Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

đánh giá ảnh hưởng của việc thu hồi đất nông nghiệp đến sinh kế người dân thuộc dự án xây dựng khu trung tâm hành chính thành phố cao bằng, tỉnh cao bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.53 MB, 97 trang )

MỤC LỤC
Lời cam đoan

ii

Lời cảm ơn

iii

Mục lục

iv

Danh mục các từ viết tắt

vii

Danh mục các bảng

vii

Danh mục các hình

x

MỞ ĐẦU

1

1 Tính cấp thiết của đề tài


1

2 Mục đích nghiên cứu

2

3 Yêu cầu của đề tài

2

Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU

3

1.1 Khái quát về thu hồi đất

3

1.1.1 Khái niệm về thu hồi đất

3

1.1.2 Các trường hợp thu hồi đất

4

1.1.3 Các yếu tố tác động đến thu hồi đất

7


1.2 Cơ sơ lý luận về sinh kế

10

1.2.1 Khái niệm về sinh kế

10

1.2.2 Các nguồn lực đảm bảo sinh kế

11

1.3 Thu hồi đất và vấn đề ổn định sinh kế cho người dân ở một số nước
trên thế giới và tại Việt Nam

20

1.3.1 Thu hồi đất và vấn đề ổn định sinh kế cho người dân tại một số
nước trên thế giới

21

1.3.2 Thu hồi đất và vấn đề ổn định sinh kế cho người dân tại Việt Nam
Chương 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

27
33

2.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


33

2.2 Nội dung nghiên cứu

33

2.2.1 Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội thành phố Cao Bằng

iv

33


2.2.2 Tình hình thu hồi đất tại thành phố Cao Bằng và tại dự án khu
Trung tâm hành chính tỉnh Cao Bằng

33

2.2.3 Đánh giá ảnh hưởng của việc thu hồi đất để xây dựng khu
Trung tâm hành chính tỉnh Cao Bằng đến sinh kế của người
dân

33

2.2.4 Đề xuất một số giải pháp nhằm ổn đinh sinh kế cho người dân
bị thu hồi đất nông nghiệp thuộc dự án xây dựng khu Trung
tâm hành chính tỉnh Cao Bằng
2.3 Phương pháp nghiên cứu

34

34

2.3.1 Phương pháp điều tra, thu thập số liệu thứ cấp

34

2.3.2 Phương pháp điều tra, thu thập số liệu sơ cấp

34

2.3.3 Phương pháp thống kê, tổng hợp và xử lý số liệu

35

2.3.4 Phương pháp so sánh

35

2.3.5 Phương pháp minh họa kết quả nghiên cứu

35

Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội thành phố Cao Bằng

36
36

3.1.1 Điều kiện tự nhiên


36

3.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội

39

3.1.3 Hiện trạng sử dụng đất

41

3.2 Tình hình thu hồi đất tại thành phố Cao Bằng và tại dự án Khu
Trung tâm hành chính tỉnh Cao Bằng
3.2.1 Tình hình thu hồi đất tại thành phố Cao Bằng giai đoạn 2012 - 2014

43
43

3.2.2 Tình hình thu hồi đất thực hiện dự án khu Trung tâm hành
chính tỉnh Cao Bằng

47

3.3 Đánh giá ảnh hưởng của việc thu hồi đất để xây dựng khu Trung
tâm hành chính tỉnh Cao Bằng đến sinh kế của người dân
3.3.1 Tình hình cơ bản của các hộ điều tra

50
50

3.3.2 Đánh giá ảnh hưởng của việc thu hồi đất để xây dựng khu

Trung tâm hành chính tỉnh Cao Bằng đến sinh kế của người
dân

52
v


3.4 Đề xuất một số giải pháp nhằm ổn định sinh kế cho người dân bị
thu hồi đất nông nghiệp thuộc dự án xây dựng khu Trung tâm
71

hành chính tỉnh Cao Bằng
3.4.1 Giải pháp về nguồn vốn tự nhiên

71

3.4.2 Giải pháp về nguồn vốn xã hội

72

3.4.3 Giải pháp về nguồn vốn tài chính

73

3.4.4 Giải pháp về nguồn vốn vật chất

74

3.4.5 Giải pháp về nguồn vốn con người


75

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

77

Kết luận

77

Kiến nghị

78

TÀI LIỆU THAM KHẢO

80

vi


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT

Chữ viết tắt

Diễn giải

1


BLĐTBXH

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội

2

CNH - HĐH

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa

3

CP

Chính phủ

4

CSHT

Cơ sở hạ tầng

5

GCNQSDĐ

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

6


GPMB

Giải phóng mặt bằng

7

KT-XH

Kinh tế xã hội

8



Nghị định

9

NLDK

Năng lượng dầu khí

10

NQ

Nghị quyết

11


Nxb

Nhà xuất bản

12



Quyết định

13

TTg

Thủ tướng chính phủ

14

TTLT

Thông tư liên tịch

15

UBND

Ủy ban nhân dân

vii



DANH MỤC CÁC BẢNG
TT bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 3.1. Tình hình thu hồi đất thực hiện dự án đầu tư tại thành phố Cao
Bằng giai đoạn 2012 - 2014

44

Bảng 3.2. Tổng số đối tượng bị thu hồi đất tại thành phố Cao Bằng giai
đoạn 2012 - 2014

46

Bảng 3.3. Tổng hợp diện tích đất thu hồi xây dựng khu Trung tâm hành
48

chính tỉnh Cao Bằng
Bảng 3.4. Tổng hợp kinh phí, bồi thường, hỗ trợ GPMB xây dựng khu
Trung tâm hành chính tỉnh Cao Bằng

49

Bảng 3.5. Tình hình cơ bản của các nhóm hộ sau thu hồi đất tại dự án
khu Trung tâm hành chính tỉnh Cao Bằng


51

Bảng 3.6. Diện tích đất nông nghiệp của các nhóm hộ trước và sau thu
hồi đất tại dự án khu Trung tâm hành chính tỉnh Cao Bằng

53

Bảng 3.7. Bình quân diện tích đất nông nghiệp của các nhóm hộ trước và
sau thu hồi đất tại dự án khu Trung tâm hành chính tỉnh Cao
Bằng

53

Bảng 3.8. Sự thay đổi trong quan hệ gia đình của người dân tại tại dự án
khu Trung tâm hành chính tỉnh Cao Bằng

57

Bảng 3.9. Thu nhập bình quân của các nhóm hộ trước và sau thu hồi
đất

58

Bảng 3.10. Mục đích sử dụng tiền bồi thường, hỗ trợ của các hộ gia đình,
cá nhân tại dự án khu Trung tâm hành chính tỉnh Cao Bằng

60

Bảng 3.11. Thu nhập của các nhóm hộ phân theo nhóm nghề trước và
sau thu hồi đất tại dự án khu Trung tâm hành chính tỉnh Cao

Bằng

61

Bảng 3.12. Đánh giá của người dân đối với cơ sở hạ tầng sau thu hồi đất

64

tại dự án khu Trung tâm hành chính tỉnh Cao Bằng

64

Bảng 3.13. Thực trạng nhà ở của các nhóm hộ trước và sau thu hồi đất
viii

64


tại dự án khu Trung tâm hành chính tỉnh Cao Bằng

64

Bảng 3.14. Độ tuổi người lao động của các nhóm hộ gia đình tại dự án
khu Trung tâm hành chính tỉnh Cao Bằng

66

Bảng 3.15. Trình độ học vấn của các nhóm hộ tại dự án khu Trung tâm
hành chính tỉnh Cao Bằng


67

Bảng 3.16. Ngành nghề của các nhóm hộ trước và sau thu hồi tại dự án
khu Trung tâm hành chính tỉnh Cao Bằng

70

Bảng 3.17. Cơ cấu lao động theo ngành của các nhóm hộ trước và sau
thu hồi đất tại dự án khu Trung tâm hành chính tỉnh Cao Bằng

ix

70


DANH MỤC CÁC HÌNH
TT hình

Tên hình

Trang

Hình 1.1

Sơ đồ hóa khái niệm sinh kế

11

Hình 1.2


Khung sinh kế bền vững của DFID

12

Hình 3.1

Sơ đồ hành chính thành phố Cao Bằng

36

Hình 3.2

Cơ cấu GTSX các ngành kinh tế thành phố Cao Bằng năm
2014

39

Hình 3.3

Hiện trạng sử dụng đất thành phố Cao Bằng năm 2014

43

Hình 3.4

Diện tích đất bị thu hồi tại thành phố Cao Bằng giai đoạn
2012 - 2014

Hình 3.5


45

Sơ đồ tổ chức không gian kiến trúc cảnh quan dự án khu
Trung tâm hành chính tỉnh Cao Bằng

48

Hình 3.6

Khu Trung tâm hành chính tỉnh Cao Bằng

49

Hình 3.7

Đồ dùng gia đình trước và sau thu hồi đất tại dự án khu Trung
tâm hành chính tỉnh Cao Bằng

x

65


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
CNH - HĐH và đô thị hoá là mục tiêu phát triển của các nước trên thế
giới, là nhân tố làm thay đổi căn bản KT - XH của mỗi quốc gia kéo theo sự thay
đổi mạnh mẽ phương thức sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong quá trình CNH HĐH, tiến trình phát triển xã hội đó có sự thay đổi cơ bản, đó là phát triển đô thị
kèm theo sự thu hẹp và làm thay đổi xã hội nông thôn theo hướng công nghiệp.

Để tạo quỹ đất phục vụ quá trình đô thị hóa, việc thực hiện thu hồi đất, giải
phóng mặt bằng cho xây dựng phát triển CSHT phục vụ lợi ích quốc gia là việc
làm tất yếu.
Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách và đã được các địa phương nỗ
lực vận dụng để giải quyết vấn đề bồi thường, tái định cư, bảo đảm việc làm, thu
nhập và đời sống của người dân có đất bị thu hồi. Song tình trạng thiếu việc làm,
thất nghiệp, không chuyển đổi được nghề nghiệp, khó khăn trong cuộc sống sinh
hoạt nơi ở mới, đặc biệt đối với người nông dân bị thu hồi đất đã và đang diễn ra
tại nhiều địa phương. Nguyên nhân này một phần do nhiều nơi thực hiện bồi
thường, tái định cư, đào tạo, giải quyết việc làm cho người dân có đất bị thu hồi
còn chưa hợp lý dẫn đến tình trạng khiếu kiện gây mất trật tự an ninh, xã hội.
Bên cạnh đó, bản thân người dân bị thu hồi đất còn thụ động trông chờ vào nhà
nước, chưa tích cực tự đào tạo để đáp ứng với sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện
đại hóa đất nước.
Thành phố Cao Bằng nằm ở vùng trung tâm địa lý của tỉnh Cao Bằng,
được thành lập vào năm 2012. Với vị thế mới là trung tâm vùng động lực thúc
đẩy KT-XH của tỉnh và khu vực. Trung tâm kinh tế mới dựa trên sự phát triển
công nghiệp thân thiện với môi trường. Một đô thị nông, lâm nghiệp đặc trưng.
Trên cơ sở đó, để chỉnh trang đô thị và hoàn thiện CSHT, thành phố cần quỹ đất
trên 800 ha cho trên 40 dự án. Hiện nay đã giải phóng mặt bằng trên 300 ha với
gần 1.000 hộ dân đưa đất vào giải phóng mặt bằng.

1


Tuy nhiên, hầu hết các CSHT trên địa bàn Thành phố đều được xây dựng
từ đất của người dân sinh sống chủ yếu bằng sản xuất nông nghiệp. Việc thu hồi
đất để phát triển CSHT Thành phố, trong thời gian tới có thể sẽ tăng hơn nữa do
mục tiêu tiếp tục mở rộng xây dựng Thành phố, đang gây ảnh hưởng không nhỏ
đối với sinh kế của người nông dân. Chính vì vậy, hậu quả giải phóng mặt bằng ở

thành phố Cao Bằng đã và đang là vấn đề được các cấp ngành trong tỉnh và khu
vực hết sức quan tâm.
Từ thực tiễn trên, em thực hiện đề tài: “Đánh giá ảnh hưởng của việc thu
hồi đất nông nghiệp đến sinh kế người dân thuộc dự án xây dựng khu Trung
tâm hành chính thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá ảnh hưởng của việc thu hồi đất đến sinh kế của người dân tại
dự án xây dựng khu Trung tâm hành chính tỉnh Cao Bằng;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm ổn định sinh kế cho người dân bị thu hồi
đất nông nghiệp thuộc dự án khu Trung tâm hành chính tỉnh Cao Bằng.
3. Yêu cầu của đề tài
- Số liệu điều tra cần phải chính xác, trung thực và khách quan;
- Những kiến nghị, giải pháp phải có tính khả thi và phù hợp với thực
tế địa phương.

2


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Khái quát về thu hồi đất
1.1.1. Khái niệm về thu hồi đất
Thu hồi là việc lấy lại cái đã đưa ra, đã cấp phát ra hoặc cái bị người khác
lấy (Nguyễn Như Ý, 2001). Ở nước ta, do đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý đất vì vậy, khái niệm thu hồi đất
gắn liền với sự tồn tại của quyền sở hữu toàn dân về đất đai. Theo Khoản 11
Điều 3 Luật Đất đai 2013, Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu
lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu
lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai (Quốc Hội nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2013).
Từ khái niệm trên có thể hiểu thu hồi đất thực chất là một trong những
biện pháp nhằm chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai giữa một bên là các tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao, cho thuê đất hoặc được Nhà nước công
nhận quyền sử dụng đất và một bên là Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu đất
đai. Việc thu hồi đất xảy ra do hai nguyên nhân chủ quan và khách quan. Nguyên
nhân chủ quan là do người sử dụng đất hoặc người của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền thực hiện trái pháp luật gây ra; nguyên nhân khách quan là thu hồi
đất để phục vụ cho lợi ích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng, phát triển kinh tế…
Về bản chất, thu hồi đất chính là việc chuyển quyền sử dụng đất theo một
cơ chế bắt buộc thông qua biện pháp hành chính. Việc thu hồi đất có những đặc
điểm sau đây (Đào Chung Chính, 2014): (1) Xảy ra theo một yêu cầu cụ thể (thu
hồi đất do nhu cầu vì lợi ích chung) hoặc trong một hoàn cảnh cụ thể (do vi phạm
pháp luật về đất đai; do không còn nhu cầu sử dụng đất); (2) Việc thu hồi đất
phải bằng một quyết định hành chính cụ thể, trong đó phải thể hiện rõ vị trí, diện

3


tích, loại đất bị thu hồi; tên, địa chỉ của tổ chức, cá nhân có đất bị thu hồi. Quyết
định thu hồi đất được ban hành bởi một cơ quan hành chính có thẩm quyền theo
luật định (UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện); (3) Được thực hiện theo một trình
tự, thủ tục chặt chẽ và được quy định riêng đối với từng trường hợp.
Ở nước ta, thu hồi đất là một vấn đề nổi cộm và nhức nhối hiện nay. Thực
tiễn thực hiện quá trình này còn gặp phải rất nhiều khó khăn. Ở hầu hết các địa
phương, hàng loạt các đơn thư khiếu nại của người dân liên quan đến bồi thường
giải phóng mặt bằng, tái định cư, ổn định đời sống, giải quyết việc làm khi thu
hồi đất diễn ra rất căng thẳng. Nhiều dự án treo, nhiều công trình xây dựng dang
dở, ngổn ngang vẫn còn đang tiếp tục chờ đợi được tháo gỡ. Trong khi đó, nhiều

doanh nghiệp đang mỏi mòn mong đợi có một cơ chế đầu tư thông thoáng, một
hành lang pháp lý an toàn dễ chịu để nhanh chóng có “đất sạch” đầu tư .
1.1.2. Các trường hợp thu hồi đất
Hiến pháp quy định rõ Nhà nước thu hồi đất trong trường hợp thật cần
thiết vì mục đích an ninh, quốc phòng, để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng. Đây là sự thay đổi quan trọng làm rõ được phạm vi
thu hồi đất cho phát triển kinh tế - xã hội phải vì lợi ích quốc gia, công cộng.
Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định
của pháp luật (Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2013).
Cụ thể quy định của Hiến pháp, Luật Đất đai năm 2013 đã quy định cụ thể
việc Nhà nước thu hồi đất theo 4 nhóm sau: (1) Thu hồi đất để sử dụng vào mục
đích quốc phòng, an ninh; (2) Thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích
quốc gia, công cộng; (3) Thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai; (4) Thu hồi
đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ
đe dọa tính mạng con người.
1.1.2.1. Thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh
Điều 61 Luật Đất đai năm 2013 quy định Nhà nước thu hồi đất vì mục
đích quốc phòng, an ninh trong các trường hợp sau đây: (1) Làm nơi đóng quân,

4


trụ sở làm việc; (2) Xây dựng căn cứ quân sự; Xây dựng công trình phòng thủ
quốc gia, trận địa và công trình đặc biệt về quốc phòng, an ninh; Xây dựng ga,
cảng quân sự; (3) Xây dựng công trình công nghiệp, khoa học và công nghệ, văn
hóa, thể thao phục vụ trực tiếp cho quốc phòng, an ninh; (4) Xây dựng kho tàng
của lực lượng vũ trang nhân dân; (5) Làm trường bắn, thao trường, bãi thử vũ
khí, bãi hủy vũ khí; (6) Xây dựng cơ sở đào tạo, trung tâm huấn luyện, bệnh viện,
nhà an dưỡng của lực lượng vũ trang nhân dân; (7) Xây dựng nhà công vụ của
lực lượng vũ trang nhân dân; (8) Xây dựng cơ sở giam giữ, cơ sở giáo dục do Bộ

Quốc phòng, Bộ Công an quản lý (Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, 2013).
1.1.2.2. Thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng
Điều 62 Luật Đất đai năm 2013 quy định Nhà nước thu hồi đất để phát
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng bao gồm 3 trường hợp sau:
(1) Thực hiện các dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương
đầu tư mà phải thu hồi đất; (2) Thực hiện các dự án do Thủ tướng Chính phủ
chấp thuận, quyết định đầu tư mà phải thu hồi đất; (3) Thực hiện các dự án do
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận mà phải thu hồi đất (Quốc Hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2013).
1.1.2.3. Thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai
Theo pháp luật đất đai hiện hành, việc thu hồi đất do vi phạm pháp luật về
đất đai phải căn cứ vào văn bản, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
xác định hành vi vi phạm pháp luật về đất đai. Các trường hợp thu hồi đất do vi
phạm pháp luật về đất đai được quy định cụ thể tại Điều 64 Luật Đất đai năm
2013 bao gồm 9 trường hợp sau: (1) Sử dụng đất không đúng mục đích đã được
Nhà nước giao, cho thuê, công nhận quyền sử dụng đất và đã bị xử phạt vi phạm
hành chính về hành vi sử dụng đất không đúng mục đích mà tiếp tục vi phạm; (2)
Người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất; (3) Đất được giao, cho thuê không đúng đối
tượng hoặc không đúng thẩm quyền; (4) Đất không được chuyển nhượng, tặng
cho theo quy định của Luật Đất đai hiện hành mà nhận chuyển nhượng, nhận

5


tặng cho; (5) Đất được Nhà nước giao để quản lý mà để bị lấn, chiếm; (6) Đất
không được chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này mà người sử
dụng đất do thiếu trách nhiệm để bị lấn, chiếm; (7) Người sử dụng đất không
thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà
không chấp hành; (8) Đất trồng cây hàng năm không được sử dụng trong thời

hạn 12 tháng liên tục; đất trồng cây lâu năm không được sử dụng trong thời hạn
18 tháng liên tục; đất trồng rừng không được sử dụng trong thời hạn 24 tháng
liên tục; (9) Đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà
không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục hoặc tiến độ sử dụng đất
chậm 24 tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư kể từ khi nhận bàn giao đất
trên thực địa phải đưa đất vào sử dụng; trường hợp không đưa đất vào sử dụng
thì chủ đầu tư được gia hạn sử dụng 24 tháng và phải nộp cho Nhà nước khoản
tiền tương ứng với mức tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với thời gian chậm tiến
độ thực hiện dự án trong thời gian này; hết thời hạn được gia hạn mà chủ đầu tư
vẫn chưa đưa đất vào sử dụng thì Nhà nước thu hồi đất mà không bồi thường về
đất và tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp do bất khả kháng (Quốc Hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2013).
1.1.2.4. Thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả
lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người
Các trường hợp thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự
nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người được quy định tại
Khoản 1 Điều 65 Luật Đất đai 2013, cụ thể: (1) Tổ chức được Nhà nước giao đất
không thu tiền sử dụng đất, được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất mà
tiền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước bị giải thể, phá sản, chuyển
đi nơi khác, giảm hoặc không còn nhu cầu sử dụng đất; người sử dụng đất thuê của
Nhà nước trả tiền thuê đất hàng năm bị giải thể, phá sản, chuyển đi nơi khác, giảm
hoặc không còn nhu cầu sử dụng đất; (2) Cá nhân sử dụng đất chết mà không có
người thừa kế; (3) Người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất; (4) Đất được Nhà nước
giao, cho thuê có thời hạn nhưng không được gia hạn; (5) Đất ở trong khu vực bị ô

6


nhiễm môi trường có nguy cơ đe dọa tính mạng con người; (6) Đất ở có nguy cơ
sạt lở, sụt lún, bị ảnh hưởng bởi hiện tượng thiên tai khác đe dọa tính mạng con

người (Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2013).
Như vậy, so với Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013 đã quy
định theo hướng thu hẹp hơn các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Ngoài các dự án đã được
Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư, được thủ tướng Chính phủ chấp thuận,
quyết định đầu tư, các trường hợp được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh xem xét
về sự cần thiết phải thu hồi với các dự án đầu tư sử dụng đất không thuộc
trường hợp Nhà nước thu hồi đất mà phù hợp với quy hoạch sử dụng đất thì
nhà đầu tư trong nước được nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê quyền
sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư (Phan Thị Thanh Huyền và Nguyễn Văn
Quân, 2014).
1.1.3. Các yếu tố tác động đến thu hồi đất
1.1.3.1. Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất
đai và tổ chức thực hiện các văn bản đó
Việc ban hành Luật Đất đai và các văn bản quy phạm pháp luật về quản
lý, sử dụng đất đai có ảnh hưởng rất lớn đến các quy định của Nhà nước khi thu
hồi đất. Trên cơ sở đó, các văn bản quy định khi Nhà nước thu hồi đất cũng luôn
được Chính phủ không ngừng hoàn thiện, sửa đổi nhằm giải quyết các vướng
mắc trong công tác thu hồi đất, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước.
Thực tiễn triển khai cho thấy công tác thu hồi đất đã cơ bản đáp ứng nhu cầu về
mặt bằng cho sự phát triển các dự án đầu tư. Song vẫn bộc lộ một số hạn chế về
mức độ phức tạp, số lượng văn bản nhiều, chưa đồng bộ, không thuận lợi trong
sử dụng, gây lúng túng trong xử lý và tạo kẽ hở trong thực thi pháp luật, dẫn tới
tình trạng khiếu kiện, thu hồi đất tràn lan, gây lãng phí và tổn thất lớn.
1.1.3.2. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là một trong những căn cứ quan trọng

7



nhất để thực hiện việc giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, mà
theo quy định của Luật Đất đai, việc giao đất, cho thuê đất chỉ được thực hiện khi
có quyết định thu hồi đất đó của người đang sử dụng (Đào Trung Chính, 2014).
Thông qua việc lập, xét duyệt và điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất Nhà nước
đóng vai trò là người tổ chức, thực hiện việc thu hồi đất của cộng đồng.
1.1.3.3. Yếu tố giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất
Trong những năm qua, ở nhiều địa phương tình trạng đất được giao cho
thuê sử dụng không đúng mục đích, vi phạm pháp luật, găm giữ đất, chậm đưa
vào sử dụng hoặc chuyển nhượng dự án còn xảy ra dẫn đến lãng phí đất đai và
gây bất bình trong dư luận. Nhiều nơi còn thiếu cân nhắc trong việc chuyển mục
đích sử dụng chuyên trồng lúa nước, đất lâm nghiệp có rừng, giao đất, cho thuê
đất tại các khu vực nhạy cảm, vùng biên giới. Còn tình trạng nhiều tổ chức được
Nhà nước giao đất không thu tiền nhưng sử dụng lãng phí và thiếu trách nhiệm
trong quản lý để xảy ra nhiều sai phạm (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2012a).
Những bất cập đó, dẫn tới việc thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai
trong thời gian qua, đồng thời đã ảnh hưởng đến việc thực hiện thu hồi đất nhằm
mục tiêu tạo quỹ “đất sạch”, phát triển kinh tế - xã hội, thu hút đầu tư và phát huy
nguồn lực của đất đai trong sự nghiệp phát triển đất nước.
1.1.3.4. Yếu tố lập và quản lý hồ sơ địa chính
Lập và quản lý chặt chẽ hệ thống hồ sơ địa chính có vai trò quan trọng
hàng đầu để “quản lý chặt chẽ đất đai trong thị trường bất động sản”, là cơ sở
xác định tính pháp lý của đất đai (Đào Trung Chính, 2014). Từ năm 2004 đến
nay, việc lập hồ sơ địa chính chưa được thực hiện đầy đủ, đồng bộ ở 3 cấp (Đào
Trung Chính, 2014), việc đo đạc lập bản đồ địa chính đến nay chưa hoàn thành
(Bộ Tài nguyên và môi trường, 2012a), ở một số địa phương, chưa có bản đồ địa
chính nên phải cấp theo tự khai báo của người dân hoặc cấp theo các loại bản đồ
cũ có độ chính xác thấp (Bộ Tài nguyên và môi trường, 2012a). Vì thế, gây khó
khăn trong việc xác định ranh giới, diện tích thửa đất, loại đất... của tổ chức, hộ

8



gia đình, cá nhân. Từ đó, làm chậm quá trình thu hồi đất.
1.1.3.5. Công tác đăng ký đất đai và cấp GCNQSDĐ
Đăng ký đất đai là một thành phần cơ bản quan trọng nhất của hệ thống
quản lý đất đai, đó là quá trình xác lập hồ sơ về quyền sở hữu đất đai, bất động
sản, sự đảm bảo và những thông tin về quyền sở hữu đất.
Tuy nhiên, đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận lần đầu đến nay chưa
hoàn thành, nhu cầu cấp giấy chứng nhận và đăng ký biến động còn rất lớn (Bộ
Tài nguyên và Môi trường, 2012a). Công tác đăng ký đất đai và cấp GCNQSDĐ
có ảnh hưởng đến việc thực hiện thu hồi đất. GCNQSDĐ là căn cứ để xác định
đối tượng, loại đất, diện tích khi thực hiện thu hồi đất.
1.1.3.6. Yếu tố giá đất và định giá đất
Những vấn đề liên quan đến xác định giá đất đã được quy định cụ thể tại
Luật Đất đai 2003. Đặc biệt, việc xác định giá đất được thực hiện theo quy định
tại Khoản 1 Điều 56 Luật Đất đai 2003: “sát với giá chuyển nhượng quyền sử
dụng đất trên thị trường trong điều kiện bình thường” (Quốc Hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2013). Tuy nhiên, các địa phương vẫn chưa thực
hiện tốt quy định này, dẫn tới nhiều trường hợp ách tắc về xác định giá đất bồi
thường khi thu hồi đất.
Hiện nay, khi Luật Đất đai năm 2013 ra đời, đã có những quy định rõ
nguyên tắc định giá đất phải theo mục đích sử dụng đất hợp pháp tại thời điểm
định giá, theo thời hạn sử dụng đất; bổ sung quy định về cơ quan xây dựng, cơ
quan thẩm định giá đất, vị trí của tư vấn giá đất trong việc xác định giá đất, thẩm
định giá đất và việc thuê tư vấn để xác định giá đất cụ thể. Luật quy định khung
giá đất do Chính phủ ban hành, định kỳ 05 năm một lần đối với từng loại đất,
theo từng vùng; bỏ quy định việc công bố bảng giá đất vào ngày 01/01 hàng
năm, thay vào đó, bảng giá đất được xây dựng định kỳ 5 năm một lần và công bố
công khai vào ngày 01/01 của năm đầu kỳ. Bảng giá đất chỉ áp dụng đối với một


9


số trường hợp thay cho việc áp dụng cho tất cả các mục đích như quy định hiện
hành (Bộ Tư Pháp, 2014).
1.1.3.7. Thị trường bất động sản
Việc hình thành và phát triển thị trường bất động sản góp phần giảm
thiểu việc thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu tư (do người đầu tư có thể đáp
ứng nhu cầu về đất đai thông qua các giao dịch trên thị trường); đồng thời
người bị thu hồi đất có thể tự mua hoặc cho thuê đất đai, nhà cửa mà không
nhất thiết phải thông qua Nhà nước thực hiện chính sách tái định cư và bồi
thường (Đào Trung Chính, 2014). Giá cả của Bất động sản được hình thành trên
thị trường và nó sẽ tác động tới giá đất tính bồi thường. Thị trường càng sơ khai
việc thu hồi càng thiếu cơ sở thực tiễn để xác định đúng giá trị bồi thường (Bộ
Tài nguyên và Môi trường, 2005).
1.2. Cơ sơ lý luận về sinh kế
1.2.1. Khái niệm về sinh kế
Ý tưởng về sinh kế đã có từ giữa những năm 80 ở tác phẩm của Robert
Chambers, sau đó được phát triển và hoàn thiện hơn nữa bởi Chamber, Conway
và những người khác vào đầu những năm 1990. Từ đó đến nay, đã có rất nhiều
tác giả, tổ chức nghiên cứu và đưa ra khái niệm về sinh kế. Sau đây là một số
khái niệm được chấp nhận:
- Năm 1993, Chamber đưa ra khái niệm về sinh kế: Các sinh kế có thể
bao gồm mức độ sung túc, con đường vận chuyển thức ăn và tiền mặt phục vụ
cho các phúc lợi về thể chất và xã hội. Điều này bao gồm sự đảm bảo chống lại
bệnh tật, tử vong sớm và trở nên nghèo hơn;
- Theo Bùi Đình Toái, khái niệm sinh kế của hộ hay một cộng đồng là
một tập hợp của các nguồn lực và khả năng của con người kết hợp với những
quyết định và những hoạt động mà họ sẽ thực hiện để không những kiếm sống
mà còn đạt đến mục tiêu đa dạng hơn (Bùi Đình Toái, 2004).

- Tuy nhiên, được sử dụng phổ biến hiện nay là khái niệm sinh kế theo

10


Sinh kế và Khung phân tích sinh kế bền vững của Bộ Hợp tác phát triển Quốc tế
Anh (DIFD): “Sinh kế của một hộ gia đình, hay một cộng đồng còn gọi là kế
sinh nhai hay phương cách kiếm sống của hộ gia đình hay cộng đồng đó. Khái
niệm về sinh kế có thể miêu tả như là một tập hợp của các nguồn lực và khả
năng của con người có thể kết hợp được với những quyết định và những hoạt
động mà họ sẽ thực hiện để không những kiếm sống mà còn đạt đến mục tiêu và
ước nguyện (tham vọng) của họ” (Viện Tài nguyên, Môi trường và Phát triển
Cộng đồng, 2010).
Xuất phát từ những khái niệm trên, có thể thấy sinh kế là phương cách
kiếm sống của một hộ dân hay một cộng đồng, là một tập hợp bao gồm các
nguồn lực và khả năng của con người có thể kết hợp được với những quyết định
và những hoạt động mà họ sẽ thực hiện để không chỉ kiếm sống mà còn đạt đến
mục tiêu và các kỳ vọng khác. Đối tượng của sinh kế bao gồm cộng đồng nông
dân có đất bị thu hồi do phát triển công nghiệp và đô thị ở các vùng nông thôn.
Nếu diễn đạt bằng hình 1.1, có dạng sau (Bộ Hợp tác phát triển Quốc tế Anh DFID, 2003):

Hình 1.1. Sơ đồ hóa khái niệm sinh kế
1.2.2. Các nguồn lực đảm bảo sinh kế
Bộ Hợp tác phát triển Quốc tế Anh (DFID) đưa ra một khung lý thuyết
sinh kế bền vững trong đó chỉ ra rằng con người muốn đảm bảo sinh kế cho

11


mình thì phải dựa vào năm loại hình tài sản vốn hay hình thức vốn, để không chỉ

giảm nghèo mà còn đảm bảo an ninh sinh kế của mình, bao gồm: nguồn vốn con
người, nguồn vốn tài chính, nguồn vốn vật chất, nguồn vốn xã hội và nguồn vốn
tự nhiên, là những loại nguồn vốn đóng cả hai vai đầu vào và đầu ra, được diễn
đạt theo hình 1.2 (Bộ Hợp tác phát triển Quốc tế Anh - DFID, 2003).

Hình 1.2. Khung sinh kế bền vững của DFID
Một sinh kế được coi là bền vững khi nó có khả năng ứng phó và phục
hồi trước các tác động hay có thể thúc đẩy các khả năng và tài sản ở cả thời
điểm hiện tại và trong tương lai trong khi không làm xói mòn nền tảng của các
nguồn lực tự nhiên (Hanstad, 2004). Khái niệm sinh kế bền vững có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng cho các dự án giảm nghèo, giảm rủi ro, tổn thương tại các vùng
khó khăn, nghèo khó, vùng chịu nhiều tác động của thiên tai như bão, lũ, lụt,
hạn hán.
1.2.2.1. Nguồn vốn tự nhiên
Vốn tự nhiên là tất cả các vật chất (nguyên vật liệu) tự nhiên để tạo dựng
sinh kế. Nguồn lực tạo thành vốn tự nhiên bao gồm cả các nguồn lực đất đai
(Nguyễn Văn Sửu, 2010). Vốn tự nhiên cung cấp và phục vụ hữu ích cho kế sinh
nhai của con người. Mục tiêu sinh kế hướng đến một tầm rộng lớn hơn, chú trọng
vào con người và hiểu biết tầm quan trọng của các quy trình và cấu trúc trong
quá trình xác định cách mà các nguồn vốn tự nhiên được tạo ra và sử dụng.

12


Những tiến trình và cấu trúc điều chỉnh các phương cách tiếp cận đối với
nguồn lực tự nhiên và có thể khuyến khích, hoặc ép buộc khi cần thiết để cải
thiện việc quản lý các nguồn lực.
Việc hỗ trợ gián tiếp đối với vốn tự nhiên thông qua sự chuyển đổi các tiến
trình và cấu trúc thì có ý nghĩa rất quan trọng. Sự hỗ trợ trực tiếp tập trung vào
các nguồn lực mà chính các nguồn lực đó có thể chống lại khả năng sử dụng các

nguồn lực đó của con người vẫn có sự tái tạo cho nhu cầu sử dụng trong tương
lai. Một trong các thành phần chính của mục tiêu sinh kế bền vững là tin và theo
đuổi mục tiêu ổn định nhiều loại nguồn lực khác nhau. Sao cho không ảnh hưởng
đến sự ổn định của môi trường (ổn định nguồn vốn tự nhiên và các dịch vụ của
nó, như giảm khí cacbon và quản lý sự xói mòn).
1.2.2.2. Nguồn vốn xã hội
Nguồn vốn xã hội đã được đề cập lần đầu tiên vào đầu thế kỷ XX bởi
Hunifan - nhà giáo dục học người Mỹ, theo ông, vốn xã hội là những thứ hữu
hình cần phải tính đến trong cuộc sống thường ngày của con người (dẫn theo
Khúc Thị Thanh Vân, 2013).
Đến thập niên 80, Bourdieu đã đưa ra định nghĩa về vốn xã hội, như là
một tập hợp của các nguồn lực hiện hữu và tiềm ẩn mà chúng liên kết với
trạng thái sở hữu của mạng lưới bền vững của các mối quan hệ được thể chế
hoặc mạnh hoặc yếu của việc biết hay không biết nhau, hoặc nói cách khác
của các thành viên trong nhóm và “bất cứ ai cũng có thể khai thác vốn xã hội
nhằm đem lại các lợi ích kinh tế thông thường” (Bourdieu, 1986) (dẫn theo
Khúc Thị Thanh Vân, 2013).
Sau đó, một giáo sư xã học người Trung Quốc - Nan Lin, khi nghiên cứu
lý thuyết về vốn xã hội. Định nghĩa về vốn xã hội của ông tập trung vào việc coi
vốn xã hội học như là một cách thức mà các cá nhân sử dụng để tiếp cận đến
nguồn lực thông qua các mạng lưới quan hệ xã hội của họ (dẫn theo Khúc Thị
Thanh Vân, 2013).

13


Theo Nguyễn Văn sửu (2010), vốn xã hội là các nguồn lực xã hội mà con
người sử dụng để theo đuổi các mục tiêu sinh kế, bao gồm quan hệ, mạng lưới,
thành viên nhóm, niềm tin, sự phụ thuộc lẫn nhau và trao đổi cung cấp các mạng
an ninh phi chính thống quan trọng.

Như vậy, càng ngày khái niệm về vốn xã hội càng được mở rộng và đạt
được những ý nghĩa quan trọng thông qua các nghiên cứu trong một số lĩnh vực
khác nhau. Mỗi xã hội khác nhau sẽ có những nguồn vốn xã hội khác nhau. Ở
Việt Nam, vốn xã hội được hiểu cơ bản chính là các nguồn lực bao gồm: Quan
hệ, mạng lưới, thành viên nhóm, niềm tin, sự phụ thuộc lẫn nhau…của con người
đặt ra để theo đuổi mục tiêu sinh kế.
1.2.2.3. Nguồn vốn tài chính
Vốn tài chính ngụ ý về các nguồn lực tài chính mà con người sử dụng để
đạt được các mục tiêu sinh kế của mình (Nguyễn Văn Sửu, 2010). Định nghĩa
được sử dụng ở đây không mang tính chất kinh tế mà nó còn bao gồm những
dòng tích trữ và khả năng góp phần vào việc tiêu dùng sản phẩm. Tuy nhiên, nó
phải được thực hiện để đạt được một nền tảng sinh kế quan trọng. Theo Phí Thị
Hương (2009), có hai nguồn vốn tài chính chủ yếu:
- Vốn sẵn có: Tiết kiệm là loại vốn tài chính được ưa thích vì nó không bị
ràng buộc về tính pháp lý. Chúng có thể có nhiều hình thức: tiền mặt, tín dụng
ngân hàng, hoặc tài sản thanh khoản khác như vật nuôi, nữ trang.... Nguồn lực tài
chính có thể tồn tại dưới dạng các tổ chức cung cấp tín dụng.
- Dòng tiền đều: Ngoại trừ thu nhập hầu hết loại này là tiền trợ cấp, hoặc
sự chuyển giao. Đã có sự tạo lập rõ ràng vốn tài chính từ những dòng tiền này
phải xác thực (trong khi sự đáng tin cậy hoàn toàn không bao giờ được đảm bảo
có sự khác nhau giữa việc trả nợ một lần với sự chuyển giao thường xuyên vào
kế hoạch đầu tư).
Như vậy, vốn tài chính chủ yếu của hộ gia đình chính là tiền tiết kiệm, dự
trữ tiền mặt, các tài sản có tính thanh khản cao như vàng bạc đá quý, lương hưu

14


hay các khoản tiền hỗ trợ từ nhà nước, và tiền gửi của người thân từ nơi khác.
Hiệu quả sử dụng nguồn vốn tài chính phụ thuộc vào sự hiểu biết về kinh

tế - tài chính, luật pháp và thị trường cung - cầu của người dân. Trong nhiều
trường hợp, họ không lựa chọn mạo hiểm đầu tư vào sản xuất kinh doanh,
thường lựa chọn giải pháp an toàn là gửi tiết kiệm.
1.2.2.4. Nguồn vốn vật chất
Theo Nguyễn Văn Sửu (2010), vốn vật chất bao gồm CSHT và các loại
hàng hóa mà người sản xuất cần để hậu thuẫn sinh kế. Cơ sở hạ tầng là hệ
thống giao thông thuận tiện, nhà ở tốt và được đảm bảo, điều kiện vệ sinh môi
trường và cung cấp nước sạch tốt, sử dụng năng lượng sạch và thuận tiện, dễ
dàng tiếp cận thông tin truyền thông bằng các phương tiện máy móc thiết bị.
Các loại hàng hóa vật chất cho sản xuất là các công cụ, thiết bị phục vụ cho
sản xuất của hộ gia đình.
Theo Phạm Bảo Dương (2009), nguồn vốn vật chất được phân chia làm 2
loại: Tài sản của cộng đồng và tài sản của hộ. Tài sản của cộng đồng xem xét các
cơ sở vật chất cơ bản phục vụ nhu cầu sản xuất và sinh hoạt như: Điện, đường
giao thông, trường học, trạm y tế, công trình thủy lợi, thông tin liên lạc. Tài sản
của hộ khá phong phú bao gồm cả các tài sản phục vụ sản xuất và các tài sản
phục vụ sinh hoạt của hộ.
Như vậy, vốn vật chất chính là hệ thống giao thông, cấp thoát nước, hệ
thống tưới tiêu, cung cấp năng lượng, nhà ở, các phương tiện sản xuất, đi lại,
thông tin, công cụ, thiết bị lao động.
Vốn vật chất yêu cầu nguồn vốn đầu tư ban đầu và cung cấp tài chính cho
những gì đang diễn ra, đáp ứng những hoạt động và duy trì chi phí cho dịch vụ.
Nó có vai trò quan trọng đến sự phát triển kĩ năng, năng lực để đảm bảo việc
quản lý có hiệu quả của dân chúng địa phương. Vì vậy, việc cung cấp vốn vật
chất cần đáp ứng đủ những nhu cầu của người sử dụng trong một khoảng thời
gian dài. CSHT là một trong những tài sản hỗ trợ trực tiếp người dân, đặc biệt là

15



người nghèo. Tài sản này có thể giúp người nghèo thoát nghèo một cách nhanh
chóng, nếu được đầu tư đúng, và phù hợp với sinh kế hộ nghèo.
1.2.2.5. Nguồn vốn con người
- Vốn con người theo Mincer Jacob (1974) cũng giống như vốn hữu hình,
muốn có thì con người phải đầu tư để tích lũy thông qua giáo dục rèn luyện trong
lao động và thuộc về mỗi người và nó đem lại cho người sở hữu nó khoản thu
nhập. Theo Nguyễn Văn Ngọc (2006), vốn con người - là khái niệm để chỉ toàn
bộ hiểu biết của con người về phương thức tiến hành các hoạt động KT - XH
(Bùi Quang Bình, 2009). Hai khái niệm này giống nhau về mặt nội dung.
- Một khái niệm khác về vốn con người của Nguyễn Văn Sửu: đó là đại
diện cho các kỹ năng, tri thức, khả năng làm việc và sức khỏe tốt, tất cả cộng lại
tạo điều kiện giúp con người theo đuổi các chiến lược sinh kế khác nhau và đạt
được các mục tiêu sinh kế. Ở cấp độ hộ gia đình, vốn con người là yếu tố về số
lượng và chất lượng lao động của hộ; yếu tố này khác nhau tùy thuộc vào kích
cỡ của hộ, trình độ giáo dục và kỹ năng nghề nghiệp, khả năng quản lý, tình
trạng sức khỏe, tri thức về các cấu trúc sở hữu chính thống và phi chính thống
(như các quyền, luật pháp, chuẩn mực, cấu trúc chính quyền, các thủ tục)
(Nguyễn Văn Sửu, 2010).
Vốn con người được cấu thành từ ba nhân tố chính: (1) Năng lực ban đầu,
nhân tố này gắn liền với yếu tố năng khiếu và bẩm sinh ở mỗi người; (2) Những
năng lực, kiến thức chuyên môn được hình thành và tích lũy thông qua quá trình
đào tạo chính quy; (3) Các kỹ năng, khả năng chuyên môn, những kinh nghiệm
tích lũy từ quá trình sống và làm việc. Năng lực ban đầu nhận được từ cha mẹ và
các điều kiện của gia đình và xã hội khi chăm lo cho bà mẹ mang thai và sinh nở.
Khi đi học để có năng lực thì người ta phải bỏ ra chi phí học hành và cuối cùng
những trải nghiệm trong cuộc sống làm việc nhiều trường hợp người ta phải trả
giá rất cao (Bùi Quang Bình, 2009). Như vậy, vốn con người có thể hiểu là
những kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm trong mỗi con người được hình thành
và tích lũy nhờ quá trình học tập và lao động được thể hiện trong quá trình sử


16


dụng trong sản xuất, tạo điều kiện giúp con người theo đuổi các chiến lược sinh
kế khác nhau và đạt được các mục tiêu, kỳ vọng của họ.
Ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, thế giới tiến dần tới toàn
cầu hóa, nhưng tài nguyên thiên nhiên khan hiếm, đã và đang làm cho nguồn vốn
con người trở nên đối tượng ưu tiên hàng đầu.
Vốn con người được tích lũy theo nhiều cách, nhưng rõ ràng việc giáo dục
là nguồn tích lũy cơ bản nhất. Việc giáo dục để hỗ trợ nguồn vốn con người có
thể thực hiện cả trực tiếp lẫn gián tiếp. Trong cả hai cách thực hiện đó kết quả
thực sự mang lại chỉ khi chính bản thân họ sẵn sàng đầu tư vào vốn con người
của họ. Việc đầu tư này phụ thuộc vào khả năng và điều kiện tài chính của mỗi
cá nhân. Trường hợp khác nhau về hoàn cảnh, với những học sinh con em nông
dân ở nông thôn hay hộ nghèo mặc dù đủ năng lực để tiếp nhận kiến thức kỹ
năng từ quá trình đào tạo. Nhưng tiếc rằng họ không có điều kiện để đi học khi
mà khoản chi phí này chiếm một phần không nhỏ trong thu nhập của hộ gia đình.
Do không đầu tư nên mức vốn con người của họ thấp, năng suất lao động thấp,
thu nhập sẽ không cao. Trường hợp này, để giúp cho học sinh con em nhà nghèo
đi học thì nhà nước cần có trợ cấp học phí hay cho vay lãi suất thấp.
Một vấn đề khác nữa, vốn con người được tích lũy thông qua quá trình đầu
tư theo thời gian, tuy nhiên còn phụ thuộc vào thời điểm đầu tư vào giáo dục của
mỗi người. Nếu ai đó đi học đúng tuổi và nhận được giáo dục và nghề nghiệp trẻ
chính là đầu tư đúng thời điểm và việc tích lũy vốn tốt nhất. Thế nhưng, trên thực
tế, những người lao động chính ở đây thường lớn tuổi, vốn con người của họ là
kinh nghiệm, kỹ năng qua quá trình lao động, nên họ khó tiếp nhận kiến thức kỹ
năng từ quá trình đào tạo.
Cơ chế phù hợp nhất cho việc kết hợp hỗ trợ là thực hiện các chương trình
trọng điểm. Các chương trình trọng điểm có thể hướng vào việc phát triển nguồn
nhân lực, để xuất những thông tin thông qua việc phân tích các phương thức

kiếm sống để chắc chắn rằng các nỗ lực tập trung vào nơi cần thiết nhất.

17


Cải thiện phương thức tiếp cận với giáo dục chất lượng cao, thông tin,
công nghệ và đào tạo nâng cao dinh dưỡng và sức khỏe sẽ góp phần làm phát
triển nguồn vốn con người.
Khái niệm về năm loại tài sản sinh kế cho phép hình dung ra tính phức tạp
về vấn đề nguồn vốn trong “nguồn lực kinh tế”. Nguồn lực kinh tế bao hàm cả
nguồn vốn. Vì thế, nguồn vốn trong “nguồn lực kinh tế” được hiểu là các của cải
vật chất do con người tạo ra và tích lũy lại, được khai thác đầu tư vào quá trình
sản xuất kinh tế. Như vậy, nguồn vốn cũng chính là một trong các yếu tố tạo
thành nguồn lực kinh tế, quyết định tính bền vững sự tăng trưởng kinh tế.
Liên quan đến năm loại vốn này, một câu hỏi còn đang tranh luận là dù
biết rằng cuộc sống con người dựa vào năm loại tài sản vốn, nhưng loại vốn nào
có vai trò quan trọng hơn trong việc giúp các hộ gia đình nông dân tăng cường
sinh kế bền vững của mình. Một số nhà nghiên cứu đánh giá cao nguồn vốn xã
hội trong chiến lược sinh kế của các hộ gia đình (Nguyễn Văn Sửu, 2010).
Bebbington cho rằng, vốn xã hội ít hữu hình hơn các loại vốn khác, nên không
được hiểu rõ, trong khi nó là một phương tiện quan trọng để các hộ gia đình mở
rộng tiếp cận của mình đối với các nguồn vốn khác và để tìm kiếm sinh kế. Vì
thế, vốn xã hội cần được chú ý một cách đúng mức, để ý xem các hộ gia đình đã
dựa vào nguồn vốn này và kết hợp nó với các nguồn vốn khác nhằm nâng cao
mức sống và đảm bảo tính bền vững trong các chiến lược sinh kế của hộ như thế
nào (Anthony,1999). Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu khác nhấn mạnh tầm
quan trọng của các loại vốn tự nhiên, vốn con người, vốn tài chính và vốn vật
chất (Nguyễn Văn Sửu, 2010). Chẳng hạn, Oluremi Jaiyebo lập luận rằng, nhóm
phụ nữ trong nghiên cứu của tác giả là nhóm nghèo, vì sự tiếp cận của họ đối với
các tài sản vốn rất hạn chế. Trong số năm loại tài sản sinh kế, phụ nữ nhấn mạnh

đến hai loại vốn tự nhiên và vốn tài chính, coi chúng là tiền đề để tiếp cận ba loại
vốn khác. Ví dụ tiếp cận vốn tài chính có thể tạo cơ sở cho các hộ gia đình tiếp
cận bốn loại vốn còn lại (Jaiyebo, 2003).

18


×