MỤC LỤC
Lời cam đoan
ii
Lời cảm ơn
iii
Mục lục
iv
Danh mục bảng
vii
Danh mục các từ và thuật ngữ viết tắt
ix
I. MỞ ĐẦU
1
1.1.
Tính cấp thiết của đề tài
1
1.2.
Mục đích nghiên cứu
1
1.3.
Các yêu cầu của đề tài
2
1.4.
Giới hạn của đề tài
2
1.5.
Những điểm mới của luận văn
2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
3
Cơ sở lý luận của đề tài
3
1.1.
1.1.1. Một số khái niệm
3
1.1.2. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu
7
1.1.3. Mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội và hệ
thống cây trồng
1.2.
Cơ sở thực tiễn của đề tài.
8
16
1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
16
1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
22
1.3
Xây dựng nông thôn mới ở thị xã Sơn Tây
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
29
32
2.1.
Đối tượng và thời gian nghiên cứu
32
2.2.
Nội dung nghiên cứu
32
2.3.
Phương pháp nghiên cứu
32
2.3.1. Phương pháp thu thập thông tin
32
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv
2.3.2. Điều tra trực tiếp
32
2.3.3. Các thí nghiệm
33
2.4.
34
Phương pháp phân tích số liệu
2.4.1. Phân tích mối quan hệ giữa khí hậu thời tiết và mùa vụ trồng lúa
34
2.4.2. Phân tích mối quan hệ giữa địa hình, đất đai và hệ thống sử dụng đất
34
2.4.3. Phân tích hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của các hệ thống luân
canh cây trồng
34
2.4.4. Phân tích kết quả thí nghiệm
35
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
36
3.1.
Môi trường tự nhiên kinh tế, xã hội chi phối sự hình thành hệ thống
cây trồng
36
3.1.1. Vị trí địa lý và khả năng phát triển kinh tế
36
3.1.2. Đặc điểm khí hậu, đất đai và sự hình thành hệ thống sử dụng đất
36
3.1.3. Đặc điểm kinh tế, xã hội chi phối sự hình thành hệ thống cây trồng ở
thị xã Sơn Tây
41
3.1.4. Thực trạng kinh tế và tổ chức sản xuất chi phối sự hình thành hệ thống
cây trồng
45
3.1.5. Đánh giá tiềm năng phát triển của Thị xã Sơn Tây
50
3.2.
52
Thực trạng hệ thống cây trồng
3.2.1. Về loại cây trồng
52
3.2.2. Về giống cây trồng
52
3.2.3. Hệ thống luân canh cây trồng trên đất ruộng ở thị xã Sơn Tây
54
Nghiên cứu cải tiến hệ thống cây trồng ở thị xã Sơn Tây
62
3.3.1. Nghiên cứu mối quan hệ giữa đặc điểm khí hậu và mùa vụ trồng trọt
62
3.3.2. Lựa chọn công thức luân canh cây trồng ở thị xã Sơn Tây
66
3.3.3. Cải tiến giống cây trồng ở thị xã Sơn Tây
75
3.3.
3.4.
Tái cơ cấu hệ thống cây trồng phục vụ chương trình xây dựng nông
thôn mới ở thị xã Sơn Tây
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
78
Page v
3.4.1. Tái cơ cấu khoa học công nghệ
78
3.4.2. Tái cơ cấu về tổ chức sản xuất
80
3.4.3. Sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên
81
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
83
1.
Kết luận
83
2.
Đề nghị
83
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
85
Page vi
DANH MỤC BẢNG
Tên bảng
Nội dung
Trang
Bảng 3.1. Một số yếu tố khí hậu nông nghiệp tại thị xã Sơn Tây
37
Bảng 3.2. Hiện trạng các loại hình sử dụng đất năm 2014
40
Bảng 3.3. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp năm 2014
40
Bảng 3.4. Hiện trạng sử dụng đất sản xuất nông nghiệp, trồng cây hàng năm ở
thị xã Sơn Tây (phân theo địa hình)
41
Bảng 3.5. Năng suất cây màu trên đất bãi
54
Bảng 3.6. Sản xuất rau vụ đông trên đất bãi
55
Bảng 3.7. Sản xuất rau vụ xuân trên đất bãi
56
Bảng 3.8. Các công thức trồng trọt rau màu trên đất cao trong đồng
56
Bảng 3.9. Các công thức trồng trọt trên đất 2 màu 1 lúa
57
Bảng 3.10. Các công thức trồng trọt trên đất trũng vàn ở trong đồng
58
Bảng 3.11. Các công thức trồng trọt trên đất thấp ở trong đồng
59
Bảng 3.12: Năng suất và hiệu quả kinh tế của sản xuất lúa
ở thị
xã Sơn Tây
63
Bảng 3.13. Hiệu quả kinh tế của các công thức trồng trọt chuyên màu ở trên đất bãi
66
Bảng 3.14. Hiệu quả xã hội của các công thức trồng trọt chuyên màu trên đất bãi
67
Bảng 3.15. Hiệu quả môi trường của các công thức trồng trọt chuyên mầu trên đất bãi
67
Bảng 3.16. Hiệu quả kinh tế sản xuất rau vụ đông trên đất bãi của thị xã Sơn Tây
68
Bảng 3.17. Hiệu quả kinh tế sản xuất rau vụ xuân trên đất bãi ở thị xã Sơn Tây
69
Bảng 3.18. Hiệu quả kinh tế của các công thức trồng trọt rau màu trên đất cao ở
trong đồng
70
Bảng 3.19. Hiệu quả môi trường của các công thức trồng trọt rau màu trên đất
cao ở trong đồng
71
Bảng 3.20. Hiệu quả môi trường của các công thức trồng trọt rau màu trên đất
cao ở trong đồng
Bảng 3.21. Hiệu quả kinh tế của các công thức trồng trọt 1 lúa 2 màu
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
71
72
Page vii
Bảng 3.22. So sánh hiệu quả kinh tế của các công thức trồng trọt trên đất vàn
73
Bảng 3.23. So sánh hiệu quả kinh tế của các công thức sử dụng đất trên đất trũng
74
Bảng 3.24. Kết quả lựa chọn từ thực tế sản xuất
75
Bảng 3.25. Đặc điểm giống lúa lai lựa chọn trong vụ xuân năm 2015
76
Bảng 3.26. Đặc điểm giống lúa thuần lựa chọn trong vụ xuân 2015
77
Bảng 3.27. Các công thức trồng trọt lựa chọn phục vụ chương trình xây dựng
nông thôn mới
79
Bảng 3.28. Một số cây trồng hàng hóa có ở thị xã Sơn Tây trong những năm tới 79
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page viii
DANH MỤC CÁC TỪ VÀ THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
1
2
3
CCCT
CNH - HĐH
DT
Cơ cấu cây trồng
Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
Diện tích
4
DV
Dịch vụ
5
DVNN
Dịch vụ nông nghiệp
6
GT
Giá trị
7
GTSX
Giá trị sản xuất
8
HTCT
Hệ thống cây trồng
9
HTNN
Hệ thống nông nghiệp
10
HTTT
Hệ thống trồng trọt
11
LĐ
Lao động
12
LM
Lúa mùa
13
LX
Lúa xuân
14
NN
Nông nghiệp
15
NNTS
Nông nghiệp thủy sản
16
NS
Năng suất
17
18
NTM
PTNT
Nông thôn mới
Phát triển nông thôn
19
SL
Sản lượng
20
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
21
Tr.đ
Triệu đồng
22
TS
Thủy sản
23
XD
Xây dựng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ix
I. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Thị xã Sơn Tây là một đơn vị hành chính của Hà Nội, ở đây có 2 khối
cư dân: cư dân đô thị và cư dân nông thôn nên đề tài nghiên cứu được giới
hạn trong nhóm cư dân nông thôn (vùng ngoại ô). Nông nghiệp ở vùng ngoại
ô được hình thành từ kinh tế hộ nông dân với đặc điểm là ruộng đất ít lại phân
tán nên rất khó cơ giới và tổ chức sản xuất; hậu quả là giá thành sản xuất cao.
Quỹ đất sản xuất, nguồn lao động, nguồn vốn và kỹ năng nghề nghiệp của các
hộ là rất khác nhau; sản xuất của nhiều hộ thường áp dụng cách làm theo, sản
xuất không có kế hoạch, vì vậy thường gặp hiện tượng những năm mất mùa thì
được giá, những năm được mùa thì mất giá; kết quả của sản xuất không bền vững.
Hiện nay thị xã Sơn Tây cùng với cả nước xây dựng nông thôn mới, hệ
thống cây trồng trong nông thôn mới được xây dựng từ sự liên kết giữa 4 nhà;
các nhà nông liên kết với nhau về ruộng đất, lao động, vốn và kỹ năng sản
xuất để hình thành cánh đồng mẫu lớn. Nhà nông liên kết với nhà khoa học để
chọn lựa các hệ thống kỹ thuật, trong đó có hệ thống cây trồng. Nhà nông liên
kết với các doanh nghiệp để được cung cấp các vật tư phục vụ sản xuất chế
biến và tiêu thụ nông sản. Nhà nông liên kết với Nhà nước để được vay vốn
và đảm bảo về pháp lý trong mối liên kết.
Trong thời gian thực tập tôi lựa chọn đề tài: "Nghiên cứu phát triển hệ
thống cây trồng phục vụ chương trình xây dựng nông thôn mới ở vùng
ngoại thị của thị xã Sơn Tây" để viết luận văn thạc sĩ.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Góp phần làm rõ thêm nội hàm của hệ thống cây trồng trong xây dựng
nông thôn mới. Về chọn loại cây trồng, giống cây trồng và hệ thống ử dụng
đất ở từng điều kiện sinh thái theo hướng tăng thu nhập bền vững cho nhân
dân thị xã Sơn Tây.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1
1.3. Yêu cầu của đề tài
- Xác định rõ các môi trường sinh thái thuộc vùng sản xuất nông nghiệp
của cả thị xã Sơn Tây.
- Đánh giá chi tiết thực trạng hệ thống cây trồng ở các điều kiện sinh
thái, tìm ra những biện pháp có hiệu quả để kế thừa những biện pháp không
hiệu quả để loại bỏ.
- Kết quả nghiên cứu bổ sung vào hệ thống cây trồng hiện tại.
- Đề xuất được hệ thống cây trồng mới cho vùng ngoại thị của thị xã
Sơn Tây.
1.4. Giới hạn của đề tài
- Thị xã Sơn Tây có 2 dạng địa hình: Địa hình bán sơn địa và địa hình
đất bằng. Trong luận văn chúng tôi xin được giới hạn phạm vi nghiên cứu là
hệ thống cây trồng trên đất ruộng địa hình bằng phẳng.
- Để cho hệ thống cây trồng đạt hiệu quả cao nhà nghiên cứu không chỉ
chú ý tới loại cây trồng, giống cây trồng, công thức luân canh cây trồng mà
còn phải chú ý tới các biện pháp canh tác khác như kỹ thuật trồng trọt, bón
phân, bảo vệ thực vật,… nhưng do giới hạn về thời gian nghiên cứu và yêu
cầu của đề tài chúng tôi xin được giới hạn vào một số nội dung như loại cây
trồng, giống cây trồng và công thức luân canh để viết trong luận văn này.
1.5. Những điểm mới của luận văn
Về lý luận: Góp phần làm rõ thêm phương pháp luận trong nghiên cứu
phát triển hệ thống cây trồng trong xây dựng nông thôn mới.
Về thực tiễn: Lựa chọn được một số loại cây trồng, công thức trồng trọt
phù hợp với một số điều kiện địa hình đất đai hiện tại ở thị xã Sơn Tây.
Chọn lựa được một số giống lúa phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã
hội hiện nay ở thị xã Sơn Tây.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Hệ thống cây trồng
Theo Phạm Chí Thành (1988) thì hệ thống cây trồng có nội hàm gồm
loại cây trồng, giống cây trồng và công thức luân canh cây trồng trong năm
trên một mảnh đất cụ thể.
Theo Phạm Chí Thành và Trần Đức Viên (2012) xây dựng nông thôn
mới có nội hàm gồm xây dựng hệ hống biện pháp kỹ thuật, xây dựng hệ thống
tổ chức sản xuất và xây dựng hệ thống sử dụng nguồn tài nguyên.
Những năm trước đây, hệ thống cây trồng được xây dựng phục vụ cho
nền nông nghiệp lấy hộ nông dân làm đơn vị sản xuất cơ sở. Người nông dân
trồng trọt loại cây trồng gì, giống gì và công thức luân canh nào trên mảnh
ruộng của họ là tùy thuộc vào các yếu tố bên ngoài gồm các yếu tố tự nhiên, các
yếu tố kinh tế xã hội của vùng, các yếu tổ bên trong như đất đai, lao động, tiền
vốn và kỹ năng nghề nghiệp của nông hộ (Phạm Chí Thành và cộng sự 1996).
Hiện nay Việt Nam đang xây dựng nông thôn mới theo hướng sản xuất
hàng hóa tập trung. Người nông dân trồng trọt như thế nào là tùy thuộc vào
các yếu tố bên ngoài như điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội, còn các
yếu tố bên trong không còn phụ thuộc nhiều vào nông hộ nữa. Người quyết
định hệ thống cây trồng là hiệp hội sản xuất (Phạm Chí Thành và Trần Đức
Viên, 2012).
Hiệp hội sản xuất là sự liên kết giữa các hộ nông dân với nhau, liên kết
giữa người nông dân với các nhà khoa học, liên kết giữa nông dân với ngân
hàng và những người làm thương mại dịch vụ.
1.1.1.2. Khái niệm về nông thôn
Các quốc gia trên thế giới trong quá trình phát triển đều phân các vùng lãnh
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3
thổ của mình thành 2 khu vực là thành thị và nông thôn. Hiện nay trên thế giới vẫn
chưa có định nghĩa chuẩn xác về nông thôn, còn nhiều quan điểm khác nhau.
Có quan điểm cho rằng cần dựa vào chỉ tiêu trình độ phát triển của cơ
sở hạ tầng. Quan điểm khác lại cho rằng nên dựa vào chỉ tiêu trình độ tiếp cận
thị trường phát triển hàng hóa để xác định vùng nông thôn.
Đến nay, khái niệm nông thôn được thống nhất với quy định tại Thông
tư số 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21-8-2009 của Bộ Nông nghiệp & Phát
triển nông thôn hướng đẫn thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới,
cụ thể: “Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành
phố, thị xạ, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân
xã”. Nông thôn Việt Nam hiện có khoảng 70% dân số sinh sống.
Việt Nam vẫn là nước nông nghiệp, vì vậy nông thôn có vai trò quan trọng:
- Sản xuất ra sản phẩm thiết yếu như lương thực, thực phẩm và sản
xuất nguyên liệu cho công nghiệp.
- Nông thôn Việt Nam có 54 dân tộc sinh sống, ảnh hưởng mạnh mẽ
đến tình hình kinh tế, an ninh quốc phòng.
- Chiếm đại đa số tài nguyên đất đai, rừng, biển, động thực vật, ảnh
hưởng đến bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển bền vững.
Do vậy phát triển nông thôn luôn là mục tiêu quan trọng trong phát
triển đất nước.
1.1.1.3. Khái niệm về Nông thôn mới
Hiện nay, chưa có một định nghĩa chính thức về nông thôn mới. Theo
nhiều cán bộ địa phương cho rằng:
“Nông thôn mới phải tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng làm đòn bẩy
phát triển các ngành nghề khác.”
“Nông thôn mới đạt được bộ tiêu chí do Chính phủ ban hành (19 tiêu chí)”.
“Nông thôn mới phải cải tạo được cảnh quan, bảo vệ môi trường phục
vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
“Nông thôn mới phải áp dụng khoa học kĩ thuật mới, nâng cao thu nhập
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4
cho người dân”.
Dựa trên các quan điểm của Phạm Chí Thành và Trần Đức Viên (2012)
như sau: “Một vùng làng, xã được xem là nông thôn mới khi ở đó có sự kết hợp
giữa khoa học công nghệ, tổ chức sản xuất và sử dụng họp lý nguồn tài nguyên
để tạo ra môi trường sống trong lành, người dân có thu nhập cao và ổn định”.
Theo Nghị quyết số 26 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X)
về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, thì nông thôn mới là khu vực nông thôn
có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các
hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công
nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội
nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh
thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần
của người dân ngày càng được nâng cao; theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết 26/NQTW ngày 28/05/2008 đã nêu một cách tổng quát về
mục tiêu, nhiệm vụ cũng như phương thức tiến hành quá trình xây dựng nông
thôn mới trong giai đoạn hiện nay, phù hợp với điều kiện thực tiễn phát triển
của đất nước. Quan điểm đó của Đảng là sự kế thừa và phát huy những bài
học kinh nghiệm lịch sử về phát huy sức mạnh toàn dân, huy động mọi nguồn
lực để tạo ra sức mạnh tổng hợp xây dựng nông thôn mới.
Thực hiện đường lối của Đảng, ngày 28/10/2008, Chính phủ đã ra Nghị
quyết số 24/2008/NQ-CP ban hành một chương trình hành động của Chính
phủ về xây dựng nông nghiệp, nông dân và nông thôn, thống nhất nhận thức,
hành động về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Chương trình mục tiêu
Quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
Nội dung chính của Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông
thôn mới là: xây dựng, tổ chức cuộc sống của dân cư nông thôn theo hướng
văn minh, hiện đại, giữ gìn bản sắc văn hóa và môi trường sinh thái gắn với
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5
phát triển đô thị, thị trấn, thị tứ.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng đã nêu rõ phương hướng,
nhiệm vụ của xây dựng nông thôn mới đến năm 2020 là: Tiếp tục triển khai
chương trình xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc điểm từng vùng theo
các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn, giữ gìn và phát huy nét
văn hóa bản sắc của nông thôn Việt Nam
Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới là căn cứ để các địa phương chỉ
đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; là cơ
sở để đánh giá công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
căn cứ quy định của Trung ương để xác định mức đạt phù hợp với điều kiện
thực tế đối với từng huyện, xã trên địa bàn nhưng vẫn đảm bảo đạt mức chung
của tỉnh theo quy định của Bộ tiêu chí quốc gia. Đồng thời giao các Sở
chuyên ngành chịu trách nhiệm hướng dẫn việc thực hiện, đánh giá, công
nhận đạt tiêu chí hoặc chỉ tiêu thuộc phạm vi quản lý nhà nước của ngành trên
cơ sở các văn bản hướng dẫn cụ thể của Bộ, ngành, Trung Ương.
Mô hình nông thôn mới được quy định bởi các tính chất: đáp ứng yêu
cầu phát triển, có sự đổi mới về tổ chức, vận hành và cảnh quan môi trường,
đạt hiệu quả cao nhất trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
tiến bộ hơn so với mô hình cũ, chứa đựng các đặc điểm chung, có thể phổ
biến và vận dụng trên cả nước.
1.1.1.4. Xây dựng nông thôn mới
Xây dựng nông thôn mới có nội hàm thực hiện bộ tiêu chí về xây dựng
nông thôn:
Ý nghĩa của Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới:
- Bộ tiêu chí là căn cứ để xây dựng nội dung Chương trình mục tiêu
quốc gia về xây dựng nông thôn mới, là chuẩn mực để các xã lập kế hoạch
phấn đấu đạt 19 tiêu chí nông thôn mới.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6
- Là căn cứ để chỉ đạo và đánh giá kết quả thực hiện xây dựng NTM
của các địa phương trong từng thời kỳ; đánh giá công nhận xã, huyện, tỉnh đạt
nông thôn mới; đánh giá trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền xã
trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.
1.1.1.5. Phân loại loại hình nông nghiệp
(1) Nông nghiệp tự cung, tự cấp
Theo Phạm Chí Thành và công sự (1996) thì tự cung, tự cấp là nền
nông nghiệp sản xuất ra sản phẩm là để ăn. Họ sản xuất là để phục vụ cho gia
đình họ sản phẩm dư thừa là để bán và mua những cái mà họ không sản xuất
ra được.
(2) Nông nghiệp hàng hóa
Theo Phạm Chí Thành và cộng sự (1996) thì nông nghiệp hàng hóa là
nền nông nghiệp sản xuất ra để bán, sản phẩm để bán được hình thành tùy
thuộc vào lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên, nhu cầu của thị trường. Thị
trường cần loại sản phẩm nào? Số lượng bao nhiêu? Chất lượng như thế nào?
Và giá mà người mua có thể trả?
Đề tài nghiên cứu nhằm phục vụ cho loại hình nông nghiệp sản xuất
hàng hóa vì vậy phải căn cứ vào điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội cụ thể để
chọn ra loại cây trồng, giống cây trồng, công thức trồng trọt có lợi thế về kinh
tế xã hội và môi trường…(Vũ Đức Kính - 2014, 2015)
1.1.2. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu
Phương pháp tiếp cận nghiên cứu trong thực hiện đề tài nghiên cứu cải
tiến hệ thống cây trồng phục vụ chương trình xây dựng nông thôn mới là tiếp
cận hệ thống (Phạm Chí Thành và cộng sự, 1996).
Tiếp cận hệ thống có nội hàm:
- Khi nghiên cứu một hệ thống không thể nghiên cứu riêng lẻ các phần
tử mà phải nghiên cứu trong mối quan hệ với các phần tử khác và phải đặc
biệt chú ý đến các thuộc tính mới xuất hiện.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7
- Khi nghiên cứu một hệ thống trong môi trường của nó xem xét sự
tương quan giữa hệ thống và môi trường mới có thể xác định rõ hơn hành vi
và mục tiêu hoạt động của hệ thống cũng như các ràng buộc mà ngoại cảnh
áp dụng đặt lên hệ thống.
- Các hệ thống thực tế thường là các hệ thống có cấu trúc phân cấp, do
đó phải xác định rõ mức cấu trúc.
- Các hệ thống thường là các hệ thống hữu ích, tức là sự hoạt động của
hệ thống có thể điều khiển được nhằm đạt được những mục tiêu đã định. Từ
đó nảy sinh vấn đề cần phải kết hợp các mục tiêu.
- Với mỗi hệ thống điều quan tâm chủ yếu là hành vi của nó, song hành
vi lại phụ thuộc vào cấu trúc của hệ thống một cách tái định hoặc ngẫu nhiên.
Do đó phải kết hợp cấu trúc với hành vi.
- Các hệ thống thực tế thường là đa cấu trúc (chồng chất các cấu trúc).
Vì vậy phải nghiên cứu theo nhiều giác độ rồi kết hợp lại. Người ta đi từ việc
nghiên cứu cấu trúc hiện sang nghiên cứu cấu trúc mờ.
1.1.3. Mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội và hệ
thống cây trồng
1.1.3.1. Quan hệ giữa khí hậu và hệ thống cây trồng
Theo Trần Đức Hạnh và cộng sự (1997) thì: Khí hậu là một thành phần
rất quan trọng của các hệ sinh thái, là tổng hợp các yếu tố thời tiết, là một
trong những yếu tố quyết định hệ thống trồng trọt của mỗi vùng. Vì vậy xác định
hệ thống cây trồng, điều quan tâm đầu tiên là các yếu tố cấu thành khí hậu.
Khí hậu tạo năng lượng chủ yếu cho quá trình hình thành chất hữu cơ,
tạo năng suất cây trồng. Hệ thống cây trồng tận dụng cao nhất điều kiện khí
hậu sẽ có tổng giá trị sản phẩm và giá trị kinh tế cao nhất. Hệ thống cây trồng
hợp lý là phải tránh được tác hại của các điều kiện bất lợi của khí hậu. Bố trí
hệ thống cây trồng hợp lý cho một vùng là phải tận dụng được sản phẩm có
giá trị cao nhất trên cơ sở nắm bắt cụ thể các chế độ mưa, nắng trong năm,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8
trong mùa vụ ở từng khu vực.
Hệ thống cây trồng và khí hậu có mối quan hệ chặt chẽ. Khi mà yếu tố
khí hậu ổn định thì có một hệ thống cây trồng thích ứng và ổn định. Yếu tố
khí hậu thay đổi phụ thuộc nhiều vào hoàn lưu khí quyển của vùng. Những
yếu tố khí hậu quyết định đến hệ thống cây trồng là: Nhiệt độ (trung bình, tối
cao, tối thấp, biên độ nhiệt độ), ánh sáng (bức xạ quang hợp, độ dài ngày) và
nguồn nước (nước mặn, nước ngầm, lượng mưa/năm, thoát hơi nước). Các
yếu tố này ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất, chất lượng cây trồng, khi chúng ta
tác động theo chiều hướng có lợi thì năng suất cây trồng cao.
* Tài nguyên ánh sáng và bức xạ quang hợp
- Độ dài ngày: ánh sáng bức xạ mặt trời nói chung và độ dài ngày nói
riêng rất có ý nghĩa trong việc lựa chọn giống cây trồng để đưa vào vùng cần
thiết, đặc biệt với cây trồng có độ phản ứng dài ngày. Độ dài ngày ở một vĩ độ
không đổi nhưng thay đổi theo thời gian và theo mùa. Mùa sinh trưởng của
cây trồng thay đổi theo mùa nhiệt và mùa mưa, ẩm. Do vậy, khi xem xét vai
trò của ánh sáng đối với cây trồng phải xem xét độ dài ngày theo mùa sinh
trưởng của cây trồng.
- Bức xạ quang hợp: bức xạ mặt trời đặc biệt quan trọng trong sản xuất
nông nghiệp. Thứ nhất ánh sáng là nguồn năng lượng mà cây xanh chuyển
thành năng lượng hóa học qua quá trình quang hợp; thứ hai, bức xạ là nguồn
năng lượng chính trong quá trình bốc hơi, quyết định nhu cầu nước của cây
trồng. Những sóng bức xạ tham gia vào quá trình quang hợp gọi là bức xạ
hoạt động quang hợp. Tổng hợp bức xạ cao hay thấp gián tiếp cho ta biết
năng suất tiềm năng của cây trồng cao hay thấp.
- Số giờ nắng: số giờ nắng cũng là cơ sở để tính ra bức xạ quang hợp.
số giờ nắng liên quan đến sinh trưởng của cây trồng, số giờ nắng tác động
trực tiếp đến quá trình quang hợp, tổng hợp chất khô của cây trồng, số giờ
nắng quyết định độ dài ngày và cường độ ánh sáng. Theo Đào Thế Tuấn
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9
(1997): số giờ nắng/ngày và cường độ ánh sáng ở giai đoạn cuối vụ liên quan
chặt chẽ đến năng suất cây trồng (đối với cây lúa là 45 ngày cuối vụ), số giờ
nắng/ngày và số giờ nắng/vụ có ý nghĩa quan trọng đối với cây lúa: Nếu số
giờ nắng/ngày dưới 3 giờ thì cây thiếu nắng, từ 3,1-6,0 giờ thì cây đủ nắng,
trên 6 giờ là điều kiện tối ưu.
* Tài nguyên nhiệt
- Tích nhiệt: là đơn vị biểu hiện thời gian cần thiết để thực hiện hoàn
thành một giai đoạn hay cả một vòng sinh trưởng, phát triển. Thông qua tích
nhiệt cả năm của một vùng nào đó có thể nắm bắt khả năng gieo trồng số vụ
trong năm.
- Biên độ ngày, đêm của nhiệt độ (chênh lệch giữa nhiệt độ cao nhất và
thấp nhất) được xem như là một chỉ tiêu phân loại khí hậu. Đối với sản xuất
nông nghiệp, biên độ ngày, đêm có tác dụng lớn đối với quá trình sinh trưởng,
phát triển của cây trồng, đặc biệt trong quá trình quang hợp tích lũy vật chất
và quá trình hô hấp vào ban đêm. Do đó, đối với từng vùng thời gian có nhiệt
độ ngày càng lớn chính là thời gian thích hợp và thuận lợi với quá trình ra
hoa, tạo quả và làm hạt (củ) của nhiều loại cây trồng. Biên độ nhiệt độ chênh
lệch càng cao thì năng suất càng cao do cường độ quang hợp ban ngày vẫn ổn
định mà hô hấp lại giảm vào ban đêm, tạo nên năng suất cao, đặc biệt sẽ làm
tăng chất lượng nông sản.
* Lượng mưa, chế độ mưa:
Mưa là một trong những yếu tố rất quan trọng của khí hậu nói chung và
khí hậu nông nghiệp nói riêng. Lượng mưa trung bình hàng tháng hay hàng
năm chỉ thể hiện đặc trưng chung của một vùng khí hậu nhất định. Nước mưa
cung cấp phần lớn lượng nước mà cây yêu cầu, nhất là các vùng đất không có
khả năng tưới tiêu theo hệ thống thủy lợi. Nước mưa ảnh hưởng đến quá trình
canh tác và quy hoạch. Do vậy khi xác định hệ thống cây trồng cũng cần chú
ý đến lượng mưa hàng năm, hàng vụ ở các tiểu vùng sinh thái (Lê Duy
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10
Thước, 1991; Bùi Quang Toản, 1993). Lượng mưa hay độ ẩm tác động rất rõ
đến quá trình sinh trưởng, phát triển của hầu hết các loại cây trồng, đặc biệt là
giai đoạn ra hoa. Thiếu nước trước hoặc sau khi ra hoa cây sẽ giảm năng suất
rất nghiêm trọng, nhưng ngược lại vào thời kỳ này nếu mưa nhiều cũng gây
tác hại rất lớn, cây khó có khả năng hấp thụ hoàn toàn, đất ngập úng bị thiếu
không khí ảnh hưởng đến hoạt động của bộ rễ và sự sinh trưởng của cây.
* Chế độ gió: Chế độ gió ảnh hưởng đến chế độ nhiệt và có sự phân bố rõ
theo mùa.
- Gió mùa Đông Bắc: về mùa đông do vùng ôn đới lạnh giá tạo nên các
áp lực cao lục địa và di chuyển xuống phía Nam hoặc Đông Nam địa Trung
Quốc, rìa phía Nam của nó lấn xuống miền Bắc nước ta gây nên gió mùa
Đông Bắc. Gió mùa Đông Bắc ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khí hậu
các tỉnh miền Bắc từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau. Gió mùa Đông
Bắc đột ngột làm giảm nhiệt độ 7-10°C so với bình quân nên thường gây hiệu
quả xấu đến sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là đối với sản xuất lúa xuân.
- Gió Tây Nam khô nóng xuất phát từ áp thấp khô nóng Ấn Độ - Miến
Điện hoặc từ vịnh Bengan, khi qua dải núi cao Trường Sơn phần nhiều hơi
nước giữ lại ở phía Tây Nam, khi vào đến nước ta thì trở lên khô và nóng,
nhưng chỉ xuất hiện từng đợt. Ở khu vực các tỉnh miền Bắc, gió Tây Nam khô
nóng thường bắt đầu vào tháng 6 kết thúc vào tháng 8 và gây hậu quả xấu
như: đất thiếu nước, cây cối khô héo, giảm năng suất, tăng tích lũy sắt, nhôm,
pH giảm gây thoái hóa đất, Gió Tây Nam nóng xuất hiện làm tăng cường độ
bốc hơi nước, nếu xuất hiện vào thời kỳ lúa xuân trổ bông, thụ phấn sẽ gây
ảnh hưởng lớn đến năng suất.
Khả năng bảo đảm nhiệt độ và độ ẩm cho các loại cây trồng ngắn là hai
yếu tố chính để xem xét, bố trí hệ thống cây trồng. Từ đó các nhà nông học đã
đưa ra các khái niệm về cây ưa nóng, cây ưa lạnh và cây trung gian với nhiệt
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11
độ ở ranh giới 20°C. Cây ưa nóng là các loại cây có thể sinh trưởng tốt, ra
hoa, kết quả tốt ở nhiệt độ trên 20°C như cây lúa, mía, lạc... Cây ưa lạnh là
những loại cây sinh trưởng tốt, ra hoa, kết quả tốt ở nhiệt độ dưới 20°C.
Bố trí hệ thống cây trồng hợp lý là cần nắm cụ thể các chế độ mưa,
nắng trong năm, trong từng mùa vụ ở khu vực. Có thế mới tận dụng được tối
ưu các điều kiện thời tiết vùng đó để nhằm tạo ra được một khối lượng sản
phẩm có giá trị cao nhất. Việc bố trí hệ thống cây trồng, đặc biệt với cây hàng
năm phụ thuộc rất nhiều vào tổng tích ôn hàng năm ở từng vùng, tiểu vùng sinh
thái và nhiệt lượng cây cần để hoàn thành chu trình sinh trưởng và phát triển.
1.1.3.2. Quan hệ giữa đất đai và hệ thống cây trồng
Đất là một thành phần quan trọng của hệ sinh thái, là nguồn cung cấp
nước và dinh dưỡng cho cây trồng. Điều kiện đất đai là một trong những căn
cứ quan trọng sau điều kiện khí hậu để bố trí hệ thống cây trồng. Tùy thuộc
vào điều kiện địa hình, độ dốc, chế độ nước ngầm, thành phần cơ giới của
đất... để bố trí hệ thống cây trồng phù hợp (Phạm Văn Chiêu, 1964; Ngô Thế
Dân và Trần An Phong, 1993; Bùi Thị Xô, 1994; Vũ Đức Kính, 2014;
Nguyễn Thị Bông, 2014).
Quá trình sản xuất nông nghiệp trên đất bằng ít chịu sự tác động của
các nhân tố tự nhiên, kinh tế, xã hội so với các vùng đất dốc; tình trạng xói
mòn đất và khô hạn cũng sẽ ít hơn nên tính bền vững của hệ canh tác trên đất
bằng cao hơn; năng suất, sản lượng cây trồng và hiệu quả kinh tế thu được
cũng cao và ổn định hơn. Một số nhà khoa học nông nghiệp cho rằng quá
trình phát triển của hệ thống cây trồng là sự phát triển đồng ruộng đi từ cao
đến thấp. Có nghĩa là hệ thống cây trồng đã phát triển trên hệ thống đất cao
trước sau đó mới đến đất thấp. Đây là quá trình hình thành của hệ sinh thái
đồng ruộng.
1.1.3.3. Quan hệ giữa loại cây trồng và hệ thống cây trồng
Cây trồng là thành phần chủ yếu của hệ sinh thái nông nghiệp. Bố trí hệ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12
thống cây trồng là lựa chọn loại cây trồng nào lợi dụng tốt nhất các điều kiện
khí hậu, đất đai ở vùng đó hoặc tạo cho cây trồng phát huy nhiều nhất khả
năng thích ứng của chúng với điều kiện của vùng (Nguyễn Vy, 1982). Khác
với điều kiện khí hậu, đất đai là yếu tố mà con người ít có khả năng thay đổi
bản chất theo mong muốn
Các nhà canh tác học (Lý Nhạc và cộng sự, 1987) cho biết ở vùng khí
hậu nhiệt đới có tài nguyên ánh sáng, nguồn nước, chất dinh dưỡng chưa
được sử dụng đúng mức, còn có thể khai thác tăng vụ sản xuất lên hơn nữa.
Điển hình nhất là cuộc cách mạng xanh ở các nước nhiệt đới đã du nhập và
sản xuất thành công nhiều giống lúa nước ngắn ngày, năng suất cao có thể
gieo trồng 2-3 vụ/năm. Các chế độ trồng xen, trồng gối liên tiếp nhau với các
loại cây trồng khác nhau đã được chú ý nhiều ở hầu hết các nước có nền nông
nghiệp phát triển, nhất là ở những nước ít có diện tích canh tác nhưng dân số
đông.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và tiến bộ khoa học, sự
phân công trong nội bộ ngành nông nghiệp ngày càng có sự thay đổi về tỷ lệ
và phát triển thêm nhiều nghề mới, xuất hiện nhiều phân hệ mang tính liên tục
và không ngừng hoàn thiện, phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của xã hội về các
nông sản phẩm.
Quá trình sản xuất và tiêu dùng là 2 quá trình đan xen mang tính lịch sử
và xã hội, có tác động qua lại lẫn nhau. Sản xuất nông nghiệp ngày càng phát
triển, phong phú và đa dạng thì càng đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của xã
hội ngày càng cao. Sự xuất hiện nhu cầu tiêu dùng mới là động lực thúc đẩy
quá trình cải tiến cơ cấu sản xuất nông nghiệp, tạo ra nhiều sản phẩm mới.
Quan hệ này tuân theo nguyên lý phát triển, được chuyển đổi từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp và ngày càng hoàn thiện hơn.
1.1.3.4. Quan hệ giữa phương thức canh tác, quần thể sinh vật với hệ thống
cây trồng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13
Các biện pháp kỹ thuật như làm đất, tưới nước, bón phân, chăm sóc, cải
tạo đất, trừ cỏ dại, sâu bệnh, chọn tạo giống cây trồng năng suất cao, chất
lượng tốt, luân canh cây trồng theo thời vụ... đều được coi là liên quan chặt
chẽ đến hệ thống cây trồng. Trong các hệ thống sinh vật nhân tạo, các thành phần
cỏ dại, thực vật bậc thấp, động vật nhỏ, côn trùng, vi sinh vật là những quần thể
sinh vật sống. Do đó khi bố trí hệ thống cây trồng cần chú ý các mối quan hệ này
để hệ thống cây trồng đạt hiệu quả kinh tế cao nhất (Nguyễn Vy, 1991).
Các tiêu chuẩn cần có của hệ thống nông nghiệp là sự phối hợp giữa
cây trồng và gia súc, phương pháp trồng trọt và chăn nuôi gia súc, cường độ
lao động, vốn đầu tư, kiểu tổ chức sản xuất và tính chất hàng hóa, khả năng
tiêu thụ sản phẩm.
Luân canh là biện pháp kỹ thuật nông nghiệp hoàn chỉnh có tổ chức để
hoàn thành mục tiêu sản xuất nông nghiệp ở một vùng, tiểu vùng khu vực
nhất định dựa trên cơ sở lợi dụng tốt nhất các điều kiện tự nhiên và xã hội của
vùng đó. Các chế độ canh tác khác nhau như thủy lợi, phân bón, nước, đất,
bảo vệ thực vật... đều căn cứ vào loại cây trồng, giống cây trồng và trình tự
luân canh trong hệ thống luân canh.
Mối quan hệ giữa các loại cây trồng trong hệ thống luân canh là quan
hệ giữa cây trồng trước với cây trồng sau và ảnh hưởng của chúng trong một
cơ cấu cây trồng ở một vùng hay tiểu vùng sinh thái. Điều đó cho thấy trong
bố trí cơ cấu cây trồng, việc xác định cây trồng trước và sau rất quan trọng,
vừa đáp ứng được mục đích sản xuất, vừa lợi dụng được các điều kiện tốt nhất
của tự nhiên giúp cây trồng hoàn chỉnh hơn trong hệ thống luân canh.
Cây trồng ở mỗi vùng có khả năng thích nghi với điều kiện ngoại cảnh
và thường xuyên bị chi phối bởi các quy luật tự nhiên.
Điều kiện tự nhiên của từng tiểu vùng sinh thái đều có những nét đặc
thù, do đó khi đưa cây trồng mới vào để thay đổi cơ cấu cây trồng và cải tiến
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14
hệ thống cây trồng cần phải chú ý đến tính chất này. Bố trí cây trồng hoặc
giống mới vào một địa bàn cụ thể nhằm đạt được lợi ích kinh tế cao hơn chú ý
đáp ứng thỏa mãn nhu cầu sinh thái của nó.
Theo quan điểm sinh thái cây trồng không có loại cây trồng nào có khả
năng sử dụng hết nguồn tài nguyên thiên nhiên ở một vùng nông nghiệp. Một
trong những biện pháp kinh tế-kỹ thuật nhằm tận dụng tối đa nguồn lợi tự
nhiên và kinh tế, xã hội và bố trí hệ thống cây trồng hợp lý cho một vùng hay
một đơn vị sản xuất nông nghiệp.
Hệ thống cây trồng này là một trong những nội dung của hệ thống biện
pháp kỹ thuật gọi là chế độ canh tác. Hệ thống cây trồng là yếu tố cơ bản nhất của
chế độ canh tác vì chính cây trồng quyết định nội dung của biện pháp kỹ thuật
khác. Có thể tóm tắt mối quan hệ giữa cây trồng và môi trường qua sơ đồ sau:
Hệ thống canh tác
Hệ thống
chăn nuôi
Hệ thống
trồng trọt
Hệ thống
chế biến
Hệ thống cây trồng
Môi trường: Điều
kiện tự nhiên,
Đầu
vào
Cây trồng và giống
cây trồng
Đầu
vào
kinh tế - xã hội
Năng suất,
chất lượng,
giá cả
Sơ đồ 1.1 Vị trí của HTCT trong hệ thống canh tác
Trên cơ sở lý luận về hệ thống cây trồng và thực tế sản xuất nông
nghiệp ở nước ta trong thời gian qua, Viện sĩ Đào Thế Tuấn (1993) đã nhận
định: Việc phát triển trồng trọt trong thời gian tới cần phải dựa vào “Hiệu ứng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15
hệ thống” bằng cách bố trí lại hệ thống cây trồng thích hợp với các điều kiện
đất đai, khí hậu và các chế độ khác. Phải áp dụng các biện pháp kỹ thuật tổng
hợp nhằm khai thác, sử dụng cao nhất các nguồn lợi tự nhiên, lao động. Đa
dạng hóa cây trồng về chủng loại, giống... là một biện pháp nâng cao tính hiệu
quả của hệ thống.
1.1.3.5. Quan hệ giữa các yếu tổ kinh tế xã hội và hệ thống cây trồng
Theo Phạm Chí Thành và cộng sự (1988) thì người nông dân trồng cây
gì phải xuất phát từ điều kiện kinh tế như có vốn để đầu tư hay không, có thị
trường tiêu thụ hay không, cơ sở hạ tầng như hệ thống tưới tiêu nước, hệ
thống giao thông có thuận lợi hay không, lực lượng lao động có hay không...
Như đã nói ở trên, hệ thống cây trồng muốn phát huy được tác dụng phải phù
hợp với tổ chức sản xuất, với các chính sách của nhà nước. Hệ thống cây
trồng muốn phát huy được tác dụng phải phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội
của vùng và của người nông dân.
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài.
1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Trong thực tiễn sản xuất nông nghiệp lâu dài, ở những điều kiện sinh
thái và xã hội khác nhau, ở nhiều nơi trên trái đất vào những thời điểm nhất
định của lịch sử đã hình thành những trung tâm cây trồng chủ yếu của nhân
loại, bao gồm cây dại và cây trồng. Lịch sử nông nghiệp thế giới cũng chỉ rõ
việc chuyển đổi sản xuất nông nghiệp hàng hóa gắn liền với biến đổi sâu sắc
hệ thống cây trồng.
- Từ cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, cuộc cách mạng hệ thống cây
trồng được bắt đầu ở một số nước Tây Âu, chế độ độc canh trong nông nghiệp
được thay thế bằng các chế độ luân canh cây ngũ cốc và đồng cỏ, đồng thời
sử dụng các loại cây họ đậu làm thức ăn gia súc kết hợp với công cụ cải tiến
là phân bón đã thực sự nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp (Phạm Chí
Thành và cộng sự, 1996; Nguyễn Thị Bông, 2014). Các chế độ luân canh này
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 16
đánh dấu một bước ngoặt trong quá trình phát triển nông nghiệp của châu Âu.
Theo chế độ luân canh này, hệ thống cây trồng gồm một số cây chăm sóc giữa
hàng như khoai tây, cây lấy củ, ngũ cốc, cỏ ba lá và ngũ cốc mùa hè. Chế độ
luân canh này cũng đồng thời tăng cường các biện pháp kỹ thuật như làm đất,
bón phân... Chính vì lẽ đó, năng suất ngũ cốc được tăng lên gấp 2 lần so với
chế độ luân canh cũ và sản phẩm lương thực, thực phẩm được tăng lên gấp 4
lần trên cùng 1 ha đất canh tác ( như các loại cây có củ, quả được đưa thêm
vào hệ thống cây trồng và năng suất của chính cây ngũ cốc được tăng lên).
Chế độ luân canh mới này đã tạo ra những điểm đột phá thắng lợi như Anh,
Bỉ, Hà Lan, Pháp và tiếp theo các nước châu Âu khác (Bùi Huy Đáp và
Nguyễn Điền, 1996).
Từ những thập niên 60, các nhà sinh lý thực vật đã nhận ra rằng không
một loại cây trồng nào có thể sử dụng hoàn toàn triệt để tài nguyên thiên nhiên
của mỗi vùng. Lấy căn cứ vào các mối liên hệ giữa cây trồng với môi trường và
công tác quản lý nông nghiệp, để tìm ra phương pháp nghiên cứu hệ thống
công thức luân canh cây trồng mới, với hệ canh tác đơn giản để thay thế hệ
thống canh tác cũ, khắc phục tình trạng mất cân bằng sinh học, có hiệu quả
kinh tế cao hơn và có khả năng thỏa mãn nhu cầu của con người mà không bóc
lột đất đai, không gây ô nhiễm môi trường.
- Các viện nghiên cứu nông nghiệp trên thế giới hàng năm đã lai tạo,
tuyển chọn ra nhiều loại cây trồng mới, đưa ra nhiều công thức luân canh, quy
trình kỹ thuật tiến bộ, đề xuất cơ cấu cây trồng thích hợp cho từng vùng sinh
thái nhằm tăng năng suất, sản lượng và giá trị sản lượng trên một đơn vị diện
tích canh tác. Đặc biệt là Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI) đã góp nhiều
thành tựu về cơ cấu giống lúa (Vũ Tuyên Hoàng, 1995).
- Ở châu Á, chế độ xen canh, gối vụ truyền thống cũng đã được nghiên
cứu và phát triển. Năm 1960, Hàn Quốc, Đài Loan đã đạt chỉ số thâm canh
tăng vụ 1,5 và 1,8 lần. Cùng thời kỳ này các nhà nghiên cứu của IRRI đã nhận
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 17
thức rằng các giống lúa mới thấp cây, cứng lá tiềm năng năng suất cao cũng
chỉ có thể giải quyết vấn đề lương thực phạm vi hạn chế. Do đó từ những năm
đầu của, thập kỷ 70 họ đã đi sâu nghiên cứu toàn bộ hệ thống cây trồng trên
đất lúa theo hướng lấy lúa làm cây chủ đạo và tăng cường phát triển các loại
cây hoa màu trồng cạn. Các chế độ trồng xen, trồng gối, trồng nối tiếp ngày
càng được chú ý nghiên cứu. Ở châu Á đã hình thành một “mạng lưới hệ canh
tác” đó là một tổ chức hợp tác nghiên cứu giữa Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế
(IRRI) và nhiều quốc gia trong vùng. Hệ thống cây trồng trong mạng lưới này
rất đa dạng và phong phú với nhiều mục tiêu cụ thể như: thử nghiệm tăng vụ
bằng các cây trồng mới ngắn ngày để thu hoạch trước mùa mưa lũ hoặc xen
canh, luân canh tăng vụ, xác định hiệu quả kinh tế của các công thức luân
canh hoặc khắc phục những yếu tố hạn chế để đạt được hiệu quả kinh tế cao.
- Chương trình nghiên cứu nông nghiệp phối hợp toàn Ẩn Độ từ năm
1960 -1972 lấy hệ thâm canh tăng vụ chu kỳ 1 năm làm chiến lược phát triển
sản xuất nông nghiệp đã kết luận: “Hệ canh tác dành ưu tiên cho cây lương
thực, chu kỳ 1 năm 2 vụ ngũ cốc (2 vụ lúa nước hoặc 1 vụ lúa nước 1 vụ lúa
mỳ) đưa thêm vào 1 vụ trồng cây họ đậu”. Điều này đã giải quyết được các
vấn đề chính là khai thác tối ưu tài nguyên của đất đai, góp phần ảnh hưởng
tích cực đến chế độ phì của đất trồng trọt và đảm bảo lợi ích của người nông
dân. Việc phát triển nhiều giống cây trồng cùng với việc bố trí lại cơ cấu cây
trồng hợp lý đã đưa Ấn Độ từ một nước thường xuyên thiếu lương thực trở
thành một nước đủ ăn và có dư thừa để xuất khẩu. Cũng ở Ấn Độ các nhà
khoa học đã đề cập đến cơ cấu luân canh cây trồng hợp lý phụ thuộc vào điều
kiện canh tác, các chính sách và giá cả nông sản hàng hóa. Do đó đã hình
thành hàng loạt các công thức luân canh cho các vùng, tiểu vùng sinh thái.
- Nhật Bản là một nước có điều kiện tự nhiên không thuận lợi cho sản
xuất nông nghiệp. Do đó các nhà khoa học Nhật Bản đã tập trung nghiên cứu
và đề ra các chính sách quan trọng, xây dựng những chương trình có mục tiêu
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 18
như an toàn lương thực, cải cách ruộng đất, ổn định thị trường nông sản và
đẩy mạnh công tác khuyến nông nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm và thực
hiện một số biện pháp về kỹ thuật cải cách nông thôn... Nhờ vậy cho đến nay,
Nhật Bản trở thành một quốc gia có nền nông nghiệp hiện đại hàng đầu thế
giới. Các nhà khoa học Nhật Bản đã hệ thống hóa 4 tiêu chuẩn của hệ thống
cây trồng là sự phối hợp giữa cây trồng và vật nuôi, các phương pháp trồng
trọt và chăn nuôi gia súc, cường độ lao động, tổ chức sản xuất ra sản phẩm,
tính chất hàng hóa của sản phẩm (Nguyễn Duy Tính, 1995).
- Đài Loan có diện tích sản xuất nông nghiệp rất thấp, nhưng do cải tiến
các biện pháp kỹ thuật, thực hiện các chính sách khuyến khích nên đã tạo cho
nông nghiệp có những phát triển vượt bậc, không những cung cấp dồi dào
lương thực mà còn chuyển vốn cho những ngành khác, đóng góp rất lớn cho
công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa và thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát
triển. Đài Loan thực hiện áp dụng rộng rãi kỹ thuật vi sinh để nâng cao sản
xuất, sản lượng cây trồng, nâng cao khả năng canh tác của đất đai, nhập thêm
nhiều giống cây mới có giá trị kinh tế cao... Những biện pháp đó đã giúp Đài
Loan chuyển sang nền nông nghiệp hàng hóa và xuất khẩu nhiều nông sản,
đồng thời có điều kiện để đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp ở một số nước
đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Đài Loan đã thành công trong việc
nghiên cứu cây màu chịu hạn để trồng xen trong mía. Các giống cây trồng màu
chịu hạn trồng vào mùa khô để tăng vụ sau khi thu hoạch lúa mùa. Để phát
triển nông nghiệp nông thôn, Đài Loan đã tiến hành cải cách ruộng đất, cải tiến
kỹ thuật, phát triển nông nghiệp, thúc đẩy kiến thiết nông thôn. Cơ cấu sản xuất
nông nghiệp cũng dịch chuyển theo hướng phù hợp với yêu cầu của công
nghiệp hóa, giảm tỷ trọng ngành trồng trọt từ 71% (năm 1952) xuống 47,1%
(năm 1981) và xuống dưới 10% (năm 2010), tăng tỷ trọng giá tri sản xuất công
nghiệp từ 15,6%( năm 1952) lên 19,5% (năm 1981) và trên 50% (năm 2010).
- Hệ canh tác và công thức luân canh ở những khu vực đồng bằng của
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 19