh mục chữ viết tắt


viii

1

MỞ ĐẦU

1

1.1

Tính cấp thiết của đề tài

1

1.2

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

3

1.3

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3

2

TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU


5

2.1

Cơ sở lý luận

5

2.1.1

Một số khái niệm liên quan

5

2.1.2

Phân loại cạnh tranh sản phẩm

7

2.1.3

Vai trò của cạnh tranh sản phẩm

8

2.1.4

Các tiêu chí chủ yếu phản ánh sức cạnh tranh của sản phẩm


10

2.1.5

Các yếu tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp

14

2.1.6

Các công cụ cạnh tranh dùng để tăng sức cạnh tranh sản phẩm

22

2.2

Cơ sở thực tiễn

26

2.2.1

Khái quát tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm urê trên Thế giới và
trong nước

26

2.2.2

Kinh nghiệm nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm của một số doanh nghiệp


30

2.2.3

Bài học kinh nghiệm rút ra qua việc nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm
cho Công ty TNHH MTV phân đạm và hóa chất Hà Bắc

31

2.2.4

Tổng quan các công trình đã nghiên cứu có liên quan đề tài

31

3

ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

34

3.1

Đặc điểm địa bàn nghiên cứu

34
iii



3.1.1

Đặc điểm Công ty TNHH MTV phân đạm và hóa chất Hà Bắc

34

3.1.2

Đặc điểm thị trường miền Bắc trong tiêu thụ sản phẩm urê của công ty

46

3.2

Phương pháp nghiên cứu

48

3.2.1

Phương pháp thu thập dữ liệu

48

3.2.2

Phương pháp phân tích dữ liệu

49


3.2.3

Các chỉ tiêu chủ yếu dùng trong phân tích

50

4

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

52

4.1

Thực trạng sức cạnh tranh sản phẩm urê của Công ty TNHH một
thành viên phân đạm và hóa chất Hà Bắc tại thị trường Miền Bắc.

52

4.1.1

Sản lượng và doanh thu tiêu thụ sản phẩm urê của công ty

52

4.1.2

Chất lượng sản phẩm urê của công ty

56


4.1.3

Mẫu mã bao bì sản phẩm urê của công ty

57

4.1.4

Giá bán sản phẩm urê của công ty

59

4.1.5

Thị phần của công ty

63

4.2

Đánh giá chung về thực trang sức cạnh tranh sản phẩm urê của công
ty TNHH MTV phân đạm và hóa chất Hà Bắc tại thị trường Miền Bắc

68

4.2.1

Kết quả đạt được


68

4.2.2

Tồn tại

70

4.3

Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng tới sức cạnh tranh sản phẩm urê của
công ty TNHH một thành viên phân đạm và hóa chất Hà Bắc

72

4.3.1

Môi trường bên ngoài

72

4.3.2

Môi trường bên trong công ty

77

4.4

Một số giải pháp nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm urê của công ty tại

thị trường Miền Bắc.

84

4.4.1

Định hướng phát triển của công ty

84

4.4.2

Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm urê của công ty

85

5

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

95

5.1

Kết luận

95

5.2


Kiến nghị

96

TÀI LIỆU THAM KHẢO

98

PHỤ LỤC

100
iv


DANH MỤC BẢNG
STT

Tên bảng

2.1

Công suất sản xuất urê ở các khu vực trên thế giới

27

2.2

Nhu cầu tiêu thụ urê ở các khu vực trên thế giới

27


2.3

Tình hình nhập khẩu urê về Việt Nam từ năm 2010 đến nay

29

3.1

Tình hình tài sản – nguồn vốn tại thời điểm 31/12 từ 2012 – 2014

42

3.2

Tình hình nguồn nhân lực của công ty năm 2012-2014

43

3.3

Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của Hanichemco

Trang

từ năm 2010 -2014

43

3.4


Thu nhập bình quân của lao động công ty năm 2010-2014

45

3.5

Số lượng phiếu thăm dò ý kiến khách hàng

49

4.1

Sản lượng sản xuất sản phẩm urê từ năm 2000 đến 2014

52

4.2

Kết quả tiêu thụ sản phẩm urê từ năm 2010 đến 2014

53

4.3

Những khách hàng lớn tiêu thụ sản phẩm urê của Hanichemco

55

4.4


Tỷ lệ ý kiến khách hàng trả lời về chất lượng sản phẩm Urê Hà Bắc
so với Urê Trung Quốc

4.5

57

Tỷ lệ ý kiến khách hàng trả lời về chất lượng sản phẩm Urê Hà Bắc so
với Urê Phú Mỹ

4.6

57

Tỷ lệ ý kiến khách hàng trả lời về chất lượng, hình thức bao bì sản
phẩm Urê Hà Bắc so với Urê Phú Mỹ

4.7

Tỷ lệ ý kiến khách hàng trả lời về chất lượng, hình thức bao bì sản
phẩm Urê Hà Bắc so với Urê Trung Quốc

4.8

59

Tỷ lệ ý kiến khách hàng trả lời về nhưng thông tin ghi trên bao bì sản
phẩm Urê Hà Bắc


4.9

58

59

Giá urê trên thị trường thế giới tại thời điểm ngày 31/3/2015 so với
ngày 1/3/2015

60

4.10

Giá urê giao dịch tại chợ Trần Xuân Soạn 3 tháng đầu năm 2015

62

4.11

Thị phần theo cơ cấu sản lượng thiết kế (Giai đoạn 2008-2010)

63

4.12

Thị phần theo cơ cấu sản lượng thiết kế (Giai đoạn 2010-2014)

64

4.13


Nhu cầu tiêu thụ sản phẩm urê trong nước từ năm 2010-2014

64

v


4.14

Thị phần tiêu thu sản phẩm urê của Hanichemco năm 2010-2014

65

4.15

Sản lượng tiêu thụ trong nước giai đoạn 2010-2014

66

4.16

Đánh giá các đối thủ cạnh tranh của Hanichemco trên thị trường Miền Bắc

75

4.17

Cơ cấu lao động của công ty năm 2010-2014


78

4.18

Các hình thức đào tạo nâng cao trình độ nguồn nhân lực tại Hanichemco

80

4.19

Tên thương hiệu sản phẩm, logo và slogan của các đơn vị sản xuất
urê trong nước

83

vi


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
STT

Tên biểu đồ

Trang

2.1

Cung cầu urê tại Việt Nam

29


3.1

Tổng doanh thu và lợi nhuận trước thuế của công ty từ 2010-2014

44

4.1

Thị phần theo sản lượng thiết kế (giai đoạn 2008-2010)

63

4.2

Thị phần theo cơ cấu sản lượng thiết kế (giai đoạn 2010-2014)

64

DANH MỤC SƠ ĐỒ
STT

Tên sơ đồ

Trang

3.1

Sơ đồ bộ máy tổ chức Hanichemco


38

4.1

Quy trình công nghệ sản xuất Urê của Hanichemco

81

DANH MỤC HÌNH
STT
4.1

Tên hình

Trang

Bao bì sản phẩm Urê Phú Mỹ; Ninh Bình; Hà Bắc; Cà Mau

vii

58


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CNH

Công nghiệp hóa

GTGT


Giá trị gia tăng

HANICHEMCO

Công ty TNHH MTV phân đạm và hóa chất Hà Bắc

HĐH

Hiện đại hóa

NHNN

Ngân hàng nhà nước

SXKD

Sản xuất kinh doanh

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

WTO

Tổ chức thương mại Thế giới

viii



1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam, việc chuyển đổi sang kinh tế thị trường bắt đầu từ năm 1986.
Đặc biệt, trong những năm gần đây, khi chính sách kinh tế nhiều thành phần đi vào
cuộc sống, tư tưởng cạnh tranh giữa các đơn vị, giữa các thành phần kinh tế được
thừa nhận thì một số doanh nghiệp và mặt hàng của Việt Nam đã có chỗ đứng trên
thị trường trong nước và vươn ra cạnh tranh được trên thị trường nước ngoài. Tuy
nhiên, năng lực cạnh tranh của phần lớn doanh nghiệp và hàng hoá của Việt Nam
còn yếu kém cả về chất lượng, mẫu mã và giá cả; tốc độ hội nhập của Việt Nam còn
ở mức trung bình; xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam qua các
năm còn thấp, năm 2012 xếp thứ 65/142, năm 2013 xếp thứ 75/144, năm 2014 xếp
thứ 70/148 nước so sánh (Diễn đàn kinh tế thế giới - WEF, 2015).
Nông nghiệp là một ngành sản xuất quan trọng của Việt Nam, hiện tại nông
nghiệp vẫn chiếm khoảng 71,10 % lực lượng lao động của toàn xã hội và khoảng
18% GDP của cả nước. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đề ra mục tiêu chiến lược về CNH-HĐH đất nước là: từ nay (1996) đến
năm 2020 phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Vì vậy trong
cơ cấu kinh tế, công nghiệp và dịch vụ sẽ chiếm tỷ trọng lớn trong GNP và trong lao
động xă hội. Mặc dù vậy sản xuất nông nghiệp vẫn có một vị trí hết sức quan trọng
trong nhiều năm nữa. Việc tự do hóa sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lúa
gạo, đã giúp Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo. Những nông
sản quan trọng khác là cà phê, sợi bông, đậu phộng, cao su, đường và chè. (Báo điện
tử Đảng Cộng Sản Việt Nam, 2006).
Trong sản xuất nông nghiệp, có nhiều yếu tố tác động đến năng suất và sản
lượng các loài cây trồng như: đất đai, thời tiết, khí hậu, các thiết bị kỹ thuật, giống,
phân bón v.v. Song phân bón bao giờ cũng là yếu tố có tính quyết định
thường xuyên. Bởi vậy, ở Việt Nam phân bón được xếp vào loại mặt hàng chiến
lược hết sức quan trọng.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phân đạm và hoá chất Hà Bắc
(HANICHEMCO) là doanh nghiệp nhà nước đóng trên địa bàn Tỉnh Bắc Giang,

1


được thành lập với nhiệm vụ sản xuất phân bón và các sản phẩm hóa chất phục vụ
các ngành khác của đất nước. Với gần 60 mươi năm xây dựng và phát triển,
HANICHEMCO là đứa con đầu lòng của ngành sản xuất phân đạm Việt Nam. Từ khi
bước vào sản xuất đến nay, đã góp phần đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, bảo đảm an
ninh lương thực, các sản phẩm khác cũng góp phần đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho xã
hội. Bên cạnh đó, HANICHEMCO còn là cái nôi đào tạo đội ngũ cán bộ, kỹ sư, công
nhân kỹ thuật cho các nhà máy đạm lớn hơn và cho các cơ quan, doanh nghiệp khác
trong nước. Từ năm 2000 đến nay, HANICHEMCO đã có những cố gắng vượt bậc,
phát huy tốt các nguồn lực để đẩy mạnh đầu tư, duy trì tốc độ tăng trưởng cao, ổn
định cả về sản xuất và tiêu thụ, hoàn thành xuất sắc các mục tiêu kế hoạch, có nhiều
đóng góp cho ngân sách Nhà nước và xã hội, có vị trí quan trọng hàng đầu trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của ngành hoá chất Việt Nam.
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, HANICHEMCO xác
định nhiệm vụ trọng tâm của mình là nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tiếp
tục mở rộng và phát triển Công ty thành một đơn vị vững mạnh của Tập đoàn Hóa
chất Việt Nam và của cả ngành hóa chất Việt Nam.
Từ năm 2013 thị trường phân bón Urê chứng kiến nhiều cuộc cạnh tranh gay
gắt khi cung bỏ xa cầu do ngoài Công ty TNHH MTV Phân đạm và hóa chất Hà
Bắc công suất 190 nghìn tấn/năm và Nhà máy Đạm Phú Mỹ công suất 800 nghìn
tấn/năm còn có thêm Nhà máy Đạm Cà Mau công suất 800 nghìn tấn/năm, Nhà
máy Đạm Ninh Bình công suất 560 nghìn tấn/năm và Nhà máy Đạm Hà Bắc sẽ có
thêm dây chuyền 2 nâng công suất lên thành 500 nghìn tấn/năm, nâng tổng sản
lượng sản xuất phân bón Urê trong nước lên đạt trên 2,6 triệu tấn trong khi tổng nhu
cầu trong nước hàng năm chỉ đạt khoảng 2,2 triệu tấn. (Phòng Thị trường Hanichemco)
Để HANICHEMCO tồn tại và phát triển bền vững trước sức ép cạnh tranh
trên thị trường, nhất là thị trường truyền thống Miền Bắc, rất cần có những nghiên
cứu về lý luận và thực tiễn nhằm tìm kiếm các giải pháp hữu hiệu. Trên tinh thần

đó, tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm urê của
Công ty TNHH một thành viên phân đạm và hóa chất Hà Bắc tại thị trường
Miền Bắc”.
2


1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1. Mục tiêu chung
Phản ảnh và đánh giá thực trạng sức cạnh tranh sản phẩm urê của Công ty
TNHH một thành viên phân đạm và hóa chất Hà Bắc tại thị trường Miền Bắc. Trên cơ
sở đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm urê của Công ty
trong thời gian tới.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về cạnh tranh và sức cạnh
tranh của sản phẩm.
- Phản ánh và đánh giá thực trạng sức cạnh tranh sản phẩm urê của Công ty
TNHH một thành viên phân đạm và hóa chất Hà Bắc tại thị trường Miền Bắc.
- Đề ra giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm urê của Công ty
TNHH một thành viên phân đạm và hóa chất Hà Bắc tại thị trường Miền Bắc đến
năm 2020.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề liên quan đến sức cạnh tranh
sản phẩm urê của Công ty TNHH một thành viên phân đạm và hóa chất Hà Bắc tại thị
trường Miền Bắc.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1. Về nội dung
+ Luận văn nghiên cứu thực trạng sức cạnh tranh của sản phẩm Urê Hà Bắc tại
thị trường Miền Bắc thông qua các tiêu chí chủ yếu phản ánh sức cạnh tranh sản phẩm
như: Các tiêu chí về sản phẩm, các tiêu chí về tiêu thụ sản phẩm có so sánh với các đối

thủ cạnh tranh.
+ Nghiên cứu đề ra giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh của Urê Hà Bắc tại thị
trường Miền Bắc trong những năm tới.
1.3.2.2. Về không gian
Trong phạm vi đề tài này, luận văn đi sâu nghiên cứu sức cạnh tranh sản phẩm
urê của Công ty TNHH một thành viên phân đạm và hóa chất Hà Bắc tại thị trường
3


Miền Bắc. Theo chiến lược tiêu thụ và phát triển thị trường của Hanichemco, thị trường
Miền Bắc bao gồm các khu vực Trung du miền núi phía Bắc, Đồng bằng Sông Hồng
và 2 tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An.
1.3.2.3. Về thời gian
+ Số liệu thứ cấp từ năm 2000-2014
+ Số liệu sơ cấp: Được lấy từ kết quả thăm dò ý kiến khách hàng năm 2013,
2014 của Hanichemco và kết quả trả lời phỏng vấn của lãnh đạo quản lý Công ty và
đối thủ cạnh tranh những năm gần đây.
+ Giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm urê của Công ty TNHH
một thành viên phân đạm và hóa chất Hà Bắc tại thị trường Miền Bắc đến năm 2020.

4


2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Một số khái niệm liên quan
2.1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh
Khái niệm về cạnh tranh đã được đề cập đến từ rất lâu, theo các học giả
trường phái tư sản cổ điển: “Cạnh tranh là một quá trình bao gồm các hành vi
phản ứng. Quá trình này tạo ra cho mỗi thành viên trong thị trường một dư địa

hoạt động nhất định và mang lại cho mỗi thành viên một phần xứng đáng so với
khả năng của mình”. (Dương Thị Thu Trang, 2009).
Qua thời gian và không gian, các quan niệm về cạnh tranh cũng khác nhau.
Theo từ điển kinh doanh Anh xuất bản năm 1992 thì cạnh tranh được xem là “sự
ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành
cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”.
Ở Việt Nam, đề cập đến “cạnh tranh”, một số nhà khoa học cho rằng, cạnh
tranh là vấn đề giành lợi thế về giá cả hàng hóa – dịch vụ và đó là phương thức để
giành lợi nhuận cao nhất cho các chủ thể kinh tế. Nói khác đi là giành lợi thế để hạ
thấp các yếu tố “đầu vào” của chu trình sản xuất kinh doanh và nâng cao giá trị của
“đầu ra” sao cho mức chi phí thấp nhất. (Mạc Thị Hà, 2013)
Như vậy, trên quy mô toàn xã hội, cạnh tranh là phương thức phân bổ các
nguồn lực một cách tối ưu và do đó trở thành động lực bên trong thúc đẩy nền kinh
tế phát triển. Mặt khác, đồng thời với tối đa hóa lợi nhuận của các chủ thể kinh
doanh, cạnh tranh cũng là quá trình tích lũy và tập trung tư bản không đồng đều ở
các doanh nghiệp. Và từ đó, cạnh tranh còn là môi trường phát triển mạnh mẽ cho
các chủ thể kinh doanh thích nghi được với điều kiện thị trường.
2.1.1.2. Khái niệm về cạnh tranh sản phẩm
Sản phẩm là kết quả của quá trình sản xuất, là nỗ lực sản xuất của doanh
nghiệp và nó là cái mà doanh nghiệp hy vọng sẽ đem lại lợi ích cho mình. Các
doanh nghiệp luôn mong muốn sản phẩm của mình tìm được chỗ đứng trên thị
trường, được khách hàng chấp nhận.
5


Chúng ta biết rằng, cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế
ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế
của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các
điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế
trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là

lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi. (Nguyễn Hồng
Cẩm, 2006)
Như vậy có thể hiểu, cạnh tranh sản phẩm là việc các doanh nghiệp đưa ra các
sản phẩm có chất lượng cao, giá cả hợp lý, các dịch vụ hậu mãi sau bán hàng hấp
dẫn, đặc biệt là các sản phẩm đem lại giá trị gia tăng cao hơn hoặc mới lạ hơn để
thu hút các khách hàng sử dụng và tiêu thụ nhiều sản phẩm của mình.
2.1.1.3. Khái niệm về sức cạnh tranh sản phẩm
Khi nghiên cứu về cạnh tranh, các nhà nghiên cứu thường sử dụng các khái
niệm sức cạnh tranh sản phẩm, năng lực cạnh tranh sản phẩm, khả năng cạnh tranh
sản phẩm... Tuy nhiên, các khái niệm này là một khái niệm phức hợp được xem xét
ở các cấp độ khác nhau như: năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh
ngành, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp và sức cạnh tranh của sản phẩm. Do đó,
việc nhận biết và phân biệt để hiểu một cách đầy đủ khái niệm sức cạnh tranh của
sản phẩm là rất cần thiết.
Sức cạnh tranh sản phẩm: Đối với khái niệm này, cho đến nay các tác giả,
nhà nghiên cứu kinh tế cũng chưa đưa ra một định nghĩa thống nhất. Các khái niệm
mà các tác giả đưa ra dựa trên khái niệm về năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực
cạnh tranh doanh nghiệp.
Sức cạnh tranh sản phẩm là sự vượt trội của nó (nói về các chỉ tiêu) so với sản
phẩm cùng loại do các đối thủ khác cung cấp trên cùng một thị trường. Khái niệm
này cho thấy, việc xác định sản phẩm có sức cạnh tranh hay không trên thị trường, là
xác định mức độ tin cậy của người tiêu dùng đối với sản phẩm về giá cả, đổi mới
công nghệ, dịch vụ sau bán hàng v.v. so với sản phẩm cùng loại mà đối thủ khác cung
cấp trên cùng một thị trường. (Chu Văn Cấp, 2003)
Sức cạnh tranh sản phẩm chính là năng lực nắm giữ và nâng cao thị phần của
6


loại sản phẩm do chủ thể sản xuất và cung ứng nào đó đem ra để tiêu thụ so với sản
phẩm cùng loại của các chủ thể sản xuất, cung ứng khác đem đến tiêu thụ ở cùng một

khu vực thị trường và thời gian nhất định.
Sức cạnh tranh sản phẩm hàng hoá lại được định đoạt bởi năng lực cạnh
tranh doanh nghiệp. Sẽ không có sức cạnh tranh sản phẩm hàng hoá cao khi năng
lực cạnh tranh doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó thấp.
Ở đây cũng cần phân biệt sức cạnh tranh sản phẩm và năng lực cạnh tranh
doanh nghiệp. Đó là hai phạm trù khác nhau nhưng có quan hệ hữu cơ với nhau.
Sức cạnh tranh sản phẩm có được do năng lực cạnh tranh doanh nghiệp tạo ra;
nhưng năng lực cạnh tranh doanh nghiệp không chỉ do sức cạnh tranh sản phẩm
quyết định mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa. Tuy nhiên, sức cạnh tranh
sản phẩm có ảnh hưởng rất lớn và thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
(Dương Thị Thu Trang, 2009).
2.1.2. Phân loại cạnh tranh sản phẩm
Dựa vào các tiêu thức khác nhau, cạnh tranh sản phẩm được phân ra thành
nhiều loại.
2.1.2.1. Căn cứ vào tính chất của cạnh tranh
Căn cứ vào tính chất cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, cạnh tranh sản
phẩm bao gồm:
+ Cạnh tranh hoàn hảo: Là hình thức cạnh tranh giữa nhiều người bán trên
thị trường trong đó không người nào có đủ ưu thế khống chế giá cả trên thị trường.
Các sản phẩm bán ra đều được người mua xem là đồng thức, tức là không khác
nhau về quy cách, phẩm chất mẫu mã. Để chiến thắng trong cuộc cạnh tranh các
doanh nghiệp buộc phải tìm cách giảm chi phí, hạ giá thành hoặc làm khác biệt hoá
sản phẩm của mình so với các đối thủ cạnh tranh.
+ Cạnh tranh không hoàn hảo: Là hình thức cạnh tranh giữa những người
bán có các sản phẩm không đồng nhất với nhau. Mỗi sản phẩn đều mang hình ảnh
hay uy tín khác nhau cho nên để giành đựơc ưu thế trong cạnh tranh, người bán phải
sử dụng các công cụ hỗ trợ bán như: Quảng cáo, khuyến mại, cung cấp dịch vụ, ưu
đãi giá cả, đây là loại hình cạnh tranh phổ biến trong giai đoạn hiện nay.
7



+ Cạnh tranh độc quyền: Trên thị trường chỉ có một hoặc một số ít người bán
một sản phẩm hoặc dịch vụ vào đó, giá cả của sản phẩm hoặc dịch vụ đó trên thị
trường sẽ do họ quyết định không phụ thuộc vào quan hệ cung cầu.
2.1.2.2. Căn cứ vào thủ đoạn sử dụng trong cạnh tranh:
Căn cứ vào thủ đoạn sử dụng trong cạnh tranh sản phẩm của các doanh
nghiệp, cạnh tranh sản phẩm bao gồm:
+ Cạnh tranh lành mạnh: Là cạnh tranh đúng luật pháp, phù hợp với chuẩn
mực xã hội và được xã hội thừa nhận, nó thường diễn ra sòng phẳng, công bằng và
công khai.
+ Cạnh tranh không lành mạnh: Là cạnh tranh dựa vào kẽ hở của luật pháp,
trái với chuẩn mực xã hội và bị xã hội lên án (như trốn thuế, buôn lậu, móc ngoặc,
khủng bố v.v.). (Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, 2012)
2.1.3. Vai trò của cạnh tranh sản phẩm
Nước ta đang có bước chuyển rất nhanh và mạnh về phát triển kinh tế. Từ
một nền kinh tế tập trung bao cấp trì trệ, yếu kém, bảo thủ và cực kỳ quan liêu. Việc
chuyển mình mạnh mẽ, thay đổi cơ chế quản lý nhằm trở thành một nền kinh tế thị
trường đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp. Năm 2006 đã đánh
dấu một cột mốc hết sức quan trọng, nước ta trở thành thành viên của WTO – Tổ
chức thương mại thế giới. Sự kiện này đã mở ra một cơ hội lớn cho doanh nghiệp
Việt Nam vươn tầm ra thế giới, đồng thời cũng là một thách thứ không nhỏ vì phải
đối mặt với các đối thủ cạnh tranh mạnh về kinh nghiệm cũng như về quy mô trên
đấu trường quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh sản phẩm có vai trò vô
cùng quan trọng, nó được coi là động lực của sự phát triển không chỉ của mỗi cá
nhân, mỗi doanh nghiệp mà cả nền kinh tế nói chung. (Đào Duy Anh, 2008)
2.1.3.1. Vai trò của cạnh tranh sản phẩm đối với doanh nghiệp
Đối với các doanh nghiệp, sản phẩm là yếu tố cốt lõi vì vậy cạnh tranh sản
phẩm có vai trò sống còn quyết định sự thành bại của doanh nghiệp, một số vai trò
cụ thể của cạnh tranh sản phẩm đối với doanh nghiệp:
+ Cạnh tranh sản phẩm được coi như là cái “sàng” để lựa chọn và đào thải

những doanh nghiệp. Vì vậy nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm có vai trò cực kỳ to
8


lớn. Cạnh tranh sản phẩm quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Cạnh tranh sản phẩm tạo ra động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy
doanh nghiệp tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
+ Cạnh tranh sản phẩm đòi hỏi doanh nghiệp phải phát triển công tác
marketing bắt đầu từ việc nghiên cứu thị trường để xác định được nhu cầu thị
trường từ đó ra các quyết định sản xuất kinh doanh để đáp ứng các nhu cầu đó. Bên
cạnh đó, doanh nghiệp phải nâng cao các hoạt động dịch vụ cũng như tăng cường
công tác quảng cáo, khuyến mãi, bảo hành...
+ Cạnh tranh sản phẩm buộc các doanh nghiệp phải đưa ra các sản phẩm có
chất lượng cao hơn để đáp ứng được nhu cầu thường xuyên thay đổi của người tiêu
dùng. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật
mới vào quá trình sản xuất kinh doanh, tăng cường công tác quản lý, nâng cao trình
độ tay nghề của công nhân... từ đó làm cho doanh nghiệp ngày càng phát triển hơn.
2.1.3.2. Vai trò của cạnh tranh sản phẩm đối với người tiêu dùng
Có cạnh tranh, sản phẩm sẽ có chất lượng ngày càng tốt hơn, mẫu mã ngày
càng đẹp, phong phú đa dạng hơn để đáp ứng các yêu cầu của người tiêu dùng trong
xã hội. Vì vậy, đối với người tiêu dùng cạnh tranh sản phẩm có các vai trò sau:
+ Có cạnh tranh, hàng hoá sẽ có chất lượng ngày càng tốt hơn, mẫu mã ngày
càng đẹp, phong phú đa dạng hơn để đáp ứng các yêu cầu của người tiêu dùng trong
xã hội. Người tiêu dùng có thể thoải mái, dễ dàng trong việc lựa chọn các sản phẩm
phù hợp với túi tiền và sở thích của mình.
+ Những lợi ích mà họ thu được từ hàng hoá ngày càng được nâng cao, thoả
mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu của họ nhờ các dịch vụ kèm theo được quan tâm
nhiều hơn. Đó chính là những lợi ích mà người tiêu dùng có được từ việc nâng cao
sức cạnh tranh sản phẩm của các doanh nghiệp.
2.1.3.3. Vai trò của cạnh tranh sản phẩm đối với nền kinh tế

Cạnh tranh sản phẩm được coi như là “linh hồn” của nền kinh tế, vai trò của
cạnh tranh sản phẩm đối với nền kinh tế quốc dân thể hiện ở những mặt sau:
+ Cạnh tranh sản phẩm là môi trường, là động lực thúc đẩy sự phát triển của
mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường, góp phần xoá bỏ những độc
9


quyền, bất hợp lý, bất bình đẳng trong kinh doanh.
+ Cạnh tranh sản phẩm bảo đảm thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ
thuật, sự phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc.
+ Cạnh tranh sản phẩm thúc đẩy sự đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của xã hội, kích thích nhu cầu phát triển, làm nảy sinh những nhu cầu
mới, góp phần nâng cao chất lượng đời sống xã hội và phát triển nền kinh tế.
+ Cạnh tranh sản phẩm làm nền kinh tế quốc dân vững mạnh, tạo khả năng
cho doanh nghiệp vươn ra thị trường nước ngoài.
+ Cạnh tranh sản phẩm giúp cho nền kinh tế có nhìn nhận đúng hơn về kinh
tế thị trường, rút ra được những bài học thực tiễn bổ sung vào lý luận kinh tế thị
trường của nước ta.
Bên cạnh những tác dụng tích cực, cạnh tranh sản phẩm cũng làm xuất hiện
những hiện tượng tiêu cực như làm hàng giả, buôn lậu trốn thuế v.v. gây nên sự bất
ổn trên thị trường, làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước và của người tiêu dùng.
(Vũ Thái An, 2013).
2.1.4. Các tiêu chí chủ yếu phản ánh sức cạnh tranh của sản phẩm
2.1.4.1. Các tiêu chí thuộc về sản phẩm
Để đánh giá sức cạnh tranh của một sản phẩm thì phải dựa trên các tiêu chí về
sản phẩm để đánh giá, các yếu tố về: chất lượng sản phẩm, giá cả, mẫu mã bao bì v.v.
a. Chất lượng sản phẩm
Ngày nay chất lượng sản phẩm là yếu tố được quan tâm hàng đầu, sản phẩm
được coi là có sức cạnh tranh nếu chất lượng của sản phẩm đó vượt trội hơn so với
sản phẩm cạnh tranh trên thị trường. Chất lượng sản phẩm được hình thành từ khâu

thiết kế tới tổ chức sản xuất và ngay cả sau khi tiêu thụ hàng hóa và chịu tác động
của nhiều yếu tố: công nghệ dây chuyền sản xuất, nguyên vật liệu, trình độ tay nghề
lao động, trình độ quản lý v.v. Chất lượng sản phẩm có thể được hiểu là mức độ đáp
ứng các tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật hoặc là khả năng thỏa mãn nhu cầu của người
tiêu dùng.
b. Giá bán sản phẩm
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị sản phẩm mà người bán hay doanh
10


nghiệp dự định có thể nhận được từ người mua qua việc trao đổi sản phẩm trên thị
trường. Giá cả có một vai trò rất quan trọng, đối với doanh nghiệp là khẩu cuối cùng
của quá trình sản xuất kinh doanh hàng hóa, còn đối với người tiêu dùng là một
trong những yếu tố quyết định đến hành vi mua hàng. Giá cả là dấu hiệu tin cậy
phản ánh tình hình biến động thị trường. Thông qua giá cả, doanh nghiệp có thể
nắm bắt được sự tồn tại, sức chịu đựng cũng như sức cạnh tranh của sản phẩm trên
thị trường.
Giá cả là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định thị phần của
doanh nghiệp và khả năng sinh lời của nó. Đồng thời, giá cả còn là công cụ linh
hoạt nhất, mềm dẻo nhất trong cạnh tranh.
Giá cả sản phẩm trên thị trường được hình thành thông qua thỏa thuận
giữa người bán và người mua. Nó đóng vai trò quan trọng trong quyết định mua
hay không mua của khách hang. Trong nền kinh tế thị trường, “khách hàng là
thượng đế” họ có quyền lực chọn những gì mà họ cho là tốt nhất, và cùng một
loại sản phẩm với chất lượng tương đương nhau, chắc chắn họ sẽ lựa chọn mức
giá bán thấp hơn.
Mặc dù vậy, khi thu nhập của đại bộ phận dân cư đều tăng, khoa học kỹ thuật
phát triển thì việc định giá thấp chưa hẳn là giải pháp hữu hiệu, đôi khi còn bị đánh
đồng với việc suy giảm chất lượng. Vì vậy, định giá thấp, định giá ngang thị trường
hay định giá cao, làm sao sử dụng giá cả như một vũ khí cạnh tranh lợi hại là tùy

thuộc vào từng loại sản phẩm, từng giai đoạn trong chu kỳ sản phẩm hay tùy thuộc
vào đặc điểm của từng vùng thị trường.
c. Chủng loại sản phẩm
Phát triển số lượng chủng loại sản phẩm hàng hóa để hỗ trợ cho nhau tránh
rủi ro là đòi hỏi khách quan trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong cơ
chế thị trường ngày càng cạnh tranh khốc liệt. Phát triển số lượng chủng loại sản
phẩm có thể thực hiện theo hai hướng: Phát triển đa dạng mặt hàng kinh doanh trên
cơ sở một mặt hàng chủ lực hoặc phát triển đa dạng chủng loại sản phẩm trên cơ sở
sản phẩm xương sống. Hình thức thứ nhất thực chất là kinh doanh với những sản
phẩm khác nhau hoàn toàn về giá trị sử dụng, thậm chí về ngành nghề kinh tế kỹ
11


thuật, nhưng có một vài sản phẩm được ưu tiên phát triển mạnh. Hình thức thứ hai
thực chất là việc cải tiến, thay đổi mẫu mã phẩm trên cơ sở một sản phẩm gốc nhằm
khai thác ở các đoạn thị trường khác nhau. Trên thực tế, các doanh nghiệp thường
áp dụng cả hai hình thức này, vừa phát triển danh mục chủng loại sản phẩm theo
chiều rộng vừa phát triển theo chiều sâu.
Để tiến hành phát triển số lượng chủng loại sản phẩm, doanh nghiệp phải
thực hiện nhiều các biện pháp nghiên cứu thị trường, các biện pháp khuyến khích
người lao động có sáng kiến cải tiến kỹ thuật v.v.
d. Mẫu mã bao bì sản phẩm
Sản phẩm có bao bì, kiểu dáng được thiết kế đẹp, bắt mắt, phù hợp với thị
hiếu người tiêu dùng thì càng dễ nâng cao tính cạnh tranh. Trong quá trình quyết
định mua của mình khách hàng thường xem xét mẫu mã, kiểu dáng của sản phẩm
có phù hợp với yêu cầu và thị hiếu của mình hay không trước khi tìm hiểu những
thông tin khác về sản phẩm. (Trần Thu Hương, 2012)
2.1.4.2. Các tiêu chí về tiêu thụ sản phẩm
Để đánh giá mức độ chiếm lĩnh thị trường, sức cạnh tranh của sản phẩm so
với các đối thủ cạnh tranh trên cùng một thị trường chúng ta dựa vào các tiêu chí:

Doanh thu, thị phần, hệ thống phân phối v.v.
a. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm
Sức cạnh tranh sản phẩm cũng biểu hiện qua doanh thu tiêu thụ của sản
phẩm đó trên thị trường. Nếu sản phẩm có doanh thu cao, tốc độ tăng doanh thu cao
so với đối thủ cạnh tranh chứng tỏ sản phẩm có sức cạnh tranh cao. Chỉ tiêu này thể
hiện khả năng chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm so với đối thủ cạnh tranh.
Doanh thu = số lượng hàng hóa tiêu thụ * giá cả hàng hóa ( trong một
khoảng thời gian nhất định )
b. Thị phần của sản phẩm trên thị trường
Thị phần của một hàng hóa trên thị trường là tỷ lệ phần trăm mà một mặt hàng
chiếm lĩnh được trên thị trường đó.
Thị phần của hàng hóa A trên thị trường = mA / M * 100%
mA: Số lượng hàng hóa A được tiêu thụ trên thị trường
12


M: Tổng số lượng hàng hóa được tiêu thụ trên thị trường
Độ lớn của chỉ tiêu này nói lên mức độ chiếm lĩnh thị trường của một sản
phẩm. Thông qua chỉ tiêu này có thể đánh giá mức độ cạnh tranh của một sản phẩm
so với sản phẩm cùng loại khác.
Tuỳ theo loại mặt hàng, thị trường và theo quy mô của thị trường có thể xem
xét sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, thông qua đánh giá thị phần của
sản phẩm đó. Một sản phẩm được coi là có sức cạnh tranh cao trên thị trường khi
chúng chiếm thị phần lớn so với sản phẩm cùng loại được bán trên thị trường.
Tốc độ tăng thị phần của sản phẩm có thể so sánh theo tính lịch sử, tức là
năm sau tốt hơn năm trước, để đánh giá sức cạnh tranh của sản phẩm. Nếu sản
phẩm có tốc độ tăng thị phần cao thì sản phẩm có sức cạnh tranh cao và ngược lại
nếu thị phần của sản phẩm cạnh tranh tăng nhanh hơn thì sản phẩm của Công ty có
sức cạnh tranh thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh. (Trần Thu Hương, 2012)
2.1.4.3. Các tiêu chí liên quan khác

Nếu như trước kia tiêu chí thuộc về sản phẩm và tiêu chí về tiêu thụ sản
phẩm có tính chất quyết định đến sức cạnh tranh của sản phẩm thì ngày nay cùng
với quá trình toàn cầu hoá, phạm vi đánh giá các tiêu chí thể hiện sức cạnh tranh
cần phải được mở rộng hơn. Trong quá trình đánh giá cũng cần đưa thêm các tiêu
chí định tính khác như:
- Thương hiệu: “Một thương hiệu là một tên, thuật ngữ, dấu hiệu, biểu tượng,
hoặc thiết kế hoặc một sự kết hợp của tất cả nhứng thứ đó, nhằm xác định các hàng
hóa và dịch vụ của một người bán hoặc nhóm người bán và để phân biệt với những
đối thủ cạnh tranh.” (Phillip Kotler, 2012). Thương hiệu càng mạnh thì sức cạnh
tranh của sản phẩm càng cao.
- Lòng tin của khách hàng và sự thoả mãn của khách hàng đối với sản phẩm:
Lòng tin của khách hàng đối với sản phẩm được xây dựng trong thời gian dài khách
hàng thỏa mãn với sản phẩm và các dịch vụ khác của doanh nghiệp. Lòng tin của
khách hàng và sự thỏa mãn của khách hàng càng cao thì sức cạnh tranh của sản
phẩm trên thị trường càng cao.
Trong quá trình phân tích, đánh giá sẽ rất khó khăn cho việc lượng hoá
13


toàn bộ các tiêu chí phản ánh sức cạnh tranh của sản phẩm. Vì vậy, chúng ta phải
kết hợp vừa định lượng vừa định tính nhằm xác định sức cạnh tranh thực sự của
hàng hoá trên thị trường. Không chỉ đánh giá trên một vài tiêu chí quan trọng
như: Thị phần, doanh thu, giá cả...mà phải đánh giá một cách tổng hợp, phải dựa
trên tất cả các mặt, các yếu tố liên quan đến sản phẩm, thị trường, nhu cầu thị
hiếu của khách hàng v.v. (Trần Thu Hương, 2012)
2.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp
2.1.5.1. Yếu tố bên ngoài
a. Các yếu tố về mặt kinh tế
Các yếu tố về mặt kinh tế có vai trò quan trọng, quyết định đối với việc hình
thành và hoàn thiện môi trường kinh doanh. Đồng thời các yếu tố này cũng có ảnh

hưởng to lớn đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như sức cạnh
tranh sản phẩm.
Đây là nhân tố ảnh hưởng rất to lớn với doanh nghiệp và là nhân tố quan
trọng nhất trong môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Một nền kinh tế tăng
trưởng sẽ tạo đà cho doanh nghiệp phát triển, nhu cầu dân cư sẽ tăng lên đồng nghĩa
với một tương lai sáng sủa, điều này cũng có nghĩa là tốc độ tích luỹ vốn đầu tư
trong nền kinh tế cũng tăng lên, mức độ hấp dẫn đầu tư cũng sẽ tăng lên cao, sự
cạnh tranh cũng ngày càng gay gắt. Thị trường được mở rộng đây chính là cơ hội
tốt cho những doanh nghiệp biết tận dụng thời cơ, biết tự hoàn thiện mình, không
ngừng vươn lên chiếm lĩnh thị trường. Nhưng nó cũng chính là thách thức đối với
những doanh nghiệp không có mục tiêu rõ ràng, không có chiến lược hợp lý.
Khi nền kinh tế tăng trưởng, phát triển ổn định, sẽ diễn ra cuộc chạy đua
không khoan nhượng đối với tất cả các doanh nghiệp dù là doanh nghiệp nước
ngoài cũng như doanh nghiệp ở trong nước dù là doanh nghiệp đó đang hoạt động ở
thị trường nội địa hay thị trường nước ngoài và ngược lại khi nền kinh tế bị suy
thoái, bất ổn định, tâm lý người dân hoang mang, sức mua của người dân giảm sút,
các doanh nghiệp phải giảm sản lượng, phải tìm mọi cách để giữ khách hàng, lợi
nhuận cũng sẽ giảm theo trong lúc đó sự cạnh tranh trên thị trường lại càng trở nên
khốc liệt hơn.
14


Các yếu tố về mặt kinh tế như tỷ lệ lãi suất, tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái
v.v. tác động đến khả năng tài chính của doanh nghiệp. Với chính sách mở cửa và
xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà Nước tác động tới sức cạnh tranh
sản phẩm trong nước so với sản phẩm của nước ngoài. Cụ thể khi tham gia vào WTO
giá cả hàng hoá sẽ hạ thấp vì thuế quan được cắt giảm và thủ tục hành chính được
đơn giản hoá, chất lượng, mẫu mã hàng hoá được thay đổi do sức ép cạnh tranh trong
nội bộ WTO.
b. Các yếu tố thuộc chính trị, luật pháp

Chính trị và pháp luật có tác dụng rất lớn đến sự phát triển của bất cứ doanh
nghiệp nào, nhất là đối với những doanh nghiệp kinh doanh quốc tế. Chính trị và
pháp luật là nền tảng cho sự phát triển kinh tế cũng như là cơ sở pháp lý cho các
doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ở bất cứ thị trường nào dù là trong
nước hay nước ngoài.
Không có sự ổn định về chính trị thì sẽ không có một nền kinh tế ổn định,
phát triển thực sự lâu dài và lành mạnh. Luật pháp tác động điều chỉnh trực tiếp đến
hoạt động của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế. Mỗi thị trường đều có hệ thống
pháp luật riêng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Luật pháp rõ ràng, chính trị ổn
định là môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp. Đặc
biệt đối với từng doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất khẩu chịu ảnh hưởng
của quan hệ giữa các chính phủ, các hiệp định kinh tế quốc tế v.v. Các doanh
nghiệp này cũng đặc biệt quan tâm tới sự khác biệt về pháp luật giữa các quốc gia.
Sự khác biệt này có thể sẽ làm tăng hoặc giảm khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp những đièu này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động, chính sách kế hoạch
chiến lược phát triển, loại hình sản phẩm danh nghiệp sẽ cung cấp cho thị trường.
Vì vậy, các doanh nghiệp luôn luôn cần một nền kinh tế ổn định một môi
trường pháp luật chặt chẽ, rõ ràng, bảo vệ lợi ích cho các doanh nghiệp, cá nhân, tổ
chức v.v. trong nền kinh tế, khuyến khích phát triển, nâng cao sức cạnh tranh sản
phẩm và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

15


c. Khách hàng
Khách hàng hay người mua hàng là một bộ phận không thể tách rời trong
môi trường cạnh tranh. Khách hàng tác động đến doanh nghiệp thể hiện mối tương
quan về thế lực nếu nghiêng về phía nào thì phía đó có lợi. Các doanh nghiệp cần
phải làm chủ mối tương quan này, thiết lập được mối quan hệ với khách hàng để
giữ khách hàng (thông qua số lượng, chất lượng, giá cả, điều kiện giao nhận và dịch

vụ sau bán hàng). Khách hàng có ưu thế là có thể làm cho lợi nhuận của ngành hàng
giảm bằng cách ép giá xuống hoặc đòi hỏi chất lượng cao hơn và phải làm nhiều
công việc dịch vụ hơn.
Khách hàng có thể được xem như một sự đe dọa cạnh tranh khi họ buộc
doanh nghiệp phải giảm giá hoặc có nhu cầu chất lượng cao và dịch vụ tốt hơn.
Ngược lại khi người mua (khách hàng) yếu sẽ mang đến cho doanh nghiệp cơ hội
để tăng giá kiếm được lợi nhuận nhiều hơn.
Nếu doanh nghiệp nào đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng so với đối thủ
cạnh tranh thì họ càng nhận được sự ủng hộ và trung thành từ phía khách hàng,
doanh nghiệp đó sẽ có năng lực cạnh tranh và sản phẩm có sức cạnh tranh so với
các đối thủ cạnh tranh.
Về mặt lý thuyết, lợi ích của khách hàng và của doanh nghiệp mâu thuẫn với
nhau. Khách hàng mong muốn có được những chủng loại hàng hóa và dịch vụ với
chất lượng tốt nhất và giá cả thấp nhất. Còn doanh nghiệp lại mong muốn khách
hàng trả cho hàng hóa của họ mức giá cao.
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt thì vai trò của khách hàng càng trở nên quan
trọng và cần được ưu tiên hơn. Một doanh nghiệp không thể thỏa mãn được tất cả nhu
cầu của các loại khách hàng cho nên nhất thiết các doanh nghiệp phải phân loại khách
hàng thành các nhóm khác nhau. Trên cơ sở đó mới tiến hành phân tích và đưa ra các
chính sách thích hợp để thu hút ngày càng nhiều khách hành về phía mình.
d. Đối thủ cạnh tranh
Trong bất kỳ trận chiến nào thì “Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”.
Biết được đối thủ cạnh tranh của mình là ai, họ chào bán những gì, có thể giúp
doanh nghiệp làm cho sản phẩm, dịch vụ và các hoạt động marketing của mình nổi
16


trội và khác biệt. Những kiến thức về đối thủ rất có ích cho doanh nghiệp trong việc
định ra chiến lược cạnh tranh. Doanh nghiệp còn có thể sử dụng những kiến thức
này để sáng tạo các chiến lược cạnh tranh nhằm tận dụng điểm yếu của đối thủ và

nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm của riêng mình.
Sự hiểu biết về các đối thủ cạnh tranh có một ý nghĩa quan trọng vì các đối
thủ cạnh tranh sẽ quyết định tính chất và mức độ tranh đua. Nếu các đối thủ này yếu
doanh nghiệp có cơ hội để tăng giá bán và kiếm được nhiều lợi nhuận hơn. Ngược
lại, khi các đối thủ cạnh tranh hiện tại mạnh thì sự cạnh tranh về giá là không đáng
kể, mọi cuộc cạnh tranh về giá cả đều dẫn tới tổn thương cho doanh nghiệp.
Khi một ngành có sự tăng thêm về số lượng các đối thủ cạnh tranh mới thì hệ
quả có thể là tỷ suất lợi nhuận bị giảm và tăng thêm mức độ cạnh tranh. Các đối thủ
cạnh tranh mới tham gia vào thị trường sau, nên họ có khả năng ứng dụng những
thành tựu mới của khoa học, công nghệ. Sự xuất hiện của một đối thủ cạnh tranh
mới trong ngành thường thông qua việc mua lại các doanh nghiệp đang hoạt động,
nhưng đang có ý định rút lui khỏi ngành. Không phải bao giờ cũng gặp phải các đối
thủ cạnh tranh mới, nhưng khi đối thủ mới xuất hiện thì vị thế cạnh tranh của doanh
nghiệp sẽ thay đổi. Vì vậy, doanh nghiệp cần tự tạo một hàng rào ngăn cản sự xâm
nhập của đối thủ mới. Những hàng rào nàycó thể là lợi thế trong sản xuất, đa dạng
hóa sản phẩm, các dịch vụ bán hàng tốt v.v.
e. Các đơn vị cung ứng đầu vào cho doanh nghiệp
Đó là những nhà cung cấp nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, tiền vốn, lao
động đôi khi gây đe doạ cho doanh nghiệp do họ có khả năng tăng giá bán đầu vào
hoặc giảm chất lượng các sản phẩm dịch vụ mà họ cung cấp. Qua đó làm giảm sức
cạnh tranh sản phẩm và giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Họ thường gây sức ép
trong những tình huống như:
- Họ độc quyền cung cấp vật tư.
- Khi các vật tư được cung cấp không có khả năng thay thế
- Không có điều khoản ràng buộc hoặc bảo đảm trong các hợp đồng kinh tế
đã ký kết.
- Khi đầu vào đó quan trọng, quyết định trong sản xuất kinh doanh của
17



doanh nghiệp
- Khi họ có khả năng khép kín sản xuất.
Vì vậy doanh nghiệp cần thiết lập quan hệ lâu dài với các đơn vị cung cấp và
đưa ra các biện pháp ràng buộc với các đơn vị cung ứng đầu vào để giảm bớt các
ràng buộc họ có thể gây nên với mình, giúp doanh nghiệp sản xuất ổn định, tăng sức
cạnh tranh cho sản phẩm và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
f. Sản phẩm thay thế
Việc gia tăng về chủng loại và số lượng các sản phẩm thay thế của sản phẩm
của doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn tới sức cạnh tranh sản phẩm và thị phần tiêu
thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Sự ra đời của các sản phẩm thay thế là một tất yếu nhằm đáp ứng sự biến
động của nhu cầu thị trường theo hướng ngày càng đa dạng hơn, phong phú và cao
cấp hơn, và chính nó lại làm giảm sức cạnh tranh của các sản phẩm bị thay thế.
Sức ép do xuất hiện sản phẩm thay thế làm hạn chế lợi nhuận tiềm năng của
ngành do mức giá cao nhất bị khống chế. Nếu không chú ý tới các sản phẩm thay
thế tiềm ẩn, doanh nghiệp có thể bị tụt lại ở các thị trường nhỏ bé. Vì vậy, các hãng
không ngừng nghiên cứu và tung ra các mặt hàng thay thế.
Một doanh nghiệp có thể hoạt động thu được nhiều lợi nhuận khi trong ngành
kinh doanh đó có các cản trở xâm nhập cao, mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
hiện có là thấp, không có sản phẩm thay thế, thế lực khách hàng yếu và thế lực nhà cung
cấp cũng yếu. Ngược lại, một doanh nghiệp tiến hành kinh doanh trong một ngành hàng
có các cản trở xâm nhập thấp, cạnh tranh mạnh mẽ, có một số sản phẩm thay thế, thế lực
và của khách hàng và nhà cung cấp mạnh thì kinh doanh của doanh nghiệp sẽ chật vật và
lợi nhuận thấp. Các nhà quản lý cần phải phân tích và hiểu rõ được các thế lực trong môi
trường cạnh tranh, từ đó tận dụng cơ hội và tìm vị trí có lợi nhất cho doanh nghiệp trong
môi trường cạnh tranh của doanh nghiệp. (Vũ Hoàng Nam, 2012)
2.1.5.2. Yếu tố bên trong doanh nghiệp
a. Nguồn lực tài chính của doanh nghiệp
Khả năng tài chính có ảnh hưởng rất lớn tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp
trên thị trường. Khả năng tài chính được hiểu là quy mô tài chính của doanh nghiệp


18


và tình hình hoạt động, các chỉ tiêu tài chính hàng năm như tỷ lệ thu hồi vốn, khả
năng thanh toán v.v. Nếu một doanh nghiệp có tình trạng tài chính tốt, khả năng huy
động vốn lớn sẽ cho phép doanh nghiệp có nhiều vốn để mở rộng sản xuất kinh
doanh, đổi mới công nghệ và máy móc thiết bị, đồng thời tăng khả năng hợp tác đầu
tư về liên doanh liên kết.Tình hình sử dụng vốn cũng sẽ quyết định chi phí về vốn
của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh. (Trần Thị Anh Thư, 2012)
Bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm trang thiết bị, nguyên liệu hay phân
phối, quảng cáo cho sản phẩm v.v. đều phải được tính toán dựa trên thực trạng tài
chính của doanh nghiệp, một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh mẽ sẽ có khả
năng trang bị công nghệ máy móc hiện đại. Doanh nghiệp nào có tiềm lực tài chính
hùng mạnh sẽ có khả năng trang bị dây chuyền công nghệ sản xuất hiện đại, đảm
bảo chất lượng, hạ giáthành sản phẩm, giá bán sản phẩm tổ chức các hoạt động
quảng cáo khuyến mại mạnh mẽ nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm. Ngoài ra, với
một khả năng tài chính hùng mạnh, doanh nghiệp cũng có khả năng chấp nhận lỗ
một thời gian ngắn để hạ giá thành sản phẩm nhằm giữ vững và mở rộng thị phần
tiêu thụ sản phẩm cho doanh nghiệp để tăng sức cạnh tranh sản phẩm, tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp.
Vì vậy vấn đề tài chính luôn luôn là vấn đề gây nhiều trăn trở cho nhà quản
lý. Không chỉ vậy trong nền kinh tế thị trường, trở thành biểu tượng cho sự giàu có
phát đạt, sức cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp nguồn tài chính vững chắc sẽ là chỗ
dựa vững chắc cho các doanh nghiệp dành được sự tin cậy, đầu tư từ phía khách
hàng lẫn nhà đầu tư nước ngoài.
Khả năng tài chính của doanh nghiệp gồm vốn chủ sở hữu hay vốn tự có
và các nguồn vốn khác có thể huy động được. Tài chính không chỉ gồm các tài
sản lưu động và tài sản cố định của doanh nghiệp, mà gồm cả các khoản vay,
khoản nhập sẽ có trong tương lai và cả giá trị uy tín của doanh nghiệp đó trên thị

trường. Vốn tự có có thể do các thành viên sáng lập đóng góp hoặc do một phần
lợi nhuận được để lại từ đầu tư, hoặc vốn góp thêm của các cổ đông sau này.
Vốn vay có thể được huy động từ ngân hàng các tổ chức tài chính các đơn vị
quen biết. Thiếu nguồn tài chính cần thiết, doanh nghiệp có thể bị phá sản, sụp
19


×