Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

nâng cao hiệu quả thu hút FDI vào ngành công nghiệp phụ trợ tại VN trong bối cảnh TPP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.03 KB, 82 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan khóa luận này do tự bản thân thực hiện và không sao
chép công trình của người khác. Các thông tin trong khóa luận có nguồn gốc
và được trích dẫn rõ ràng. Em hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực và
nguyên bản của khóa luận.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
(Ký và ghi rõ họ tên)

ĐOÀN THỊ HƯƠNG

i


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOANError: Reference source not found
MỤC LỤC Error: Reference source not found
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Error: Reference source not found

DANH MỤC HÌNH VÀ BẢNG BIỂU

Error: Reference source not

found
...............................................................................................................................................
MỞ ĐẦU...................................................................................................................................
KẾT LUẬN...............................................................................................................................
Nội dung nhận xét:.................................................................................................................
1. Về tinh thần thái độ thực tập của sinh viên........................................................................


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CNCNC
CNPT
DNLD
DNPT
FDI
FTA
GDP
GTSXCN
TPP
WTO

Công nghiệp công nghệ cao
Công nghiệp phụ trợ
Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp phụ trợ
Đầu tư trực tiếp nước ngoài

Hiệp định thương mại tự do
Tổng sản phẩm trong nước
Giá trị sản xuất công nghiệp
Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương
Tổ chức thương mại thế giới

ii


DANH MỤC HÌNH VÀ BẢNG BIỂU
Hình 2.1: Cơ cấu đầu tư vốn FDI phân theo lĩnh vực vào Việt Nam (giai đoạn
2010 – 2015)Error: Reference source not found

...............................................................................................................................................
MỞ ĐẦU...................................................................................................................................
KẾT LUẬN...............................................................................................................................
Nội dung nhận xét:.................................................................................................................

iii


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Công nghiệp phụ trợ là bộ phận đặc thù trong cấu thành nền công
nghiệp, với chức năng sản xuất những sản phẩm hỗ trợ cho việc tạo ra các sản
phẩm hoàn chỉnh. Ngoài chức năng làm tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu
tư và để các công ty đa quốc gia thích ứng nhanh với thị trường nội địa, ngành
công nghiệp phụ trợ còn có vai trò rất lớn lao trong việc đẩy nhanh sự phát
triển kinh tế và hội nhập nền kinh tế vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Đối với kinh tế Việt Nam, ngoài hiệu quả giải quyết công ăn việc làm,
công nghiệp phụ trợ đóng vai trò rất lớn trong tăng sức cạnh tranh của sản phẩm
công nghiệp chính và đẩy nhanh quá trình CNH - HĐH theo hướng vừa mở rộng
vừa chuyên sâu. Tuy chiếm hơn phân nửa tổng vốn đăng ký đầu tư của cả nước
nhưng hiệu quả đầu tư vào ngành chưa thực sự đạt được kết quả như kỳ vọng và
vẫn còn tồn tại những mảng yếu kém nhất định. Từ đó gây khó khăn trong việc
thu hút đầu tư nước ngoài trong tương lai nếu như tình hình này không được cải
thiện. Hơn nữa, trong bối cảnh Hiệp định Đối tác Thương mại xuyên Thái Bình
Dương (TPP - Hiệp định được coi là hình mẫu cho hợp tác kinh tế khu vực trong
những năm đầu của thế kỷ 21) chính thức được thông qua vào ngày 05/10/2015
càng đặt ra cho nền công nghiệp của Việt Nam nói chung và công nghiệp phụ trợ
nói riêng những cơ hội cũng như thử thách nhất định.
Hiểu được vấn đề này, em đã chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp phụ trợ tại Việt Nam trong bối

cảnh Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương TPP” để nghiên cứu.
2. Đối tượng và mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
- Ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam
- FDI vào Việt Nam
- Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương TPP

1


- Nâng cao hiệu quả thu hút FDI vào ngành công nghiệp phụ trợ Việt
Nam trong bối cảnh TPP.
Mục đích nghiên cứu:
- Hệ thống lại và làm rõ một số vấn đề cơ bản về FDI và ngành CNPT
- Đánh giá tác động của Hiệp định TPP đối tới ngành công nghiệp phụ
trợ của Việt Nam
- Phân tích, đánh giá thực trạng thu hút FDI vào ngành công nghiệp
phụ trợ của Việt Nam
- Đề xuất và định hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả thu hút FDI vào ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về nguồn FDI đầu tư vào các ngành công nghiệp phụ trợ
của Việt Nam từ năm 2010 đến năm 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập và xử lý thông tin: Số liệu, dữ liệu sử dụng trong
nghiên cứu được lấy từ các báo cáo chính thức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
các văn bản của Chính phủ và các ngành, địa phương,… cùng với các thông
tin được đăng tải trên các báo, tạp chí và các trang web như báo đầu tư, cổng
thông tin điện tử Cục đầu tư nước ngoài,… về tình hình đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào Việt Nam

Phương pháp thống kê: từ các số liệu có được thống kê lại các con số
phù hợp với các mục của khóa luận.
Phương pháp tổng hợp: tổng hợp các số liệu, thông tin để được các con
số tuyệt đối, tương đối phù hợp với cấu trúc bài khóa luận.
Phương pháp phân tích, so sánh: từ các số liệu đã tổng hợp được so
sánh phân tích để đối chiếu tình hình thực hiện giữa các năm, các khu vực,
lĩnh vực…
5. Kết cấu của khóa luận

2


Khóa luận được chia thành 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài và ngành công
nghiệp phụ trợ của Việt Nam
Chương 2: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công
nghiệp phụ trợ tại Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp phụ trợ của Việt Nam trong bối
cảnh Hiệp định TPP

3


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ NGÀNH
CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ CỦA VIỆT NAM
1.1. Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct
Investment - FDI)

Vốn là một yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển của các quốc
gia. Đặc biệt đối với những quốc gia đang và kém phát triển, bên cạnh nguồn
vốn trong nước đóng vai trò quyết định, vốn đầu tư nước ngoài là một trong
những nguồn vốn bổ sung quan trọng. Và kinh nghiệm quốc tế cho thấy, trong
các hình thức đầu tư quốc tế thì FDI là một trong những hình thức đầu tư
đóng vai trò quan trọng nhất.
Hiện nay, trên thế giới có khá nhiều các quan điểm, khái niệm về FDI
khác nhau:
Theo Tổ Chức Thương Mại Thế giới (WTO): “Đầu tư trực tiếp nước
ngoài (Foreign Direct Investment - FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một
nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút
đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó”. Như vậy, theo quan điểm này,
phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác.
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund, IMF): “Đầu Tư
Trực Tiếp Nước Ngoài (Foreign Direct Investment - FDI) là một công cuộc
đầu tư ra khỏi biên giới quốc gia, trong đó người đầu tư trực tiếp (direct
investor) đạt được một phần hay toàn bộ quyền sở hữu lâu dài một doanh
nghiệp đầu tư trực tiếp (Direct Investment Enterprise) trong một quốc gia
khác. Quyền sở hữu này tối thiểu phải là 10% tổng số cổ phiếu mới được
công nhận là FDI”.

4


Theo Luật đầu tư năm 2005 của Việt Nam: “Đầu tư trực tiếp là hình
thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu
tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
bỏ vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư
theo quy định của Luật đầu tư Việt Nam”.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực

tiếp nước ngoài như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư
chuyển tiền, các nguồn lực cần thiết đến các không gian kinh tế khác không
thuộc nền kinh tế của quốc gia nhà đầu tư, trực tiếp tham gia tổ chức, quản
lý, điều hành… việc chuyển hóa chúng thành vốn sản xuất, kinh doanh,…
nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận tối đa”.
Vốn trong khái niệm này có thể bao gồm cả tiền và bất kể tài sản nào
được đưa vào sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra sản phẩm hay dịch vụ. Theo
thông lệ quốc tế tài sản có thể hiểu là tài sản hữu hình (máy móc, thiết bị, quy
trình công nghệ, bất động sản, các loại hợp đồng và giấy phép có giá trị,…),
hoặc tài sản vô hình (quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm quản lý,…).
Như vậy, bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Là sự di
chuyển một khối lượng nguồn vốn kinh doanh dài hạn giữa các quốc gia
nhằm thu lợi nhuận tối đa. Đây chính là hình thức xuất khẩu tư bản để thu lợi
nhuận cao hơn cho các nhà đầu tư. Do đi kèm với đầu tư vốn là đầu tư công
nghệ và trí thức kinh doanh nên hình thức này thúc đẩy mạnh mẽ quá trình
công nghiệp hóa - hiện đại hóa trên thế giới.
1.1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Bên cạnh những đặc điểm chung của hoạt động đầu tư, thì FDI còn
mang những đặc điểm rất riêng biệt:
Thứ nhất, FDI là hình thức đầu tư thường bằng vốn của tư nhân do các
chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu

5


trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu
quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh
nặng nợ nần cho nền kinh tế.
Thứ hai, chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư
nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh

nghiệp liên doanh tùy theo tỷ lệ lệ góp vốn của mình. Đối với nhiều nước
trong khu vực, chủ đầu tư chỉ được thành lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư
nước ngoài trong một số lĩnh vực nhất định và chỉ được tham gia với số vốn
cổ phần của bên nước ngoài nhỏ hơn hoặc bằng 49%; 51% cổ phần còn lại do
nước chủ nhà nắm giữ. Trong khi đó, Luật đầu tư của Việt Nam cho phép
rộng rãi hơn đối với hình thức 100% vốn nước ngoài và quy định nhà đầu tư
nước ngoài phải góp vốn tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án.
Thứ ba, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ gắn liền với
việc di chuyển vốn mà còn gắn với việc chuyển giao công nghệ, chuyển giao
kiến thức và kinh nghiệm quản lý, tạo ra thị trường mới cho cả phía đầu tư và
phía nhận đầu tư. Đối với các ngành đòi hỏi trình độ khoa học – công nghệ
cao, chu chuyển vốn nhanh và đem lại lợi nhuận cao thì thường được các nhà
đầu tư nước ngoài ưu tiên đầu tư.
Thứ tư, nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu
của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định và trong quá trình hoạt động, nó
còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án
cũng như vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được.
1.1.3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Từ thập kỷ 80 đến nay, FDI vào các nước phát triển đã có những
chuyển biến về chất, xét cả về động cơ đầu tư cũng như mong muốn của nước
chủ nhà. Nền kinh tế thế giới phát triển theo hướng toàn cầu hoá và các nước
đều nhận thức được tính tất yếu của sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế. FDI trở

6


thành một yếu tố quan trọng trong tăng trưởng và phát triển kinh tế của tất cả
các quốc gia. Ảnh hưởng của FDI tới nước đầu tư và nước nhận đầu tư là
khác nhau, thậm chí từng ngành, từng doanh nghiệp cũng khác nhau, không
theo một khuôn mẫu chung nhất.

1.1.3.1. Tác động của FDI đối với nước đầu tư
Thứ nhất, FDI giúp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tăng cường
bành trướng sức mạnh kinh tế và vai trò ảnh hưởng trên thế giới. Việc xây
dựng các nhà máy sản xuất, chế tạo hoặc lắp ráp ở nước sở tại sẽ mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm của công ty mẹ ở nước ngoài, đồng thời còn là biện
pháp thâm nhập thị trường hữu hiệu, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch
của các nước.
Thứ hai, FDI giúp các Công ty nước ngoài giảm chi phí sản xuất, rút
ngắn thời gian thu hồi vốn đầu tư và thu lợi nhuận cao. Do sự phát triển
không đồng đều về trình độ phát triển sản xuất và mức sống, thu nhập... giữa
các nước nên đã tạo ra chênh lệch về điều kiện và giá cả các yếu tố đầu vào
của sản xuất. Do đó, đầu tư ra nước ngoài cho phép lợi dụng các chênh lệch
này để giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận. Các nước đang phát triển thường
có lợi thế về chi phí nguyên vật liệu rẻ và chi phí lao động thấp nên sẽ thu hút
được FDI vào các ngành sản xuất, chế biến nguyên vật liệu và các ngành đòi
hỏi nguồn nhân lực lớn như các ngành lắp ráp, dệt may.
Thứ ba, FDI giúp các chủ đầu tư tìm kiếm được các nguồn cung cấp
nguyên, nhiên liệu ổn định. Mục tiêu của nhiều dự án đầu tư nước ngoài tìm
kiếm nguồn nguyên liệu, nhiên liệu phục vụ cho nhu cầu phát triển sản xuất,
kinh doanh của các chủ đầu tư, chẳng hạn thăm dò khai thác dầu khí, khoáng
sản, tài nguyên biển, rừng, sản phẩm công nghiệp,... Nguồn tài nguyên của
các nước đang phát triển nhưng không có điều kiện khai thác, chế biến do
thiếu vốn, công nghệ. Do đó, đầu tư vào các lĩnh vực này sẽ thu được nguyên
liệu thô với giá rẻ và qua chế biến sẽ có lợi nhuận cao.

7


Thứ tư, FDI giúp các nhà đầu tư nước ngoài đổi mới cơ cấu sản xuất,
áp dụng công nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh. Do các nhà đầu tư

nước ngoài thường chuyển những máy móc, công nghệ đã lạc hậu so với trình
độ chung của thế giới để đầu tư sang nước khác. Điều đó, một mặt giúp các
chủ đầu tư thực chất bán được máy móc cũ để thu hồi vốn nhằm đổi mới thiết
bị công nghệ; kéo dài được chu kì sống của sản phẩm của hãng ở các thị
trường mới; di chuyển máy móc gây ô nhiễm môi trường ra nước ngoài và
trong nhiều trường hợp còn thu được đặc lợi do chuyển giao công nghệ đã lạc
hậu đối với chủ đầu tư nước ngoài.
1.1.3.2. Tác động của FDI đối với các nước nhận đầu tư
Cả nước phát triển và đang phát triển khi tiếp nhận FDI đều tồn tại
những mặt tích cực và tiêu cực.
1.1.3.2.1. Đối với nước phát triển tiếp nhận FDI
Cái được lớn nhất của quốc gia này khi tiếp nhận FDI chính là nền kinh
tế giờ đây có sức cạnh tranh mới bởi các cơ sở kinh tế FDI. Đây thực sự là
động lực cho sự phát triển của những nền kinh tế lâu nay chỉ bao gồm nhưng
cơ sở kinh tế quốc nội với sự độc quyền cao và kéo theo là tình trạng trì trệ
trong sản xuất kinh doanh. . FDI còn tạo điều kiện tăng thu ngân sách dưới
hình thức các loại thuế để cải thiện tình hình bội chi ngân sách, tạo ra môi
trường cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển kinh tế và thương mại, giúp người
lao động và cán bộ quản lý học hỏi kinh nghiệm quản lý của các nước khác.
1.1.3.2.2. Đối với các nước đang phát triển tiếp nhận FDI
Thứ nhất, bổ sung một lượng vốn đầu tư lớn, giúp nền kinh tế phát triển
theo chiều rộng. FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sự thiếu
hụt về vốn ngoại tệ của các nước nhận đầu tư, đặc biệt là đối với các nước
kém phát triển. Các dự án FDI được triển khai sẽ trở thành các cơ sở kinh tế
của nước sở tại, chúng được ví như là “chiếc đũa thần” đánh thức các tiềm

8


năng, lợi thế sẵn có của quốc gia về tài nguyên khoáng sản, đất đai, rừng,

biển, nguồn nhân lực,… và kết hợp chúng lại để tạo ra nhiều sản phẩm cho xã
hội, tăng GDP, phát triển kinh tế.
Thứ hai, nâng cao năng lực cạnh tranh, giúp nền kinh tế phát triển theo
chiều sâu và ngày càng có điều kiện hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới. FDI không chỉ là đầu tư một lượng tiền vốn, mà còn kèm theo là kĩ thuật
công nghệ và trình độ quản lý. Vì các cơ sở kinh tế FDI có công nghệ tiên
tiến, hiện đại hơn, trình độ kỹ thuật, quản lý tốt hơn làm cho sản phẩm được
sản xuất ra theo một quy trình chuyên nghiệp, có chất lượng tốt hơn, phù hợp
với nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng. Đồng thời cũng để cho nước tiếp nhận
đầu tư có cơ hội tiếp thu công nghệ hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến.
Thứ ba, FDI tạo nguồn thu ngân sách . Đối với nhiều nước đang phát
triển, hoặc đối với nhiều địa phương, thuế do các xí nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài nộp là nguồn thu ngân sách quan trọng.
Thứ tư, FDI góp phần tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công.
Việc thành lập hay không thành lập doanh nghiệp FDI đều giúp cải thiện tình
trạng thất nghiệp tại nước nhận đầu tư. Một trong những mục đích của FDI là
khai thác các điều kiện để đạt được chi phí sản xuất thấp, nên doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuê mướn nhiều lao động địa phương. Từ đó,
thu nhập của người dân được cải thiện, đóng góp tích cực vào tăng trưởng
kinh tế, đồng thời nâng cao kỹ thuật, trình độ tay nghề nhằm đáp ứng yêu cầu
phát triển.
Thứ năm, FDI thúc đẩy kinh tế trong nước tham gia mạng lưới sản xuất
toàn cầu. Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ xí nghiệp có
vốn đầu tư của công ty đa quốc gia, mà ngay cả các xí nghiệp khác trong nước
có quan hệ làm ăn với xí nghiệp đó cũng sẽ tham gia quá trình phân công lao
động khu vực. Chính vì vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng
lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu.

9



Tuy nhiên, ngoài những tác động tích cực nêu trên, dòng vốn FDI cũng
có những tác động tiêu cực tới nước tiếp nhận như:
Tiếp nhận công nghiệp lạc hậu: Do FDI không chỉ là đầu tư một lượng
tiền vốn, mà còn kèm theo là kĩ thuật công nghệ, nên nguy cơ trờ thành bãi
rác thải công nghiệp là rất lớn, nếu không có các biện pháp giám sát, kiểm
soát, kiểm định chất lượng. Kèm theo nhiều khả năng gây ô nhiễm môi trường
cho nước nhận đầu tư tạo ra các hậu quả khó mà phục hồi được.
Cạnh tranh khốc liệt: Xét về khía cạnh cạnh tranh thì các doanh nghiệp
trong nước thường có tính cạnh tranh kém hơn so với các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài do thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm và trình độ quản lý.
Do vậy trong cuộc chiến giành thị phần các doanh nghiệp trong nước thường
là người thua cuộc dẫn đến hoạt động kém hiệu quả hoặc phá sản khiến tình
trạng thất nghiệp tăng. Ngoài ra đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể làm tăng
tình trạng phân hóa giàu nghèo, sự di dân ồ ạt từ nông thôn lên thành thị gây
ra sự xáo trộn xã hội.
Suy kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên: Trước tình trạng khai thác tài
nguyên một cách ồ ạt để phục vụ cho sản xuất, nếu Nhà nước không có những
biện pháp ngăn chặn, tái tạo sẽ khiến nguồn tài nguyên suy giảm nhanh
chóng, gây nên những hậu quả khôn lường cả trước mắt và lâu dài cho nền
kinh tế.
Tạo cơ cấu bất hợp lý: Mục đích của nhà đầu tư là lợi nhuận. Do đó
những ngành, lĩnh vực, dự án có tỷ suất lợi nhuận cao đều được các nhà đầu
tư quan tâm còn các dự án, lĩnh vực mặc dù rất cần thiết cho dân sinh nhưng
không đưa lại lợi nhuận thỏa đáng thì không thu hút được vốn đầu tư. Các nhà
đầu tư nước ngoài trong khi lựa chọn địa điểm để triển khai dự án đầu tư
thường tập trung vào những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao, tại nơi có kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi, nền kinh tế phát triển, trình độ dân trí cao.

10



Trong khi đó, các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, những địa phương cần
được đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, mặc dù Chính phủ và địa phương có
phần ưu đãi hơn nhưng không được các nhà đầu tư quan tâm. Tình trạng này
dẫn đến một nghịch lý, những ngành nghề, địa phương có trình độ phát triển
cao thì thu hút được đầu tư nước ngoài nhiều, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế
vượt qua tốc độ tăng trưởng trung bình của cả nước. Trong khi đó, những
vùng có trình độ kém phát triển thì có ít dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, tốc
độ tăng trưởng vẫn thấp.
1.2. Tổng quan về ngành CNPT của Việt Nam
1.2.1. Khái niệm và sự hình thành ngành CNPT của Việt Nam
Khái niệm CNPT còn được định nghĩa rất khác nhau, chưa có một định
nghĩa thống nhất về lĩnh vực này. Tùy theo tình hình cụ thể và đặc thù của
từng quốc gia, khái niệm về CNPT có những khác biệt nhất định.
Xét về quy mô thì CNPT là một khu vực công nghiệp rộng lớn, bao
gồm nhiều ngành, nhiều loại hình doanh nghiệp và chiếm phần chủ yếu của
giá trị gia tăng sản xuất công nghiệp, được ví như chân núi cho một nền công
nghiệp bền vững. Tùy vào chiến lược phát triển của mỗi quốc gia, vùng lãnh
thổ, tùy vào năng lực nội tại và bối cảnh phát triển mà khu vực CNPT được
chú trọng ưu tiên phát triển, kéo theo khu vực Công nghiệp lắp ráp phát triển
tương ứng.
Từ những công đoạn của quá trình sản xuất: Chế tạo vật liệu; Sản xuất
gia công phụ tùng, linh kiện; Lắp ráp hoàn chỉnh, CNPT được hiểu là ngành
công nghiệp cung cấp các linh kiện máy móc và các dịch vụ kiểm tra, đóng
gói cho các ngành công nghiệp cơ bản và nhấn mạnh rằng các bộ phận kim
loại và công nghiệp chế tạo, sản xuất phụ tùng ô tô, phụ tùng điện, điện tử là
những ngành CNPT quan trọng. CNPT không phải là một ngành cụ thể mà
bao hàm toàn bộ những lĩnh vực sản xuất sản phẩm trung gian (linh kiện, bộ
phận) cung cấp cho ngành lắp ráp.


11


Tóm lại, CNPT được hiểu là khu vực công nghiệp trợ giúp cho việc
hoàn thành sản phẩm cuối cùng thông qua việc cung cấp các chi tiết, linh
kiện và các sản phẩm hàng hóa dịch vụ trung gian khác.
Một cách tổng quát, quá trình hình thành và phát triển của ngành CNPT
tại Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển khác diễn ra như sau: Hệ
thống các nhà cung cấp bắt đầu được hình thành và phát triển mạnh khi hệ
thống sản xuất theo kiểu mạng lưới nhiều hấp dẫn chiếm ưu thế. Chẳng hạn,
trong lĩnh vực công nghiệp xây dựng, mỗi nhà sản xuất tại Việt Nam đều
đang từng bước tự thiết lập cho mình một mạng lưới các nhà sản xuất và cung
cấp các linh kiện, dịch vụ cần thiết trong quá trình hoạt động của mình.
Những nhà sản xuất linh kiện này từ chỗ chỉ cung cấp một nhà sản xuất với
một loại sản phẩm cụ thể, đang từng bước làm chủ công nghệ và phát triển
sản xuất ra những sản phẩm khác. Dần dần, những nhà sản xuất này tạo ra
một hệ thống những nhà cung cấp linh kiện, phụ kiện đầu vào cho mình. Lợi
thế về quy mô với hệ thống tích hợp hàng ngang được các nhà sản xuất phát
triển và dần dần thay thế hệ thống tích hợp hàng dọc.
Hiện nay, không chỉ tại Việt Nam mà còn nhiều nước khác trên thế
giới, hệ thống những nhà cung cấp các sản phẩm hỗ trợ thực sự đã trở thành
một nhân tố quan trọng tạo nên lợi thế cạnh tranh của các nhà sản xuất, và là
một yêu cầu không thể thiếu của những nhà sản xuất khi mở rộng sản xuất ra
một địa điểm mới. Chính vì vậy, các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư tại Việt
Nam rất coi trọng và quan tâm đến việc xây dựng một hệ thống các nhà cung
cấp linh kiện, phụ kiện đầu vào phát triển đáp ứng được nhu cầu của họ.
Chính vì vậy, có thể nói việc hình thành và phát triển hệ thống cung cấp linh
kiện trở thành mối quan tâm rất lớn không chỉ của các doanh nghiệp sản xuất
trong nước mà còn của cả chính phủ Việt Nam trong quá trình thúc đẩy sản

xuất của các doanh nghiệp.

12


1.2.2. Đặc điểm của ngành CNPT
CNPT là khu vực công nghiệp trợ giúp cho việc hoàn thành sản phẩm
cuối cùng thông qua việc cung cấp các chi tiết, linh kiện và các sản phẩm
hàng hóa dịch vụ trung gian khác. Do đó CNPT mang những đặc điểm đặc
thù riêng biệt sau:
Thứ nhất là sản xuất dưới quy mô nhỏ, nên thường được thực hiện bởi
các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các sản phẩm CNPT có vai trò phụ trợ cho
việc sản xuất các thành phẩm chính, cụ thể gồm các linh kiện, phụ tùng, phụ
liệu, bao bì và gồm cả những sản phẩm trung gian, những nguyên liệu sơ
chế.
Thứ hai là tham gia vào nhiều vị trí khác nhau trong chuỗi giá trị
sản xuất ra sản phẩm cuối cùng. Các doanh nghiệp tham gia CNPT nằm ở
các vị trí khác nhau trong chuỗi giá trị sản xuất ra sản phẩm cuối cùng.
Trong chuỗi giá trị này, các nhà cung cấp được phân loại theo cấp độ và vị
trí họ tham gia vào hệ thống. Đứng đầu là các nhà lắp ráp các sản phẩm
cuối cùng, tiếp đó là các nhà cung cấp cấp 1, cấp 2, cấp 3 và hơn nữa. Các
nhà cung cấp ở các cấp khác nhau sẽ khác nhau về quy mô sản xuất, về sở
hữu, công nghệ, về quản lý, khách hàng và mối quan hệ với khách hàng.
Thứ ba là các doanh nghiệp phụ trợ có mối liên kết chặt chẽ. Nằm
trong chuỗi giá trị, các doanh nghiệp trong CNPT có mối quan hệ liên kết với
nhau trong quy trình sản xuất. Sự phát triển của các doanh nghiệp mua linh
kiện tạo nhu cầu và kích thích sự phát triển của nhà cung cấp. Ngược lại, sự
phát triển của các nhà cung cấp tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, đem
lại lợi thế cạnh tranh cho những doanh nghiệp mua linh kiện, kích thích sự
phát triển của đối tượng này.

Thứ tư là đa dạng về công nghệ sản xuất. Sự đa dạng về công nghệ sản
xuất trong CNPT xuất phát từ đòi hỏi sản xuất các loại linh kiện phong phú

13


để có được sản phẩm cuối cùng. Với các sản phẩm có độ phức tạp như ô
tô, hàng chục nghìn linh kiện của một chiếc xe đòi hỏi vô số công nghệ, liên
quan đến hầu hết các lĩnh vực sản xuất, từ sản xuất cao su, nhựa cho tới gia
công cơ khí, điện tử điều khiển chính xác. Giá trị gia tăng của việc sản xuất
các linh kiện, các quy trình cũng khác nhau rất nhiều. Nhiều bộ phận tinh xảo
có giá trị gia tăng lớn, đòi hỏi kỹ thuật sản xuất, công nghệ rất cao như những
bộ điều khiển, điện tử, máy móc mà chỉ những nhà cung cấp lớn mới có thể
đáp ứng. Ngược lại, có những sản phẩm, chi tiết đòi hỏi kỹ thuật sản xuất
không quá khó có thể mua sắm từ các nà cung cấp thấp để lắp ráp thành
những cụm linh kiện.
1.2.3. Vai trò của ngành CNPT đối với nền kinh tế
1.2.3.1. Nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm cuối cùng
CNPT có vai trò rất quan trọng trong ngành công nghiệp của mỗi quốc
gia, ngoài việc tạo nhiều công ăn việc làm, thu hút lao động dư thừa, CNPT
tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chính và đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa theo hướng vừa mở cửa, vừa thâm sâu.
Mặt khác nếu không có một khu vực CNPT có tính liên kết cao thì các
doanh nghiệp, nhất là các tập đoàn kinh tế lớn buộc phải tự phát triển hệ
thống CNPT riêng cho mình và như vậy sẽ kéo theo một cuộc chạy đua đầu tư
“khép kín” trong từng doanh nghiệp, lãng phí đầu tư, rủi ro rất cao, hiệu quả
thấp. Chính hệ thống CNPT sẽ là cơ sở để tái cấu trúc lại nền công nghiệp với
ý nghĩa là tái cơ cấu các ngành, cơ cấu quy mô, tái cơ cấu bản thân doanh
nghiệp, đặc biệt là một quan hệ kinh doanh mới theo “nguyên tắc hợp đồng”
sẽ dần hoàn thiện.

1.2.3.2. Là nền tảng của công nghiệp lắp ráp và chế tạo
CNPT tạo cơ sở cho việc tái cơ cấu nền công nghiệp theo hướng bền
vững. CNPT không phát triển sẽ làm cho các công ty lắp ráp và những công

14


ty sản xuất thành phẩm cuối cùng khác sẽ phải phụ thuộc nhiều vào nhập
khẩu. Việc nhập khẩu linh phụ kiện để đáp ứng nhu cầu sản xuất trong nước
không những khiến cho các doanh nghiệp phải chịu một chi phí đầu vào cao
mà còn khiến cán cân thương mại của nước đó bị thâm hụt. Đó còn chưa nói
về tiến độ, thời gian nhận hàng nhập khẩu. Công ty đa quốc gia sẽ gặp khó
khăn trong việc quản lý dây chuyền cung cấp nếu phải nhập khẩu phần lớn
linh kiện, bộ phận và các sản phẩm CNPT khác.
Nếu một quốc gia phải phụ thuộc vào linh kiện nhập khẩu từ nước
ngoài thì ngành công nghiệp chế tạo của quốc gia đó cũng chỉ là một ngành
gia công lắp ráp đơn thuần. CNPT có vai trò nền móng vững chắc tạo đà cho
các ngành công nghiệp chế tạo phát triển, nâng cao nội lực cho nền công
nghiệp quốc gia, tạo thế chủ động cho việc hội nhập kinh tế quốc tế thế giới.
1.2.3.3. Tăng cường thu hút FDI vào phát triển công nghiệp
Thực tế chứng minh một quốc gia có nền CNPT phát triển sẽ nâng cao
hiệu quả sản xuất, đồng thời còn tạo môi trường đầu tư tốt nhằm tăng cường
thu hút FDI vào phát triển công nghiệp trong nước. Các nhà đầu tư nước
ngoài trước khi tiến hành đầu tư vào bất cứ quốc gia nào thì cũng muốn biết
tại nước sở tại họ có thể có những mối quan hệ hợp tác nào, có các doanh
nghiệp vệ tinh nào khi quyết định đầu tư ở đây.
Một khi các doanh nghiệp trong ngành CNPT chưa đáp ứng được yêu
cầu của nhà đầu tư nước ngoài thì nhà đầu tư còn phải chịu trách nhiệm cả việc
nhập các linh kiện và thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào ngành này.
Điều này dẫn đến các nhà đầu tư e ngại khi quyết định tiến hành cải cách kinh

doanh tại quốc gia đó. Bản thân các tập đoàn và các công ty lớn về lắp ráp hiện
cũng chỉ giữ trong quy trình của mình các khâu nghiên cứu, phát triển sản phẩm
và lắp ráp thay vì tất cả trọn gói trong một công ty hay nhà máy. Do đó, muốn
thu hút FDI thì CNPT phải đi tiên phong, tạo nền tảng cho cơ sở hạ tầng để cung

15


ứng các sản phẩm đầu vào cần thiết cho các ngành công nghiệp.
1.2.3.4. Giúp chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI
CNPT là khu vực chuyển giao, tiếp nhận nhanh công nghệ mới, đồng
thời là khu vực mà lao động thực sự được khuyến khích sáng tạo. Khu vực
CNPT là nơi thúc đẩy người lao động phải thành thạo nghề nghiệp, phải sáng
tạo không ngừng để cạnh tranh, chen chân được vào chuỗi cung ứng cho các
nhà lắp ráp.
1.2.3.5. Là công cụ cho quá trình hội nhập của nền công nghiệp quốc gia
CNPT còn là một công cụ cho quá trình hội nhập về mặt chất của nền
công nghiệp một quốc gia. Nếu phân chia một cách đơn giản quá trình hội
nhập thành hai khu vực: Một là hội nhập trên thị trường hàng hoá, mà cơ bản
là việc chúng ta mang hàng hoá cùng chen chân, cạnh tranh trên thị trường
theo các định chế ràng buộc thì ở khu vực thứ hai, khu vực quan trọng hơn,
quyết định hơn là hội nhập từ trong quá trình hợp tác sản xuất, nhất là sản
xuất công nghiệp. Đây là sự hội nhập căn bản, nó quyết định đến sự hội nhập
bền vững, vai trò quan trọng đó cũng chính là của CNPT.
1.3. Mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và sự phát triển
của ngành CNPT tại Việt Nam
1.3.1. Tác động của CNPT với luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào Việt Nam
1.3.1.1. Tăng cường thu hút FDI
Bên cạnh các yếu tố quyết định đầu tư như là tình hình chính trị, chi

phí nhân công và quy mô thị trường nội địa, CNPT còn đóng vai trò là một
nhân tố quan trọng để thu hút FDI. Khi các nhà đầu tư nước ngoài quyết định
đầu tư, họ không chỉ quan tâm đến chi phí lao động giá rẻ tại nước sở tại mà
còn quan tâm nhiều đến chi phí đầu vào cho sản xuất. Khi CNPT càng phát
triển, khả năng đáp ứng nhu cầu về sản phẩm làm đầu vào cho doanh

16


nghiệp FDI của chủ đầu tư tại thị trường nội địa càng cao, tạo nên môi
trường đầu tư hấp dẫn thì vốn FDI theo đó sẽ tăng lên.
1.3.1.2. Khuếch đại ảnh hưởng tích cực của FDI
CNPT phát triển làm tăng tính liên kết giữa các ngành sản xuất
công nghiệp. CNPT không phải là ngành công nghiệp chỉ cung cấp các sản
phẩm, các loại linh kiện, phụ tùng … cho một ngành công nghiệp nhất định
mà nó có thể cung cấp cho nhiều ngành. Ví dụ như CNPT cơ khí có thể
cung cấp nguyên vật liệu, linh kiện, phụ tùng cho các ngành như ô tô, xe
máy, điện tử… Từ đó, sự phát triển của CNPT gắn liền với các ngành công
nghiệp sản xuất, lắp ráp và tạo sự liên kết giữa các ngành tưởng chừng như
không liên quan.
Tăng tính chủ động về sản phẩm trung gian trong sản xuất cho các
doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp FDI. Khi các ngành CNPT đã phát triển tại
nước sở tại, các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp không còn phụ thuộc quá
nhiều về việc nhập khẩu các nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất vì
các nguyên liệu đầu vào đó đã được cung cấp ngay tại nước sở tại.
Giảm chi phí trung gian so với trường hợp nhập khẩu. Thay vì nhập
khẩu, các doanh nghiệp FDI thu mua các sản phẩm đầu vào tại nước sở tại,
không phải mất thêm chi phi vận chuyển, bảo hiểm làm tăng giá thành các
nguyên liệu đầu vào.
Các doanh nghiệp FDI thường có năng suất lao động cao và đóng góp

không nhỏ vào tăng cường GDP nói riêng và sự phát triển của toàn xã hội nói
chung tại các nước đang phát triển. Điều này có thể giải thích là do FDI chủ
yếu là đầu tư tư nhân nên các chủ đầu tư luôn cố gắng quản lý và vận hành
doanh nghiệp một cách tốt nhất để tối đa hóa lợi nhuận. Đối với các doanh
nghiệp lắp ráp FDI hoạt động tại nước nhận đầu tư thì các doanh nghiệp này
không chỉ đóng góp trực tiếp vào tăng trưởng GDP mà các ngành này còn là

17


động lực thúc đẩy ngành CNPT nội địa phát triển do nhu cầu sản phẩm của
ngành này tăng lên và công nghệ mới mà các doanh nghiệp FDI chuyển vào.
1.3.2. Tác động của FDI đến sự phát triển của CNPT tại Việt Nam
Không ai có thể phủ nhận FDI là một nguồn vốn quan trọng đối với sự
phát triển của một quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Nhưng như đã
trình bày ở trên, FDI mang lại cho nước nhận đầu tư nhiều lợi ích khác nữa.
Nếu như ngày càng có nhiều các doanh nghiệp lắp ráp hay chế tạo FDI vào
Việt Nam thì đó là cơ hội tốt để ngành CNPT phát triển vì khi đó nhu cầu sản
phẩm phụ trợ tăng lên. Hơn nữa, yêu cầu của các doanh nghiệp FDI về chất
lượng, dịch vụ sản phẩm phụ trợ rất cao, các doanh nghiệp phụ trợ muốn cung
cấp cho các doanh nghiệp FDI thì họ phải nỗ lực nâng cao chất lượng sản
phẩm cũng như dịch vụ của mình.
Các doanh nghiệp nội địa có lợi thế về khoảng cách, có lợi thế về giá cả
(vì không chịu thuế nhập khẩu như trường hợp các FDI nhập khẩu bộ phận),
vì thế nếu như doanh nghiệp có thể đáp ứng được yêu cầu về chất lượng cũng
như số lượng mà doanh nghiệp FDI yêu cầu thì chắc chắn các doanh nghiệp
FDI sẽ chọn sản phẩm phụ trợ nội địa vì giá cả cạnh tranh hơn. Ngoài ra, nếu
như một doanh nghiệp lắp ráp hay chế biến FDI vào Việt Nam thì chắc chắn
sẽ cần phải có rất nhiều các doanh nghiệp phụ trợ nội địa khác đóng vai trò
như những vệ tinh xung quanh cung cấp đầu vào cho họ nên có thể nói FDI

có khả năng khuếch đại sự phát triển của CNPT theo cấp số nhân.
1.4. Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) và tác
động đối với ngành CNPT của Việt Nam
1.4.1. Tổng quan về Hiệp định TPP
Hiệp định TPP (Trans – Pacific Strategic Economic Partnership
Agreement) là Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương. Do lúc đầu
chỉ có 4 nước tham gia nên còn được gọi là P4. Hiệp định này khởi nguồn là
Hiệp định Đối tác kinh tế chặt chẽ hơn do nguyên thủ 3 nước Chile,

18


Newzeland và Singapore (P3) phát động đàm phán nhân dịp Hội nghị cấp cao
APEC 2002 tổ chức tại Mexico. Tháng 4 năm 2005, Brunei xin gia nhâp với
tư cách thành viên sang lập trước khi vòng đàm phán cuối cùng kết thúc, biến
P3 thành P4. Đây là Hiệp định mang tính “mở”. Tuy không phải là chương
trình hợp tác trong khuôn khổ APEC nhưng các thành viên APEC đều có thể
gia nhập nếu quan tâm. Singapore đã nhiều lần thể hiện mong muốn mở rộng
TPP và sử dụng TPP như một công cụ để thực hiện hóa ý tưởng về Khu vực
Mậu dịch tự do Châu Á-Thái Bình Dương của APEC (FTAAP).
Hiệp định TPP mở rộng và sự tham gia của Việt Nam
Tháng 9 năm 2008, Mỹ tuyên bố tham gia TPP. Tiếp theo đó là
Australia, Việt Nam, Malaysia, Peru (2010), Mexico, Canada (2012). Nhật
Bản chính thức xin gia nhập vào ngày 15/3/2013. Như vậy tổng cộng có 12
nước tham gia đàm phán, có dân số hơn 750 triệu người và sản lượng kinh tế
chung khoảng 25 ngàn tỷ đôla, tương đương 40% GDP toàn cầu. Ngày
5/10/2014, Hiệp định TPP đã được 12 nước hoàn tất đàm phán và thông qua
tuyên bố chung Atlanta. Sự kiện này đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong
quá trình thương thuyết giữa các quốc gia và TPP được kỳ vọng sẽ trở thành
một khuôn khổ thương mại toàn diện, có chất lượng cao và là khuôn mẫu cho

các Hiệp định thế kỷ 21.
Phạm vi của Hiệp định sẽ bao gồm hầu hết các lĩnh vực có liên quan tới
thương mại, trong đó có nhiều lĩnh vực mới như môi trường, lao động, các vấn
đề xuyên suốt liên quan đến thương mại như chuỗi cung ứng, doanh nghiệp vừa
và nhỏ v.v… Ngoài các nội dung đàm phán mang tính truyền thống trong các
FTA trên, các quốc gia thành viên còn tập trung thảo luận nhiều đề xuất và biện
pháp để thúc đẩy hợp tác trong các vấn đề liên quan tới hoạch định chính sách,
tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, phát triển chuỗi cung cấp và sản xuất giữa các
nước thành viên, nâng cao sự tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào quá

19


trình lưu thông hàng hóa giữa các quốc gia thành viên TPP, cũng như thúc đẩy
sự phát triển chung của các quốc gia thành viên.
Mục tiêu chính của TPP là xóa bỏ các loại thuế và rào cản cho hàng
hóa, dịch vụ xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên. TPP còn thống nhất
nhiều luật lệ, quy tắc chung giữa các nước như: sở hữu trí tuệ, chất lượng thực
phẩm, hay an toàn lao động… tạo “cú hích” phát triển mới cho mỗi thành
viên. TPP sẽ xác lập luật lệ cho thương mại và đầu tư trong thế kỷ 21 cũng
như tạo ra những biến chuyển lớn về kinh tế, thương mại và cả pháp lý tại 12
quốc gia thành viên. TPP sẽ trở thành một trong những con đường chính để
điều hành kinh tế toàn cầu. TPP gồm 29 chương, trong đó có 5 chương trực
tiếp liên quan đến vấn đề trao đổi hàng hóa, dịch vụ. Các chương còn lại đề
cập nhiều vấn đề liên quan đến các chuẩn mực, tiêu chuẩn khác nhau về môi
trường, chất lượng lao động, luật lệ, tài chính, thực phẩm và dược phẩm…
1.4.2. Nội dung nổi bật của Hiệp Định TPP
1.4.2.1. Về Thương mại hàng hóa
Các bên tham gia TPP nhất trí xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan và các
hàng rào phi thuế quan đối với hàng hóa công nghiệp và xóa bỏ hoặc cắt giảm

thuế quan cũng như các chính sách mang tính hạn chế khác đối với hàng hóa
nông nghiệp. Việc tiếp cận mang tính ưu đãi thông qua Hiệp định TPP sẽ làm
gia tăng thương mại giữa các nước TPP với thị trường gồm 800 triệu dân và
sẽ hỗ trợ cho việc làm chất lượng cao tại tất cả 12 nước thành viên.
Bên cạnh việc xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan, các bên TPP nhất trí
thúc đẩy cải cách về mặt chính sách, bao gồm cả việc thông qua xóa bỏ trợ
cấp xuất khẩu nông nghiệp, hợp tác trong WTO để xây dựng các quy định về
tín dụng xuất khẩu và giới hạn khoảng thời gian cho phép áp dụng các hạn
chế đối với xuất khẩu lương thực nhằm bảo đảm hơn nữa an ninh lương thực
trong khu vực. Các bên tham gia TPP nhất trí nâng cao tính minh bạch hóa

20


liên quan đến việc vận hành doanh nghiệp thương mại nhà nước xuất khẩu và
đưa ra các quy định hạn chế việc cấp vốn ưu đãi từ Chính phủ hoặc các chính
sách khác gây bóp méo thương mại nông sản, cũng như yêu cầu về minh bạch
hóa và phối hợp trong các hoạt động cụ thể liên quan đến công nghệ sinh học
nông nghiệp và nông nghiệp hữu cơ.
1.4.2.2. Về quy tắc xuất xứ
Để khắc phụ những trở ngại của quy tắc xuất xứ gây nên doanh nghiệp
trong việc tận dụng các FTA trước đó trong khu vực, thúc đẩy chuỗi cung ứng
khu vực và bảo đảm rằng các nước TPP sẽ là những người hưởng lợi chính
của Hiệp định hơn là các nước không phải là thành viên, 12 nước thành viên
TPP đã thống nhất về một bộ quy tắc xuất xứ chung để xác định một hàng hóa
cụ thể “có xuất xứ” và do vậy được hưởng thuế quan ưu đãi trong TPP. Quy
tắc xuất xứ cụ thể theo mặt hàng được quy định kèm theo lời văn của Hiệp
định. Hiệp định TPP quy định về “cộng gộp” để các nguyên liệu đầu vào từ
một bên TPP được đối xử như những nguyên liệu từ một bên khác nếu được
sử dụng để sản xuất ra một sản phẩm tại bất kỳ một bên TPP. Các bên tham

gia TPP cũng đưa ra các quy tắc để bảo đảm rằng doanh nghiệp có thể hoạt
động một cách dễ dàng xuyên khu vực TPP thông qua việc thiết lập một hệ
thống chung trên toàn TPP về chứng minh và kiểm tra xuất xứ của hàng hóa
TPP. Các nhà nhập khẩu sẽ có thể yêu cầu được hưởng ưu đãi về xuất xứ với
điều kiện họ có các chứng từ chứng minh.
1.4.2.3. Về đầu tư
TPP quy định sự bảo hộ đầu tư cơ bản như trong các hiệp định thương
mại khác, bao gồm: đối xử quốc gia; đối xử tối huệ quốc; “tiêu chuẩn đối xử
tối thiểu” đối với đầu tư trên cơ sở tập quán luật thương mại quốc tế; nghiêm
cấm việc trưng thu không vì mục đích công cộng, không theo quy trình thủ
tục và không có bồi thường. Tự do chuyển tiền liên quan đến đầu tư với các

21


ngoại lệ trong Hiệp định TPP nhằm đảm bảo cho các Chính phủ giữ quyền
linh hoạt quản lý các dòng vốn không ổn định, bao gồm thông qua biện pháp
tự vệ tạm thời không phân biệt đối xử (chẳng hạn như kiểm soát vốn) nhằm
hạn chế việc chuyển tiền liên quan đến đầu tư trong trường hợp khủng hoảng
hoặc có nguy cơ khủng hoảng cán cân thanh toán, và các cuộc khủng hoảng
kinh tế khác hoặc để đảm bảo sự toàn vẹn và ổn định của hệ thống tài chính;
nghiêm cấm “các yêu cầu thực hiện” chẳng hạn như yêu cầu về hàm lượng
nội địa hoặc tỷ lệ nội địa hóa công nghệ; và tự do bổ nhiệm các vị trí quản lý
cấp cao mà không quan tâm đến quốc tịch.
1.4.2.4. Về sở hữu trí tuệ
Vấn đề Sở hữu trí tuệ (IP) trong TPP điều chỉnh các lĩnh vực về bằng
sáng chế, nhãn hiệu, bản quyền, bí mật thương mại, các hình thức khác của
quyền sở hữu trí tuệ, và việc thực thi các quyền về sở hữu trí tuệ, cũng như
các lĩnh vực mà các thành viên đồng ý hợp tác.
TPP xây dựng tiêu chuẩn cho bằng sáng chế, lấy từ Hiệp định TRIPS

của WTO và những thông lệ quốc tế tốt nhất. Về nhãn hiệu, TPP làm rõ và
củng cố việc bảo vệ tên nhãn hiệu và những dấu hiệu khác mà các doanh
nghiệp và cá nhân sử dụng để phân biệt sản phẩm của họ trên thị trường. Tiêu
chuẩn về sở hữu trí tuệ sẽ tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các doanh nghiệp
trong việc tìm kiếm, đăng ký và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ở các thị trường
mới, và đây là điều rất cần thiết cho các doanh nghiệp nhỏ.
Bên cạnh đó, TPP cũng đưa ra những điều khoản thích hợp liên quan
đến dược phẩm tạo điều kiện cho cả việc phát triển các loại thuốc cứu sinh
mới cũng như việc phổ biến các loại thuốc thông dụng, có tính đến thời gian
từng thành viên cần để đáp ứng được các tiêu chuẩn này.
Cuối cùng, các thành viên TPP đồng ý cung cấp các hệ thống chế tài
mạnh, bao gồm cả những quy trình thủ tục dân sự, các biện pháp tạm thời, các

22


×