Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Nghiên cứu những biến đổi lâm sàng, phi lâm sàng của bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại nuôi tại các trang trại thuộc công ty cổ phần chăn nuôi c p việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.21 MB, 62 trang )

MỤC LỤC

Lời cam đoan

ii

Lời cảm ơn

iii

Mục lục

iv

Danh mục các từ viết tắt

vi

Danh mục bảng

vii

Danh mục sơ đồ, hình

viii

MỞ ĐẦU

1

Tính cấp thiết của đề tài.



1

Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU

3

1.1

Cấu tạo cơ quan sinh sản và một số đặc điểm sinh lý của lợn cái.

1.1.1 Cấu tạo cơ quan sinh dục lợn cái.

3
3

1.1.1.1 Bộ phận sinh dục bên ngoài.

3

1.1.1.2 Bộ phận sinh dục bên trong.

4

1.1.2 Đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn.

7

1.1.2.1 Sự thành thục về tính.


7

1.1.2.2 Chu kỳ tính và thời điểm phối giống thích hợp.

9

1.1.2.3 Sinh lý đẻ.

13

Bệnh viêm tử cung lợn nái (Metritis).

15

1.2.1 Nguyên nhân của bệnh viêm tử cung.

15

1.2.2 Hậu quả của bệnh viêm tử cung.

16

1.2.3 Các thể viêm tử cung.

18

1.2

1.2.3.1 Viêm nội mạc tử cung (Endometritis).


18

1.2.3.2 Viêm cơ tử cung (Myometritis Puerperalis).

19

1.3.3.3 Viêm tương mạc tử cung (Perimetritis Puerperali).

20

1.2.3.4 Chẩn đoán viêm tử cung.

21

1.3 Tình hình nghiên cứu bệnh viêm tử cung lợn trên thế giới và tại Việt Nam.

23

1.3.1 Trên thế giới.

23

1.3.2 Tại Việt Nam.

24

Chương 2 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

iv


25


2.1

Đối tượng nghiên cứu.

25

2.2

Địa điểm và thời gian nghiên cứu.

25

2.3

Nội dung nghiên cứu.

25

2.4

Phương pháp nghiên cứu.

25

2.4.1 Xác định một số chỉ tiêu lâm sàng.

25


2.4.2 Các phương pháp dùng trong xét nghiệm một số chỉ tiêu phi lâm sàng
(sinh lý, sinh hóa máu).

26

2.4.3 Phương pháp điều tra để xác định tỷ lệ lợn mắc bệnh viêm tử cung.

26

2.4.4 Phương pháp xác định các chỉ tiêu sinh sản để đánh giá ảnh hưởng của
viêm tử cung đến năng suất sinh sản của lợn nái.

26

2.4.5.Thử nghiệm một số phác đồ điều trị bệnh viêm tử cung.

27

2.4.6 Xử lý số liệu.

27

Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

28

3.1

Tình hình mắc bệnh viêm tử cung tại các trang trại nghiên cứu.


28

3.3

Kết quả theo dõi một số biểu hiện lâm sàng của lợn nái mắc bệnh viêm tử cung. 31

3.4

Kết quả kiểm tra một số chỉ tiêu phi lâm sàng của lợn mắc bệnh viêm tử cung

33

3.4.1 Huyết cầu và huyết sắc tố của lợn mắc bệnh viêm tử cung

33

3.4.2 Số lượng và công thức bạch cầu của lợn nái mắc bệnh viêm tử cung.

35

3.4.3 Kết quả kiểm tra hàm lượng protein tổng số, các tiểu phần protein huyết
thanh của lợn nái mắc bệnh viêm tử cung và lợn nái bình thường.

38

3.4.4 Hàm lượng đường huyết và hoạt độ của enzyme GOT, GPT trong máu
lợn mắc bệnh viêm tử cung.

39


3.5

Ảnh hưởng của bệnh viêm tử cung đến năng suất sinh sản của lợn nái.

41

3.6

Kết quả thử nghiệm điều trị bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái ngoại.

43

3.7

Kết quả thử nghiệm các biện pháp phòng bệnh viêm tử cung bằng vệ sinh thú y và
chăm sóc nuôi dưỡng.

45

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

48

1

Kết luận.

48


2

Đề nghị.

48

TÀI LIỆU THAM KHẢO

50

v


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CP

Charoen Pokphand

CFU

Colony Forming Unit

DRV

Dịch rỉ viêm

E.coli

Escherichia coli


FSH

Follicle Stimulating Hormone : Hormone làm trứng chín

LH

Lutenizing Hormone: Hormone làm rụng trứng

LMLM

Lở mồm long móng

Ml

Mililite

PCV

Porcine circo virus

PRRS

Porcine reproductive and respiratory syndrome: hội chứng rối loạn
sinh sản hô hấp ở lợn

PGF2α

Prostaglandin F2α

SGOT


Serum Glutamic Oxaloacetic Transaminase

SGPT

Serum Glutamic Pyruvic Transaminase

VTC

Viêm tử cung

VTM

Vitamin

vi


DANH MỤC BẢNG

STT

Tên bảng

Trang

1.1 Các chỉ tiêu chẩn đoán viêm tử cung.

22


3.1 Tỷ lệ lợn nái mắc bệnh viêm tử cung.

28

3.2 Tỷ lệ lợn nái mắc bệnh viêm tử cung theo lứa đẻ.

30

3.3 Kết quả theo dõi một số biểu hiện lâm sàng của lợn nái mắc bệnh
viêm tử cung

32

3.4 Kết quả kiểm tra một số chỉ tiêu huyết học của lợn nái mắc bệnh viêm
tử cung và lợn nái bình thường.

34

3.5 Số lượng bạch cầu và công thức bạch cầu ở lợn nái mắc bệnh viêm tử
cung và lợn nái bình thường.

37

3.6 Kết quả kiểm tra hàm lượng protein huyết thanh của lợn nái mắc bệnh
viêm tử cung (VTC) và lợn nái bình thường.

39

3.7 Hàm lượng đường huyết và hoạt độ men sGOT, sGPT ở lợn nái mắc
bệnh viêm tử cung và lợn nái bình thường.


40

3.8 Ảnh hưởng của bệnh viêm tử cung đến năng suất sinh sản của lợn nái.

42

3.9 Kết quả điều trị bệnh viêm tử cung.

44

3.10 Kết quả thử nghiệm biện pháp phòng bệnh viêm tử cung ở lợn nái.

47

vii


DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH

STT

Tên sơ đồ, hình

Trang

Sơ đồ 1.1

Cơ chế động dục


12

Sơ đồ 1.2

Cơ chế điều khiển quá trình đẻ.

14

Hình 1.1

Hình ảnh lợn mắc bệnh viêm tử cung

18

viii


MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đang có những bước phát
triển nhảy vọt, kéo theo đó ngành chăn nuôi cũng phát triển không ngừng. Ngành
chăn nuôi lợn đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp của Việt Nam
nói chung và các tỉnh phía bắc nói riêng, chăn nuôi lợn đã trở thành hàng hóa tiêu
thụ trong nước và xuất khẩu, góp phần tăng thu nhập cho nhà chăn nuôi. Trong
những năm tới đây ngành chăn nuôi sẽ tổ chức theo hướng gắn với thị trường,
chăn nuôi sẽ cơ bản chuyển sang sản xuất hàng hóa theo phương thức chăn nuôi
tập trung công nghiệp, nhằm đảm bảo an toàn dịnh bệnh, vệ sinh thú y và vệ sinh
an toàn thực phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả chăn nuôi và cải
thiện điều kiện an sinh xã hội. Để đạt được mục tiêu đó, việc nâng cao năng suất
sinh sản của đàn lợn nái, đặc biệt là đàn lợn nái ngoại luôn là mối quan tâm, là

mục tiêu hàng đầu của các nhà chăn nuôi và các nhà khoa học.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển mạnh mẽ và sự chuyển đổi phương thức
chăn nuôi, tình hình dịch bệnh trên đàn lợn cũng diễn biến hết sức phức tạp và
không ngừng gia tăng một số bệnh các bệnh sinh sản, truyền nhiễm gây ra cho
đàn lợn như: dịch tả, lở mồm long móng, tai xanh… ảnh hưởng không nhỏ tới
năng suất sinh sản của lợn nái. Theo các nhà chăn nuôi, một trong những nguyên
nhân làm hạn chế khả năng sinh sản của lợn nái ở nước ta hiện nay là các bệnh về
sinh sản đặc biệt là bệnh viêm tử cung chiếm tỉ lệ cao. Bệnh này không những
làm ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng sinh sản của lợn mẹ mà còn là một trong
những nguyên nhân làm tăng cao tỉ lệ mắc bệnh tiêu chảy ở đàn lợn con đang
trong thời gian theo mẹ, do đó chất lượng của đàn giống bị ảnh hưởng. Nếu
không điều trị kịp thời bệnh viêm tử cung có thể kế phát viêm vú, mất sữa, nặng
có thể dẫn tới rối loạn sinh sản, chậm sinh, vô sinh, viêm phúc mạc dẫn đến
nhiễm trùng huyết và có thể chết. Vì vậy viêm tử cung ở lợn nái ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng đàn lợn giống nói riêng mà còn ảnh hưởng đến năng
suất, chất lượng và hiệu quả của toàn ngành chăn nuôi lợn nói chung.

1


Những vấn đề nêu trên cho thấy việc nghiên cứu về nguyên nhân gây bệnh
và đưa ra biện pháp phòng, trị bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái ngoại là một việc
cần thiết. Với mục đích góp phần nâng cao năng suất sinh sản của đàn lợn nái
ngoại đồng thời bổ sung vào các tài liệu nghiên cứu về lĩnh vực sinh sản của
giống lợn nái ngoại chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu những biến đổi lâm sàng, phi lâm sàng của bệnh viêm tử
cung trên đàn lợn nái ngoại nuôi tại các trang trại thuộc công ty cổ phần chăn
nuôi C.P Việt Nam”.

2



Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cấu tạo cơ quan sinh sản và một số đặc điểm sinh lý của lợn cái.
1.1.1. Cấu tạo cơ quan sinh dục lợn cái.
Bộ phận sinh dục của lợn cái được chia thành bộ phận sinh dục bên trong
(buồng trứng, ống dẫn trứng, tử cung, âm đạo) và bộ phận sinh dục bên ngoài
(âm môn, âm vật, tiền đình).
1.1.1.1.Bộ phận sinh dục bên ngoài.
+ Âm môn (Vulva)
Âm môn hay còn gọi là âm hộ, nằm ở dưới hậu môn. Nằm bên dưới hậu
môn ngăn cách với nó bởi vùng hồi âm. Bên ngoài chứa 2 môi dính với nhau ở
mép trên và mép dưới. Môi âm hộ có sắc tố đen, nhiều tuyến chất nhờn màu
trắng và tuyến tiết mồ hôi.
+ Âm vật (Clitoris).
Âm vật của con cái giống như dương vật của con đực thu nhỏ lại và là
tạng cương của đường sinh dục cái, được dính vào phần trên khớp bán động ngồi,
bị bao xung quanh bởi cơ ngồi hổng. Trên âm vật có các nếp da tạo ra mũ âm vật
(Praeputium clitoridis), ở giữa âm vật xuống là chỗ tập trung của nhiều đầu mút
thần kinh.
+ Tiền đình (Vestibulum vaginae sinusinogenitalis).
Là giới hạn giữa âm đạo và âm hộ, tiền đình bao gồm:
Màng trinh là một nếp gấp gồm 2 lá, phía trước thông với âm đạo, phía sau
thông với âm hộ. Màng trinh gồm các sợi cơ đàn hồi ở giữa và do 2 lá niêm mạc
gấp lại thành một nếp.
Lỗ niệu đạo ở sau và dưới màng trinh.
Hành tiền đình là 2 tạng cương ở 2 bên lỗ niệu đạo. Cấu tạo giống thể hổng
ở bao dương vật của con đực.
Tiền đình có một số tuyến, các tuyến này xếp theo hàng chéo, hướng quay
về âm vật.


3


1.1.1.2. Bộ phận sinh dục bên trong.
+ Buồng trứng (Ovarium).
Buồng trứng của lợn gồm một đôi treo ở cạnh trước dây chằng rộng, nằm
trong xoang chậu. Hình dáng của buồng trứng rất đa dạng nhưng phần lớn có
hình bầu dục hoặc hình ô van dẹt, không có lõm rụng trứng.
Buồng trứng có hai chức năng cơ bản là tạo ra tế bào trứng và tiết các
hormone: Estrogen, Progesterone, Oxytoxin, Relaxin và Inhibin. Các hormone
này tham gia vào việc điều khiển chu kỳ sinh sản của lợn cái. Estrogen cần thiết
cho sự phát triển của tử cung và hệ thống ống dẫn của tuyến vú. Progesterone do
thể vàng tiết ra giúp duy trì sự mang thai do nó kích thích sự phân tiết của tử
cung để nuôi dưỡng thai, ức chế sự co thắt của tử cung và phát triển nang tạo sữa
của tuyến vú. Oxytoxin được tiết chủ yếu của phần sau của tuyến yên nhưng
cũng được tiết bởi thể vàng của buồng trứng khi gia súc gần sinh, nó làm co thắt
cơ tử cung trong lúc đẻ và cũng làm co thắt cơ trơn tuyến vú để thải sữa. Ở lợn.
Relaxin do thể vàng tiết ra để gây dãn nở xương chậu, làm dãn và mềm cổ tử
cung, do đó mở rộng đường sinh dục khi gần sinh. Inhibin có tác dụng ức chế sự
phân tiết kích tố noãn Follicle Stimulating Hormone từ tuyến yên, do đó ức chế
sự phát triển nang noãn theo chu kỳ (Trần Thị Dân, 2004).
Ở bề mặt ngoài của buồng trứng có một tổ chức liên kết được bao bọc bởi
lớp biểu mô hình lập phương. Bên dưới lớp này là lớp vỏ chứa các noãn nang, thể
vàng, thể trắng (thể vàng thoái hoá). Phần tuỷ của buồng trứng nằm ở giữa, gồm có
mạch máu, dây thần kinh, mạch bạch huyết và mô liên kết. Miền vỏ có tác dụng về
sinh dục vì ở đó xảy ra quá trình trứng chín và rụng trứng. Trên buồng trứng có từ
70.000 - 100.000 noãn bào ở các giai đoạn khác nhau, tầng ngoài cùng là những
noãn bào sơ cấp phân bố tương đối đều, tầng trong là những noãn bào thứ cấp
đang sinh trưởng, khi noãn bào chín sẽ nổi nên bề mặt buồng trứng (Khuất Văn

Dũng, 2005).
Có 4 loại noãn nang trong buồng trứng: Noãn nang nguyên thuỷ, noãn
nang bậc 1, noãn nang bậc 2, noãn nang bậc 3. Noãn nang nguyên thuỷ nhỏ nhất
và được bao bọc bởi một lớp tế bào vảy. Noãn nang nguyên thuỷ phát triển thành

4


noãn nang bậc một, nó được bao bọc bởi một lớp tế bào biểu mô hình lập phương
(tế bào nang). Khi cơ thể mới được sinh ra, buồng trứng đã có sẵn hai loại noãn
nang này. Noãn nang bậc một có thể bị thoái hoá hoặc phát triển thành noãn nang
bậc 2. Noãn nang bậc 2 hoặc nhiều lớp tế bào nang nhưng không có xoang nang
(là khoảng trống chứa dịch nang). Noãn nang có xoang được xem như noãn nang
bậc 3, chứa dịch nang và có thể trở nên trội hẳn để chuẩn bị xuất noãn (nang
Graaf). Noãn nang có xoang bao gồm ba lớp: Lớp bao ngoài, lớp bao trong và
lớp tế bào hạt. Lớp bao ngoài là mô liên kết lỏng lẻo, lớp bao trong sản xuất
Androgen dưới tác dụng của LH. Lớp tế bào hạt tách rời lớp bao trong bởi màng
đáy mỏng. Tế bào hạt sản xuất nhiều chất sinh học và trên bề mặt tế bào có thụ
thể (receptor) tiếp nhận kích thích tố LH. Những chất quan trọng được sản xuất
bởi tế bào hạt là Estrogen, inhibin và dịch nang.
Khi nang Graaf xuất noãn, những mạch máu nhỏ bị vỡ và gây xuất huyết
tại chỗ. Sau khi xuất noãn, phần còn lại của nang noãn cùng với vết xuất huyết
được gọi là thể xuất huyết với kích thước nhỏ hơn nang noãn nhiều lần. Sau đó tế
bào bao trong và tế bào hạt biệt hoá thành tế bào thể vàng để tạo nên thể vàng
(Trần Thị Dân, 2004).
+ Ống dẫn trứng (Oviductus).
Ống dẫn trứng (vòi Fallop) gồm có phễu, phần rộng và phần eo. Phễu mỡ
ra để tiếp nhận noãn và có những sợi lông nhung để gia tăng diện tích tiếp xúc
với buồng trứng khi xuất noãn. Phễu tiếp nối với phần rộng. Phần rộng chiếm 1/2
chiều dài của ống dẫn trứng, đường kính tương đối lớn và mặt trong có nhiều nếp

gấp với tế bào biểu mô có lông nhỏ. Phần eo tiếp nối với sừng tử cung, nó có
thành dày hơn phần rộng và ít nếp gấp hơn.
Vai trò cơ bản của ống dẫn trứng là vận chuyển noãn và tinh trùng đến nơi
thụ tinh của ống dẫn trứng (1/3 phía trên của ống dẫn trứng), tiết ra các chất để
nuôi dưỡng noãn, duy trì sự sống và gia tăng khả năng thụ tinh của tinh trùng, tiết
các chất nuôi dưỡng phôi trong mấy ngày trước khi phôi đi vào tử cung. Nơi tiếp
giáp giữa phần eo và tử cung có vai trò điều khiển sự di chuyển của tinh trùng
đến phần rộng của ống dẫn trứng hoặc di chuyển của phôi vào tử cung. Ở lợn, sự

5


co thắt của nơi tiếp giáp eo - tử cung tạo thành cái cản đối với tinh trùng để
không có quá trình tinh trùng đi đến phần rộng, nhờ đó tránh được hiện tượng
nhiều tinh trùng xâm nhập noãn.
+ Tử cung (Uterus).
Tử cung nằm trong xoang chậu, dưới trực tràng, trên bàng quang và niệu
đạo trong xoang chậu, 2 sừng tử cung ở phần trước cửa vào xoang chậu. Tử cung
được giữ tại chỗ nhờ sự bám của âm đạo vào cổ tử cung và được giữ bởi các dây
chằng.
Tử cung lợn thuộc loại tử cung sừng kép, gồm 2 sừng thông với 1 thân và
cổ tử cung.
Sừng tử cung: Dài 50 - 100cm, hình ruột non, thông với ống dẫn trứng.
Thân tử cung: Dài 3 - 5cm, nằm phía trong cổ tử cung và có rãnh giữa tử cung.
Cổ tử cung: Dài 10 - 18cm, có thành dầy, hình trụ, có các cột thịt xếp theo
kiểu cài răng lược, thông với âm đạo.
Vách tử cung gồm 3 lớp từ ngoài vào trong: Lớp tương mạc, lớp cơ trơn
và lớp nội mạc.
Lớp tương mạc: Là lớp màng sợi, dai, chắc phủ mặt ngoài tử cung và nối
tiếp vào các hệ thống các dây chằng.

Lớp cơ trơn: Gồm cơ vòng rất dày ở trong, cơ dọc mỏng hơn ở ngoài.
Giữa hai tầng cơ chứa tổ chức liên kết sợi đàn hồi và mạch quản, đặc biệt là
nhiều tĩnh mạch lớn. Ngoài ra, các bó sợi cơ trơn đan vào nhau theo mọi hướng
làm thành mạng vừa dày vừa chắc. Cơ trơn là lớp cơ dày và khỏe nhất trên cơ
thể. Do vậy, nó có đặc tính co thắt (Đặng Đình Tín, 1986).
Theo Trần Thị Dân (2004) trương lực co càng cao (tử cung trở lên cứng)
khi có nhiều Estrogen trong máu và trương lực co giãn (tử cung mềm) thì có
nhiều Progesterone trong máu. Vai trò của cơ tử cung là góp phần cho sự di
chuyển của tinh trùng và chất nhày trong tử cung, đồng thời đẩy thai ra ngoài khi
sinh đẻ. Khi mang thai, sự co thắt của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng của
Progesterone, nhờ vậy phôi thai có thể bám chắc vào tử cung.
Lớp nội mạc tử cung: Là lớp niêm mạc màu hồng được phủ bởi một lớp tế

6


bào biểu mô hình trụ, xen kẽ có các ống đổ của các tuyến nhầy tử cung. Nhiều tế
bào biểu mô kéo dài thành lông nhung, khi lông rung động thì gạt những chất
nhầy tiết ra về phía cổ tử cung, trên niêm mạc có các nếp gấp.
Lớp niêm mạc tử cung có nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để giúp
phôi thai phát triển và duy trì sự sống của tinh trùng trong thời gian di chuyển
đến ống dẫn trứng. Dưới ảnh hưởng của Estrogen, các tuyến tử cung phát triển từ
lớp màng nhầy xâm nhập vào lớp dưới màng nhầy và cuộn lại. Tuy nhiên, các
tuyến chỉ đạt được khả năng phân tiết tối đa khi có tác dụng của Progesterone. Sự
phân tiết của tuyến tử cung thay đổi tuỳ theo giai đoạn của chu kỳ lên giống.
+ Âm đạo ( Avagina).
Âm đạo nối sau tử cung, trước âm hộ, đầu trước giáp cổ tử cung, đầu
sau thông ra tiền đình, giữa âm đạo và tiền đình có nếp gấp niêm mạc gọi là
màng trinh.
Âm đạo là một ống tròn chứa cơ quan sinh dục đực khi giao phối đồng

thời là bộ phận cho thai đi ra ngoài trong quá trình sinh đẻ và là ống thải các chất
dịch từ tử cung.
Âm đạo có cấu tạo gồm 3 lớp:
Lớp liên kết ở ngoài, lớp cơ trơn có cơ dọc bên ngoài, cơ vòng bên trong.
Các lớp cơ âm đạo liên kết với các cơ ở cổ tử cung. Lớp niêm mạc âm đạo, trên
bề mặt có nhiều thượng bì gấp nếp dọc. Âm đạo là cơ quan giao cấu, nơi tinh
dịch được phóng ra và đọng lại ở đó. Âm đạo lợn dài 10 - 12cm
1.1.2. Đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn.
Đặc điểm sinh lý sinh dục của gia súc nói chung và loài lợn nói riêng
đặc trưng cho loài, có tính ổn định với từng giống vật nuôi. Nó được duy trì
qua các thế hệ và luôn củng cố, hoàn thiện qua quá trình chọn lọc. Ngoài ra,
còn chịu ảnh hưởng của một số yếu tố như ngoại cảnh điều kiện nuôi dưỡng,
chăm sóc, khai thác.
1.1.2.1. Sự thành thục về tính.
Sự thành thục về tính được đánh dấu khi con vật bắt đầu có phản xạ sinh
dục và có khả năng sinh sản. Lúc này tất cả các bộ phận sinh dục như: Buồng

7


trứng, tử cung, âm đạo… đã phát triển hoàn thiện và có thể bắt đầu bước vào
hoạt động sinh sản. Đồng thời với sự phát triển hoàn thiện ở bên trong thì ở bên
ngoài các bộ phận sinh dục phụ cũng xuất hiện và gia súc có phản xạ về tính hay
xuất hiện hiện tượng động dục.
Tuy nhiên, thành thục về tính sớm hay muộn phụ thuộc vào giống, tính
biệt và các điều kiện ngoại cảnh cũng như chăm sóc nuôi dưỡng.
+ Giống.
Các giống lợn khác nhau thì tuổi thành thục về tính cũng khác nhau.
Những giống có thể vóc nhỏ thường thành thục về tính sớm hơn những
giống có thể vóc lớn.

Theo Phạm Hữu Doanh và cs. (1995), tuổi thành thục về tính của lợn nái
ngoại và lợn nái lai muộn hơn lợn nái nội thuần chủng (Ỉ, Móng cái, Mường
khương…). Các giống lợn nội này thường có tuổi thành thục vào 4 - 5 tháng tuổi
(121 - 158 ngày tuổi). Lợn ngoại là 6 - 8 tháng tuổi, lợn lai F1 (ngoại x nội)
thường động dục lần đầu ở 6 tháng tuổi.
+ Điều kiện nuôi dưỡng, quản lý.
Dinh dưỡng có ảnh hưởng rất lớn đến tuổi thành thục về tính của lợn nái.
Cùng một giống nhưng nếu được nuôi dưỡng, chăm sóc, quản lý tốt, gia súc phát
triển tốt thì sẽ thành thục về tính sớm hơn và ngược lại.
+ Điều kiện ngoại cảnh.
Khí hậu và nhiệt độ cũng ảnh hưởng tới tuổi thành thục về tính của gia súc.
Những giống lợn nuôi ở vùng có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm thường thành thục về tính
sớm hơn những giống lợn nuôi ở vùng có khí hậu ôn đới và hàn đới.
Sự kích thích của con đực cũng ảnh hưởng tới sự thành thục của lợn cái
hậu bị. Nếu ta để một con đực đã thành thục về tính gần ô chuồng của những con
cái hậu bị thì sẽ thúc đẩy nhanh sự thành thục về tính của chúng.
Theo Paul (1996) nếu cho lợn cái hậu bị tiếp xúc với đực 2 lần/ngày, với thời
gian 15 - 20 phút thì 83% lợn cái (ngoài 90 kg) động dục lúc 165 ngày tuổi.
Lợn cái hậu bị nếu nuôi nhốt liên tục sẽ có tuổi động dục lần đầu dài
hơn lợn nuôi chăn thả. Vì lợn nuôi chăn thả sẽ có thời gian tăng cường trao
đổi chất, tổng hợp được sinh tố và có dịp tiếp xúc với lợn đực, nên có tuổi

8


động dục lần đầu sớm hơn.
Tuy nhiên, một vấn đề cần lưu ý là tuổi thành thục về tính thường sớm
hơn tuổi thành thục về thể vóc. Vì vậy, để đảm bảo sự sinh trưởng và phát triển
bình thường của lợn mẹ và đảm bảo những phẩm chất giống của thế hệ sau nên
cho gia súc phối giống khi đã đạt một khối lượng nhất định tuỳ theo giống.

Ngược lại, cũng không nên cho gia súc phối giống quá muộn vì ảnh hưởng tới
năng suất sinh sản của một đời nái đồng thời ảnh hưởng tới thế hệ sau của chúng.
1.1.2.2. Chu kỳ tính và thời điểm phối giống thích hợp.
* Chu kỳ tính.
Từ khi thành thục về tính những biểu hiện tính dục của lợn được diễn ra
liên tục và có tính chu kỳ. Các noãn bào trên buồng trứng phát triển, lớn dần,
chín và nổi cộm trên bề mặt buồng trứng gọi là nang Graaf. Khi nang Graaf vỡ,
trứng rụng gọi là sự rụng trứng. Mỗi lần trứng rụng con cái có những biểu hiện ra
bên ngoài gọi là động dục. Do trứng rụng có tính chu kỳ nên động dục cũng theo
chu kỳ (Khuất Văn Dũng, 2005).
Chu kỳ tính ở các loài khác nhau là khác nhau, ở giai đoạn đầu mới thành
thục về tính thì chu kỳ chưa ổn định mà phải 2 - 3 chu kỳ tiếp theo mới ổn định.
Một chu kỳ tính của lợn nái dao động trong khoảng 18 - 22 ngày, trung bình là
21 ngày và được chia thành 4 giai đoạn: Giai đoạn trước động dục, giai đoạn
động dục, giai đoạn sau động dục, giai đoạn nghỉ ngơi.
* Giai đoạn trước động dục.
Đây là giai đoạn đầu tiên của chu kỳ tính, kéo dài 1 - 2 ngày, là thời gian
chuẩn bị đầy đủ cho đường sinh dục của lợn cái đón nhận tinh trùng, cũng như
đảm bảo các điều kiện cho trứng và tinh trùng gặp nhau để thụ thai.
Trong giai đoạn này, có sự thay đổi cả về trạng thái cơ thể cũng như trạng
thái thần kinh, ở giai đoạn này các noãn bao phát triển mạnh, thành thục và nổi rõ
trên bề mặt buồng trứng, kích thước noãn bao thay đổi rất nhanh, đầu giai đoạn
này noãn bao có đường kính là 4mm, cuối giai đoạn noãn bao có đường kính 10 12mm. Các tế bào vách ống dẫn trứng tăng cường sinh trưởng, số lượng lông
nhung tăng, đường sinh dục bắt đầu sung huyết nhanh, hệ thống tuyến, âm đạo
tăng tiết dịch nhầy, niêm dịch ở cổ tử cung tiết ra làm cổ tử cung hé mở. Các

9


noãn bao chín, tế bào trứng tách khỏi noãn bao. Tử cung co bóp mạnh, cổ tử

cung mở ra, niêm dịch chảy ra. Con vật bắt đầu xuất hiện tính dục, âm hộ sưng
lên, hơi mở có màu hồng tươi, cuối giai đoạn có dịch nhờn chảy ra. Do hàm
lượng Progesteron giảm xuống đột ngột nên con vật giảm ăn, hay kêu rống, thích
nhảy lên lưng con khác nhưng không cho con khác nhảy lên lưng mình.
* Giai đoạn động dục.
Đây là giai đoạn tiếp theo và thường kéo dài từ 2 - 3 ngày, tính từ khi tế
bào trứng tách khỏi noãn bao. Giai đoạn này các biến đổi của cơ quan sinh dục rõ
nét nhất, niêm mạc âm hộ sung huyết, phù thũng rõ rệt và chuyển sang màu mận
chín, niêm dịch từ âm đạo chảy ra nhiều, keo đặc hơn, nhiệt độ âm đạo tăng từ
0.3 - 0.7oC, pH hạ xuống trước. Con vật biểu thị tính hưng phấn cao độ, đứng
ngồi không yên, phá chuồng, ăn uống giảm hoặc bỏ ăn, kêu rống trong trạng thái
ngẩn ngơ, thích nhảy lên lưng con khác hoặc để con khác nhảy lên lưng mình. Ở
giai đoạn này lợn thích gần đực, khi gần đực thì luôn đứng ở tư thế sẵn sàng chịu
đực, đuôi cong lên và lệch sang một bên, hai chân sau dạng ra và hơi khụy xuống
sẵn sàng chịu đực.
Nếu ở giai đoạn này, tế bào trứng gặp tinh trùng và xảy ra quá trình thụ
tinh tạo thành hợp tử thì chu kỳ sinh dục ngừng lại, gia súc cái ở giai đoạn có
thai, đến khi đẻ xong một thời gian nhất định tùy loài gia súc thì chu kỳ sinh dục
mới bắt đầu lại. Nếu không xảy ra quá trình trên thì lợn cái sẽ chuyển sang giai
đoạn tiếp theo của chu kỳ tính.
* Giai đoạn sau động dục.
Giai đoạn này kéo dài khoảng 2 ngày, toàn bộ cơ thể nói chung và cơ quan
sinh dục nói riêng dần trở lại trạng thái sinh lý bình thường. Trên buồng trứng,
thể hồng chuyển thành thể vàng, đường kính lên tới 7 - 8 mm và bắt đầu tiết
Progesterone. Progesterone tác động lên vùng dưới đồi theo cơ chế điều hoà
ngược làm giảm tiết Oestrogen, từ đó làm giảm tính hưng phấn thần kinh, con
vật dần chuyển sang trạng thái yên tĩnh, chịu khó ăn uống hơn, niêm mạc toàn
bộ đường sinh dục tăng sinh, các tuyến ở cơ quan sinh dục ngừng tiết dịch, cổ
tử cung đóng lại.


10


* Giai đoạn nghỉ ngơi.
Giai đoạn này kéo dài từ 10 - 12 ngày, bắt đầu từ ngày thứ tư sau khi rụng
trứng mà không được thụ tinh và kết thúc khi thể vàng tiêu hủy. Đây là giai đoạn
con vật hoàn toàn yên tĩnh, cơ quan sinh dục hoạt động trở lại trạng thái sinh lý
bình thường, trong buồng trứng thể vàng bắt đầu teo đi, noãn bao bắt đầu phát dục,
nhưng chưa nổi rõ trên bề mặt buồng trứng. Toàn bộ cơ quan sinh dục dần xuất hiện
những biến đổi chuẩn bị cho chu kỳ sinh dục tiếp theo.
Trong chăn nuôi lợn nái sinh sản, nắm được chu kỳ tính và các giai đoạn
của quá trình động dục sẽ giúp cho người chăn nuôi có chế độ nuôi dưỡng, chăm
sóc cho phù hợp và phối giống kịp thời, đúng thời điểm, từ đó góp phần nâng cao
năng suất sinh sản của lợn nái.
* Cơ chế động dục.
Chu kỳ động dục của lợn cái được điều khiển bởi 2 yếu tố thần kinh và thể
dịch, khi các nhân tố về ngoại cảnh như ánh sáng, nhiệt độ, mùi con đực... tác
động và kích thích vùng dưới đồi (Hypothalamus) giải phóng ra các yếu tố tác
động lên tuyến yên, kích thích thùy trước tuyến yên tiết FSH (Follicle
Stimulating Hormone) và LH (Lutenizing Hormone).
FSH kích thích noãn bao phát triển đồng thời cùng với LH làm cho noãn bao
thành thục chín và rụng trứng. Khi noãn bao phát triển thành thục, tế bào hạt trong
thượng bì bao noãn tiết ra Oestrogen chứa đầy trong xoang bao noãn. Khi hàm lượng
hormone này trong máu đạt 64 - 112% sẽ kích thích con vật có những biểu hiện động
dục, đồng thời dưới tác động của Oestrogen cơ quan sinh dục biến đổi. Tử cung hé
mở, âm hộ, âm đạo xung huyết tiết niêm dịch, sừng tử cung và ống dẫn trứng tăng
sinh tạo điều kiện cho sự làm tổ của hợp tử sau này.
Cuối chu kỳ động dục thì Oestrogen lại kích thích tuyến yên tiết ra LH và
giảm tiết FSH. Khi lượng LH/FSH đạt tỷ lệ 3/1 thì sẽ kích thích cho trứng chín và
rụng trứng, sau khi trứng rụng thể vàng được hình thành ở nơi bao noãn vỡ ra, thể

vàng tiết Progesterone giúp cho quá trình chuẩn bị tiếp nhận hợp tử ở sừng tử cung
đồng thời ức chế tiết GSH (Gonado Stimulin Hormone) của tuyến yên làm cho bao
noãn trong buồng trứng của lợn cái không phát triển được và kết thúc một chu kỳ
động dục.

11


Đại não

Hypothalamus

Tuyến yên

Oxytocin

ACTH

Vỏ trên thận
Corticosteroid

Nhau thai

PGF2α

Relaxin

Oestrogen

Tử cung


Thể vàng
progesterone

Thai thành thục

Đẻ

Sơ đồ 1.1. Cơ chế động dục
* Thời điểm phối giống thích hợp.
Thời gian tinh trùng lợn đực giống sống trong tử cung lợn nái khoảng 45
đến 48 giờ, trong khi trứng của lợn nái tồn tại và thụ thai có hiệu quả là rất ngắn,
cho nên phải tiến hành đúng lúc, thời điểm phối giống thích hợp nhất là vào giữa
giai đoạn chịu đực.

12


Đối với lợn nái ngoại thời điểm phối giống thích hợp nhất khi có hiện
tượng chịu đực từ 6 - 8 giờ, hoặc phối vào cuối ngày thứ 3 và sang ngày thứ 4 kể
từ lúc bắt đầu động dục.
Đối với lợn nái nội thời điểm phối giống sớm hơn lợn nái ngoại 1 ngày. Tức là
vào cuối ngày thứ 2 sang ngày thứ 3, vì thời gian động dục ngắn hơn.
Khi thực hiện thụ tinh nhân tạo, thấy lợn nái chịu đựng buổi sớm thì cho
phối vào buổi chiều, nếu có triệu chứng chịu đực buổi chiều thì sáng hôm sau
cho phối, thường phối 2 lần (phối lặp) ở giai đoạn chịu đực “chặn đầu khóa đuôi”
của thời kỳ rụng trứng để tăng khả năng thụ thai.
1.1.2.3. Sinh lý đẻ.
Theo Trần Tiến Dũng và Nguyễn Văn Thanh (2002), gia súc cái mang
thai trong một thời gian nhất định tuỳ từng loài gia súc, khi bào thai phát triển

đầy đủ, duới tác động của hệ thống thần kinh - thể dịch, con mẹ sẽ xuất hiện
những cơn rặn để đẩy bào thai, nhau thai và các sản phẩm trung gian ra ngoài,
quá trình này gọi là quá trình đẻ.
Khi gần đẻ con cái sẽ có những triệu chứng biểu hiện: Truớc khi đẻ 1 - 2 tuần,
nút niêm dịch ở cổ tử cung, đường sinh dục lỏng, sánh dính và chảy ra ngoài. Trước
khi đẻ từ 1 - 2 ngày, cơ quan sinh dục bên ngoài bắt đầu có những thay đổi. Âm môn
phù to, nhão ra và sung huyết nhẹ, đầu núm to, bầu vú căng to, sữa bắt đầu tiết.
Ở lợn, sữa đầu là một trong những chỉ tiêu quan trọng để xác định gia súc đẻ:
+ Trước khi đẻ 3 ngày, hàng vú giữa vắt ra sữa trong.
+ Trước khi đẻ 1 ngày hàng vú giữa vắt được sữa đầu.
+ Trước khi đẻ 1/2 ngày, hàng vú trước vắt được sữa đầu.
+ Trước khi để 2 - 3 giờ, hàng vú sau vắt được sữa đầu.
Cơ chế đẻ: Đẻ là một quá trính sinh lý phức tạp chịu sự điều hoà của cơ chế thần
kinh - thể dịch, với sự tham gia tác động cơ giới của thai đã thành thục.
Về mặt cơ giới: Thai trong tử cung cơ thể mẹ sinh trưởng và phát triển một
cách tối đa. Ở thời kỳ cuối, thai to tiếp giáp với tử cung, thai chèn ép xoang bụng đè
mạnh vào cơ quan sinh dục, ép chặt mạch máu và đám rối thần kinh hông - khum,
làm kích thích truyền về thần kinh trung ương, điều tiết hormone gây đẻ. Mặt khác
thai chèn ép còn đạp vào tử cung làm tử cung co bóp, sự co bóp tăng theo thời gian,

13


kể cả cường độ và tần số, dẫn đến tử cung mở và thoát ra ngoài.
Nội tiết: Trong thời gian mang thai, thể vàng và nhau thai cùng tiết ra
Progesterone, hàm lượng Progesterone trong máu tăng tạo nên trạng thái an thai.
Đến kỳ chửa cuối, thể vàng teo dần và mất hẳn nên hàm lượng Progesterone giảm
(chỉ còn 0.22%). Đồng thời tuyến yên tiết Oxytocin, nhau thai tăng tiết Relaxin làm
giảm thể trạng xương chậu và mở cổ tử cung, tăng tiết Oestrogen làm tăng độ mẫn
cảm của cổ tử cung với Oxytocin trước khi đẻ.

Biến đổi quan hệ giữa cơ thể mẹ và nhau thai: Khi thai đã thành thục thì quan
hệ sinh lý giữa mẹ và nhau thai không còn cần thiết nữa, lúc này thai đã trở thành
một ngoại vật trong tử cung nên được đưa ra ngoài bằng động tác đẻ.
Thời gian đẻ kéo dài hay ngắn tuỳ từng loại gia súc, ở lợn thường từ 2 - 6 giờ,
nó được tính từ khi cổ tử cung mở hoàn toàn đến khi bào thai cuối cùng ra ngoài.
Cơ chế điều khiển quá trình đẻ được mô tả qua sơ đồ sau:

Ngoại cảnh kích thích

Ngoại cảnh ức chế

Vỏ não

Thùy trước tuyến yên

Vùng dưới đồi

Buồng trứng
Tế bào hạt

Thể vàng

Oestrogen

Progesteron

Sừng tử cung

Prostaglandin


Sơ đồ 1.2. Cơ chế điều khiển quá trình đẻ.

14


1.2. Bệnh viêm tử cung lợn nái (Metritis).
Viêm tử cung là một quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản
sau khi đẻ, quá trình viêm phá hủy các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng
của thành tử cung gây rối loạn sinh sản, từ đó gây ảnh hưởng lớn đến khả năng
sinh sản, thậm trí làm cho gia súc cái mất khả năng sinh sản.
1.2.1. Nguyên nhân của bệnh viêm tử cung.
Theo Trần Tiến Dũng và cs. (2002) viêm tử cung là một quá trình vật lý
thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm phá huỷ các tế bào tổ
chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái làm ảnh
hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái.
Theo Sobko and Gadenko (1978), nguyên nhân của bệnh viêm tử cung là
do bị tổn thương, do sót nhau khi đẻ, bệnh phát triển không đủ chất, do đưa vào
đường sinh dục những chất kích thích chúng phá hủy hoặc làm kết tủa chất nhày
ở bộ máy sinh dục lợn.
Theo các tác giả Đào Trọng Đạt và cs. (2000) bệnh viêm tử cung ở lợn nái
thường do các nguyên nhân sau.
Do phối giống không đúng kỹ thuật, nhất là phối giống bằng phương pháp
thụ tinh nhân tạo làm xây xát niêm mạc tử cung, dụng cụ dẫn tinh không được vô
trùng khi phối giống có thể đưa vi khuẩn từ ngoài vào tử cung lợn nái gây viêm.
Lợn nái phối giống trực tiếp, lợn đực mắc bệnh viêm bao dương vật hoặc
mang vi khuẩn từ những con lợn nái khác đã bị viêm tử cung, viêm âm đạo
truyền sang cho lợn khoẻ.
Lợn nái đẻ khó phải can thiệp bằng thủ thuật gây tổn thương niêm mạc tử
cung, vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm trùng, viêm tử cung kế phát.
Lợn nái sau đẻ bị xót nhau xử lý không triệt để cũng dẫn tới viêm tử cung.

Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm như: Sảy thai truyền nhiễm, phó
thương hàn, bệnh lao… gây viêm.
Do vệ sinh chuồng đẻ, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn nái trước và sau đẻ
không sạch sẽ trong thời gian đẻ cổ tử cung mở vi sinh vật có điều kiện xâm nhập
và gây viêm, do lộn tử cung (bít tết).

15


Ngoài các nguyên nhân trên viêm tử cung còn có thể là biến chứng nhiễm
trùng do vi khuẩn xâm nhập vào dạ con gây nên trong thời gian động đực (vì lúc
đó cổ tử cung mở), vi khuẩn xâm nhập vào tử cung theo đường máu và viêm tử
cung là một trong những triệu chứng lâm sàng chung (Lê Văn Năm và cs.,1997).
Theo F.Madec and C.Neva (1995), bệnh viêm tử cung và các bệnh ở
đường tiết niệu có mối quan hệ với nhau, vi khuẩn trong nước tiểu cũng phát
triển trong âm đạo và việc gây nhiễm ngược lên tử cung là rất dễ xảy ra.
Nhiễm khuẩn tử cung qua đường máu là do vi khuẩn sinh trưởng ở một cơ
quan nào đó có kèm theo bại huyết, do vậy có trường hợp lợn hậu bị chưa phối
nhưng đã bị viêm tử cung.
1.2.2. Hậu quả của bệnh viêm tử cung.
Tử cung là một trong những bộ phận quan trọng nhất trong cơ quan sinh dục
của lợn nái, nếu tử cung xảy ra bất kỳ sây sát nào thì đều ảnh hưởng rất lớn tới khả
năng sinh sản của lợn mẹ và sự sinh trưởng, phát triển của lợn con.
Đánh giá được hậu quả của viêm tử cung nên đã có rất nhiều nhà khoa học
nghiên cứu về bệnh và đưa ra những nhận xét có ý nghĩa rất lớn cho quá trình
chẩn đoán, phòng và điều trị bệnh.
Theo Trần Tiến Dũng và cs. (2002) và Trần Thị Dân (2004), khi lợn nái bị
viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính sau.
Sảy thai: Lớp cơ trơn ở thành tử cung có đặc tính co thắt. Khi mang thai,
sự co thắt của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng của Progesterone, nhờ vậy phôi

có thể bám chặt vào tử cung.
Khi tử cung bị viêm cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử cung
tiết nhiều Prostaglandin, PGF2α gây phân hủy thể vàng ở buồng trứng bằng cách
bám vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây co mạch hoặc thoái hoá
các mao quản ở tế bào nên giảm lưu lượng máu đi đến thể vàng. Thể vàng bị phá
huỷ, không tiết Progesterone nữa, do đó hàm lượng Progesterone sẽ giảm làm
cho tính trương lực co của cơ tử cung tăng nên gia súc cái có chửa dễ bị sảy thai.
Bào thai phát triển kém hoặc thai chết lưu. Lớp nội mạc của tử cung có

16


nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để giúp phôi thai phát triển, khi lớp nội
mạc bị viêm cấp tính, lượng Progesterone giảm nên khả năng tăng sinh và tiết
dịch của niêm mạc tử cung giảm, do đó bào thai nhận được ít thậm chí không
nhận được dinh dưỡng từ mẹ nên phát triển kém hoặc chết lưu.
Giảm sức đề kháng và khả năng sinh trưởng của lợn con theo mẹ.
Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn sữa nên lợn con trong giai
đoạn theo mẹ thường bị tiêu chảy.
Khi lợn nái bị nhiểm trùng tử cung, trong đường sinh dục thường có
mặt của vi khuẩn E.coli, vi khuẩn này tiết ra độc tố làm ức chế sự phân tiết
kích thích tố tạo sữa Prolactin từ tuyến yên, do đó lợn nái ít hoặc mất hẳn sữa.
Lượng sữa giảm, thành phần sữa cũng thay đổi nên lợn con thường bị tiêu
chảy dẫn đến còi cọc.
Ảnh hưởng đến khả năng động dục trở lại.
Nếu tử cung bị viêm mãn tính thì sự phân tiết PGF2α giảm, do đó thể vàng
vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục tiết Progesterone. Progesterone ức chế thùy trước tuyến yên
tiết ra LH, do đó ức chế sự phát triển của noãn bao trong buồng trứng, nên lợn nái
không thể động dục trở lại được và không rụng trứng được.
Theo F.Madec and C.Neva (1995), biểu hiện rõ nhất trên lâm sàng mà người

chăn nuôi và bác sỹ thú y nhận thấy ở lợn viêm tử cung lúc đẻ là: chảy mủ ở âm hộ,
sốt, bỏ ăn. Mặt khác, các quá trình bệnh lý xảy ra lúc sinh đẻ ảnh hưởng rất lớn tới
năng suất sinh sản của lợn nái sau này. Tỷ lệ phối giống không đạt tăng lên ở đàn
lợn nái viêm tử cung sau khi sinh đẻ, hiện tượng viêm tử cung kéo dài từ lứa đẻ
trước đến lứa đẻ sau là nguyên nhân làm giảm độ mắn đẻ. Mặt khác viêm tử cung là
một trong các nguyên nhân đẫn đến hội chứng MMA, từ đó làm cho tỷ lệ lợn con
nuôi sống thấp. Đặc biệt, nếu viêm tử cung kèm theo viêm bàng quang thì còn ảnh
hưởng tới hoạt động của buồng trứng. Qua đó ta thấy hậu quả của viêm tử cung là
rất lớn, tỷ lệ mắc bệnh giảm, người chăn nuôi phải có những hiểu biết nhất định về
bệnh từ đó tìm ra biện pháp đề phòng và điều trị hiệu quả.

17


Hình 1.1. Hình ảnh lợn mắc bệnh viêm tử cung
1.2.3. Các thể viêm tử cung.
Theo Đặng Đình Tín (1985) bệnh viêm tử cung được chia làm 3 thể: Viêm
nội mạc tử cung, viêm cơ tử cung, viêm tương mạc tử cung.
1.2.3.1. Viêm nội mạc tử cung (Endometritis).
Theo NguyễnVăn Thanh (1999), viêm nội mạc tử cung là một trong các
nguyên nhân làm giảm khả năng sinh sản của gia súc cái, nó cũng là thể bệnh

18


phổ biến và chiếm tỷ lệ cao trong các bệnh của viêm tử cung. Viêm nội mạc tử
cung thường xảy ra sau khi gia súc sinh đẻ nhất là trong trường hợp đẻ khó phải
can thiệp làm niêm mạc tử cung bị tổn thương, tiếp đó là các vi khuẩn
Streptococcus, Staphylococcus, E.Coli, Salmonella, C.Pyogenes, Bruccella, roi
trùng Trichomonas Foetus…. Xâm nhập và tác động lên lớp niêm mạc gây viêm.

Theo Nguyễn Hữu Ninh và Bạch Đăng Phong (2000), bệnh viêm nội mạc
tử cung có thể chia 2 loại.
Viêm nội mạc tử cung thể Cata cấp tính có mủ, chỉ gây tổn thương ở niêm
mạc tử cung.
Viêm nội mạc tử cung thể màng giả, tổ chức niêm mạc đã bị hoại tử, tổn
thương lan sâu xuống dưới tầng của cơ tử cung và chuyển thành viêm hoại tử.
Viêm nội mạc tử cung thể Cata cấp tính có mủ (Endomestritis Puerperalis)
Lợn bị bệnh này thân nhiệt hơi cao, ăn kém, lượng sữa giảm, con vật có
trạng thái đau đớn nhẹ, có khi con vật cong lưng rặn, tỏ vẻ không yên tĩnh, từ âm
hộ chảy ra hỗn dịch, niêm dịch lẫn với dịch viêm, mủ, lợn cợn những mảnh tổ
chức chết… khi con vật nằm xuống dịch viêm thải ra ngày càng nhiều hơn, xung
quanh âm môn, gốc đuôi, hai bên mông dính nhiều dịch viêm, có khi nó khô lại
thành từng đám vẩy màu trắng xám. Kiểm tra qua âm đạo, niêm dịch và dịch rỉ
viêm thải ra nhiều, cổ tử cung hơi mở và có mủ chảy qua cổ tử cung, niêm mạc âm
đạo bình thường.
Viêm nội mạc tử cung thể màng giả:
Ở thể viêm này, niêm mạc tử cung thường bị hoại tử, những vết thương đã
ăn sâu và tầng cơ của tử cung và chuyển thành hoại tử. Lợn nái mắc bệnh này
thường xuất hiện triệu chứng toàn thân rõ. Thân nhiệt tăng cao, lượng sữa giảm
có khi hoàn toàn mất sữa, kế phát viêm vú, ăn uống giảm xuống, con vật đau
đớn, luôn rặn, lưng và đuôi cong lên, từ cơ quan sinh dục luôn thải ra ngoài hỗn
dịch, dịch viêm, máu, mủ, lợn cợn những mảnh tổ chức hoại tử, niêm dịch…
1.2.3.2. Viêm cơ tử cung (Myometritis Puerperalis).
Theo Nguyễn Hữu Ninh và Bạch Đăng Phong (2000), Viêm cơ tử cung
thường kế phát từ viêm nội mạc tử cung thể màng giả. Niêm mạc tử cung bị thấm

19


dịch thẩm xuất, vi khuẩn xâm nhập và phát triển sâu vào tổ chức làm niêm mạc

bị phân giải, thối rữa gây tổn thương cho mạch quản và lâm ba quản, từ đó làm
lớp cơ và một ít lớp tương mạc của tử cung bị hoại tử. Nếu bệnh nặng, can thiệp
chậm có thể dẫn tới nhiễm trùng toàn thân, huyết nhiễm trùng hoặc huyết nhiễm
mủ. Có khi do lớp cơ và lớp tương mạc của tử cung bị phân giải mà tử cung bị
thủng hoặc tử cung bị hoại tử từng đám to.
Lợn nái bị bệnh này thường biểu hiện triệu chứng toàn thân rõ rệt, thân
nhiệt tăng cao, mệt mỏi, ủ rũ, ăn uống giảm, lượng sữa giảm hoặc mất hẳn, mép
âm đạo tím thẫm, niêm mạc âm đạo khô, nóng màu đỏ thẫm, gia súc biểu hiện
trạng thái đau đớn, rặn liên tục. Từ cơ quan sinh dục luôn thải ra ngoài hỗn dịch
màu đỏ nâu, lợn cợn mủ và những mảnh tổ chức thối rữa nên có mùi tanh, thối.
Con vật thường kế phát viêm vú, có khi viêm phúc mạc.
Thể viêm này thường ảnh hưởng đến quá trình thụ thai và sinh đẻ lần sau.
Có trường hợp điều trị khỏi nhưng gia súc không còn khả năng sinh sản.
1.3.3.3. Viêm tương mạc tử cung (Perimetritis Puerperali).
Theo Đặng Đình Tín (1985), viêm tương mạc tử cung thường kế phát từ
viêm cơ tử cung. Thể viêm này thường cấp tính cục bộ, toàn thân xuất hiện
những triệu chứng điển hình và nặng, lúc đầu lớp tương mạc tử cung có màu
hồng, sau chuyển sang đỏ sẫm, sần sùi mất tính trơn bóng, sau đó các tế bào bị
hoại tử và bong ra, dịch thẩm xuất tăng tiết. Nếu bị viêm nặng, nhất là viêm có
mủ, lớp tương mạc có thể dính với các tổ chức xung quanh gây nên tình trạng
viêm mô tử cung, thành tử cung dầy lên, có thể kế phát viêm phúc mạc.
Lợn nái biểu hiện triệu chứng toàn thân: Nhiệt độ tăng cao, mạch nhanh,
con vật ủ rũ, mệt mỏi, uể oải, đại tiện khó khăn, ăn uống kém hoặc bỏ ăn, lượng
sữa rất ít hoặc mất hẳn, thường kế phát viêm vú. Con vật luôn biểu hiện trạng
thái đau đớn, khó chịu, lưng và đuôi cong, rặn liên tục. Từ âm hộ thải ra ngoài rất
nhiều hỗn dịch lẫn mủ và tổ chức hoại tử, có mầu nâu và mùi thối khắm. Khi
kích thích vào thành bụng thấy con vật có phản xạ đau rõ hơn, rặn nhanh hơn, từ
âm hộ dịch chảy ra nhiều hơn. Trường hợp một số vùng của tương mạc đã dính
với các bộ phận xung quanh thì có thể phát hiện được trạng thái thay đổi vị trí và


20


×