Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Hoạt động của chính quyền xã từ thực tiễn huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

---/---

---/---

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN VĂN SỸ

HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN XÃ –
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VĂN LÂM,
TỈNH HƢNG YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

---/---

---/---

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA


NGUYỄN VĂN SỸ

HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN XÃ –
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VĂN LÂM,
TỈNH HƢNG YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 60 34 04 03

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Đinh Văn Mậu

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của
cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TS. Đinh
Văn Mậu.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và
không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu
của mình.
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Sỹ


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm trân trọng nhất, tác giả luận văn xin bày tỏ lời cảm ơn

chân thành, sâu sắc nhất tới GS.TS. Đinh Văn Mậu vì sự tận tình hướng dẫn,
giúp đỡ tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đối với Ban Giám đốc, các Thầy, cô giáo
của Học viện Hành chính quốc gia đã tận tình, chu đáo trong quá trình giảng dạy
và truyền đạt kiến thức cho tôi. Xin cảm ơn toàn thể cán bộ, nhân viên của Học
viện Hành chính quốc gia đã tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho tác giả trong
thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành chương trình cao học.
Xin chân thành cảm ơn UBND Huyện Văn Lâm, Tỉnh Hưng Yên đã
nhiệt tình cung cấp số liệu, tài liệu cho tôi hoàn thiện luận văn. Cảm ơn gia
đình, bạn bè đồng nghiệp đã luôn động viên, quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ
tôi về cả vật chất và tinh thần, để tôi có thể hoàn thiện luận văn này.
Tuy đã có nhiều cố gắng trong việc đầu tư thời gian và công sức nghiên
cứu hoàn thành luận văn, nhưng do hạn chế về chuyên môn, kiến thức, nên
chắc hẳn không thể tránh khỏi những khiếm khuyết, thiếu sót. Kính mong
nhận được sự góp ý của các Thầy, cô giáo, của đồng nghiệp và các bạn học
viên, để luận văn ngày càng hoàn thiện, hữu ích hơn.
Xin trân trọng cám ơn!
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Sỹ


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT

TỪ VIẾT TẮT

DỊCH NGHĨA


1

CC

Công chức

2

HĐND

Hội đồng nhân dân

3

NQ-CP

Nghị quyết – Chính phủ

4

NQ/TW

Nghị quyết/ Trung ương

5

MTTQ

Mặt trận tổ quốc


6

QĐ-TTg

Quyết định – Thủ tướng

7

UBND

Ủy ban nhân dân

8

UBMTTQVN

Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam


DANH MỤC BẢNG BIỂU

STT

TÊN BẢNG/BIỂU

1

Bảng 2.1. Cơ cấu, số lƣợng Cán bộ, Công chức, lao động
hợp đồng thuộc HĐND và UBND các xã thuộc huyện


TRANG

44

Văn Lâm, tỉnh Hƣng Yên nhiệm kỳ 2011-2016
2

Bảng 2.2. Số lƣợng các kỳ họp HĐND xã thuộc huyện
Văn Lâm nhiệm kỳ 2011-2016

3

Bảng 2.3. Số lƣợng Nghị quyết do HĐND xã thuộc huyện
Văn Lâm ban hành trong nhiệm kỳ 2011-2016

4.

45

48

Bảng 2.4. Số lƣợng văn bản quản lý nhà nƣớc do UBND
xã thuộc huyện Văn Lâm ban hành trong nhiệm kỳ

57

2011-2016
5


Biểu 2.1. Số lƣợng văn bản quản lý nhà nƣớc do UBND
xã thuộc huyện Văn Lâm ban hành trong nhiệm kỳ
2011-2016

58


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH QUYỀN XÃ VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN XÃ ................................................... 7
1.1. Khát quát về chính quyền xã và hoạt động của chính quyền xã ................ 7
1.1.1. Chính quyền xã..................................................................................... 7
1.1.2. Hoạt động của chính quyền xã........................................................... 20
1.2. Đặc điểm, vai trò hoạt động của chính quyền xã ..................................... 21
1.2.1. Đặc điểm về hoạt động của chính quyền xã ...................................... 21
1.2.2. Vai trò hoạt động của chính quyền xã ............................................... 23
1.3. Nội dung hoạt động của chính quyền xã .................................................. 24
1.3.1. Nội dung hoạt động của Hội đồng nhân dân xã ................................ 24
1.3.2. Nội dung hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ................................... 29
1.4. Kinh nghiệm về hoạt động của chính quyền địa phương ở một số quốc
gia

................................................................................................................ 30

1.4.1. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ ................................................................... 30
1.4.2. Kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp ...................................................... 32
1.4.3. Kinh nghiệm của Cộng hòa liên bang Đức........................................ 33
1.4.4. Kinh nghiệm ở Thụy Điển .................................................................. 35
1.4.5. Kinh nghiệm của Đan Mạch .............................................................. 36

1.4.6. Những bài học vận dụng vào hoạt động của chính quyền xã ở Việt
Nam

......................................................................................................... 37

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ............................................................................... 40
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN XÃ
QUA THỰC TIỄN HUYỆN VĂN LÂM, TỈNH HƢNG YÊN ................. 41


2.1. Khái quát chung về huyện Văn Lâm và chính quyền xã thuộc huyện Văn
Lâm ................................................................................................................ 41
2.1.1. Khái quát chung về huyện Văn Lâm .................................................. 41
2.1.2. Khái quát chung về chính quyền xã của huyện Văn Lâm .................. 43
2.2. Nhận xét hoạt động của chính quyền xã .................................................. 45
2.2.1. Nhận xét hoạt động của Hội đồng nhân dân ..................................... 45
2.2.2. Nhận xét hoạt động của Ủy ban nhân dân ........................................ 55
2.3. Nguyên nhân các hạn chế trong hoạt động của chính quyền xã ................... 62
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ............................................................................... 64
Chƣơng 3: THÚC ĐẨY HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH
QUYỀN XÃ Ở HUYỆN VĂN LÂM, TỈNH HƢNG YÊN HIỆN NAY .... 65
3.1. Quan điểm, phương hướng ...................................................................... 65
3.2. Giải pháp thúc đẩy hiệu quả hoạt động của chính quyền xã.................... 70
3.2.1. Tiếp tục thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng .......... 70
3.2.2. Đổi mới nhận thức về vị trí, vai trò của chính quyền xã ................... 76
3.2.3. Hoàn thiện hệ thống thể chế về chính quyền địa phương .................. 77
3.2.4. Đổi mới hoạt động của Hội đồng nhân dân ...................................... 79
3.2.5. Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức xã ...................................... 82
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 .............................................................................. 89
KẾT LUẬN .................................................................................................... 90

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 92


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong Hiến pháp năm 2013, chính quyền nhà nước được chia thành bốn
cấp: trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Chính quyền xã là cấp thấp
nhất trong các cấp chính quyền được tổ chức tại các đơn vị hành chính xã,
phường, thị trấn. Nó có một vị trí đặc biệt trong các cấp chính quyền. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã từng nói: “Cấp xã là gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của
hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi”(Hồ Chí Minh
toàn tập: Tập 5, NXB CTQG, H.2002, trang 371).
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khoá IX) về đổi mới và nâng cao
chất lượng hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn, xác định: “Các cơ sở xã,
phường, thị trấn là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống. Hệ
thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động
nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy chủ quyền dân chủ của nhân dân,
huy động mọi khả năng phát triển kinh tế-xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng
đồng dân cư”.Về phương diện lý luận cũng như thực tiễn, hiệu quả và sức
mạnh của nhà nước không chỉ phụ thuộc vào cách thức tổ chức quyền lực ở
trung ương mà còn lại phụ thuộc rất nhiều vào cách thức tổ chức, thực thi
quyền lực ở cơ sở. Chính quyền xã phải trong sạch, đủ năng lực để đảm nhận vị
trí luôn là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là nơi trực tiếp thực hiện
và đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
vào cuộc sống.
Huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên được coi là cửa ngõ phía đông của Thủ
đô Hà Nội. Văn Lâm có 11 đơn vị hành chính cấp xã, gồm: 1 thị trấn Như
Quỳnh (thành lập ngày 24/2/1997 trên cơ sở xã Như Quỳnh cũ) và 10 xã với
diện tích 74,4 km2 và 96.900 nhân khẩu. Trong những năm qua, kinh tế của

1


huyện tăng trưởng khá. Cơ sở hạ tầng của huyện không ngừng được đầu tư
nâng cấp theo hướng hiện đại; tiến trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ cao; công
tác quy hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng nông thôn mới theo Chương
trình mục tiêu quốc gia được triển khai thực hiện có hiệu quả. Chính quyền xã
thuộc huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên trong những năm gần đây được củng cố,
tăng cường về tổ chức bộ máy; cán bộ, công chức từng bước hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu xây dựng
và phát triển địa phương.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập kinh
tế quốc tế, nhất là yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân. Đồng thời với việc áp dụng Luật Tổ chức chính
quyền địa phương 2015, hoạt động của chính quyền xã ở huyện Văn Lâm,
tỉnh Hưng Yên đã bộc lộ những yếu kém, bất cập về thể chế; mô hình tổ chức
bộ máy và phương thức hoạt động của chính quyền xã còn nhiều điểm chưa
hợp lý; sự phân cấp cho chính quyền xã còn thiếu cụ thể; số lượng định biên
và cơ cấu chức danh công chức xã còn cứng nhắc, nơi thiếu, nơi thừa; chưa có
sự phân công rõ ràng, rành mạch thẩm quyền, trách nhiệm của cá nhân và tập
thể… Đây chính là những nguyên nhân làm hạn chế hiệu lực và hiệu quả hoạt
động của chính quyền xã trong bối cảnh mới.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn đó, tôi xin được lựa chọn đề tài: “ Hoạt
động của chính quyền xã – từ thực tiễn huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên”
làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình, để qua đó nghiên cứu và đưa ra được
một số biện pháp khắc phục những hạn chế trong hoạt động của chính quyền
xã hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về hoạt động của chính quyền xã đã trở thành đề tài thu hút
sự quan tâm nghiên cứu của Đảng, Nhà nước, các nhà nghiên cứu lý luận và

2


hoạt động thực tiễn thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Mỗi công trình có những
góc độ tiếp cận, phạm vi và cấp độ nghiên cứu khác nhau. Căn cứ theo nội
dung có thể chia thành các nhóm sau:
- Nhóm thứ nhất gồm các công trình nghiên cứu về hoạt động của bộ
máy nhà nước và của chính quyền địa phương, trong đó đề cập tới chính
quyền xã dưới giác độ là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước nói
chung, của chính quyền địa phương nói riêng. Có thể kể đến một số công
trình như cuốn: “Về cải cách bộ máy nhà nước”, Trường Hành chính quốc
gia, Nxb Sự thật, 1991; Cuốn “Thể chế hành chính và tổ chức hành chính nhà
nước”, Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ, Nxb Sự thật, 1992; Cuốn “Tổ chức
chính quyền nhà nước ở địa phương – Lịch sử và hiện tại” của PGS.TS
Nguyễn Đăng Dung, Nxb Đồng Nai, 1997; Cuốn “Cải cách chính quyền địa
phương – Lý luận và thực tiễn” của tác giả Tô Tử Hạ - Nguyễn Hữu Tri –
PTS Nguyễn Hữu Đức đồng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998;
Chuyên đề “Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương” của TS
Nguyễn Đăng Dung, Tạp chí Thông tin khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp,
2001; Cuốn “Đổi mới nội dung hoạt động các cấp chính quyền địa phương
trong kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế” do Nguyễn Ký,
TS.Nguyễn Hữu Đức, ThS.Đinh Xuân Hà đồng chủ biên, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2006…
Các chuyên đề, công trình trên đã đề cập, nghiên cứu về bộ máy nhà
nước nói chung và chính quyền xã nói riêng. Tuy nhiên, các chuyên đề, công
trình này chưa đi sâu vào nghiên cứu chuyên biệt về hoạt động của chính
quyền xã.
- Nhóm thứ hai gồm các công trình nghiên cứu về chính quyền xã. Thuộc
nhóm này có các công trình như: Luận án Phó tiến sĩ của Trần Nho Thìn về
“Đổi mới tổ chức và hoạt động của UBND xã”; Bài viết “Chính quyền cơ sở ở


3


nông thôn hiện nay” của TS.Lê Minh Thông, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số
3 năm 2001; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Tổ chức và hoạt động của
chính quyền địa phương cơ sở các nước ASEAN”, Học viện Hành chính Quốc
gia, Hà Nội, 2002; Bài “Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã,
phường” của TS.Thái Vĩnh Thắng. Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 4/2003; Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Xây dựng và kiện toàn tổ chức chính quyền
cơ sở (xã) trong điều kiện cải cách hành chính” của Vụ Chính quyền địa
phương Bộ Nội Vụ, 2005… Nhóm này gồm những bài viết, công trình nghiên
cứu về chính quyền xã, cấp xã, cũng đã tập trung phân tích, đưa ra một số giải
pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã trong đó bao gồm
chính quyền xã.
Tuy vậy, cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách
toàn diện chuyên biệt về hoạt động của chính quyền xã huyện Văn Lâm, tỉnh
Hưng Yên. Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách
toàn diện và chuyên biệt về “Hoạt động của chính quyền xã – nhìn từ thực
tiễn huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên” dưới góc độ Quản lý công. Với kết quả
nghiên cứu của Luận văn, hy vọng sẽ đóng góp được những nội dung có giá
trị thực tiễn với hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, của chính quyền
xã nói riêng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về hoạt động của chính
quyền xã, chủ yếu về hoạt động của HĐND và UBND xã trên địa bàn huyện
Văn Lâm, Hưng Yên.
 Phạm vi nghiên cứu
 Về không gian: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi các xã thuộc
huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.

 Về thời gian: Luận văn nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm
2011 – 2016.
4


4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
 Mục đích nghiên cứu: Luận văn hướng tới mục đích nghiên cứu cơ
sở lý luận về hoạt động của chính quyền xã, trên cơ sở đó nhận xét về thực
tiễn hoạt động của chính quyền xã ở huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên để đề ra
những giải pháp tiếp tục hoàn thiện về hoạt động chính quyền xã huyện Văn
Lâm, Hưng Yên.
 Nhiệm vụ nghiên cứu:
 Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về hoạt động của chính quyền xã,
nhận xét mức độ hoàn thiện về hoạt động của chính quyền xã.
 Nghiên cứu kinh nghiệm hoạt động của chính quyền xã ở một số nước
để lược thuật giá trị cần tham khảo và lược giải sự cần thiết phải hoàn thiện về
hoạt động của chính quyền xã ở Việt Nam hiện nay.
 Trình bày, đánh giá thực trạng hoạt động của chính quyền xã ở huyện Văn
Lâm, tỉnh Hưng Yên, các mặt đạt được, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng đó.
 Đề xuất, kiến nghị một số giải pháp, biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt
động của chính quyền xã huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên trong thời gian tới.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
 Phương pháp luận nghiên cứu: Luận văn được thực hiện trên cơ sở
phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa MácLênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng
Cộng sản Việt Nam về đổi mới bộ máy nhà nước, đổi mới hoạt động của
chính quyền địa phương nói chung, chính quyền xã nói riêng.
 Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận văn sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu cụ thể, bao gồm: phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá,
nghiên cứu tài liệu...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa về mặt lý luận
Thứ nhất, hệ thống hóa lý luận về chính quyền xã và hoạt động của
chính quyền xã.
5


Thứ hai, trình bày, phân tích thực trạng hoạt động của chính quyền xã
thuộc huyện Văn Lâm, Hưng Yên; trong đó, bao gồm hoạt động của HĐND
và UBND xã. Đồng thời, phân tích, làm rõ những mặt ưu điểm, hạn chế và
nguyên nhân của các hạn chế trong hoạt động của chính quyền xã thuộc
huyện Văn Lâm, Hưng Yên.
Thứ ba, đề xuất các giải pháp hoàn thiện hoạt động của chính quyền xã
ở Việt Nam nói chung, và một số kiến nghị nhằm nâng cao hoạt động của
chính quyền xã thuộc huyện Văn Lâm, Hưng Yên, dựa trên các quan điểm,
phương hướng của Đảng và Nhà nước về hiệu quả hoạt động của chính quyền
địa phương nói chung, chính quyền xã nói riêng.
6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Thứ nhất, luận văn có giá trị tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy về
quản lý công, tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương nói chung,
hoạt động của chính quyền xã nói riêng.
Thứ hai, luận văn có giá trị tham chiếu trong việc đổi mới, nâng cao
chất lượng hoạt động của chính quyền xã, trực tiếp là các xã thuộc huyện Văn
Lâm, tỉnh Hưng Yên.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu gồm các phần mở đầu, nội dung chính, kết luận
và tài liệu tham khảo. Nội dung chính của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về chính quyền xã và hoạt động của
chính quyền xã.
Chương 2. Thực trạng hoạt động của chính quyền xã qua thực tiễn huyện
Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.

Chương 3. Nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền xã ở huyện
Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên hiện nay.

6


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH QUYỀN XÃ
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN XÃ
1.1. Khát quát về chính quyền xã và hoạt động của chính quyền xã
1.1.1. Chính quyền xã
1.1.1.1. Khái niệm chính quyền xã
Hiện nay, trong các văn bản chính trị, pháp lý ở nước ta đang sử dụng
một số thuật ngữ như: “chính quyền địa phương”, “chính quyền cơ sở”,
“chính quyền cấp xã”, “chính quyền xã”, … mà cách hiểu về các thuật ngữ
này ít nhiều còn mang tính khái quát cao, chưa có khái niệm cụ thể, từ đó đưa
đến một cách hiểu nhất quán cho từng thuật ngữ.
Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng, “chính quyền” được hiểu là: bộ
máy nhà nước quản lý các công việc nhà nước ở các cấp; quyền quản lý điều
khiển bộ máy nhà nước ở các cấp [46, tr. 63].
Thuật ngữ chính quyền khi được sử dụng trong các nghiên cứu, các văn
bản pháp lý đã làm phát sinh các thuật ngữ liên quan trực tiếp, gắn với cấp
chính quyền, bao gồm “chính quyền trung ương” và “chính quyền địa
phương”. Đây là cách phân loại thuật ngữ theo phân cấp quản lý nhà nước,
được hầu hết các quốc gia sử dụng tuy có những khác biệt về mặt thể chế.
Thuật ngữ “chính quyền địa phương”được tiếp cận theo hai nghĩa cơ bản
nhất, cụ thể:
Thứ nhất:Chính quyền địa phương được hiểu là toàn bộ các cơ quan nhà
nước đóng trên địa phương, thực hiện quản lý mọi vấn đề của và tại địa
phương. Theo cách tiếp cận này, chính quyền địa phương bao gồm hai loại cơ

quan: (i) cơ quan đại diện quyền làm chủ của nhân dân do nhân dân bầu ra trực
tiếp và cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương: hoặc là cơ quan chấp hành

7


của hội đồng địa phương, hoặc là người đứng đầu địa phương (thị trưởng) được
nhân dân bầu trực tiếp; (ii) cơ quan nhà nước do chính quyền cấp trên bổ nhiệm
nhằm thực hiện một số nhiệm vụ nhất định tại địa phương, những cơ quan này
được gọi là cơ quan tản quyền của trung ương tại địa phương.
Thứ hai: Tiếp cận từ thực hiện các chức năng cơ bản của nhà nước,
chính quyền địa phương được hiểu là “những đơn vị của chính quyền trực tiếp
cung cấp dịch vụ cho các công dân tại cấp trung gian thấp và thấp nhất” [34,
tr.148] trên cơ sở thực thi theo đúng pháp luật, chính sách phát triển của trung
ương và tình hình cụ thể tại địa phương. Theo cách tiếp cận này, nhiệm vụ cơ
bản của mọi nhà nước phải thực hiện đó là cung ứng các dịch vụ công cơ bản
như giao thông công cộng, an ninh, giáo dục, y tế, văn hóa... nhằm đảm bảo
sự tồn tại và phát triển của các công dân trên địa bàn nhất định, hoạt động
quản lý địa phương chỉ được thực hiện bởi hai cơ quan đó là hội đồng địa
phương và cơ quan chấp hành của nó hoặc người đứng đầu địa phương (thị
trưởng) đều được lập ra theo hình thực bầu cử trực tiếp.
Hiến pháp 2013, tại Điều 111 quy định: “1. Chính quyền địa phương
được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam; 2. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo,
đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định”. Tại khoản 1 Điều 110 quy
định: “Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được phân định như sau:Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương; Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực
thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương

đương; Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia
thành phường và xã; quận chia thành phường; Đơn vị hành chính - kinh tế đặc
biệt do Quốc hội thành lập”. Như vậy, tuy chưa đưa ra khái niệm chính quyền
8


địa phương nhưng Hiến pháp quy định rõ những cấp tổ chức thành chính
quyền địa phương và đây cũng là lần đầu thuật ngữ “cấp chính quyền địa
phương” xuất hiện trong văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất ở nước ta.
Cho đến nay, cách hiểu về thuật ngữ “cấp chính quyền địa phương” vẫn
còn gây nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, có nhiều quan điểm đều nhất trí rằng theo
quy định của Hiến pháp, bên cạnh các chính quyền địa phương được tổ chức
thành một cấp chính quyền (bao gồm HĐND và UBND) thì có thể thành lập
những chính quyền địa phương mà không được tính là một cấp chính quyền. Các
chính quyền này chỉ mang tính chất trung gian, xử lý các công việc mang tính
chất chuyên môn, nghề nghiệp cao. Cũng có quan điểm cho rằng, đây là quy
định mở đường cho việc thể chế hóa việc không tổ chức HĐND ở một số cấp
chính quyền. Tuy vậy, khi Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015
được thông qua, việc này đã bị bãi bỏ. Quy định này cũng đã kết thúc cuộc tranh
luận trong đó xem xét địa vị pháp lý của Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân
dân với tính cách là một bộ phận cấu thành chính quyền địa phương.
Như vậy, trong phạm vi luận văn này, thuật ngữ chính quyền địa phương
được hiểu là hệ thống các cơ quan nhà nước được thành lập ở địa phương,
thực thi quyền lực nhà nước trong phạm vi quản lý nhà nước ở địa phương;
bao gồm hai hệ thống cơ quan: một là, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, tức HĐND và hai là, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương,
tức UBND.
Từ đó, có thể thấy, mọi chính quyền địa phương đều mang những đặc
điểm chung sau:
- Có địa giới tự nhiên hoặc hành chính lãnh thổ được xác định

- Có một cộng đồng dân cư với những quyền bầu cử, ứng cử và có quyền
tham gia các công việc của địa phương
- Là một pháp nhân công quyền
9


- Có thẩm quyền riêng
- Có nguồn lực riêng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ
- Tồn tại ít nhất hai hệ thống cơ quan: một là, cơ quan dân cử do nhân
dân địa phương bầu cử trực tiếp; hai là, cơ quan thực hiện chức năng hành
chính nhà nước được thành lập bởi cơ quan dân cử hoặc nhân dân địa phương.
Ở nước ta, theo quy định của pháp luật thực định, chính quyền địa
phương được tổ chức thành 3 cấp: tỉnh, huyện và xã. Ngoài ra, còn bao gồm
đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập. Tuy nhiên, đơn vị
hành chính – kinh tế đặc biệt này chưa được thành lập trên thực tế mà mới chỉ
là quy định pháp lý có tính chất định hướng, tạo hành lang.
Khác với các mô hình tổ chức chính quyền địa phương tự quản, các cấp
chính quyền địa phương ở Việt Nam không có tính chất độc lập cao giữa cấp
này với cấp khác. Đồng thời, cũng khác với mô hình tổ chức chính quyền địa
phương tập quyền. Theo đó, tính thứ bậc rất chặt chẽ, chính quyền cấp dưới tổ
chức và hoạt động phụ thuộc hoàn toàn vào chính quyền cấp trên, đặc biệt
nhất trong đó là sự phụ thuộc về yếu tố tổ chức và tài chính công.
Mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay thể hiện
sự phân công, phân cấp giữa các cấp chính quyền, trong từng phạm vi nhất
định, mỗi cấp chính quyền có sự độc lập, tự chủ về ngân sách và thẩm quyền
quản lý theo luật định. Tuy nhiên, xem xét với tính cách hệ thống, giữa các
cấp chính quyền vẫn tồn tại tính thứ bậc tương đối chặt chẽ, thể hiện ở chỗ
tính hiệu lực bắt buộc của các quyết định quản lý của cấp trên đối với cấp
dưới, sự phê chuẩn của cấp trên đối với tổ chức bộ máy của cấp dưới, tỷ lệ
phân cấp ngân sách giữa cấp trên với cấp dưới… Điều này được lý giải là để

đảm bảo tính thống nhất, không thể phân chia của quyền lực nhà nước.
Theo cách hiểu như vậy, chính quyền xã là chính quyền địa phương cấp
thấp nhất trong hệ thống chính quyền ở Việt Nam. Chính quyền xã là hệ thống
các cơ quan nhà nước được thành lập ở cấp xã, thực thi quyền lực nhà nước
trong phạm vi quản lý nhà nước cấp xã; bao gồm HĐND xã và UBND xã.
10


Chính quyền cấp xã là cấp chính quyền gần dân nhất, gắn với đơn vị
hành chính có quy mô nhỏ nhất (trong tương quan với đơn vị hành chính cấp
trên trực tiếp), tiếp xúc trực tiếp với đòi hỏi của công dân và những gì công
dân mong muốn từ nhà nước, là mắt xích cuối cùng và cơ bản nhất của sợi
dây liên kết giữa chính quyền và dân chúng. Bởi vậy, chú trọng vào năng lực
của chính quyền xã là một trong những ưu tiên cần được xem xét trong cải
cách cách hành chính nhằm tạo ra những hiệu quả trực tiếp nhất, gắn với lợi
ích cụ thể của công dân.
Cấp xã là một cấp trong hệ thống 3 cấp chính quyền địa phương ở Việt
Nam. Với tính cách là một cấp chính quyền địa phương, theo quy định của
Hiến pháp, cũng như các cấp chính quyền địa phương khác, chính quyền cấp
xã bao gồm: Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) là bộ
máy quản lý, điều hành công việc nhà nước trong phạm vi xã, phường, thị trấn.
Theo các quy định trong các văn bản pháp lý ở nước ta, thuật ngữ “cấp
xã” được sử dụng chung cho 3 loại đơn vị hành chính là xã, phường, thị trấn.
Do vậy, cả ba thuật ngữ “chính quyền xã”, “chính quyền phường” và “chính
quyền thị trấn” đều có thể được gọi chung là “chính quyền cấp xã”. Cách
phân chia chính quyền này xuất phát từ đặc thù của từng địa bàn quản lý giữa
đô thị và nông thôn. Chính quyền xã được hiểu là chính quyền địa phương
được thành lập ở xã, tức địa bàn nông thôn; chính quyền thị trấn được hiểu là
chính quyền địa phương được lập ở thị trấn, chính quyền phường được hiểu là
chính quyền địa phương được thành lập ở các phường, tức địa bàn đô thị.

Như vậy, chính quyền xã được hiểu là chính quyền địa phương ở xã, là
hệ thống các cơ quan nhà nước được thành lập ở địa bàn các xã, thực thi
quyền lực nhà nước trong phạm vi quản lý nhà nước ở xã; bao gồm hai hệ
thống cơ quan: một là, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, tức HĐND
xã và hai là, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, tức UBND xã.
11


Theo Điều 113 của Hiến pháp năm 2013 và Điều 6 Luật Tổ chức chính
quyền địa phương năm 2015 quy định: HĐND gồm các đại biểu HĐND do cử
tri ở địa phương bầu ra, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm
trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
Như vậy, HĐND có hai tính chất sau:
Một là, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. HĐND là
cơ quan nhà nước được nhân dân địa phương trao quyền thay mặt nhân dân để
thực hiện quyền lực nhà nước. HĐND đại diện cho quyền lực nhà nước ở địa
phương để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao trên cơ sở sự phân cấp quản lý
nhằm giải quyết những công việc chung của nhà nước ở địa phương. HĐND
thực hiện quyền lực nhà nước ở địa phương không phải với chức năng lập
pháp mà với chức năng chấp hành pháp luật chung của Nhà nước và văn bản
của cơ quan nhà nước cấp trên ban hành.
Hai là, HĐND là cơ quan đại diện cho ý chí nguyện vọng của nhân dân địa
phương. Ở địa phương, HĐND là cơ quan duy nhất do nhân dân địa phương bầu
ra theo nguyên tắc trực tiếp, phổ thông và bỏ phiếu kín. Đại biểu HĐND đại diện
cho các tầng lớp nhân dân địa phương, nói lên tiếng nói, nguyện vọng của nhân
dân địa phương, đại diện cho trí tuệ tập thể của nhân dân.
Điều 119 Hiến pháp năm 2013 và Điều 8 Luật Tổ chức chính quyền địa
phương 2015 quy định: UBND do HĐND cùng cấp bầu, là cơ quan chấp hành
của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm

trước nhân dân địa phương, HĐND cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước
cấp trên. Như vậy, UBND có các vị trí, tính chất sau:
Một là, UBND là cơ quan chấp hành của HĐND. UBND do HĐND
cùng cấp bầu ra có trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ
quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cùng cấp nhằm đảm bảo
thực hiện chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc
phòng, an ninh và thực hiện các chính sách khác trên địa bàn.
12


Hai là, UBND là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. UBND
thực hiện việc quản lý nhà nước ở địa phương trên mọi lĩnh vực góp phần bảo
đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà nước từ
trung ương đến cơ sở.
Riêng với xã – nơi diễn ra các hoạt động tự quản của nhân dân, nên
chính quyền xã còn có trách nhiệm hướng dẫn các hoạt động tự quản của
nhân dân ở cơ sở.
Như vậy, chính quyền xã ở nước ta là một bộ phận hợp thành chính
quyền địa phương, bao gồm HĐND xã – cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, đại diện cho ý chí, lợi ích của nhân dân tại cơ sở, do nhân dân xã trực
tiếp bầu ra và UBND xã do HĐND bầu ra nhằm quản lý các lĩnh vực của đời
sống xã hội ở địa phương và hướng dẫn nhân dân thực hiện các hoạt động tự
quản ở cơ sở trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ và kết hợp hài hòa giữa
lợi ích của nhân dân địa phương với lợi ích chung của cả nước.
1.1.1.2. Đặc điểm của chính quyền xã
Chính quyền xã của Việt Nam có đặc điểm sau:
Một là,chính quyền xã là loại chính quyền điển hình và phổ biến ở Việt
Nam. Trong tổng số đơn vị hành chính lãnh cơ sở ở Việt Nam, xã là đơn vị
hành chính chiếm số lượng lớn hơn hẳn. Theo thống kê, hiện có 63 đơn vị
hành chính cấp tỉnh, 713 đơn vị hành chính cấp huyện và 11.162 đơn vị hành

chính cấp xã, trong đó có 9.085 xã [47]. Đặc điểm này là hệ quả tất yếu của
nguyên tắc thiết lập bộ máy quản lý nhà nước theo mô hình tháp, theo đó,
càng ở các cấp thấp hơn thì quy mô, số lượng cũng sẽ lớn hơn.
Việc thành lập chính quyền địa phương ở xã xuất phát từ các tiêu chí về
diện tích, dân số (số lượng, mật độ) và yếu tố văn hóa. Trong phạm vi quản lý
của một chính quyền xã, thường có rất ít sự khác biệt về văn hóa giữa các
nhóm dân cư, gắn với quy mô, mật độ dân số hợp lý, trên một diện tích phù
13


hợp với đặc điểm dân cư, nghề nghiệp. Do đó, diện tích các đơn vị hành chính
xã thường lớn hơn các đơn vị hành chính cùng cấp ở đô thị (phường, thị trấn)
trong cùng một cấp chính quyền; mật độ dân số, ngược lại, thường thấp ở
vùng nông thôn và cao ở vùng đô thị, đặc biệt là các đô thị lớn.
Với đặc điểm này, có thể thấy rằng, chính quyền xã là một đối tượng
cần có ưu tiên đặc biệt trong việc cải thiện năng lực hay chất lượng điều
hành, quản lý.
Hai là,chính quyền xã là chính quyền gần với cộng đồng dân cư nhất, do
vậy, tổ chức và hoạt động vừa phải đảm bảo tính hệ thống, nhất quán vừa phải
phù hợp với điều kiện đặc thù của địa phương. Địa bàn xã là nơi vừa diễn ra
hoạt động quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, vừa diễn ra các hoạt động tự
quản của dân, do dân tự tổ chức và tự thực hiện bằng hương ước, lệ tục hoặc
những quy định do người dân tự nguyện thiết lập và thực hiện (là thể chế tự
quản trong phạm vi từng thôn, làng, được cả cộng đồng nhất trí tán thành và
mỗi thành viên tự nguyện, tự giác thực hiện). Hương ước này phải phù hợp
với pháp luật của nhà nước, chủ trương đường lối của Đảng, đồng thời thể
hiện những sắc thái văn hóa, những truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp
của cộng đồng dân cư, bên cạnh đó pháp luật, chính sách của Nhà nước phải
được tuân thủ, chấp hành nghiêm chỉnh. Đây là quan hệ pháp lý giữa công
dân với nhà nước mà chính quyền xã phải tổ chức và thực hiện cho các công

dân thực hiện bằng thẩm quyền, chức trách của mình. Như vậy, trong hoạt
động của chính quyền xã vừa phải đảm bảo yêu cầu về tính thống nhất của
pháp luật, vừa phải đảm bảo tạo điều kiện để phát huy tính phong phú, đa
dạng dựa trên đặc thù của từng xã.
Ba là,chính quyền xã là chủ thể quan trọng trực tiếp tổ chức thực hiện
chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đến
với nhân dân. Tuy nhiên, việc tổ chức thực hiện này cũng có tính chất phân
14


cấp theo nhiệm vụ, thẩm quyền của chính quyền xã. Ở đây thể hiện rất rõ nét
vai trò của chính quyền xã với tính cách là cấp cuối cùng trong hệ thống chính
quyền, trực tiếp thực hiện các giao dịch, giao tiếp với nhân dân mà nếu thiếu
nó, mọi chủ trương, mọi pháp luật chỉ mang tính chất lý thuyết, không thể
triển khai một cách hoàn chỉnh trên thực tế.
Bốn là,chính quyền xã có bộ máy đơn giản nhất, có tính chuyên môn hóa
không cao, chịu sự tác động từ nhân dân rất lớn. Theo quy định pháp luật hiện
hành, chính quyền xã bao gồm HĐND và UBND. Xét về mặt tổ chức,
HĐND gồm có Thường trực HĐND, các Ban của HĐND (Ban Pháp chế, Ban
Kinh tế - xã hội); UBND xã gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, 02 Ủy viên
UBND, giúp việc cho UBND gồm có 7 chức danh công chức chuyên môn:
Văn phòng – thống kê, Trưởng công an, Chỉ huy trưởng quân sự, Địa chính –
xây dựng – môi trường, Tư pháp – hộ tịch, Văn hóa – xã hội – lao động –
thương binh, Tài chính – kế toán. Các chức danh công chức chuyên môn
thường kiêm nhiệm nhiều mảng công việc nên đòi hỏi tính chuyên môn hóa
không cao, các nghiệp vụ không quá phức tạp so với các công chức công tác
trong cùng lĩnh vực ở cấp huyện, cấp tỉnh.
Tuy nhiên, do đặc điểm là cấp chính quyền cuối cùng, thực hiện các giao
dịch, giao tiếp với công dân một cách trực tiếp; bên cạnh đó, hầu hết cán bộ,
công chức chính quyền xã đều sinh sống ngay trên địa bàn quản lý nên có quá

trình tiếp xúc thường xuyên với nhân dân ngay cả ngoài giờ làm việc. Do vậy,
xét về mặt tâm lý, đội ngũ công chức chịu ảnh hưởng lớn từ dư luận, các
luồng ý kiến, quan điểm của nhân dân địa phương đó. Từ đó, ít nhiều có ảnh
hưởng đến quá trình hoạt động, công tác.
Năm là,chính quyền xã chịu nhiều tác động từ quan hệ dòng họ, làng
mạc và văn hóa làng xã có tác động mạnh nhất.

15


Làng xã Việt Nam từ thời xa xưa đã có ý nghĩa rất quan trọng đối với đời
sống nhân dân Việt Nam. Ông Vũ Đình Hòe – Nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp
cho rằng: "Muốn tìm hiểu lịch sử hình thành dân tộc Việt Nam thì phải tìm
hiểu cộng đồng làng xã, và muốn xây dựng lại đất nước Việt Nam thì cũng
phải bắt đầu bằng việc xây dựng lại cộng đồng làng xã. Vì không có làng xã
Việt Nam thì không có quốc gia Việt Nam".
Cộng đồng làng xã trước tiên là tập hợp của những dòng họ. Quá trình
hình thành và phát triển của làng Việt Nam là sự chuyển đổi và phát triển từ
liên kết hộ gia đình tiến lên là liên kết họ hàng và các dòng họ với nhau.
Tuy nhiên, đặc điểm này tồn tại chủ yếu ở các xã nông thôn và rất mờ
nhạt ở các chính quyền địa phương ở phường, thị trấn. Theo xu hướng phát
triển phù hợp với mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước chuyên nghiệp,
các tác động mang tính quan hệ dòng họ, làng mạc sẽ giảm nhiều ở mọi chính
quyền xã, dù ở nông thôn hay đô thị.
Nghiên cứu đặc điểm của chính quyền xã sẽ trực tiếp cung cấp các luận
cứ cho việc thiết lập bộ máy và xây dựng thể chế vận hành bộ máy chính
quyền xã nhằm đạt hiệu quả tốt nhất, hiệu lực cao nhất. Song, để đạt được
điều đó, cần phải có những nghiên cứu sâu hơn, chi tiết hơn đối với đặc điểm
của từng loại chính quyền xã. Điều này vượt quá phạm vi của luận văn này.
1.1.1.3. Vai trò và địa vị pháp lý của chính quyền xã

Để nhìn nhận đúng đắn, toàn diện về vai trò và địa vị pháp lý của chính
quyền xã, cần xem xét đánh giá dưới nhiều góc độ. Chính quyền xã vừa là
một bộ phận cấu thành của chính quyền địa phương, vừa là một bộ phận của
hệ thống chính trị ở cơ sở. Vì vậy, vai trò và địa vị pháp lý của chính quyền
xã cần được nhìn nhận trong cả hệ thống chính quyền nhà nước và trong hệ
thống chính trị ở cơ sở.

 Chính quyền xã trong hệ thống chính trị ở cơ sở
Trong hệ thống chính trị ở cơ sở, tổ chức cơ sở Đảng là hạt nhân chính
trị, có nhiệm vụ lãnh đạo hệ thống chính trị ở cơ sở thì chính quyền xã giữ vai
16


trò là trung tâm, là nòng cốt của hệ thống chính trị ở cơ sở. Chính quyền xã có
một bộ máy thực thi quyền lực nhà nước, được áp dụng các biện pháp cưỡng
chế nhà nước trong khuôn khổ pháp luật, được nhà nước giao các nguồn lực
để thực hiện việc quản lý nhà nước ở địa phương. Vai trò của chính quyền xã
đối với hệ thống chính trị ở cơ sở được thể hiện ở các mặt sau:
Một là, hiện thực hóa đường lối, chủ trương lãnh đạo của Đảng. Các
Nghị quyết của Đảng ủy xã phải được thể chế hóa trong các văn bản pháp lý
của chính quyền cùng cấpđể tổ chức thực hiện thì mới có thể đi vào đời sống
xã hội. Hiện nay, Đảng ta đang đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với nhà nước. Đảng lãnh đạo thông qua việc đề ra chủ trương,
chính sách, qua công tác cán bộ mà không can thiệp, bao biện làm thay nhà
nước. Mặc dù giữ vị trí, vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị ở cơ sở nói chung
và lãnh đạo chính quyền nói riêng nhưng những chủ trương của Đảng không
thể đem trực tiếp thực hiện trong cuộc sống mà phải thông qua vai trò của
chính quyền xã mới có thể trở thành hiện thực. Điều này là phù hợp với định
hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Hai là, các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể nhân dân chỉ thực hiện

có hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân thông qua hoạt động của chính
quyền xã. Các tổ chức chính trị - xã hội và các đoàn thể nhân dân thay mặt
cho các tầng lớp nhân dân địa phương tham gia phối hợp với chính quyền xã
trong việc quản lý mọi mặt của đời sống xã hội ở xã. Mặt khác, các tổ chức
này có quyền kiến nghị với chính quyền xã về những vấn đề liên quan đến lợi
ích của nhân dân địa phương. Chính quyền xã có trách nhiệm tạo điều kiện
thuận lợi để các tổ chức này hoạt động tốt. Vì vậy, chính quyền xã có vai trò
không nhỏ trong việc giúp các tổ chức chính trị xã hội, các đoàn thể nhân dân
thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình.

17


×