Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Thực trạng và giải pháp sử dụng đất sản xuất nông nghiệp sau khi dồn điền đổi thửa tại huyện mỹ đức thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.42 MB, 104 trang )

MỤC LỤC
Lời cam đoan

i

Lời cảm ơn

ii

Mục lục

iii

Danh mục chữ viết tắt

vi

Danh mục bảng

vii

MỞ ĐẦU

1

1 Tính cấp thiết của đề tài

1

2 Mục đích nghiên cứu


2

3 Yêu cầu của đề tài

2

Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU

3

1.1 Tổng quan về chính sách quản lý và sử dụng đất nông nghiệp ở Việt Nam

3

1.1.1 Chính sách đất nông nghiệp trước thời kỳ đổi mới

3

1.1.2 Chính sách đất nông nghiệp sau thời kỳ đổi mới cho đến nay

7

1.2 Tổng quan về dồn điển đổi thửa

10

1.2.1 Vấn đề manh mún đất đai

10


1.2.2 Tình hình nghiên cứu dồn điền đổi thửa ở Việt Nam

14

1.3 Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và phân loại hiệu quả sử dụng đất

20

1.3.1 Khái niệm hiệu quả sử dụng đất

20

1.3.2 Phân loại hiệu quả sử dụng đất

22

1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp

23

1.4.1 Nhóm các yếu tố về điều kiện tự nhiên

24

1.4.2 Nhóm các yếu tố kinh tế - xã hội

24

1.4.3 Nhóm các yếu tố tổ chức, kỹ thuật


25

1.5 Những nghiên cứu đánh giá sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới
và tại Việt Nam

26

1.5.1 Trên thế giới

26

1.5.2 Tại Việt Nam

29

Chương 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
iii

31
31


2.1.1 Đối tượng nghiên cứu

31

2.1.2 phạm vi nghiên cứu

31


2.2 Nội dung nghiên cứu

31

2.2.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội huyện Mỹ Đức - Hà Nội

31

2.2.2 Tình hình sử dụng đất trước và sau dồn điền đổi thửa của huyện
Mỹ Đức

31

2.2.3 Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sau khi thực hiện chính sách dồn
điền đổi thửa

31

2.2.4 Đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng đất sản
xuất nông nghiệp sau khi thực hiện dồn điền đổi thửa
2.3 Phương pháp nghiên cứu

32
32

2.3.1 Phương pháp chọn điểm nghiên cứu

32


2.3.2 Phương pháp thu thập thông tin

33

2.3.3 Phương pháp xử lý số liệu, dữ liệu bằng phần mềm EXCEL.

33

2.3.4 Phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng đất sau dồn điền đổi thửa

33

Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội

35
35

3.1.1 Điều kiện tự nhiên

35

3.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội

39

3.1.3 Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và môi
trường

45


3.2 Tình hình sử dụng đất trước và sau dồn điền đổi thửa của huyện Mỹ
Đức, thành phố Hà Nội

46

3.2.1 Hiện trạng sử dụng đất huyện Mỹ Đức năm 2014

46

3.2.2 Tình hình dồn điền đổi thửa huyện Mỹ Đức

47

3.2.3 Hiện trạng sử dụng đất sản xuất nông nghiệp trước và sau dồn
điền đổi thửa tại 3 xã nghiên cứu

51

3.3 Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sau khi thực hiện chính sách dồn
điền đổi thửa

54

iv


3.3.1 Thực trạng sử dụng đất sau khi thực hiện chính sách dồn điền
đổi thửa tại 3 xã nghiên cứu
3.3.2 Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sau khi dồn điền đổi thửa


54
61

3.3.3 Đánh giá chung về công tác dồn điền đổi thửa và hiệu quả sử
dụng đất sản xuất nông nghiệp sau dồn điền đổi thửa

78

3.4 Đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp trên địa bàn huyện Mỹ Đức sau khi thực hiện dồn điền
đổi thửa

80

3.4.1 Một số đề xuất sử dụng đất sản xuất nông nghiệp trên địa bàn
huyện Mỹ Đức sau khi thực hiện dồn điền đổi thửa

80

3.4.2 Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất
sản xuất nông nghiệp sau khi thực hiện dồn điền đổi thửa
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

81
84

Kết luận

84


Kiến nghị

84

TÀI LIỆU THAM KHẢO

86

PHỤ LỤC

88

v


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

1

BCH/TW

Ban Chấp hành Trung ương

2

BVTV


Bảo vệ thực vật

3

CNH - HĐH

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa

4

CPTG

Chi phí trung gian

5

CT-TƯ

Chỉ thị Trung ương

6

DĐĐT

Dồn điền đổi thửa

7

ĐVT


Đơn vị tính

8

GCN

Giấy chứng nhận

9

GTNC

Giá trị ngày công

10

GTSX

Giá trị sản xuất

11

HĐND

Hội đồng nhân dân

12

HQĐV


Hiệu quả đồng vốn

13

HTX

Hợp tác xã

14

HTXSXNN

Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp

15

KH-UBND

Kế hoạch Ủy ban nhân dân

16

NQ-CP

Nghị quyết Chính phủ

17

NQ/TW


Nghị quyết Trung ương

18

QĐ-UBND

Quyết định Ủy ban nhân dân

19

QSDĐ

Quyền sử dụng đất

20

TNHH

Thu nhập hỗn hợp

21

UBND

Ủy ban nhân dân

22

XHCN


Xã hội chủ nghĩa

STT

vi


DANH MỤC BẢNG
Số bảng

Tên bảng

Trang

1.1

Mức độ manh mún ruộng đất ở các vùng trong cả nước

13

3.1

Một số yếu tố thời tiết khí hậu ở huyện Mỹ Đức từ năm 2012-2014

36

3.2

Nhóm đất chính trên địa bàn huyện Mỹ Đức


38

3.3

Hiện trạng sử dụng đất huyện Mỹ Đức 2014

47

3.4

Kết quả thực hiện dồn điền đổi thửa ở các xã huyện Mỹ Đức

49

3.5

Kết quả thực hiện dồn điền đổi thửa theo nhóm hộ ở huyện Mỹ Đức

50

3.6

Thực trạng ruộng đất trước và sau dồn điền đổi thửa tại 3 xã nghiên
cứu đại diện

3.7

52


Cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp trước và sau dồn điền đổi thửa của
3 xã nghiên cứu

55

3.8

Một số mô hình sản xuất tổng hợp sau dồn điền đổi thửa

57

3.9

Mua máy móc sau khi dồn điền đổi thửa

59

3.10

Tác động về mức cơ giới hoá sau đồn điền đổi thửa

59

3.11

Giá trị và cơ cấu sản xuất của các hộ trước và sau DĐĐT

60

3.12


Hiệu quả kinh tế một số cây trồng chính của 3 xã nghiên cứu trước
dồn điền đổi thửa

3.13

63

Hiệu quả kinh tế một số cây trồng chính tại 3 xã nghiên cứu sau
dồn điền đổi thửa

64

3.14

Mức độ đầu tư, chi phí của các hộ trên 1 ha lúa tại 3 xã

66

3.15

Hiệu quả kinh tế sử dụng đất trên một héc ta đất nông nghiệp tại 3
xã điều tra

3.16

68

Mức đầu tư lao động và thu nhập bình quân trên ngày công lao
động của một số kiểu sử dụng đất chính tại 3 xã nghiên cứu


3.17
3.18

70

So sánh mức đầu tư phân bón với tiêu chuẩn phân bón cân đối và
hợp lý

74

Mức độ sử dụng một số loại thuốc bảo vệ thực vật

75

vii


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên, nguồn lực quan trọng thúc đẩy quá trình phát
triển kinh tế - xã hội. Trong sản xuất nông nghiệp, đất đai không chỉ là đối tượng
lao động mà còn là tư liệu sản xuất không thể thay thế được.
Trong công cuộc cải cách kinh tế nông nghiệp, nông thôn, Đảng và Nhà
nước ta luôn có những chính sách mới về đất đai nhằm thúc đẩy nền nông nghiệp
phát triển, điển hình là là Luật Đất đai năm 1993, theo đó đất đai được giao đến
tận tay người nông dân. Chính sách mới về quyền sử dụng đất đã làm thay đổi
hoàn toàn quan hệ sản xuất ở nông thôn, người nông dân thực sự làm chủ mảnh
đất của mình, đó là động lực cho sự phát triển vượt bậc của nền nông nghiệp sau
ngày thống nhất đất nước, đưa Việt Nam từ một nước phải nhập khẩu lương thực

trở thành một nước xuất khẩu đúng thứ 2 trên thế giới.
Vai trò to lớn của sự phân chia ruộng đất cho nông dân là không thể phủ
nhận. Song trong bối cảnh hiện nay, đất nước đang trên đà phát triển theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, ngành nông nghiệp
không những có nhiệm vụ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia mà còn phải
đảm bảo nguyên liệu cho ngành công nghiệp, tăng khối lượng nông sản xuất
khẩu. Nhưng trên thực tế, khi chia ruộng đất cho nông dân theo Nghị định
64/NĐ-CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ, chúng ta thực hiện theo phương châm
công bằng xã hội, ruộng tốt cũng như ruộng xấu, xa cũng như gần đều được chia
đều tính trên nhân khẩu nông nghiệp, dẫn đến tình trạng ruộng đất bị phân tán,
manh mún không đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền nông nghiệp trong
thời kỳ đổi mới.
Sự manh mún ruộng đất dẫn đến tính trạng chung là hiệu quả sản xuất
thấp, hạn chế khả năng đổi mới và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất
gây nên những khó khăn trong quản lý và sử dụng đất đai.
Để khắc phục tình trạng manh mún ruộng đất, việc dồn đổi ruộng đất từ
thửa nhỏ thành thửa lớn là việc làm rất cần thiết, đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp
1


đổi mới, tạo điều kiện cho các hộ nông dân yên tâm sử dụng và khai thác đất đai
một cách có hiệu quả đồng thời nâng cao hiệu lực công tác quản lý nhà nước về
đất đai.
Quá trình thực hiện công tác dồn điền đổi thửa hay công tác chuyển đổi
ruộng đất đã được nhiều tỉnh thực hiện. Tuy nhiên, mức độ thành công ở mỗi địa
phương là khác nhau kể cả trong cách tổ chức, thời gian và kết quả đạt được.
Huyện Mỹ Đức đã thực hiện dồn điền đổi thửa theo kế hoạch số 68/KHUBND, ngày 09/5/2012 của UBND thành phố Hà Nội về thực hiện dồn điền đổi
thửa đất sản xuất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội năm 2012 - 2013.
Để đánh giá thực trạng đất sản xuất nông nghiệp sau khi dồn điền đổi thửa
trên địa bàn huyện Mỹ Đức. Công tác dồn điền đổi thửa tại huyện đã đáp ứng

được nhu cầu của người dân chưa? Công tác dồn điền đổi thửa mang lại hiệu quả
gì đối với sản xuất nghiệp? Trước những vấn đề trên, với sự hướng dẫn của
PGS.TS Nguyễn Xuân Thành, được sự đồng ý của Khoa Quản lý Đất đai - Học
viện Nông nghiệp Việt Nam, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và giải
pháp sử dụng đất sản xuất nông nghiệp sau khi dồn điền đổi thửa tại huyện
Mỹ Đức - thành phố Hà Nội”
2. Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng đất sản xuất nông nghiệp sau khi dồn điền đổi thửa
trên địa bàn huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội;
- Đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng đất sản xuất
nông nghiệp trên địa bàn huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội.
3. Yêu cầu của đề tài
- Chỉ ra được những thế mạnh, những hạn chế cần được khắc phục trong sử
dụng đất sản xuất nông nghiệp sau khi dồn điền đổi thửa tại địa bàn nghiên cứu.
- Đề xuất giải pháp cụ thể và mang tính khả thi để khắc phục những tồn tại
yếu kém sau dồn điền đổi thửa tại huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội nhằm phát
triển sản xuất nông nghiệp hiệu quả và bền vững.

2


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tổng quan về chính sách quản lý và sử dụng đất nông nghiệp ở Việt Nam
1.1.1. Chính sách đất nông nghiệp trước thời kỳ đổi mới
1.1.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975
Lịch sử cách mạng giải phóng dân tộc và phát triển kinh tế của Việt Nam
có mối quan hệ chặt chẽ với các vấn đề về sử dụng đất đai. Cương lĩnh chính trị
của Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930 đã đề ra nhiệm vụ chiến lược của
Cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc xâm lược giành độc lập dân tộc và xóa

bỏ chế độ phong kiến giành ruộng đất cho nông dân”. Cách mạng tháng Tám
năm 1945 thành công; nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đánh dấu một kỷ
nguyên mới độc lập cho dân tộc; tự do hạnh phúc cho nhân dân; đã đặt nền móng
cho chính sách ruộng đất của Nhà nước dân chủ nhân dân. Sau khi Cách mạng
tháng Tám thành công, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban
hành sắc lệnh bãi bỏ thuế thân, thuế môn bài, giảm tô, tịch thu ruộng đất của thực
dân Pháp, Việt gian phản động chia cho nông dân nghèo, chia lại công điền công
thổ; Ngày 20/10/1945 Chính phủ ra sắc lệnh giảm tô 25%; ngày 26/10/1945
Chính phủ ra Nghị định giảm thuế ruộng 20% và miễn thuế hoàn toàn cho những
vùng bị ngập lụt.
Tháng 1/1948 Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng đề ra
các chính sách ruộng đất trong thời kỳ kháng chiến; Tháng 2/1949 Chính phủ ra
sắc lệnh tạm cấp ruộng đất của Việt gian và chia ruộng đất của thực dân Pháp
cho dân cày nghèo; ngày 14/7/1949 Chính phủ ra sắc lệnh quy định giảm tô 25%
so với mức địa tô trước Cách mạng tháng Tám, xóa bỏ tô phụ và chế độ quá điền.
Tháng 3/1952 Chính phủ đã ban hành điều lệ tạm thời về sử dụng đất công điền,
công thổ. Đến thời điểm này số ruộng đất công ở 3.035 xã miền Bắc đã chia cho
nông dân là 184.871 ha, chiếm 77% diện tích đất công điền, công thổ ở các địa
phương này (Nguyễn Đình Bồng, 2012).
Tháng 9/1954 Bộ chính trị ra quyết định thực hiện hoàn thành cải cách
3


ruộng đất và kế hoạch 3 năm khôi phục kinh tế (1955 - 1957); Tháng 5/1955
Quốc hội ban hành 8 chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp nhằm khôi
phục kinh tế sau chiến tranh; Tháng 8/1955 Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa II đã thông qua chủ trương xây dựng thí điểm hợp tác xã
sản xuất nông nghiệp (HTXSXNN). Năm 1955 có 6 HTXSXNN được thành lập
ở các tỉnh Phú Thọ, Thái Nguyên, Thanh Hóa; năm 1955 có 26 HTXSXNN được
thành lập; đến tháng 10/1957 có 42 HTXSXNN được thành lập (Nguyễn Đình

Bồng, 2012).
Tháng 11/1958 Hội Nghị lần thứ 14 Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa II đã ra kế hoạch 3 năm cải tại và bước đầu phát triển kinh tế miền Bắc
(1958 - 1960): “Đẩy mạnh cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN) đối với
thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và cải tạo XHCN đối với
thành phần kinh tế tư bản tư doanh, đồng thời phải ra sức phát triển kinh tế quốc
doanh”; “Hợp tác hóa nông nghiệp là cái khâu chính trong toàn bộ dây chuyền
cải tạo XHCN ở miền Bắc nước ta. Mục tiêu là đến năm 1960 phải căn bản hoàn
thành hợp tác xã (HTX) bậc thấp, tức là phải thu hút được tuyệt tại đại bộ phận
nông dân cá thể vào HTX”.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9/1960) đã đề ra đường lối xây
dựng CNXH ở miền Bắc: “Đối với nông nghiệp, phương hướng là tiếp tục thu
hút nông dân cá thể vào HTX bậc thấp, từng bước chuyển lên bậc cao; mở rộng
quy mô HTX, kết hợp hoàn thiện quan hệ sản xuất với phát triển lực lượng sản
xuất. Quá trình hợp tác hóa nông nghiệp đã diễn ra nhanh chóng, với sự tập trung
cao độ ruộng đất, lao động và các tư liệu sản xuất; từ hợp tác xã bậc thấp chuyển
đổi lên hợp tác xã bậc cao, ruộng đất đã được tập thể hóa triệt để, chế độ sở hữu
tập thể về ruộng đất đã được thiết lập”.
Năm 1965 Hội nghị lần thứ 11, 12 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
III đã đề ra nghị quyết chuyển hướng về tư tưởng, tổ chức kinh tế, quốc phòng,
tiếp tục xây dựng CNXH trong điều kiện cả nước có chiến tranh; chủ trưởng tiếp
tục củng cố HTX nông nghiệp. Quy mô HTX ngày càng mở rộng với mô hình
HTX liên thôn, HTX quy mô toàn xã; trong đó HTX là đơn vị quản lý, đội sản
4


xuất là đơn vị nhận khoán với phương thức 3 khoán: Khoán sản lượng, khoán lao
động, khoán chi phí, phân phối bình quân. Mô hình HTX đã thích ứng với điều
kiện thời chiến, tuy nhiên phương thức điều hành theo lối hành chính đã phát
sinh yếu tố độc đoán, chuyên quyền, mệnh lệnh, vi phạm nguyên tắc dân chủ đã

kìm hãm sản xuất, nông dân vẫn không quan tâm đến hiệu quả sử dụng đất, sản
xuất trì trệ, đời sống tiếp tục gặp nhiều khó khăn. Tháng 9 năm 1966 tại Vĩnh
Phúc đã xuất hiện hình thức “khoán hộ”, thực chất là giao quyền sử dụng đất cho
hộ nông dân, tuy nhiên do trái với quy định chung đã bị phê phán và đình chỉ
(Nguyễn Đình Bồng, 2012).
Cuối năm 1974 Ban bí thư chỉ thị 208/CT-TƯ về tổ chức lại sản xuất, cải
tiến quản lý nông nghiệp. Việc cải tiến quản lý HTX nông nghiệp được xác định
là “Xây dựng HTX thành đơn vị kinh tế thống nhất quản lý, thống nhất điều
hành, thống nhất kinh doanh, thống nhất phân phối. Tổ chức lại sản xuất, tiến
hành phân công lại lao động mới, hình thành các đội sản xuất cơ bản, các đội
chuyên (đội giống, đội thủy lợi, đội cày, đội bảo vệ thực vật, đội làm phân...).
Ban quản lý HTX điều hành các hoạt động của đội sản xuất theo một kế hoạch đã
được xây dựng sẵn”.
Nghị quyết 24/BCH/TƯ Đảng khóa III tháng 9/1975 đã xác định chủ
trương: “Triệt để hóa xóa bỏ tàn dư chế độ thực dân phong kiến về ruộng đất”
với phương hướng: “Kết hợp chặt chẽ giữa cải tạo XHCN đối với nông nghiệp
với xây dựng nền nông nghiệp lớn XHCN, một mặt xây dựng các nông trường
quốc doanh...mặt khác phải thực hiện hợp tác hóa nông nghiệp, làm từng bước
tích cực, vững chắc”. Thực hiện Nghị quyết 24 Ban chấp hành Trung ương Đảng
(khóa III), đến năm 1978 ở các tỉnh miền Trung đã xây dựng được 114 HTX
nông nghiệp với 90% ruộng đất, 80% trâu bò và các tư liệu sản xuất khác đã
được tập thể hóa; Ở Tây Nguyên xuất hiện chủ yếu hình thức các tổ hợp tác lao
động và tập đoàn sản xuất; ở Nam Bộ thí điểm xây dựng HTX ở Tân Hội (Tiền
Giang), Ô Môn (Hậu Giang), Long Thành (Đồng Nai); Mô hình tập thể hóa nông
nghiệp đạt đến đỉnh cao, hoàn chỉnh, phân công lao động trong HTX nông
nghiệp theo hướng chuyên môn hóa (Nguyễn Đình Bồng, 2012).
5


1.1.1.2. Giai đoạn từ năm 1976 đến năm 1985

Đại Hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IV tháng 12/1976 quyết định
đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Chủ trương xây dựng
cấp huyện, hoàn thiện xây dựng HTX quy mô toàn xã, tổ chức nông nghiệp sản
xuất lớn được tiếp tục khẳng định: “Tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo hướng
tập trung, xóa bỏ kiểu tổ chức sản xuất và ăn chia theo đội. Thực hiện việc quản
lý, sử dụng ruộng đất tập trung, thống nhất trên quy mô HTX. Các HTX phân
phối lại ruộng đất manh mún”; “Chuyển sản xuất tập thể từ kiểu làm ăn phân tán,
tự cấp tự túc sang sản xuất theo quy hoạch và kế hoạch thống nhất của huyện”;
“Về cải tiến quản lý, tổ chức lao động theo hướng tập trung, dưới sự điều hành
thống nhất của ban quản trị HTX”. Trên cơ sở định mức lao động, xếp cấp bậc
công việc, tiêu chuẩn tính công, HTX xây dựng kế hoạch 3 khoán (Nguyễn Đình
Bồng, 2012).
Thực hiện Chỉ thị 57 CT-TƯ ngày 14/3/1978 Bộ Chính trị “Về việc nắm
vững và đẩy mạnh công tác cải tạo nông nghiệp miền Nam” và Chỉ thị 43 CT-TƯ
ngày 15/11/1978 Bộ Chính trị “Về việc xóa bỏ các hình thức bóc lột của phú
nông, tư sản nông thôn và tàn dư bóc lột phong kiến, thực sự phát huy quyền làm
chủ của nông dân lao động, đẩy mạnh cải tạo XHCN đối với nông nghiệp ở các
tỉnh phía Nam”.
Ngày 13 tháng 01 năm 1980 Ban Bí Thư TƯ Đảng đã ban hành Chỉ thị số
100 về “Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người
lao động trong HTX nông nghiệp”. Chỉ thị nêu rõ: “HTX nông nghiệp phải quản
lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả tư liệu sản xuất, trước hết là ruộng đất, sức
kéo, phân bón, các công cụ và cơ sở vật chất kỹ thuật tập thể”. Chủ trương đổi
mới bắt đầu bằng việc trao quyền quản lý và sử dụng đất nông nghiệp cho các hộ
xã viên HTX nông nghiệp. Khoán 100 đã tạo động lực khuyến khích lợi ích vật
chất đối với người nhận khoán, nông dân phấn khởi, đầu tư thêm công sức, tiền
vốn, vật tư, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, tận dụng đất đai để phát triển sản xuất. Sau
hơn 4 năm thi hành Chỉ thị 100, sản xuất nông nghiệp đã có bước phát triển đáng
kể. Trong 5 năm 1981-1985, sản lượng quy thóc tăng 27%, năng suất lúa tăng
6



23,8%, diện tích trồng cây công nghiệp hàng năm tăng 62,1%, tổng sản phẩm
nông nghiệp tăng 6%, thu nhập quốc dân trong nông nghiệp tăng 5,6% (Trần Thị
Minh Châu, 2005).
Tuy nhiên sau một thời gian phát huy tác dụng là động lực thúc đẩy sản
xuất, cơ chế khoán theo Chỉ thị 100 đã bộc lộ những hạn chế. Cơ chế khoán 100
về cơ bản vẫn dựa trên sở hữu tập thể, quản lý tập trung vẫn còn chiếm tỷ trọng
lớn, xã viên chưa thực sự làm chủ trong quá trình sản xuất vì tư liệu sản xuất, đặc
biệt là đất đai vẫn do hợp tác xã quản lý tập trung, thu nhập của nông dân từ kinh
tế tập thể còn thấp, mức khoán không ổn định...
1.1.2. Chính sách đất nông nghiệp sau thời kỳ đổi mới cho đến nay
1.1.2.1. Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1992
Sau năm 1985, tăng trưởng trong sản xuất nông nghiệp bắt đầu giảm, cụ thể
tốc độ tăng trưởng của tổng sản lượng nông nghiệp trong giai đoạn 1986 - 1988 chỉ
là 2,2 %/năm. Đầu năm 1988, sản xuất lương thực không đáp ứng được yêu cầu nên
đã dẫn đến tình trạng thiếu ăn tại 21 tỉnh, thành ở miền Bắc. Ở miền Nam, một loạt
các mâu thuẫn cũng gia tăng trong khu vực nông thôn, đặc biệt là mối quan hệ đất
đai bởi sự “cào bằng” về phân chia và điều chỉnh đất đai. Điều này hiển nhiên đặt ra
yêu cầu một cuộc cải cách mới trong chính sách đất đai.
Để giải quyết các vấn đề trên đồng thời nhằm khắc phục nhược điểm của
khoán 100, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 05/4/1988 “Về đổi
mới quản lý kinh tế nông nghiệp”. Theo cơ chế khoán 10, ruộng đất được giao ổn
định đến hộ xã viên trong khoảng 15 năm, sản lượng khoán ổn định trong 5 năm,
các hộ xã viên nhận khoán được hưởng khoảng 40% sản lượng khoán. Tiếp theo
đó Hội nghị TW 6 (khóa VI) đã ra Nghị quyết khẳng định hộ gia đình xã viên là
đơn vị kinh tế tự chủ. Việc khẳng định hộ gia đình xã viên là đơn vị kinh tế tự
chủ và được nhận khoán đất nông nghiệp sử dụng lâu dài đã tạo ra động lực mới
trong sản xuất, khuyến khích hộ nông dân bỏ thêm vốn liếng, công sức, vật tư
vào sản xuất.

Sau một thời gian tạo ra động lực mạnh mẽ cho sản xuất nông nghiệp,
chính sách quản lý đất đai dựa trên cơ chế khoán thể hiện một số hạn chế như cơ
7


chế quản lý và phân phối kết quả sản xuất do nông dân làm ra chưa công bằng;
Về mặt pháp lý đất nông nghiệp vẫn thuộc quyền quản lý của HTX nông nghiệp.
Cơ chế này làm cho hộ nhận khoán không thỏa mãn, họ cảm thấy bị thiệt thòi, từ
đó không thấy hấp dẫn để đầu tư tăng năng suất. Từ đó Đảng và Nhà nước ta tiếp
tục tìm kiếm những quyết sách nhằm đổi mới mạnh mẽ hơn về quan hệ của hộ xã
viên với ruộng đất nhận khoán tạo động lực mới trong nông nghiệp.
1.1.2.2. Giai đoạn từ Luật đất đai năm 1993 đến nay
Trong suốt thời kỳ đổi mới, một loạt các chính sách và văn bản luật trong
lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt liên quan đến sử dụng đất đai đã ra
đời. Những chính sách quan trọng nhất đó là Luật Đất đai năm 1993, sau đó là Luật
Đất đai sửa đổi, bổ sung năm 1998 và 2001; Luật Đất đai 2003; Luật Đất đai mới
năm 2013; Nghị định 64/NĐ-CP năm 1993 và Nghị định 02/NĐ-CP năm 1994 về
quy định việc giao đất lâm nghiệp và đất nông nghiệp. Bên cạnh đó cũng có một loạt
các chính sách liên quan trực tiếp hoặc hỗ trợ gián tiếp đến vấn đề về đất đai.
Theo Luật Đất đai 1993, hộ nông dân được giao quyền sử dụng ruộng đất
lâu dài với 5 quyền: quyền chuyển đổi, quyền chuyển nhượng, quyền cho thuê,
quyền thừa kế và quyền thế chấp. Người có nhu cầu sử dụng được giao đất trong
thời hạn 20 năm đối với cây hàng năm, 50 năm đối với cây lâu năm. Việc giao
đất sẽ được tiến hành lại tại thời điểm cuối chu kỳ giao đất, nếu như người sử
dụng đất vẫn có nhu cầu sử dụng. Luật Đất đai quy định mức hạn điền đối với hộ
nông dân, cụ thể như quy định hạn mức đất trồng cây hàng năm là 2ha đối với
các tỉnh ở miền Bắc và miền Trung; 3ha đối với các tỉnh ở miền Nam; đối với
cây lâu năm quy định tối đa là 10ha đối với các xã vùng đồng bằng và 30ha đối
với vùng Trung du và miền núi. Cùng với việc giao đất nông nghiệp thì việc cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ) cũng được các cơ quan chức năng xem

xét và cấp cho các hộ nông dân. Đến năm 1998, giấy chứng nhận QSDĐ đã được
cấp cho 71% hộ nông dân, cuối năm 2004 con số này trên 90% (Ban kinh tế, 2004).
Đối với đất rừng ở khu vực Trung du và Miền núi nơi có rất nhiều phong
tục tập quán thì việc giao đất phức tạp hơn, quá trình cấp giấy chứng nhận diễn ra
chậm hơn và quá trình này vẫn đang được tiếp tục. Vào năm 2003, người nông dân
8


được giao thêm hai quyền sử dụng nữa, đó là quyền cho thuê lại và quyền được
góp vốn đầu tư kinh doanh bằng quyền sử dụng đất (Quốc hội, 2003).
Luật Đất đai 2003 ra đời thay thế cho Luật Đất đai năm 1993 và các sửa đổi
bổ sung của Luật đất đai được ban hành vào tháng 12 năm 2003 và có hiệu lực từ
tháng 07 năm 2004. Đối với đất nông nghiệp không có sự thay đổi về thời hạn sử
dụng và diện tích hạn điền so với Luật Đất đai năm 1993. Tuy nhiên, lần đầu tiên
đất đai được chính thức xem như là “hàng hoá đặc biệt” có giá trị và chính vì thế
có thể chuyển nhượng (thương mại). Luật Đất đai năm 2003, vẫn khẳng định “đất
đai là tài sản của Nhà nước” và cũng cho rằng cần có sự khuyến khích đối với thị
trường bất động sản bao gồm thị trường các quyền sử dụng đất đối với khu vực
thành thị. Cá nhân (người nông dân) và các tổ chức kinh tế được quyền tham gia
vào thị trường này.
Những thay đổi trong chính sách đất đai của Việt Nam từ năm 1993 đến
nay đã góp phần đáng kể trong việc tăng nhanh sản lượng nông nghiệp và phát
triển khu vực nông thôn. Tổng sản lượng nông nghiệp tăng 6,7 %/năm trong suốt
giai đoạn 1994 - 1999 và khoảng 4,6% trong giai đoạn 2003 - 2004. An ninh lương
thực quốc gia không còn là vấn đề nghiêm trọng nữa và đói nghèo đang từng bước
được đẩy lùi (Ban Kinh tế, 2004).
Luật Đất đai sửa đổi năm 2013 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày
29 tháng 11 năm 2013, chính thức có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2014
đã có những thay đổi về thời hạn giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân
sản xuất nông nghiệp mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất của hộ

gia đình, cá nhân đáp ứng yêu cầu tích tụ đất đai phục vụ sản xuất nông nghiệp
theo hướng hiện đại phù hợp với đường lối phát triển nông nghiệp, nông thôn. Cụ
thể: Nâng thời hạn giao đất nông nghiệp trong hạn mức đối với hộ gia đình, cá
nhân từ 20 năm lên 50 năm, thống nhất cho các loại đất nông nghiệp (đất trồng
cây hàng năm và đất trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp); cho phép hộ gia đình,
cá nhân tích tụ với diện tích lớn hơn (không quá 10 lần hạn mức giao đất nông
nghiệp) (Quốc hội, 2013).

9


1.2. Tổng quan về dồn điển đổi thửa
1.2.1. Vấn đề manh mún đất đai
1.2.1.1. Khái niệm
Khái niệm manh mún ruộng đất trong sản xuất nông nghiệp được hiểu
trên hai khía cạnh: Một là, sự manh mún về ô thửa đối với một đơn vị sản xuất
(thường là hộ nông dân), một hộ gia đình có nhiều thửa ruộng với diện tích một
thửa thường tương đối nhỏ và bị phân tán ở nhiều xứ đồng. Hai là, sự manh mún
thể hiện về quy mô đất đai trên một đơn vị sản xuất, diện tích ruộng đất quá nhỏ
không tương thích với số lượng lao động và các yếu tố về phương tiện sản xuất
khác (Hội khoa học kinh tế Việt Nam, 1998).
Cả hai kiểu manh mún trên đều dẫn đến tình trạng là hiệu quả sản xuất
thấp, khả năng đổi mới và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhất là vấn đề
cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá trong nông nghiệp,...dẫn đến tình trạng sử dụng đất kém
hiệu quả. Vì thế người ta luôn tìm cách khắc phục tình trạng này.
Manh mún ruộng đất xảy ra ở nhiều nơi, nhiều nước khác nhau trên thế
giới và ở nhiều thời kỳ của lịch sử phát triển. Những nguyên nhân dẫn đến tình
trạng này rất đa dạng: Có thể là do đặc điểm bề mặt phân bố địa lý, do sức ép dân
số,...nhưng cũng có thể là do ý thức của con người như tính chất tiểu nông của
nền sản xuất còn kém phát triển, đặc điểm tâm lý của cộng đồng dân cư nông

thôn, hệ quả của một hay nhiều chính sách ruộng đất, kinh tế xã hội hay sự quản
lý lỏng lẻo kém hiệu quả của công tác địa chính,...
Tình trạng manh mún đất đai là một trong những nhược điểm của nền
nông nghiệp nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển. Ở Việt Nam, manh
mún ruộng đất rất phổ biến, đặc biệt ở miền Bắc. Manh mún đất đai là một trong
những rào cản của sự phát triển nông nghiệp nhất là sản xuất trồng trọt. Cho nên
rất nhiều nước đã và đang thực hiện chính sách khuyến khích tập trung đất đai, ví
dụ như: nước Kenya, Tanzania, Rwanda, Bulgari, Albania,...
Ở Việt Nam, cũng đang thực hiện chính sách này trong những năm gần
đây. Dưới quan điểm kinh tế, nếu manh mún đất đai làm cho lao động và các
nguồn lực khác phải chi phí nhiều hơn thì việc giảm mức độ manh mún đất đai sẽ
10


tạo điều kiện để các nguồn lực này được sử dụng ở các ngành nghề khác có hiệu
quả hơn. Như vậy, trên tổng thể nền kinh tế sẽ đạt được lợi ích khi ta giảm mức
độ manh mún đất đai. Tuy nhiên, mức độ manh mún đất đai cũng mang lại một
số lợi ích cho nông dân. Do đó ở nhiều nơi nông dân muốn duy trì một mức độ
nào đó của tình trạng này (Sally P.Marsh, T.Gordon MacAulay và Phạm Văn
Hùng, 2007).
1.2.1.2. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng manh mún ruộng đất
Nguyên nhân đầu tiên, quan trọng nhất dẫn đến tình trạng manh mún
ruộng đất là sự phức tạp của địa hình đất đai ở mỗi địa phương, hầu như trong
mỗi xã đều có 3 loại đất: đất cao, đất vàn và đất thấp (Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn, 2003).
Nguyên nhân thứ hai, của tình trạng này là do cách tư duy lệch lạc về “công
bằng xã hội”, mà thực chất là do ảnh hưởng của tư tưởng tiểu nông “bình quân chủ
nghĩa”, do đó ruộng đất được xé nhỏ và phân đều cho các hộ (Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn, 2003).
Nguyên nhân thứ ba, là chế độ thừa kế chia đều ruộng đất cho tất cả con

cái. Ở Việt Nam ruộng đất của cha mẹ thường được chia đều cho tất cả các con
sau khi ra ở riêng, vì thế tình trạng phân tán ruộng đất gắn liền với chu kỳ phát
triển của nông hộ (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2003).
Nguyên nhân thứ tư, là tâm lý tiểu nông của các hộ sản xuất nhỏ. Do quy
mô sản xuất nhỏ lẻ, các hộ nông dân ngại thay đổi, nhất là những thay đổi liên
quan đến ruộng đất (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2003).
Nguyên nhân thứ năm, liên quan đến phương pháp chia ruộng bình quân
theo nguyên tắc xuất có tốt có xấu khi thực hiện Nghị định 64/NĐ-CP năm 1993.
Việc chia nhỏ các thửa ruộng để có sự công bằng giữa các hộ đã góp phần không
nhỏ làm tăng tình trạng manh mún ruộng đất. Quan điểm muốn bảo vệ sự công
bằng giữa các hộ dân được chia ruộng và các lý do sau đây khiến đa số các địa
phương chia nhỏ ruộng cho nông dân, đó là:
- Tất cả các hộ đều phải có ruộng gần - ruộng xa, ruộng tốt - ruộng xấu,
ruộng cao - ruộng thấp, thuận lợi - khó khăn, có như vậy mới thể hiện tính công
bằng xã hội.
11


- Độ phì tự nhiên của đất ở các khu khác nhau phải chia đều cho các hộ.
- Do hiệu quả kinh tế của các loại sử dụng đất khác nhau nên phải chia đều
đất cho các hộ.
- Các chân đất thường không an toàn do các vấn đề như: úng, hạn, chua,...
do đó việc chia đều rủi ro cho các hộ là chỉ tiêu quan trọng trong khi chia ruộng
(Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2003).
+ Ngoài ra, giá đất luôn biến động, tăng cao, đặc biệt là các khu đất gần
các trục đường chính hoặc trong tương lai sẽ nằm trong quy hoạch khu đô thị,
khu công nghiệp... vì thế đất ở đó phải được chia đều cho các hộ để mọi người
đều có thể hưởng "thành quả" đền bù đất hay cùng chịu "rủi ro" nếu đất đai bị
chuyển mục đích sử dụng.
* Mức độ manh mún ruộng đất hiện nay thể hiện ở một số điểm

- Tình trạng manh mún hiện nay tập trung vào đất cây hàng năm như: đất
trồng lúa, đất trồng màu, đất trồng cây công nghiệp ngắn ngày và các loại đất cây
trồng hàng năm khác. Loại đất càng tốt, có điều kiện thâm canh càng cao thì càng
bị phân tán manh mún.
- Biểu hiện đặc trưng của sự manh mún là ruộng đất bị "chia nhỏ" để chia
đều theo nguyên tắc "tốt có, xấu có, xa có, gần có" cho các hộ gia đình. Vì vậy,
một hộ sử dụng rất nhiều thửa đất nằm rải rác trên tất cả các xứ đồng của mỗi
thôn xóm, làng bản..., kích thước rất đa dạng, diện tích bình quân/thửa đất lúa
phổ biến là từ 200- 400m2; diện tích đất trồng màu và cây công nghiệp ngắn ngày
bình quân/thửa phổ biến từ 100 - 300m2. Riêng các tỉnh nam bộ bình quân/thửa
phổ biến đất lúa là từ 2000 - 4000m2; đất trồng màu và cây công nghiệp ngắn
ngày bình quân lên đến hàng nghìn m2.
- Mức độ manh mún các vùng miền có sự khác nhau, theo báo cáo của Bộ
Tài nguyên và Môi trường nước ta có khoảng 70 triệu thửa đất và gần 14 triệu hộ
nông dân. Trung bình mỗi hộ có 4 - 5 thửa đất, mỗi thửa có diện tích trung bình
là 0,14 ha. Số liệu minh hoạ được thể hiện trong bảng 1.1 dưới đây.

12


Bảng 1.1. Mức độ manh mún ruộng đất ở các vùng trong cả nước
Vùng

Số mảnh
2006
2008

Diện tích TB/mảnh (m2)
2006
2008


Cả nước
Đồng bằng sông Hồng

4.3
4.8

4
4.6

2.891
613

3.057
617

Vùng Đông Bắc

6.8

6.4

1.875

1.905

Vùng Tây Bắc

7.4


7

2.499

3.543

Vùng Bắc Trung Bộ

5.6

4.8

1.255

1.345

Duyên hải Nam Trung Bộ

3.7

3.7

1.997

1.561

Vùng Tây Nguyên
Đông Nam Bộ

2.8

2.7

2.8
2.1

5.939
6.592

6.364
6.863

Đồng bằng sông Cửu Long

1.9

2
5.846
6.233
(Nguồn: Tổng cục Thống kê 2006, 2008)

Bảng 1.1 cho thấy, số mảnh đất ở Đồng bằng sông Hồng cao hơn gấp hai
lần số mảnh ở Đồng bằng sông Cửu Long trong khi đó diện tích trung bình của
mỗi mảnh ở Đồng bằng sông Hồng thì chỉ bằng 1/10 diện tích mỗi mảnh ở Đồng
bằng sông Cửu Long. Điều đó cho thấy đất ở khu vực Đồng bằng sông Hồng là
nhỏ lẻ và manh mún hơn ở Đồng bằng sông Cửu Long.
1.2.1.3. Những hạn chế của tình trạng manh mún ruộng đất đối với sản xuất
nông nghiệp và quản lý đất đai
Tình trạng manh mún ruộng đất đã gây không ít khó khăn cho người nông
dân và các nhà quản lý. Cho đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về
vấn đề dồn đổi ruộng đất từ thửa ruộng nhỏ thành thửa ruộng lớn. Các nghiên

cứu đều chỉ ra những tác động tiêu cực của sự manh mún ruộng đất. Có thể khái
quát những ảnh hưởng bất lợi như sau:
- Manh mún ruộng đất dẫn đến giảm sản xuất nông nghiệp do bờ ngăn, bờ
thửa (theo tính toán có thể giảm từ 3 - 5% diện tích đất nông nghiệp);
- Manh mún ruộng đất làm tăng chi phí sản xuất cao hơn, chi phí lao động
cao bởi nông dân phải tốn nhiều tiền công để đi từ mảnh ruộng này đến mảnh
ruộng khác hoặc thực hiện tưới tiêu cho nhiều mảnh nhỏ hoặc do chi phí vận
chuyển đầu vào và đầu ra cao hơn;
13


- Manh mún ruộng đất gây nhiều khó khăn cho quá trình sản xuất, phát
triển cơ giới hoá nông nghiệp, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, thực hành thâm canh
và chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá;
- Gây khó khăn, phức tạp và tốn kém cho công tác quản lý đất đai, hoàn
thiện hồ sơ địa chính và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tóm lại, manh mún ruộng đất dẫn đến tình trạng hiệu quả sản xuất thấp,
chất lượng sản phẩm thấp, thiếu khả năng cạnh tranh, không đáp ứng được việc
xây dựng nền nông nghiệp hàng hóa, gây cản trở cho quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa (CNH - HĐH) nông nghiệp hóa nông thôn. Vì thế Đảng và Nhà
nước ta chủ trương cần phải dồn điền đổi thửa, dồn điền đổi thửa từ ô thửa nhỏ
thành ô thửa lớn.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu dồn điền đổi thửa ở Việt Nam
1.2.2.1. Khái niệm và nguyên nhân của việc tiến hành dồn điền đổi thửa
a) Khái niệm dồn điền đổi thửa
Bản chất của quá trình này là dồn ghép các ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn,
sắp xếp quy hoạch lại ruộng đất, khắc phục tình trạng manh mún, phân tán ruộng
đất, tổ chức thiết kế lại đồng ruộng, hệ thống thủy lợi, giao thông nội đồng; nâng
cao hệ số sử dụng đất; đẩy nhanh chuyển dịch sản xuất theo hướng sản xuất hàng
hóa; phát triển kinh tế hộ và trang trại, củng cố quan hệ sản xuất, thực hiện CNH
- HĐH nông nghiệp, nông thôn (Bộ Tài nguyên & Môi trường, năm 2003).

Có 2 cơ chế chủ yếu để thực hiện dồn điền đổi thửa:
Một là: để cho thị trường ruộng đất, và các nhân tố phi tập trung tham gia
vào, Nhà nước chỉ hỗ trợ sao cho cơ chế này vận hành tốt hơn;
Hai là: thực hiện các biện pháp can thiệp hành chính, tổ chức phân chia lại
ruộng đất, thực hiện các quy hoạch có chủ định. Theo cách này, các địa phương
đều xác định là dồn điền đổi thửa sẽ không làm thay đổi các quyền của hộ nông
dân đối với ruộng đất đã được quy định trong pháp luật. Tuy nhiên, việc thực
hiện quá trình này có thể làm thay đổi khả năng tiếp cận ruộng đất của các nhóm
nông dân hưởng lợi khác nhau dẫn đến thay đổi bình quân ruộng đất ở các nhóm
xã hội khác nhau.
14


Từ những hạn chế của vấn đề manh mún ruộng đất cho thấy chủ trương và
việc tiến hành dồn điền đổi thửa là rất cần thiết cho sản xuất nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hóa.
b) Nguyên nhân của việc tiến hành dồn điền đổi thửa
Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi
mới cơ chế kinh tế nông nghiệp nông thôn, thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh
tế tự chủ trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên trước nhu cầu của sự nghiệp
CNH - HĐH đất nước, nền nông nghiệp và đặc biệt là vấn đề ruộng đất trong
nông nghiệp đã bộc lộ những tồn tại, nảy sinh mới cần phải được quan tâm giải
quyết, đó chính là tình trạng ruộng đất quá manh mún về diện tích và ô thửa.
Chuyển đổi ruộng đất chống manh mún, phân tán tạo ra ô thửa lớn là việc làm
cần thiết, tạo tiền đề cho việc thực hiện công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn.
Mặt khác, khi thực hiện giao đất còn nhiều sai sót, tuỳ tiện dẫn đến tình
trạng khiếu kiện kéo dài gây mất ổn định ở cơ sở; quy hoạch sử dụng đất, quy
hoạch kiến thiết lại ruộng đồng thiếu khoa học, thiếu tầm nhìn chiến lược đang
gây trở ngại lớn cho việc đổi mới quản lý, tổ chức lại sản xuất nhất là việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2003).

Để khắc phục tình trạng trên, giải pháp có hiệu quả nhất là phải tiến hành
dồn điền đổi thửa.
1.2.2.2. Những kết quả đạt được sau dồn điền đổi thửa
a) Dồn điền đổi thửa khắc phục cơ bản tình trạng manh mún
Năm 1998, Chính phủ đã đề ra chính sách khuyến khích nông dân đổi
ruộng cho nhau để tạo thành những thửa có diện tích lớn hơn. Từ đó đến nay
nhiều tỉnh đã triển khai thực hiện công tác dồn điền đổi thửa và đã có được nhiều
kết quả tốt trong công tác quản lý Nhà nước về đất đai và trong sản xuất nông
nghiệp. Hầu hết các địa phương đã thực hiện dồn điền đổi thửa (DĐĐT) với
phương án phù hợp, với mục đích chống manh mún và tạo ra những ô thửa lớn.
Phần lớn tổng số thửa đất đều giảm từ 40 - 84% so với trước dồn đổi, bình quân
số thửa từ 2 - 3 thửa/hộ, diện tích bình quân/thửa lớn hơn 600m2.
b) Dồn điền đổi thửa gắn liền với công tác quản lý Nhà nước về đất đai
15


Dồn điền đổi thửa là dịp để kiểm tra lại quỹ đất nông nghiệp, công tác lập
hồ sơ địa chính được nhanh chóng, chính xác. Ở Ninh Bình, qua chuyển đổi
ruộng đất, các huyện đã đo đạc rà soát lại quỹ đất phát hiện diện tích đất dôi dư:
qua báo cáo của 22 xã phát hiện dôi dư 491,93 ha, trong đó: xã Sơn Hà (Nho
Quan) 200ha, Yên Thắng (Yên Mô) 36,86 ha...Bên cạnh đó đã có 53 xã lập hồ sơ
địa chính để cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, làm cơ sở pháp lý để
Nhà nước quản lý lâu dài về đất đai. Điều đó đã góp phần làm cho việc quản lý
Nhà nước về đất đai được chặt chẽ, nề nếp, hiệu quả hơn.
Dồn điền đổi thửa có điều kiện tốt để rà soát, bổ sung, xây dựng hoàn
chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, công tác quy hoạch xây dựng cơ bản,
quy hoạch giao thông, thuỷ lợi được gắn với quy trình thực hiện chuyển đổi
ruộng đất.
Dồn điền đổi thửa đã làm cho diện tích đất công ích của xã được dồn gọn
vùng, gọn thửa để tiện quản lý, canh tác và sử dụng vào mục đích chung của xã.

Dồn điền đổi thửa tạo các ô thửa lớn, tiết kiệm diện tích đắp bờ, phát hiện
diện tích giao thiếu công bằng ở một số nơi và giải quyết những vướng mắc, mâu
thuẫn phát sinh trong sử dụng đất đai.
c) Dồn điền đổi thửa góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển
Sau dồn điền đổi thửa có thể nói hầu hết đồng ruộng đã được quy hoạch đảm
bảo việc sử dụng lâu dài và hiệu quả. Đất giao thông nội đồng, hệ thống thuỷ lợi, đất
vùng chuyển đổi đều rõ ràng, đất công điền được tập trung, có thể đa dạng về hình
thức và mục đích sử dụng. Ở Hải Dương, sau khi chuyển đổi ruộng đất người dân đã
phấn khởi, thể hiện ngay bằng việc tích cực đóng góp công sức, tiền của xây dựng
mương máng, đường giao thông nội đồng...ước tính lên tới hàng vạn ngày công và
hàng tỷ đồng. Sau dồn điền đổi thửa bà con hạch toán qua một vài vụ sản xuất thấy
năng suất lúa tăng 5-10 tạ/ha; chi phí điện nước, công lao động...tiết kiệm được 1015% thu hoạch vụ đông.
Dồn điền đổi thửa đã phát huy được tính tự chủ của đơn vị kinh tế hộ nông
dân trong đầu tư thâm canh cây trồng, vật nuôi. Có điều kiện để bố trí cơ cấu sản
xuất, thời vụ, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào đồng ruộng, tăng vụ, tăng
16


năng suất lao động. Bước đầu hình thành các trang trại nông nghiệp, hiệu quả
kinh tế đạt cao hơn.
Dồn điền đổi thửa đã tác động tích cực tới nhiều mặt trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội ở địa phương. Đây là điều kiện để hợp tác kinh tế nảy nở; từ
mô hình hợp tác, mô hình doanh nghiệp nông nghiệp đến hợp tác kinh tế
vùng.Từ đó thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ, hỗ trợ đầu tư và xúc tiến
thị trường tiêu thụ cho sản xuất hàng hoá nông sản.
Dồn điền đổi thửa thành công giúp người nông dân tiết kiệm được thời
gian lao động, chi phí sản xuất ở các khâu canh tác, giảm hẳn công "chạy đồng"
ở các xứ đồng, nhiều thửa, thửa nhỏ...nay tập trung đầu tư vào 2, 3 thửa/hộ sẽ có
nhiều điều kiện để làm kỹ hơn, dự đoán và có biện pháp kịp thời, hợp lý để giải
quyết úng, hạn, sâu bệnh..., hộ nông dân có vốn đầu tư mua máy móc nông nghiệp

vừa phục vụ cho hộ và các hộ khác góp phần giải phóng sức lao động...làm cho
hiệu quả kinh tế và hiệu quả sử dụng đất cao hơn.
Việc dồn đổi ruộng đất từ nhiều ô thửa nhỏ, phân tán thành những ô thửa
lớn, tập trung đã từng bước làm thay đổi cách nghĩ, cách làm, tập quán canh tác
trước đây của người nông dân. Trước đây do người dân quen canh tác trên các
thửa đất nhỏ nên hay chần chừ, do dự không muốn đầu tư thâm canh. Khi có thửa
ruộng lớn cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và những chính sách
khuyến nông, khuyến ngư...phù hợp của các cấp chính quyền đã làm nếp nghĩ
của bà con thay đổi theo chiều hướng tích cực của tiến trình công nghiệp hoá
nông nghiệp nông thôn.
Sau dồn điền đổi thửa đã hình thành những vùng chuyên canh lớn, tạo
thành vùng sản xuất hàng hoá gắn với phát triển kinh tế trang trại trên các lĩnh
vực: chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản. Ở Quỳnh Lưu (Nghệ An) sau khi thực hiện
chuyển đổi ruộng đất sản xuất nông nghiệp có bước ổn định khá vững chắc, đã có
nhiều địa phương có cánh đồng quy mô 5-7ha đạt giá trị 50 triệu đồng (Quỳnh
Lương, Quỳnh Văn, Quỳnh Bản...). Các mô hình 50 triệu/ha/năm chủ yếu vẫn là
chuyên màu với cơ cấu sử dụng 3-5 vụ lúa, màu, rau vụ đông có giá trị kinh tế
cao hoặc nuôi trồng thuỷ sản.
17


1.2.2.3. Tình hình thực hiện dồn điền đổi thửa ở một số tỉnh trong nước
Quy mô diện tích đất sản xuất của các hộ nông dân sau khi được giao đất
và cấp Giấy chứng nhận QSDĐ là rất nhỏ bé, nhất là đối với các tỉnh miền Bắc.
Thực trạng này đặt ra yêu cầu phải tập trung lại đất nông nghiệp đối với mỗi hộ
sản xuất, giảm số thửa và tăng quy mô mỗi thửa ở từng hộ để tạo ra những diện
tích sản xuất tập trung cùng loại sản phẩm ở từng địa phương. Đặc biệt khi sản
xuất hàng hóa đã bắt đầu phát triển, người sản xuất phải tính toán hiệu quả kinh
tế, tìm các giải pháp để giảm chi phí sản xuất.
Nhận thức được sản xuất manh mún, chưa tạo ra được những vùng sản

xuất lớn, tập trung nên sản phẩm nông nghiệp chưa thực sự trở thành hàng hóa,
giá trị nông nghiệp chưa cao. Thái Bình xác định công tác dồn điền đổi thửa là
nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Trên cơ sở đó
UBND tỉnh đã phê duyệt Đề án số 214/QĐ-UBND ngày 15/02/2011 về việc dồn
điền đổi thửa đất nông nghiệp, thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới và
Kế hoạch số 20/KH-UBND ngày 16/08/2011 về kế hoạch dồn điền đổi thửa đất
nông nghiệp thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới. Kết quả đến hết quý I
năm 2013, Thái Bình cơ bản đã thực hiện xong dồn điền đổi thửa gắn với chỉnh
trang đồng ruộng. Tỉnh đã giảm được 499.930 thửa, chỉ còn 462.187 thửa, bình
quân chung toàn tỉnh là 1,79 thửa/hộ. Cùng với kết quả dồn điền đổi thửa, người
dân đã tự nguyện góp trên 2.000 ha đất để làm công trình giao thông, thủy lợi nội
đồng. Khối lượng đào đắp giao thông, thủy lợi nội đồng bình quân mỗi xã
khoảng 50.000 km3. Hệ thống giao thông, thủy lợi nội đồng được các xã thực
hiện theo đúng quy hoạch. Cụ thể, thiết kế bờ vùng cách bờ vùng là 500m 800m; bờ thửa cách bờ thửa là 100m, mặt bờ vùng rộng 4,5m. Cứ cách 500m có
một điểm tránh xe, bờ thửa rộng 2,5m, đủ tiêu chuẩn để cho máy gặt đập liên hợp
hoạt động. Dọc bờ vùng, bờ thửa có mương tưới tiêu nước và thuận lợi cho việc
sử dụng cơ giới vào sản xuất. Đây là điều kiện thuận lợi để xây dựng và thực
hiện cánh đồng mẫu lớn; là điều kiện tốt để các tập thể, cá nhân mạnh dạn đầu tư
vốn để mua máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp, góp phần làm giảm chi phí,
tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Qua thực tế ở các xã đã dồn điền
18


đổi thửa, chỉnh trang nội đồng, máy móc, cơ giới được đầu tư, nên khâu làm đất
đạt 100%, vận chuyển đạt 100%, gặt khoảng 80%, bơm nước 100% (Kinh nghiệm
dồn điền đổi thửa của Thái Bình).

Tại tỉnh Nam Định, tính đến hết quý I năm 2103 đã có 132/209 xã thực
hiện xong công tác dồn điền đổi thửa. Các xã, thị trấn đã kết hợp dồn điền đổi
thửa với chỉnh trang, kiến thiết đồng ruộng, làm giao thông và thủy lợi nội đồng;

hình thành các vùng sản xuất tập trung; cơ bản quy gọn được quỹ đất công; giảm
số thửa bình quân (từ 3,27 xuống còn 1,5 - 2,5 thửa/hộ; nhiều xã 75 - 80% số hộ
chỉ còn 1 thửa/hộ); đặc biệt sau 2 năm đã vận động các hộ nông dân góp được
trên 1.000 ha đất, đắp được gần 2.000 km đường giao thông nội đồng. Sau dồn
điền đổi thửa hầu hết các xã, thị trấn đã xây dựng kế hoạch từng bước tổ chức sản
xuất theo mô hình cánh đồng mẫu lớn. Các huyện chỉ đạo, triển khai tốt, cơ bản
hoàn thành công tác dồn điền đổi thửa trong năm 2012 là: Giao Thủy, Xuân
Trường, Nghĩa Hưng, Trực Ninh (Nguyễn Thế Vịnh, 2013).
Tại Thủ Đô Hà Nội: Thực hiện Chương trình số 02-CT/TU ngày
29/8/2011 của Thành ủy về “Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới
từng bước nâng cao đời sống nhân dân giai đoạn 2011 - 2015”. UBND thành phố
đã xây dựng kế hoạch số 171/KH-UBND ngày 13/11/2013 về việc thực hiện dồn
điền đổi thửa đất sản xuất nông nghiệp năm 2012 - 2014. “Tổng diện tích đất
nông nghiệp cần thực hiện dồn điền đổi thửa trên địa bàn thành phố là 76.365,07
ha. Chỉ trong một thời gian ngắn gần hai năm từ tháng 5/2012 - tháng 12/2014,
tổng diện tích đã thực hiện dồn điền đổi thửa trên địa bàn thành phố là 75.965,3
ha, đạt 99,48% so với kế hoạch”. Một số huyện thực hiện dồn được diện tích lớn
như: Chương Mỹ hơn 10,2 nghìn ha; Sóc Sơn hơn 10,3 nghìn ha; Phú Xuyên hơn
8,9 nghìn ha; Mỹ Đức 7,5 nghìn ha...Trong đó, có nhiều huyện thực hiện vượt chỉ
tiêu theo kế hoạch dồn điền đổi thửa như Phú Xuyên, Sóc Sơn, Ba Vì, Sơn Tây,
Thạch Thất.
Trong quá trình triển khai, toàn bộ diện tích đất nông nghiệp đã dồn điền
đổi thửa đều được quy hoạch lại và đào đắp giao thông, thủy lợi nội đồng theo
tiêu chuẩn, tiêu chí nông thôn mới. Cơ giới hóa đã và đang được các xã, hợp tác
19


xã và cá nhân đầu tư ở một số khâu chính như: làm đất, gieo cấy và thu
hoạch...Thực tế, mỗi gia đình trước dồn điền đổi thửa có 7-15 ô, thửa, thậm chí
27 - 39 ô, thửa như ở Sóc Sơn, Chương Mỹ...Đến nay, chỉ còn 1-2 ô, thửa, cá biệt

một vài nơi còn 3 ô, thửa/hộ, rất thuận lợi cho người dân trong tổ chức sản xuất,
giảm đỡ ngày công, tiết kiệm chi phí vật tư, phân bón, thuốc trừ sâu nên đa số
người dân nông thôn của Hà Nội rất phấn khởi, tin tưởng vào chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước và thành phố.
Sau dồn điền đổi thửa, nhiều cánh đồng mẫu lớn sản xuất lúa chất lượng
cao đã hình thành ở hầu hết các huyện có quy hoạch sản xuất lúa. Nhiều mô hình
sản xuất nông nghiệp hàng hóa đem lại giá trị kinh tế cao ra đời, như: Mô hình
hoa ở một số xã thuộc huyện Đan Phượng, Hoài Đức, Mê Linh, Từ Liêm, Thanh
Trì, Đông Anh... với giá trị 0,5 - 1,5 tỷ/ha/năm; mô hình chăn nuôi tập trung xa
khu dân cư như ở Sơn Tây, Ba Vì, Ứng Hòa, Chương Mỹ, Thanh Oai, Đan
Phượng, Quốc Oai...với giá trị từ 1-2 tỷ/ha/năm và các mô hình chăn nuôi thủy
sản ở một số xã thuộc huyện Thanh Trì, Ứng Hòa, Mỹ Đức, Thanh Oai...với giá
trị từ 200 - 300 triệu đồng/ha/năm.
Cũng nhờ dồn điền đổi thửa mà diện tích đất sản xuất nông nghiệp dôi dư do
phá dỡ bờ vùng, bờ thửa và thu hồi được những diện tích trước đây đo sai, giao theo
Nghị định 64/NĐ-CP không đúng. Cụ thể, đến nay toàn thành phố đã thu được hơn
1,6 nghìn ha đưa vào quỹ đất công của xã, trong đó có những huyện thu được nhiều
như: Sóc Sơn, Chương Mỹ, Ba Vì, Thanh Oai, Mỹ Đức, Thường Tín...Thông qua
dồn điền đổi thửa trình độ, năng lực tổ chức thực hiên các nội dung chương trình
xây dựng nông thôn mới của cán bộ xã, thôn đã được nâng lên rõ rệt. Sau dồn điền
đổi thửa đã có ba huyện thực hiện cấp lại giấy phép quyền sử dụng đất được cho hơn
162 nghìn hộ, là Ứng Hòa, Đan Phượng, Quốc Oai (Tú Mai, 2015).
1.3. Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và phân loại hiệu quả sử dụng đất
1.3.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng đất
Sử dụng các nguồn tài nguyên có hiệu quả cao trong sản xuất để đảm bảo
phát triển một nền nông nghiệp bền vững là xu thế tất yếu đối với các nước trên
thế giới.
20



×