Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Nghiên cứu đặc tính sinh học phân tử của virus gây tiêu chảy thành dịch (porcine epidemic diarrhea) trên lợn và một số đặc điểm bệnh lý của bệnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.26 MB, 79 trang )

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN

i

LỜI CẢM ƠN

ii

MỤC LỤC

iii

DANH MỤC VIẾT TẮT

vi

DANH MỤC BẢNG

vii

DANH MỤC HÌNH

viii

MỞ ĐẦU

1

1.


Tính cấp thiết của đề tài

1

2.

Mục đích của đề tài

2

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

3

1.1.

3

Những nghiên cứu về hội chứng tiêu chảy

1.1.1. Đặc điểm tiêu hóa của lợn con

4

1.1.2. Một số nguyên nhân gây tiêu chảy ở lợn

5

1.2.


Lịch sử và tình hình nghiên cứu bệnh tiêu chảy thành dịch trên lợn
(Porcine Epidemic Diarrhea – PED)

10

1.2.1. Tình hình nghiên cứu bệnh tiêu chảy thành dịch do virus PED gây ra
trên thế giới

10

1.2.2. Tình hình nghiên cứu bệnh tiêu chảy thành dịch do virus PED gây ra ở
1.3.

trong nước

11

Căn bệnh

11

1.3.1. Phân loại và hình thái của virus gây bệnh PED

11

1.3.2. Cấu trúc phân tử của virus gây bệnh

12

1.3.3. Sức đề kháng của virus gây bệnh PED


15

1.4.

Truyền nhiễm học

15

1.4.1. Loài vật mắc bệnh

15

1.4.2. Phương thức truyền lây của virus PED

15

1.4.3. Cơ chế gây bệnh

16

1.5.

17

Triệu chứng và bệnh tích

1.5.1. Triệu chứng lâm sàng

17


iii


1.5.2. Bệnh tích

18

1.6.

Chẩn đoán

18

1.7.

Kỹ thuật PCR (polymerase chain reaction)

19

1.7.1. Nguyên lý của phản ứng PCR

19

1.7.2. Các bước tiến hành phản ứng PCR

21

1.8.


21

Kỹ thuật giải trình tự gen

1.8.1. Giải trình tự DNA theo phương pháp Maxam và Gilbert

21

1.8.2. Giải trình tự DNA theo phương pháp dideoxy

22

1.8.3. Giải trình tự DNA bằng máy tự động

24

Chương 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

25

2.1.

Vật liệu nghiên cứu

25

2.2.

Địa điểm và thời gian nghiên cứu


25

2.3.

Nội dung nghiên cứu

25

2.4.

Phương pháp nghiên cứu

25

2.4.1. Phương pháp thống kê sinh học

25

2.4.2. Phương pháp mổ khám

26

2.4.3. Phương pháp làm tiêu bản vi thể theo quy trình tẩm đúc bằng Parafin,
nhuộm Haematoxylin – Eosin (HE)

26

2.4.4. Phương pháp tách chiết RNA tổng số bằng hóa chất

29


2.4.5. Phương pháp tiến hành phản ứng RT-PCR

30

2.4.6. Phương pháp điện di kiểm tra sản phẩm PCR

31

2.4.7. Phương pháp giải trình tự

31

2.4.8. Phương pháp xử lý số liệu

33

Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

34

3.1.

Kết quả phản ứng RT-PCR chẩn đoán lợn mắc PED

34

3.2.

Triệu chứng lâm sàng chủ yếu ở lợn mắc PED


37

3.3.

Kết quả nghiên cứu bệnh tích đại thể ở lợn mắc PED

42

3.4.

Kết quả nghiên cứu bệnh tích vi thể ở lợn mắc PED

46

iv


3.5.

Kết quả giải trình tự gen, so sánh thành phần và sự tương đồng
nucleotide, axit amin của các chủng virus PED nghiên cứu và một số
chủng virus PED tham chiếu

49

3.5.1. Kết quả so sánh sự tương đồng nucleotide của các chủng virus PED nghiên
cứu

49


3.5.2. Kết quả so sánh sự tương đồng nucleotide của các chủng virus PED
nghiên cứu được với một số chủng virus PED trên thế giới.

52

3.5.3. Kết quả so sánh sự tương đồng axit amin của các chủng virus PED
nghiên cứu

58

3.5.4. Kết quả so sánh sự tương đồng về thứ tự axit amin của các chủng virus
3.6.

PED nghiên cứu được với một số chủng tham chiếu trên thế giới

59

Kết quả xây dựng cây phả hệ

62

KẾT LUẬN

65

ĐỀ NGHỊ

67


TÀI LIỆU THAM KHẢO

68

PHỤ LỤC ẢNH

71

1. MỘT SỐ HÌNH ẢNH BỆNH TÍCH ĐẠI THỂ CỦA LỢN MẮC PED

71

2. MỘT SỐ HÌNH ẢNH BỆNH TÍCH VI THỂ

72

v


DANH MỤC VIẾT TẮT
Cs

: Cộng sự

FMDV

: The foot-and-mouth disease virus

M


: Membrain protein

N

: Nuclecapxit protein

NXB

: Nhà xuất bản

ORF3

: Open reading flame

PED

: Porcine epidemic diearrhea

PEDV

: Porcine epidemic diearrhea virus

Pp

: Page paper

PRRSV

: Porcine reproductive and respiratory
syndrome virus


RT-PCR

: Reverse transcription polymerase chain reaction

S

: Spike protein

TGEV

: Transmissible gastroenteritis virus

Tr

: Trang

vi


DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Kết quả phản ứng RT-PCR trên lợn ở các tỉnh

34

Bảng 3.2. Kết quả phản ứng RT-PCR

35

Bảng 3.3. Kết quả theo dõi một số biểu hiện về triệu chứng lâm sàng của lợn

mắc PED

38

Bảng 3.4. Bệnh tích đại thể trên một số cơ quan của lợn mắc PED

42

Bảng 3.5. Bệnh tích vi thể của lợn mắc PED

46

Bảng 3.6. Sai khác về vị trí nucleotide của các chủng virus PED nghiên cứu 51
Bảng 3.7.

Sự tương đồng về nucleotide giữa các chủng virus PED nghiên cứu (%) 51

Bảng 3.8. Một số thông tin về các chủng virus PED tham chiếu

53

Bảng 3.9. Sự tương đồng về nucleotide giữa các chủng virus PED nghiên cứu
với một số chủng virus PED trên thế giới (%)

57

Bảng 3.10. Sai khác về thứ tự axit amin được mã hóa ở gen M của các chủng
virus PED nghiên cứu

59


Bảng 3.11. Sự tương đồng về thứ tự axit amin được mã hóa của gen M giữa
các chủng virus PED nghiên cứu (%)

59

Bảng 3.12. Sự tương đồng về thứ tự axit amin ở gen M giữa các chủng virus
PED nghiên cứu với một số chủng virus PED trên thế giới (%)

vii

61


DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1.

Những không bào trong bào tương của một tế bào hấp thu ở
ruột non lợn, chứa các hạt virus PED có đường kính từ 90190 nm (x20.000).

12

Hình 1.2. Virus PED chủng KPEDV-9 phân lập tại Hàn Quốc nhuộm
với urany acetat 2%. Chiều dài thanh nằm ngang tương
đương 100nm.

12

Hình 1.3.


Mô hình cấu trúc bộ gen virus PED

13

Hình 1.4.

Mô hình nguyên lý của phản ứng RT-PCR

20

Hình 3.1.

Kết quả phản ứng RT-PCR

36

Hình 3.2.

Lợn sút cân, gầy còm

41

Hình 3.3.

Lợn nôn mửa

41

Hình 3.4.


Lợn nằm dồn đống

41

Hình 3.5.

Phân dính hậu môn, chân

41

Hình 3.6.

Phân lỏng màu vàng

41

Hình 3.7.

Phân màu xi măng

41

Hình 3.8.

Dạ dày, ruột căng, thành mỏng

45

Hình 3.9.


Hạch màng treo ruột sưng to

45

Hình 3.10.

Thành ruột mỏng, xuất huyết

45

Hình 3.11.

Ống dưỡng chất sung huyết

45

Hình 3.12. Biểu mô dạ dày đứt nát (HE 10X)

48

Hình 3.13. Ruột non sung huyết, xuất huyết (HE 10X)

48

Hình 3.14. Tĩnh mạch chứa nhiều hồng cầu (HE 10X)

48

Hình 3.15. Lớp đệm nhiều bạch cầu, lông nhung đứt nát (HE 10X)


48

Hình 3.16. Lông nhung ruột đứt nát (HE 10X)

48

Hình 3.17. Thâm nhiễm tế bào viêm ở ruột (HE 40X)

48

Hình 3.18. So sánh thành phần nucleotit chuỗi gen giải trình tự

50

viii


Hình 3.19. So sánh thành phần nucleotide giữa các chủng virus PED
nghiên cứu với một số chủng virus PED trên thế giới

56

Hình 3.20. So sánh thành phần axit amin được mã hóa của chuỗi gen
giải trình tự

58

Hình 3.21. So sánh thành phần axit amin giữa các chủng virus PED
nghiên cứu với một số chủng virus PED trên thế giới


60

Hình 3.22. Cây phả hệ của các chủng virus PED nghiên cứu dựa trên
trình tự nucleotide (hiển thị dạng cây theo boot trap)

62

Hình 3.23. Cây phả hệ của các chủng virus PED nghiên cứu dựa trên
trình tự nucleotide (hiển thị dạng cây theo cây gốc)

ix

63


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xét trên bình diện thế giới, nhất là với các nước châu Á, chăn nuôi luôn là
một ngành kinh tế nông nghiệp quan trọng. Hệ thống nông nghiệp Việt Nam đã
đạt được thành tích đáng ghi nhận không chỉ ở lĩnh vực lương thực và cây công
nghiệp mà còn ở lĩnh vực chăn nuôi gia súc và thủy sản. Cùng với sự phát triển
của quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, công nghệ hiện đại ngày
càng được áp dụng sâu rộng đã giúp cho năng suất chăn nuôi ngày càng tăng cao,
thời gian nuôi được rút ngắn, do đó lợi nhuận thu được từ chăn nuôi cũng có xu
hướng tăng. Bên cạnh đó, mức sống của con người ngày càng nâng cao kéo theo
sự thay đổi trong cơ cấu tiêu dùng thức ăn, xu hướng tiêu dùng sản phẩm trồng
trọt giảm đi, nhanh chóng nhường chỗ cho sản phẩm chăn nuôi. Nhu cầu về thịt
trên thị trường ngày càng tăng lên, đặc biệt là nhu cầu về sản phẩm thịt lợn.
Tình hình trên chính là động lực để thúc đẩy ngành chăn nuôi lợn ngày

càng phát triển mạnh mẽ. Chăn nuôi lợn là ngành chăn nuôi không mới nhưng
trong điều kiện Việt Nam hiện nay, đó lại là ngành chăn nuôi có triển vọng nhất.
Tuy nhiên, ngành chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng cũng gặp
không ít khó khăn, đặc biệt là vấn đề dịch bệnh đã mang lại những thiệt hại
không nhỏ cho người chăn nuôi.
Bệnh tiêu chảy thành dịch ở trên lợn do virus PED (Porcine Epidemic
Diarrhea) - một virus thuộc họ Coronavirus đang là một trong những vấn đề rất
được quan tâm hiện nay do bệnh đã gây thiệt hại nghiêm trọng trên đàn lợn.
Bệnh PED xảy ra quanh năm, nhưng thường phổ biến hơn vào mùa đông và trên
90% ca bệnh xảy ra ở lợn dưới 10 ngày tuổi. Bệnh xuất hiện lần đầu tiên ở nước
Anh vào năm 1972, sau đó lây lan ra nhiều quốc gia ở châu Âu và châu Á như
Trung Quốc, vũng lãnh thổ Đài Loan, Nhật, Hàn Quốc và Thái Lan. Năm 2008,
virut PED đã được phát hiện trong một số đàn lợn bị tiêu chảy ở Việt Nam.

1


Cho tới nay, ở Việt Nam, chưa có nhiều công trình nghiên cứu về bệnh
tiêu chảy thành dịch ở trên lợn do virus PED cũng như nghiên cứu đặc điểm
bệnh lý, sinh học phân tử của virus PED, đặc biệt là ở khu vực phía Bắc Việt
Nam. Bên cạnh đó, có một thực tế đặt ra là: các biểu hiện triệu chứng lâm
sàng ở trên lợn ốm do nhiễm virus PED giống và rất dễ nhầm lẫn với các biểu
hiện triệu chứng lâm sàng ở lợn bị nhiễm virus gây viêm dạ dày ruột truyền
nhiễm (TGEV).
Xuất phát từ tình hình thực tiễn trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu đặc tính sinh học phân tử của virus gây tiêu chảy thành dịch
(Porcine epidemic diarrhea) trên lợn và một số đặc điểm bệnh lý của bệnh”
2. Mục đích của đề tài
- Xác định được các đặc điểm bệnh lý chủ yếu (bao gồm triệu chứng lâm
sàng, bệnh tích đại thể, vi thể) của lợn mắc bệnh tiêu chảy thành dịch do virus

PED gây ra.
- Xác định được mối quan hệ di truyền của chủng virus PED nghiên cứu tại
Việt Nam so với các chủng tham chiếu trên thế giới dựa trên trình tự gen M của
virus gây bệnh.

2


Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Những nghiên cứu về hội chứng tiêu chảy
Tiêu chảy là một biểu hiện lâm sàng của quá trình bệnh lý đặc thù ở
đường tiêu hóa. Biểu hiện lâm sàng tùy theo đặc điểm, tính chất, diễn biến, độ
tuổi mắc bệnh. Tùy theo yếu tố nào được xem là nguyên nhân chính mà nó được
gọi với nhiều tên khác nhau: Bệnh lợn con ỉa phân trắng, bệnh tiêu chảy sau cai
sữa, chứng khó tiêu, chứng rối loạn tiêu hóa hay Colibacillosis, Salmonellosis,…
hoặc tiêu chảy là triệu chứng thường gặp ở nhiều bệnh ký sinh trùng, bệnh do
virus, bệnh do vi khuẩn.
Tiêu chảy thường gặp ở gia súc, đã và đang gây thiệt hại lớn cho ngành
chăn nuôi. Trong lịch sử nghiên cứu về hội chứng tiêu chảy, nhiều tác giả đã
nghiên cứu, tìm hiểu nguyên nhân gây ra hội chứng tiêu chảy. Tuy nhiên, tiêu
chảy là một hiện tượng bệnh lý, có liên quan đến rất nhiều các yếu tố, có yếu tố
là nguyên nhân nguyên phát, có yếu tố là nguyên nhân thứ phát. Việc phân biệt
rạch ròi nguyên nhân gây tiêu chảy không đơn giản. Ngày nay, người ta thống
nhất rằng, phân loại nguyên nhân gây tiêu chảy chỉ có ý nghĩa tương đối, chỉ nêu
lên yếu tố nào là chính, xuất hiện đầu tiên, yếu tố nào là phụ xuất hiện sau, từ đó
vạch ra phác đồ phòng và điều trị bệnh có hiệu quả. Nhưng cho dù bất cứ nguyên
nhân nào dẫn đến tiêu chảy thì hậu quả của nó cũng gây ra viêm nhiễm, tổn
thương thực thể đường tiêu hóa và cuối cùng là nhiễm trùng.
Theo Fairbrother J.M. (1992) tiêu chảy là một bệnh gây thiệt hại đáng kể
cho ngành chăn nuôi lợn.

Theo Trịnh Văn Thịnh (1995), Lê Minh Chí (1995) lợn bị tiêu chảy
thường mất nước, mất chất điện giải và kiệt sức. Những lợn khỏi thường bị còi
cọc, thiếu máu, chậm lớn hoặc hiện tượng viêm nhiễm, tổn thương thực thể
đường tiêu hóa và cuối cùng là quá trình nhiễm trùng dẫn đến lợn chết với tỷ lệ
cao, gây thiệt hại lớn về kinh tế. Đó cũng là nguyên nhân làm cho hiệu quả chăn
nuôi không cao.

3


Sử An Ninh (1993), Phan Thanh Phượng và cs. (1995) cho biết ở nước ta
bệnh tiêu chảy xảy ra quanh năm, đặc biệt vào vụ đông xuân, khi thời tiết thay
đổi đột ngột và vào những giai đoạn chuyển mùa trong năm.
Khi nghiên cứu về tình hình dịch tễ, các nhà khoa học đã nhận xét bệnh
tiêu chảy xảy ra ở mọi nơi, mọi lúc trên thế giới (Lecce J.G., 1976); (Griffin
J.F.T., 1989).
Kết quả nghiên cứu của Hoàng Văn Tuấn và cs. (1998) cho thấy bệnh tiêu
chảy xảy ra ở mọi lứa tuổi, từ sơ sinh cho đến độ tuổi sinh sản, nhưng trầm trọng
nhất là ở lợn sơ sinh đến cai sữa.
1.1.1. Đặc điểm tiêu hóa của lợn con
Ở gia súc non sau khi sinh ra, chức năng của các cơ quan trong cơ thể nhất
là cơ quan tiêu hóa chưa hoàn chỉnh, nồng độ HCl và các men tiêu hóa chưa đảm
nhiệm đầy đủ chức năng tiêu hóa, rất dễ gây rối loạn trao đổi chất, hậu quả dễ
nhận biết là rối loạn tiêu hóa, gây tiêu chảy, còi cọc, thiếu máu và chậm lớn.
Trong dịch vị của gia súc non chưa có đủ axit HCl tự do nên không hoạt hóa
được men pepsin vì vậy không tiêu hóa hết sữa mẹ, trong khi đó sữa mẹ lại là
môi trường phát triển tốt của nhiều loại vi khuẩn.
Ở lợn con, có giai đoạn không có HCl trong dạ dày, đây được coi
là giai đoạn thích ứng cần thiết tự nhiên. Chính nhờ sự thích ứng này, cơ thể lợn
con mới có khả năng hấp thu được kháng thể miễn dịch qua sữa đầu. Trong giai

đoạn này dịch vị lại không có hoạt tính phân giải protein mà chỉ có hoạt tính làm
vón sữa đầu và sữa. Albumin và Globulin được chuyển xuống ruột và thẩm thấu
vào máu. Nhưng trên 14 - 16 ngày tuổi, tình trạng thiếu HCl ở dạ dày không còn
là sự cần thiết sinh lý bình thường nữa. Việc tập ăn cho lợn con sớm và cai sữa
sớm đã rút ngắn được giai đoạn thiếu HCl, hoạt hóa hoạt động tiết dịch, giúp tăng
khả năng tạo các đáp ứng miễn dịch của cơ thể.
Nhưng giai đoạn sau cai sữa là một giai đoạn khó khăn đối với lợn con khi
chuyển từ sữa mẹ sang thức ăn ở dạng rắn. Điều đó có thể gây mất cân bằng hệ vi
sinh vật đường ruột tạo điều kiện cho vi khuẩn có hại phát triển và cũng là
nguyên nhân gây ra bệnh, dẫn đến kết quả là lợn con chậm lớn và có thể chết.

4


Ngoài ra, lợn con còn chịu nhiều tác động của lợn mẹ, sự thay đổi ngoại
cảnh cũng góp phần làm tăng stress của lợn con.
1.1.2. Một số nguyên nhân gây tiêu chảy ở lợn
Tiêu chảy là một hiện tượng bệnh lý có liên quan đến nhiều yếu tố, có yếu
tố là nguyên nhân nguyên phát, có yếu tố là nguyên nhân thứ phát. Vì vậy, việc
phân biệt rạch ròi giữa các nguyên nhân gây tiêu chảy là rất khó khăn.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về nguyên nhân gây nên hội chứng tiêu
chảy, có thể là nguyên phát hay thứ phát. Dưới đây là một số nguyên nhân cơ bản:
1.1.2.1. Do môi trường ngoại cảnh
Môi trường ngoại cảnh là một trong 3 yếu tố cơ bản gây ra bệnh dịch, mối
quan hệ giữa cơ thể - mầm bệnh - môi trường là nguyên nhân của sự không ổn
định về sức khỏe, đưa đến phát sinh bệnh (Nguyễn Như Thanh, 2001).
Môi trường ngoại cảnh bao gồm các yếu tố: nhiệt độ, ẩm độ, các điều kiện
về chăm sóc nuôi dưỡng, vệ sinh chuồng trại, sự di chuyển, thức ăn, nước uống…
Khi gia súc bị nhiễm lạnh kéo dài làm giảm phản ứng miễn dịch, giảm tác
dụng thực bào, làm cho gia súc dễ bị nhiễm khuẩn và gây bệnh. Khẩu phần ăn

cho vật nuôi không thích hợp, thức ăn kém chất lượng như thối, mốc và nhiễm
các tạp chất, các vi sinh vật có hại dễ dẫn đến rối loạn tiêu hóa kèm theo viêm
ruột, ỉa chảy ở gia súc.
Đào Trọng Đạt và cs. (1995); Phạm Khắc Hiếu và cs. (1998) cũng cho
rằng các yếu tố stress lạnh, độ ẩm ảnh hưởng rất lớn đến lợn sơ sinh, lợn con vài
ngày tuổi. Độ ẩm thích hợp cho lợn là từ 75% đến 85%. Việc làm khô và giữ ấm
chuồng nuôi là vô cùng quan trọng.
Sử An Ninh và cs. (1981); Niconxki V.V. (1986); Phạm Khắc Hiếu và cs.
(1998) cho rằng các yếu tố khí hậu, thời tiết không thuận lợi là yếu tố tác động
rất mạnh đến quá trình loạn khuẩn ở lợn và là nguyên nhân gây ra bệnh tiêu chảy.
Như vậy, nguyên nhân môi trường ngoại cảnh gây tiêu chảy không mang
tính đặc hiệu mà mang tính tổng hợp. Lạnh và ẩm gây rối loạn hệ thống điều tiết
trao đổi nhiệt của cơ thể lợn, dẫn đến rối loạn quá trình trao đổi chất, làm giảm

5


sức đề kháng của cơ thể, từ đó các mầm bệnh trong đường tiêu hóa có thời cơ
tăng cường độc lực và gây bệnh.
1.1.2.2. Chế độ chăm sóc nuôi dưỡng không đúng kỹ thuật
Thức ăn kém chất lượng, ôi thiu, khó tiêu… là nguyên nhân gây ỉa chảy ở
gia súc. Thức ăn thiếu các chất khoáng, vitamin cần thiết cho cơ thể, đồng thời
phương thức chăn nuôi không phù hợp sẽ làm giảm sức đề kháng của cơ thể gia
súc và tạo cơ hội cho các vi khuẩn đường tiêu hóa phát triển và gây bệnh (Hồ
Văn Nam và cs., 1997).
Theo Hoàng Văn Tuấn (1998); Đoàn Kim Dung (2004); cho rằng: Tỷ lệ
mắc tiêu chảy trong một số cơ sở chăn nuôi lợn phụ thuộc vào điều kiện chăm
sóc, vệ sinh thú y, còn tỷ lệ chết, mức độ trầm trọng của bệnh ở một đàn phụ
thuộc vào giai đoạn mắc bệnh.
Theo Trịnh Văn Thịnh (1995); Đào Trọng Đạt và cs. (1995) trong quy

trình kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng lợn thì công tác chăm sóc, nuôi dưỡng lợn
con và lợn mẹ đúng kỹ thuật phù hợp với lứa tuổi là yếu tố quan trọng quyết định
đến tỷ lệ tiêu chảy cao hay thấp, trong thành phần và sự cân đối các chất dinh
dưỡng trong khẩu phần đóng vai tò quan trọng.
1.1.2.3. Tiêu chảy do vi khuẩn
Trong đường tiêu hóa của gia súc có hệ vi khuẩn gọi là hệ vi khuẩn đường
ruột, được chia thành 2 loại, trong đó vi khuẩn có lợi tác dụng lên men phân giải
các chất dinh dưỡng giúp cho quá trình tiêu hóa được thuận lợi và vi khuẩn có
hại thì khi có điều kiện thuận lợi sẽ gây bệnh.
Họ vi khuẩn đường ruột là họ vi khuẩn cộng sinh thường trực trong đường
ruột. Họ vi khuẩn này muốn từ vi khuẩn cộng sinh trở thành vi khuẩn gây bệnh
thì phải có 3 điều kiện.
- Trên cơ thể vật chủ có cấu trúc giúp cho vi khuẩn thực hiện được chức
năng bám dính.
- Vi khuẩn phải có khả năng sản sinh các yếu tố gây bệnh, đặc biệt sản
sinh độc tố, trong đó quan trọng nhất là độc tố đường ruột Enterotoxin.

6


- Có khả năng xâm nhập vào lớp tế bào biểu mô của niêm mạc ruột và từ
đó phát triển lên.
Một số vi khuẩn thuộc họ vi khuẩn đường ruột là E.coli, Salmonella
sp.shigella, Klebsiella, Clostridium perfringens…đó là những vi khuẩn quan
trọng, gây rối loạn tiêu hóa, viêm ruột tiêu chảy ở người và nhiều loài động vật.
Đào Trọng Đạt và cs. (1996) cho biết: chiếm tỷ lệ cao nhất trong số các vi
khuẩn đường ruột gây tiêu chảy là E.coli (45,6%). Cũng theo tác giả, vi khuẩn
yếm khí C. perfringens gây bệnh khi có điều kiện thuận lợi và khi nó trở thành
vai trò chính.
Cù Hữu Phú và cs. (2004) khi nghiên cứu về E.coli và Salmonella ở lợn

tiêu chảy cho biết tỷ lệ phát hiện E.coli độc trong phân là 80 -90% số mẫu xét
nghiệm.
Phan Thanh Phượng và cs. (1996) vi khuẩn yếm khí C. perfringens là một
trong những tác nhân gây bệnh quan trọng trong hội chứng tiêu chảy của lợn ở
lứa tuổi từ 1-120 ngày tuổi. Ở lợn con theo mẹ, tỷ lệ mắc bệnh do vi khuẩn này
gây ra có thể đến 100% và tỷ lệ chết là 60%.
Hồ Văn Nam và cs. (1997) nhấn mạnh: vi khuẩn đường ruột có vai trò
không thể thiếu được trong hội chứng tiêu chảy.
Nguyễn Như Pho (2003) cho rằng, khả năng gây bệnh của các loại vi
khuẩn đối với lứa tuổi lợn khác nhau. Đối với lợn con theo mẹ, lợn sau cai sữa
hoặc giai đoạn đầu nuôi thịt thì tỷ lệ mắc tiêu chảy do Salmonella cao hơn; giai
đoạn lúc sơ sinh đến sau cai sữa thường do E. coli; lứa tuổi 6-12 tuần tuổi thì
thường do xoắn khuẩn Treponema hyodysenterriae; vi khuẩn yếm khí C.
perfringens thường gây bệnh nặng cho lợn con theo mẹ trong khoảng 1 tuần tuổi
đến cai sữa.
1.1.2.4. Tiêu chảy do virus
Virus cũng là tác nhân gây bệnh tiêu chảy ở lợn. Sự xuất hiện của virus
làm tổn thương niêm mạc ruột, làm suy giảm sức đề kháng của cơ thể và thường
gây ỉa chảy ở dạng cấp tính với tỷ lệ chết cao.

7


Khooteng Hoat (1995) đã thống kê có hơn 10 loại virus có tác động làm
tổn thương đường tiêu hóa, gây viêm ruột ỉa chảy như: Enterovirus, Rotavirus,
Coronavirus, virus dịch tả lợn...
Rotavirus và Coronavirus là những virus gây tiêu chảy quan trọng ở gia
súc non mới sinh như nghé, dê, cừu con, lợn con, ngựa con và đặc biệt là bê do
những virus này có khả năng phá hủy màng ruột và gây tiêu chảy nặng
(Archie.H, 2000).

Lecce J.G (1976); Nilson O (1984) nghiên cứu về virus gây bệnh đường
tiêu hóa đã xác định được vai trò của Rotavirus trong hội chứng tiêu chảy ở lợn.
Các nghiên cứu trong nước của Nguyễn Như Pho (2003) cũng đã cho
rằng: Rotavirus và Coronavirus gây bệnh tiêu chảy chủ yếu cho lợn con trong
giai đoạn theo mẹ, với các triệu chứng tiêu chảy cấp tính, nôn mửa, mất nước với
tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ chết cao.
Theo Bergenland H.U (1992) trong số những mầm bệnh thường gặp ở lợn
trước và sau cai sữa bị bệnh tiêu chảy có rất nhiều loại vi rút, 29% phân lợn bệnh
tiêu chảy phân lập được Rotavirus, 11,2% có vi rút TGE, 2% có Enterovirus,
0,7% có Parvovirus.
1.1.2.5. Tiêu chảy do nấm mốc
Thức ăn khi chế biến hoặc bảo quản không đúng kỹ thuật dễ bị nấm mốc.
Một số loài như: Aspergillus, Penicillium, Fusarium…có khả năng sản sinh
nhiều loại độc tố Afratoxin (Afratoxin B1, B2, G1, G2, M1).
Độc tố Afratoxin gây độc cho người và gia súc gây bệnh nguy hiểm nhất
cho con người là ung thư gan, hủy hoại gan, độc cho thận, sinh dục và thần kinh.
Afratoxin gây độc cho nhiều loài gia súc, gia cầm, mẫn cảm nhất là vịt, gà, lợn và
các gia súc khác. Lợn khi nhiễm độc thường bỏ ăn, thiếu máu, vàng da, ỉa chảy,
ỉa chảy ra máu. Nếu trong khẩu phần có 500 - 700µg Afratoxin/kg thức ăn sẽ làm
cho lợn con chậm lớn, còi cọc, giảm sức đề kháng với các bệnh truyền nhiễm
khác (Lê Thị Tài và cs., 1997).

8


1.1.2.6. Tiêu chảy do ký sinh trùng
Có nhiều loại ký sinh trùng gây bệnh tiêu chảy ở lợn như: Cầu trùng
Eimeria, Isospora suis, Crystosporidium, Ascaris suum, Trichuris suis…hoặc
một số loài giun tròn lớp Nematoda (Ascaris suum, Trichuris suis, Strongloides,
Haemonchus, mecistocirrus…).

Bệnh do Isospora suis, Crytosporidium thường tập trung vào giai đoạn
lợn con từ 5 - 25 ngày tuổi, còn ở lợn trên 2 tháng tuổi do cơ thể đã tạo được
miễn dịch đối với bệnh cầu trùng, nên lợn chỉ mang mầm bệnh mà ít khi xuất
hiện triệu chứng tiêu chảy (Nguyễn Như Pho, 2003).
Cầu trùng và một số loại giun tròn (giun đũa, giun tóc, giun lươn) là một
trong những nguyên nhân gây tiêu chảy ở lợn sau cai sữa nuôi trong các hộ gia
đình tại Thái Nguyên (Nguyễn Thị Kim Lan và cs., 2006a). Đặc điểm chủ yếu
của tiêu chảy do ký sinh trùng là con vật mắc bệnh tiêu chảy nhưng không liên
tục, có sự xen kẽ giữa tiêu chảy và bình thường, cơ thể thiếu máu, da nhợt nhạt,
gia súc kém ăn, thể trạng sa sút.
Tác giả Nguyễn Kim Thành (1999) cho biết trong đường ruột của lợn tiêu
chảy đã tìm thấy giun đũa ký sinh với lượng không nhỏ.
Theo Phan Địch Lân và Phạm Sỹ Lăng (1995) giun đũa ký sinh trong ruột
non của lợn là loài Ascarissuum. Giun đũa lợn phát triển và gây bệnh không cần
vật chủ trung gian, lợn trực tiếp nuốt phải trứng (ấu trùng gây nhiễm), khi vào cơ
thể lợn trứng sẽ thực hiện quá trình di hành và phát triển thành giun trưởng thành
ký sinh ở đường tiêu hóa.
Theo Phạm Văn Khuê và Phạm Lục (1996) sán lá ruột lợn và giun đũa lợn
trong đường tiêu hóa, chúng làm tổn thương niêm mạc đường tiêu hóa gây viêm
ruột ỉa chảy.
Như vậy, có thể thấy có rất nhiều nguyên nhân gây tiêu chảy, nhưng theo
chuyên gia chuyên nghiên cứu về bệnh tiêu chảy ở lợn như Lê Văn Tạo (1993)
thì dù nguyên nhân nào gây tiêu chảy cho lợn thì cuối cùng cũng là quá trình
nhiễm khuẩn, vi khuẩn kế phát làm viêm ruột, tiêu chảy nặng thêm, có thể dẫn
đến chết hoặc tiêu chảy viêm ruột mạn tính.

9


1.2. Lịch sử và tình hình nghiên cứu bệnh tiêu chảy thành dịch trên lợn

(Porcine Epidemic Diarrhea – PED)
1.2.1. Tình hình nghiên cứu bệnh tiêu chảy thành dịch do virus PED gây ra
trên thế giới
Bệnh tiêu chảy thành dịch trên lợn được phát hiện đầu tiên tại nước Anh
vào năm 1971. Bệnh xảy ra trên lợn tăng trưởng và vỗ béo với các biểu hiện lâm
sàng ở lợn ốm giống hệt như bị nhiễm virus gây viêm dạ dày ruột truyền nhiễm
(TGEV), chỉ khác một đặc điểm quan trọng đó là lợn con đang bú mẹ không mắc
bệnh. TGEV và các tác nhân gây bệnh đường tiêu hóa khác đã được xác định
không phải là nguyên nhân gây ra bệnh trên. Sau đó căn bệnh này đã lây lan sang
các nước châu Âu và được gọi là bệnh “tiêu chảy thành dịch do virus” (Epidemic
viral diarrhea – EVD). Năm 1976 căn bệnh tiêu chảy giống TGE lại xuất hiện
nhưng xảy ra trên tất cả lợn ở mọi lứa tuổi, gồm cả lợn con đang trong giai đoạn
bú sữa mẹ, khả năng nguyên nhân gây bệnh là TGEV và các tác nhân gây bệnh
đường tiêu hóa khác cũng đã được loại trừ. Khi đó, tên EVD loại 2 được đưa ra
để phân biệt với EDV loại 1 là bệnh bùng phát năm 1971 với sự khác nhau đó là
lợn con đang bú mẹ chỉ mắc EDV loại 2 mà không mắc EDV loại 1.
Năm 1978, Coronavirus đã được chứng minh là nguyên nhân gây ra các
đợt bùng phát EVD loại 2. Kết quả gây bệnh thực nghiệm cho lợn bằng một
chủng virus phân lập được (CV777) cho thấy bệnh tích đường tiêu hoá biểu hiện
điển hình trên cả lợn con và lợn vỗ béo. Rõ ràng là Coronavirus này liên quan tới
sự bùng phát EVD loại 1 và loại 2, từ đó tên bệnh đã được đổi thành “tiêu chảy
thành dịch trên lợn” viết tắt theo tên tiếng anh là PED (Porcine Epidemic
Diarrhea).
Các virut này thuộc chi Coronavirus, một virut rất quan trọng trong thú y,
gây nhiều dịch bệnh nghiêm trọng trên nhiều loài động vật (Murphy và ctv,
1999). PED do porcine epidemic diarrhea virus (PEDV) gây ra, được phát hiện
đầu tiên ở Anh quốc vào năm 1971, lúc đầu chỉ xảy ra trên heo cai sữa (phân loại
là PED-type I). Năm 1976, PED được quan sát trên heo mọi lứa tuổi đặc biệt ảnh
hưởng nặng nề trên heo con theo mẹ (phân loại là PED-type II). PED khó phân


10


biệt với TGE qua triệu chứng lâm sàng và bệnh học. Khi bệnh này bùng phát,
những nhà chuyên môn mô tả bệnh giống như viêm dạ dày ruột truyền nhiễm
(TGE-like). Tuy nhiên, căn bệnh PEDV được xác định là một Coronavirus khác
với virut TGE. PED-type I và PED-type II cũng được chứng minh đều do cùng
một virut gây ra vào năm 1982.
Hiện nay, bệnh đã được xác nhận có mặt ở một số nước châu Âu, Trung
Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản (Debouck P và cộng sự, 1981). Tuy nhiên, ở châu
Á, dịch lại xảy ra nghiêm trọng với tỷ lệ tử vong cao trên lợn ở tất cả các lứa tuổi,
và không thể phân biệt chúng về mặt lâm sàng với bệnh TGE thể cấp tính.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu bệnh tiêu chảy thành dịch do virus PED gây ra ở
trong nước
Ở Việt Nam, hiện tại có rất ít nghiên cứu tiến hành về bệnh PED. Bệnh
được phát hiện từ năm 2009 (Đỗ Tiến Duy, Nguyễn Tất Toàn, 2011). Sau đó,
bệnh ngày càng lan rộng và bùng phát ở nhiều khu vực. Bệnh gây thiệt hại nặng
nề cho các trang trại bởi tỉ lệ mắc toàn đàn rất cao (gần 100%), các triệu chứng
lâm sàng chủ yếu gồm: chán ăn, nôn, tiêu chảy, tỷ lệ chết cao ở lợn con theo mẹ.
Theo thống kê không chính thức của phòng xét nghiệm nhanh công ty C.P Việt
Nam trong năm tháng đầu năm 2010 cả nước có 31 trại bị nhiễm PED. Các trại bị
nhiễm bệnh này chủ yếu tập trung ở các tỉnh nam bộ như Đồng Nai, Lâm Đồng,
Bình Phước, Bà Rịa – Vũng Tàu.
Bệnh tiêu chảy do virus PED gây ra có tính lây lan nhanh tuy nhiên chưa
có loại vacxin nào phòng bệnh thì nguy cơ tái phát, nguy cơ biến chủng của virus
cũng là vấn đề rất đáng lo ngại. Trước tình hình đó, việc hiểu biết về đặc điểm
căn bệnh và chẩn đoán nhanh là hết sức cấp thiết trong phòng chống dịch bệnh,
bảo vệ sức khỏe vật nuôi và kinh tế cho người chăn nuôi.
1.3. Căn bệnh
1.3.1. Phân loại và hình thái của virus gây bệnh PED

Dựa trên đặc điểm kháng nguyên và di truyền, virus PED (PEDV) được
xếp vào chi Coronavirus, họ Coronaviridae, cùng với TGEV, coronavirus ở mèo,
chó và coronavirus 229E ở người. Hạt PEDV mang những điểm đặc trưng của họ

11


Coronaviridae. Theo phân loại về huyết thanh học, người ta xác định vius PED
hiện mới chỉ có 1 serotype. Các chủng PEDV phân lập từ châu Âu, Hàn Quốc và
Trung Quốc đều tương đồng về mặt huyết thanh với với chủng CV777 phân lập
từ thực địa ở Bỉ năm 1978.
Hình thái của PEDV trong tế bào biểu mô đường tiêu hoá tương tự như
các coronavirus khác (Ducatelle R và cộng sự, 1982). Virus có một nhân đậm đặc
điện tử với quầng sáng ở giữa và những phần toả ra từ nhân dạng chuỳ dài xấp xỉ
20nm. Hạt virus xác định từ mẫu phân có hình thái đa dạng và đường kính biến
đổi từ 90 đến 190 nm (hình 1, 2) (Pensaert MB và cộng sự, 1981). Virus nhân lên
thông qua việc nẩy chồi từ các màng bên trong bào tương tế bào vật chủ.

Hình 1.1. Những không bào trong bào Hình 1.2. Virus PED chủng KPEDV-9
tương của một tế bào hấp thu ở ruột phân lập tại Hàn Quốc nhuộm với
non lợn, chứa các hạt virus PED có urany acetat 2%. Chiều dài thanh nằm
đường kính từ 90-190 nm (x20.000).

ngang tương đương 100nm.

Nguồn:

Nguồn: -

/>

cdn.com/content/image/1-

0n2p81.html

s2.0-S0264410X99000596-gr1.jpg

1.3.2. Cấu trúc phân tử của virus gây bệnh
Về đặc điểm cấu tạo phân tử, PEDV là virus có vỏ bao bọc, bộ gen là sợi RNA
đơn dương, kích thước khoảng 28kb với mũ 5’ và đuôi polyA 3’. Bộ gen của virus
gồm một vùng không dịch mã đầu (UTR) 5’, một UTR đầu 3’, ít nhất 7 khung đọc
mở (ORF) mã hoá cho 4 protein cấu trúc gồm gai (S), vỏ (E), màng (M), và

12


nucleocapsid (N) và 3 protein không cấu trúc (enzym tái bản replicases 1a, 1b và
ORF3). Những khung đọc mở này được sắp xếp theo trình tự: 5’-replicase (1a, 1b) – S
– ORF3 – E – M – N – 3’ (hình 3) (F.A. Murphy và cộng sự, 1999).
Gen polymerase gồm 2 khung đọc mở (Open Reading Frame – ORF) 1a
và 1b, chiếm 2/3 bộ gen tính từ đầu 5’ và mã hoá cho các polyprotein tái bản
không cấu trúc (replicase 1a và 1b). Các gen mã hoá cho protein cấu trúc chính
như S (150-220 kDa), E (7kDa), M (20-30kDa) và N (58kDa) nằm ở vị trí tiếp
nối gen polymerase. Gen ORF3 là một gen phụ trợ, nằm giữa các gen cấu trúc.
Nó mã hoá cho một protein bổ trợ, số lượng và trình tự của các gen thay đổi ở
các coronavirrus khác nhau (K. Narayanan và cộng sự, 2008).

Bộ gen virus
Đầu 5’

Đầu 3’


Khung đọc mở 1a
Khung đọc mở 1b

Hình 1.3. Mô hình cấu trúc bộ gen virus PED
Protetin cấu trúc của PEDV tương tự như các coronavirus khác. Virus có
một protein gai (S) với trọng lượng phân tử khoảng 180-200 kDa, một protein
màng (M) 27-32 kDa, một protein nucleocapsid gắn với RNA nặng 57-58 kDa
(Duarte M và cộng sự, 1994).
Protein S của PEDV là glycoprotein loại 1 gồm 1383 amino acid (aa). Nó
chứa một chuỗi peptid tín hiệu (1-18aa), các epitop trung hoà (499-638, 748-

13


755), 764-771, và 1368-1374), một vùng xuyên màng (1334 – 1356), và một
vùng ngắn nằm trong bào tương. Protein S cũng có thể được chia thành vùng S1
(1-789 aa) và vùng S2 (790-1383 aa) dựa trên tính tương đồng của nó ở
coronavirus khác nhau. Giống như các protein S của coronavirus khác, protein S
của PEDV là một loại gai glycoprotein (kháng nguyên bề mặt) trên bề mặt virus,
chúng đóng vai trò quan trọng trong việc điều hoà tương tác với các glycoprotein
thụ thể đặc hiệu trên tế bào vật chủ trong quá trình xâm nhập, kích thích tạo
kháng thể trung hoà ở vật chủ tự nhiên. Ngoài ra, glycoprotein S cũng liên quan
tới sự thích nghi sinh trưởng trong điều kiện phòng thí nghiệm và sự giảm độc
lực khi gây bệnh trên động vật (Park và cộng sự, 2007). Để đạt kết quả tốt hơn,
cần tiến hành các nghiên cứu sâu hơn về cấu trúc virus PEDV để làm rõ mối
quan hệ di truyền, sự đa dạng về chủng, tình trạng dịch tễ học của PEDV trên
thực địa và mối quan hệ giữa các dạng đột biến với chức năng của virus.
Protein M là thành phần vỏ lớn nhất của virus PED, glycoprotein cấu trúc
màng với một đầu tận cùng gắn amin ngắn phía ngoài virus và một đầu tận cùng

gắn carboxy ở bên trong. Protein M không chỉ đóng vai trò quan trọng trong chu
trình lắp ráp virus mà còn trong việc tạo ra kháng thể trung hoà virus với sự có
mặt của bổ thể. Protein M có thể đóng một vai trò trong quá trình tạo ra αinterferon (α-IFN. Việc đồng thời biểu hiện protein M và N cho phép tạo thành
các hạt giả virus có khả năng biểu lộ hoạt tính sinh interferon tương tự như hạt
virus hoàn chỉnh. Việc tiến hành thêm các nghiên cứu về glycoprotein M sẽ làm
tăng thêm hiểu biết của chúng ta về mối quan hệ di truyền, sự đa dạng giữa các
chủng PEDV và tình trạng dịch tễ của PEDV trên thực địa.
Protein N là một phosphoprotein cơ bản gắn với RNA virus, cung cấp nền
tảng cấu trúc cho các nucleocapsid xoắn kép. Các epitop protein N được chứng
minh là đóng vai trò quan trọng trong việc gây ra miễn dịch trung gian tế bào
protein N có thể được sử dụng như một mục tiêu cho chẩn đoán sớm và chính
xác PEDV.

14


1.3.3. Sức đề kháng của virus gây bệnh PED
Về đặc tính lý hoá, virus mẫn cảm với ether, chroroform và không gây
ngưng kết hồng cầu của nhiều loài. Tỷ trọng của nó trong đường sucose là 1,18
mg/ml.
PEDV bền ở khoảng pH 5,0 – 9,0 ở 4˚C và pH từ 6,5 – 7,5 ở 37˚C
(Callebaut P, DeBouck P, 1981). Virus PED đã thích ứng với môi trường nuôi
cấy bị mất khả năng lây nhiễm khi đun chúng tới 60˚C trong 30 phút, nhưng
chúng khá bền ở 50˚C.
1.4. Truyền nhiễm học
1.4.1. Loài vật mắc bệnh
Bệnh xảy ra ở loài lợn. Lợn có thể mắc ở mọi lứa tuổi. Trong nhiều ổ dịch
tỷ lệ lợn ốm lên đến 100%, tỷ lệ chết trung bình ở lợn con là 50% nhưng cũng có
thể rất cao đến 100%.
- Nếu lợn con mắc bệnh ở độ tuổi 0 - 5 ngày tuổi: tỷ lệ chết 100%.

- Nếu lợn con mắc bệnh ở độ tuổi 6 - 7 ngày tuổi: tỷ lệ chết khoảng 50%.
- Nếu lợn con mắc bệnh ở độ tuổi > 7 ngày tuổi: tỷ lệ chết khoảng 30%.
1.4.2. Phương thức truyền lây của virus PED
Về phương thức truyền lây, đường phân có thể là phương thức chủ yếu để
virus truyền sang vật chủ khác. PED thể cấp tính thường xảy ra ở thời điểm 4-5
ngày sau khi lợn được bán hoặc mua về. Virus có thể xâm nhập vào trại thông
qua lợn nhiễm virus được chuyển về hoặc các dụng cụ có mang virus như xe tải,
ủng... PEDV không khác nhiều với TGEV về đường truyền lây, nhưng virus này
có vẻ tồn tại lâu hơn trong các trang trại sau khi dịch PED cấp tính đã qua đi. Khi
dịch xảy ra ở trại lợn sinh sản, virus có thể được bài thải từ đàn mắc bệnh hoặc
trở thành dịch địa phương. Một chu kỳ dịch địa phương có thể được hình thành
nếu số lứa lợn được sinh ra và cai sữa trong trại đủ lớn để duy trì sự lưu hành của
virus thông qua việc lây nhiễm giữa các lứa kế tiếp nhau khi lợn con mất khả
năng miễn dịch lúc cai sữa. PEDV có thể gây ra tiêu chảy dai dẳng trên lợn con
sau cai sữa ở những trại như vậy (Nguyễn Văn Điệp và Nguyễn Thị Lan, 2012).

15


1.4.3. Cơ chế gây bệnh
Cơ chế sinh bệnh của PED được nghiên cứu trên lợn con không được
uống sữa đầu. Cho lợn con 3 ngày tuổi uống virus PED chủng CV777 (Debouck
P và cộng sự, 1981) sau khoảng 22 đến 36 giờ lợn bắt đầu nôn và tiêu chảy. Vị trí
và sự nhân lên của virus được xác định thông qua kỹ thuật miễn dịch huỳnh
quang và kính hiển vi điện tử. PEDV nhân lên trong bào tương của các tế bào
lông nhung, phá huỷ các tế bào biểu mô và làm ngắn lông nhung niêm mạc ruột,
tỷ lệ chiều cao giữa lông nhung và tuyến ruột có thể giảm từ 7:1 xuống còn 3:1
(Pospischil A và cộng sự, 1981). Các tế bào biểu mô hấp thu ở lông nhung rất
mẫn cảm với PEDV, những tế bào biểu mô nhiễm virus có thể được quan sát sau
12-18 giờ gây nhiễm, rõ nhất sau khoảng 24 đến 36 giờ, tuy nhiên không quan sát

thấy có sự phá hủy tế bào biểu mô ở kết tràng. Đặc điểm sinh bệnh của PEDV ở
ruột non của lợn con rất giống với TGEV. So với TGEV, sự nhân lên và lây lan
trong ruột non của virus PED diễn ra chậm hơn và thời gian nung bệnh lâu hơn.
Virus
Nhiễm vào đường miệng

Nhân lên biểu mô ruột non, dạ dày

Mất và cùn vi nhung
mao

Phá hủy hệ thống lông
nhung ruột
Giảm hoạt động của Enzyme
bề mặt biểu mô ruột

Hội chứng giảm hấp thu
(mất nước nặng, chết)

16


Cơ chế sinh bệnh của PEDV ở lợn giai đoạn lớn hơn vẫn chưa được
nghiên cứu chi tiết, nhưng bằng kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang có thể quan sát
thấy virus có mặt trong tế bào biểu mô kết tràng của lợn mắc bệnh tự nhiên hoặc
được gây nhiễm. Ý nghĩa của việc virus xâm nhiễm ở kết tràng có làm cho bệnh
nặng hơn hay không vẫn chưa được rõ. Hiện vẫn chưa có cơ chế thích hợp nào
được đưa ra để lý giải hiện tượng lợn chết đột ngột kèm theo việc hoại tử cơ lưng
cấp tính quan sát thấy ở lợn vỗ béo và lợn trưởng thành. (Nguyễn Văn Điệp và
Nguyễn Thị Lan, 2012)

1.5. Triệu chứng và bệnh tích
1.5.1. Triệu chứng lâm sàng
Khi lợn mắc PED, biểu hiện chủ yếu và thường là duy nhất ở lợn đó là
tiêu chảy mạnh, phân rất nhiều nước. Bệnh xảy ra ở những trại giống mẫn cảm có
tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong rất khác nhau. Lợn ở tất cả các lứa tuổi đều có thể mắc
với tỷ lệ mắc có thể lên tới 100%. Biểu hiện của PED tương tự như TGE, tuy
rằng PED lây lan chậm hơn và có tỷ lệ chết ở lợn con thấp hơn. Lợn con dưới 1
tuần tuổi có thể chết do mất nước sau khi tiêu chảy 2 đến 4 ngày. Tỷ lệ chết ở lợn
con trung bình khoảng 50%, nhưng có thể cao hơn tới 100%. Ở giai đoạn lớn
hơn, lợn thường tự hồi phục sau khi quá trình tiêu chảy kéo dài được 1 tuần. Khi
PED cấp tính ở một trại qua đi, lợn con giai đoạn 2-3 tuần sau cai sữa vẫn có thể
có biểu hiện tiêu chảy và lợn mới nhập về thường phát bệnh.
Một báo cáo khác cho thấy, tại một trại nuôi lợn thịt mới nhập lợn về từ
nhiều nguồn khác nhau hoặc trong giai đoạn nuôi vỗ béo, nếu PED bùng phát ở
thể cấp tính, trong vòng một tuần, tất cả lợn sẽ có biểu hiện tiêu chảy. Lợn có
biểu hiện chán ăn, mệt mỏi, phân rất loãng, chứa nhiều nước. Biểu hiện về mặt
lâm sàng ở lợn mắc PED đang trong giai đoạn nuôi vỗ béo có thể nặng hơn so
với mắc TGE. Lợn thường có biểu hiện đau vùng bụng nhiều hơn. Sau khoảng 710 ngày, lợn sẽ hồi phục. Tỷ lệ tử vong ở lợn trong giai đoạn vỗ béo thường từ 13%, lợn chết nhanh, thường ở giai đoạn mới bắt đầu tiêu chảy hoặc trước khi có
biểu hiện tiêu chảy. Bệnh tích đại thể thông thường ở những lợn này là hoại tử
cấp tính ở cơ lưng. Tỷ lệ chết cao nhất được thấy ở những trại có lợn giống mẫn
cảm và chịu nhiều stress. (Nguyễn Văn Điệp và Nguyễn Thị Lan, 2012)

17


1.5.2. Bệnh tích
Bệnh tích đại thể và vi thể của lợn mắc PED tương tự như ở bệnh TGE.
Dạ dày trống rỗng do lợn nôn, và ống dưỡng chấp không chứa nhiều dịch dưỡng
do sự kém hấp thu ở ruột. Các đoạn ruột non chứa đầy dịch, căng phồng, thành
ruột mỏng tới mức có thể nhìn thấy do sự teo lại của tầng niêm mạc. Chất chứa

trong ruột non lợn cợn. Ngoài các bệnh tích tương tự như TGE, sự hoại tử cấp ở
cơ lưng cũng được báo cáo.
Lợn con đang theo mẹ chết do PED, xác gầy, khô do tiêu chảy nặng, phần
mông dính nhiều phân vàng. Ruột căng phồng, đầy dịch, màu vàng, chứa những
cục sữa chưa tiêu. Ngoài ra còn thấy thành ruột mỏng và trong suốt có thể do
lông nhung bị bào mòn, xuất huyết, chứa nhiều chất lỏng thối, hạch ruột sưng
thủy thũng, đặc biệt là ở không tràng và hồi tràng, dẫn theo Đào trọng Đạt và cs.
(1995). Hạch lâm ba màng treo ruột xuất huyết nhẹ. Lát cắt ngang ruột non của
lợn bị nhiễm virus PED. Lông nhung ruột non của lợn bị ngắn lại.
Về mặt vi thể, sự hình thành không bào to, rõ trong bào tương tế bào biểu
mô và sự bong tróc của các tế bào này làm cho lông nhung ngắn và dồn lại, hoà
lẫn vào nhau rõ rệt, tuy rằng các biểu hiện này không trầm trọng bằng TGE. Ở
kết tràng, chưa có bệnh tích vi thể nào được báo cáo. Điều thú vị là các nghiên
cứu siêu vi thể đã cho thấy có sự hiện diện rõ rệt của các hạt virus bên trong bào
tương tế bào và sự thay đổi tế bào ở các tế bào biểu mô ruột non và kết tràng
(Ducatelle R và cộng sự, 1982). Những sự thay đổi cấu trúc siêu vi thể được khởi
đầu đặc trưng bằng sự mất đi của các bào quan, vi nhung, lưới tận và phần nhô ra
của bào tương tế bào hấp thu vào trong xoang ruột. Sau đó, các tế bào trở nên dẹt
hơn, liên kết vòng bịt giữa các tế bào biểu mô mất đi và tế bào được giải phóng
vào bên trong lòng ống ruột.
1.6. Chẩn đoán
Chẩn đoán bệnh PED không đơn thuần chỉ dựa vào các triệu chứng lâm
sàng và biến đổi bệnh lí của mô bệnh học. Do biểu hiện của các tác nhân gây
bệnh tiêu chảy trên lợn là giống nhau, đặc biệt không thể phân biệt được bệnh
PED cấp tính và bệnh TGE dù lợn mắc ở lứa tuổi nào, vì vậy việc chẩn đoán

18



×