Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tiểu luận điều kiện giao dịch dân sự vô hiệu theo BLDS 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.06 KB, 21 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU:
Như chúng ta đã biết từ lâu, giao dịch dân sự được nhiều người xem là một
trong những động lực thúc đẩy sự phát triển giao lưu kinh tế. Không những
thế nó khiến cho mối quan hệ của con người trên các lĩnh vực liên quan đến
kinh tế được thực hiện một cách dễ dàng và có sự bảo vệ của pháp luật nhằm
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia.
Ý chí và mục đích của các bên tham gia trong giao dịch dân sự giữ vị trí vô
cùng quan trọng trong việc xác định tính hiệu lực hay vô hiệu của giao dịch.
Các biểu hiện của sự không thống nhất ý chí (sự thể hiện ý chí khác nhau)
hoặc sự trái ngược giữa biểu hiện với ý chí đích thực của các bên tham gia
giao dịch là một trong những lý do cơ bản khiến cho giao dịch dân sự trở
thành vô hiệu.
Trong các giao dịch dân sự ở nước ta đã xảy ra không ít các vụ tranh chấp
mà đặc biệt là vấn đề giao dịch dân sự vô hiệu. Thực tiễn đã có rất nhiều vụ
giải quyết ở Tòa án nhân dân thì vấn đề giải quyết các hậu quả của giao dịch
dân sự vô hiệu không thuần túy chỉ căn cứ vào Bộ luật dân sự mà nó còn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố trong thực tế mà đôi khi không được quy định trong
BLDS.Việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết các hậu quả
pháp lý của nó là một vấn đề gây tranh cãi rất lớn.
Với đề tài: “Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của tuyên bố
giao dịch dân sự vô hiệu” em hy vọng làm rõ hơn một phần nào đó về nó,
đồng thời từ thực trạng tồn tại ở nước ta em sẽ đưa ra một số ý kiến, quan
điểm của bản thân nhằm hoàn thiện hơn về hệ thống pháp luật về giao dịch
dân sự ở nước ta.
B. PHẦN NỘI DUNG:
I. Giao dịch dân sự và điều kiện giao dịch dân sự có hiệu lực:


1. Giao dịch dân sự:
1.1 Khái niệm:
Trong quan hệ dân sự, việc gặp gỡ, tiếp xúc nhau được diễn ra để thể hiện ý


chí của các bên trực tiếp và công khai. Có rất nhiều quan điểm về giao dịch
dân sự. Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta luôn phải xác lập nhiều giao
dịch dân sự để phục vụ cho cuộc sống1. Ví dụ: dùng tiền đi mua sắm, mua đồ
ăn…Thế nhưng giao dịch dân sự được hiểu cụ thể như thế nào? Câu hỏi đó
được trả lời như sau:
Điều 116 Bộ luật Dân sự 2015 quy định rằng: “Giao dịch dân sự là hợp đồng
hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền và nghĩa vụ dân sự”.
1.2 Phân biệt giữa hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương:
Về chủ thể

Hợp đồng
Hành vi pháp lý đơn phương
2 bên chủ thể được xác Chỉ có một bên chủ thể được xác

Về ý chí

định ngay từ đầu
định trước
Có sự thỏa thuận thống Chỉ là định đoạt hay các điều kiện

nhất ý chí
do một bên đưa ra
Về thời điểm phát Thời điểm giao kết nếu Nghĩa vụ của bên tuyên bố ý chí
sinh quyền và nghĩa các bên không có thỏa phát sinh khi có chủ thể phía bên
vụ

thuận khác hoặc pháp luật kia tham gia và đã đáp ứng, đầy đủ

không có quy định khác

2. Điều kiện giao dịch dân sự có hiệu lực:

các điều kiện đã nêu.

Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương. Tuy nhiên
không phải tất cả các hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương đều là giao
dịch dân sự. Chỉ khi nào hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự thì lúc đó mới
trở thành giao dịch dân sự. Ví dụ như trường hợp một chủ thể hành vi pháp
1

Giáo trình Luật dân sự, Tập 1 Trường ĐHKS Hà Nội, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2014.


lý đơn phương từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản nào đó. Thì lúc này hành
vi pháp lý của chủ thể sẽ không là một giao dịch dân sự bởi vì nó không làm
phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của người khác. Theo quy
định pháp luật nước ta hiện nay thì giao dịch muốn được pháp luật dân sự
công nhận và bảo vệ phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại Điều
117 BLDS 2015 đó là:
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a. Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù
hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
Đối với cá nhân: Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý
chí và hành động của chủ thể tham gia giao dịch. Chỉ những người có năng
lực hành vi mới có ý chí riêng và nhận thức được hành vi của họ để có thể tự
mình xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch, đồng
thời phải chịu trách nhiệm trong giao dịch. Cho nên giao dịch dân sự do cá
nhân xác lập chỉ có hiệu lực nếu phù hợp với mức độ năng lực hành vi dân

sự của cá nhân.
Theo khoản 1 điều 16 BLDS 2015 quy định “Năng lực pháp luật dân sự
của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự”.
Tuy nhiên không phải cá nhân nào cũng có năng lực hành vi dân sự hoàn
toàn mà có những trường hợp cá nhân bị hạn chế hoặc chỉ có năng lực hành
vi dân sự một phần thì trường hợp này cần có những người đại diện cho họ
đứng ra để đảm bảo cho họ trong giao dịch dân sự.
Ví dụ: A là con của B, A bị tòa tuyên hạn chế năng lực hành vi dân
sự do nghiện ma túy, thì B là người đại diện cho A trong các giao dịch dân
sự của A.


Đối với pháp nhân các chủ thể tham gia giao dịch dân sự thông qua
người đại diện của họ và chỉ tham gia phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của
pháp nhân.
b. Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý
chí, cho nên tự nguyện bao gồm các yếu tố cấu thành là tự do ý chí và bày tỏ
ý chí, thiếu một yếu tố đó không còn là tự nguyện, các bên tham gia giao
dịch phải hoàn toàn tự nguyện: tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận, vi
phạm sự tự nguyện chính là vi phạm sự thỏa thuận và vi phạm pháp luật. Về
nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thảo thuận được quy định tại Điều 3
BLDS 2015.
c. Mục đích và nội dung tham gia giao dịch dân sự không vi phạm điều
cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Khi tham gia vào giao dịch dân sự các bên đều mong muốn đạt được lợi
ích, mà lợi ích đó phải là lợi ích hợp pháp. Nội dung của giao dịch dân sự là
toàn bộ các thỏa thuận mà các bên đã đồng thuận đưa xác định quyền và
nghĩa vụ của các bên phát sinh từ việc thực hiện giao dịch. Mục đích và nội
dung có sự chặt chẽ với nhau và không được trái pháp luật, trái đạo đức xã

hội. Mục đích của giao dịch suy cho cùng là động cơ thúc giục đương sự xác
lập giao dịch; còn nội dung của giao dịch có thể được hiểu như đối tượng
của giao dịch đó. Pháp luật và đạo đức xã hội nói trong điều luật là tập hợp
các quy tắc pháp lý, quy tắc đạo đức phải được tuyệt đối tôn trọng mà không
có ngoại lệ.
Ví dụ: không thể xác lập hợp đồng mua bán chất ma túy hay vũ khí
quân dụng…
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch
dân sự trong trường hợp luật có quy định.


Hình thức giao dịch dân sự là phương tiện thể hiện nội dung của giao
dịch. Thông qua phương tiện này bên đối tác cũng như người thứ ba có thể
biết được nội dung đã xác lập. Hình thức của giao dịch dân sự có ý nghĩa rất
quan trọng trong tố tụng dân sự. Nó là chứng cứ xác nhận các quan hệ đã,
đang tồn tại giữa các bên, qua đó xác định trách nhiệm dân sự khi có hành vi
vi phạm xảy ra.
Giao dịch dân sự có thể được thể hiện bằng lời nói, văn bản hoặc hành
vi cụ thể. Người xác lập giao dịch có quyền lựa chọn hình thức của giao dịch
đó. Chỉ trong một số trường hợp đặc biệt thì pháp luật mới có yêu cầu về
hình thức buộc buộc các chủ thể phải tuân thủ theo.
Ví dụ: Khi đăng ký mua bán xe máy phải được thực hiện bằng văn bản
và phải có sự chứng nhận của Nhà nước.
II. Giao dịch dân sự vô hiệu:
1. Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu:
Theo từ điển Tiếng việt, “vô hiệu” tức là không có hiệu lực. Theo điều 122
BLDS 2015 thì “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện quy
định tại điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này quy
định”.
Điều 122 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về giao dịch dân sự vô hiệu đã

kế thừa các quy định Điều 127 bộ luật Dân sự 2005. So với quy định về giao
dịch dân sự vô hiệu 2005, Bộ luật Dân sự 2015 có bổ sung cụm từ “ trừ trường
hợp bộ luật này có quy đinh khác”. Đây thực sự là điều cần thiết, bởi lẽ các
quy đinh về điều kiện có hiệu lực của bộ luật dân sự có thể áp dụng cho đa số
các trường hợp, nhằm đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp cho các bên. Tuy nhiên
trong một số trường hợp việc vô hiệu giao dịch dân sự là hoàn toàn không cần
thiết.


Trên thực tế, có những trường hợp giao dịch có thiếu điều kiện của
Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 nhưng vẫn không vô hiệu. Ví dụ như Điểm a
Khoản 2 Điều 125 Bộ luật Dân sự 2015 “ giao dịch dân sự của người chưa đủ
mười sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu thiết yếu
hàng ngày của người đó” thì không bị xem là vô hiệu. Như vậy ta có thể thấy
với việc bổ sung đã làm rõ được những trường hợp không bị vô hiệu đã mở
rộng hơn Bộ luật Dân sự 2005.
Qua bản chất của giao dịch dân sự vô hiệu, chúng ta có thể phân tích
nội hàm của giao dịch dân sự như sau: Giao dịch dân sự vô hiệu là loại giao
dịch dân sự mà khi xác lập các bên (hoặc chủ thể có hành vi pháp lý đơn
phương) đã có vi phạm ít nhất một trong các điều kiện có hiệu lực do pháp
luật quy định dẫn tới hậu quả pháp lý là không làm phát sinh bất kỳ một quyền
hay nghĩa vụ dân sự nào thỏa mãn mục đích theo mong muốn của người
tham gia giao dịch.
2. Đặc điểm của giao dịch dân sự vô hiệu
Giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch luôn vi phạm một trong những điều
kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Đó là các điều kiện: điều kiện về năng
lực chủ thể, điều kiện về mục đích và nội dung, điều kiện về ý chí chủ thể
tham gia, điều kiện về hình thức giao dịch. Các điều kiện này được phân tích
dưới góc độ lý luận nhằm làm sáng tỏ tại sao các yếu tố này được xem là
điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự.

Các bên tham gia giao dịch phải chịu những hậu quả pháp lý nhất định khi
giao dịch dân sự bị tuyên vô hiệu. Một giao dịch bị tuyên bố là vô hiệu thì
mọi thỏa thuận giữa các bên không có hiệu lực thi hành. Các bên phải chấm
dứt ngay việc thực hiện giao dịch đó, quay lại tình trạng ban đầu, hoàn lại
cho nhau những gì đã nhận.


Việc quy định giao dịch dân sự vô hiệu thể hiện ý chí của Nhà nước trong
việc kiểm soát các giao dịch dân sự nhất định nếu thấy cần thiết vì lợi ích
của Nhà nước và lợi ích công cộng2.
3. Các loại giao dịch dân sự vô hiệu và so sánh với BLDS 2005:
Giao dịch dân sự có thể chia thành 2 nhóm chính: Vô hiệu tuyệt đối (vô hiệu
tương đương) và vô hiệu tương đối (do tòa án tuyên). Sự phân loại nêu trên
có cơ sở dựa vào một số đặc điểm khác biệt chung thể hiện bản chất của hai
khái niệm đó. Thứ nhất là sự khác biệt về trình tự vô hiệu của giao dịch, vô
hiệu tuyệt đối thì mặc nhiên bị coi là vô hiệu, còn vô hiệu tương đối thì
không mặc nhiên vô hiệu mà chỉ trở nên vô hiệu khi có đơn yêu cầu của
người có quyền, lợi ích liên quan và bị Tòa án tuyên bố vô hiệu. Thứ hai đó
là sự khác biệt về thời hạn yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu. Đối với các
giao dịch vô hiệu tuyệt đối thì thời hạn yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô
hiệu không bị hạn chế. Còn đối với giao dịch dan sự vô hiệu tương đối thì
thời hiệu khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu là 2 năm kể từ
ngày giao dịch được xác lập (Điều 132 BLDS 2015)
3.1 Giao dịch bị coi là vô hiệu tuyệt đối đối với các trường hợp sau:
3.1.1 Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo
đức xã hội (Điều 123 BLDS 2015):
Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo
đức xã hội thì vô hiệu.
Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực
hiện những hành vi nhất định.

Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội,
được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.

2

Giáo trình Luật Dân sự, tập 1 – Trường ĐH Luật HN.


Ví dụ: hợp đồng ngăn cản cha mẹ và con cái sống chung là vô hiệu vì vi
phạm đạo đức xã hội.
Theo điều 128 Bô luật Dân sự năm 2005 quy định giao dịch dân sự sẽ
vô hiệu nếu “ mục đích và nội dung vi phạm các điều cấm của pháp luật, trái
lại đạo đức xã hội”. Tuy nhiên, trong Bộ luật dân sự 2015, theo quy định tại
điều 123 thì giao dịch dân sự chỉ bị vô hiệu khi “ mục đích và nội dung vi
phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội”.
Từ sự khác biệt này chúng ta có thể thấy rằng, Bộ luật Dân sự năm
2015 đã có một bước phát triển mới, phạm vi xác định giao dịch dân sự vô
hiệu đã được thu hẹp từ chỗ vi phạm điều cấm của pháp luật nay chỉ bó gọn
trong việc vi phạm điều cấm của luật. Về cả lý thuyết và thực tiễn, có rất
nhiều cơ quan, tổ chức cá nhân có quyền hoặc được trao quyền ban hành văn
bản quy phạm pháp luật, còn luật thì chỉ có quốc hội mới có thẩm quyền ban
hành. Chính sự thay đổi này của Bộ luật Dân sự năm 2015 sẽ góp phần hạn
chế được sự tùy tiện trong việc tuyên bố vô hiệu các giao dịch dân sự3.
3.1.2 Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo (Điều 124 BLDS 2015):
1. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một
giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân
sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu
theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.
2. Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với
người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.

Đối với giao dịch dân sự này có đặc điểm là các giao dịch bên trong đó hoàn
toàn tự nguyện xác lập giao dịch nhưng lại cố ý bày tỏ ý chí không đúng với
ý chí đích thực của họ nhưng không có sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý
3

Đỗ Văn Đại, BLKH Những điểm mới BLDS 2015, NXB Hồng Đức 2016.


chí. Đó là việc các bên xác lập một giao dịch để nhằm che giấu một giao
dịch khác hoặc thực hiện một giao dịch nhằm trốn tránh nghĩa vụ với bên
thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu. Khi đó với giao dịch nhằm che giấu một giao
dịch khác hoặc thực hiện giao dịch nhằm trốn tránh nghĩa vụ với bên thứ ba
thì giao dịch đó vô hiệu. Khi đó với giao dịch nhằm che giấu vẫn có hiệu lực
nếu như giao dịch bị che giấu đó vẫn tuân thủ đúng các điều kiện có hiệu lực
của giao dịch dân sự. Trường hợp giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ
với người thứ ba thì giao dịch giả tạo đương nhiên bị vô hiệu.
Ví dụ: A vay nợ B số tiền 300 triệu đồng, A ký giấy vay nợ đồng ý bán căn
nhà cho B để trả nợ. Việc mua bán này chưa được thực hiện thì A lại bán
căn nhà trên cho C (hợp đồng mua bán đã qua công chứng). Trong tình
huống A sau khi bán nhà xong, A không chịu trả tiền nợ cho B thì hợp đồng
mua bán giữa A và C sẽ bị coi là vô hiệu do giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ
đối với người thứ ba.
3.1.3 Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
(Điều 129 BLDS 2015):
Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô
hiệu, trừ trường hợp sau đây:
1. Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng
văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực
hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một
bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.

2. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định
bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện
ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên
hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.


Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng,
chứng thực.
Ví dụ: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà không có chứng
thực thì bị tuyên bố vô hiệu,…
3.2 Giao dịch bị coi là vô hiệu tương đối đối với các trường hợp sau:
Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện (Điều 125 BLDS
2015)
1. Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành
vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của
người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo
quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập,
thực hiện hoặc đồng ý, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Giao dịch dân sự của người quy định tại khoản 1 Điều này không bị vô
hiệu trong trường hợp sau đây:
a) Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi
dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;
b) Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;
c) Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi

đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.
Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn (Điều 126 BLDS 2015)


1. Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một
bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì
bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu,
trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường
hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên
có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập
giao dịch dân sự vẫn đạt được.
Ví dụ: A đến cửa hàng điện tử của B mua một chiếc tivi trị giá 10 triệu,
nhưng khi giao hàng thì A lại giao nhằm chiếc tivi trị giá 50 triệu đồng, 3
ngày sau A gọi điện báo cho B là đã giao nhằm tivi nhưng B không đồng ý.
Như vậy A có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch trên là vô hiệu do
nhầm lẫn.
So với BLDS 2005 có điểm quan trọng chúng ta cân nói đến đó là quy
định về giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu tại
Khoản 2 Điều 126 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Giao dịch dân sự được xác lập
có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch
dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự
nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được.”
Vấn đề này hoàn toàn không được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005,
chình vì thế nó đã gớp phần bổ sung điểm cần thiết4.

Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép (Điều 127
BLDS 2015)

4


Đỗ Văn Đại, BLKH Những điểm mới BLDS 2015, NXB Hồng Đức 2016.


Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng
ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người
thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối
tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc
người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm
tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản
của mình hoặc của người thân thích của mình.
Ví dụ: C đe dọa D buộc phải chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho mình
nếu không sẽ giết cả nhà, trước tình thế ép buộc đó đành lòng D phải ký.
Nhưng D có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch đó là vô hiệu do bị đe
dọa.
So với Điều 132 Bộ luật Dân sự 2005 thì Bộ luật Dân sự năm 2015 đã
bổ sung cụm từ “cưỡng ép”. “Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị
lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao
dịch dân sự đó là có hiệu lực”.
Ta thấy ở đây “đe dọa, cưỡng ép” trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý
của một bên hoặc người thứ ba làm cho người bên kia buộc phải thực hiện
giao dịch này, nếu không thì sẽ ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm,
tính mạng của mình hoặc người thân thích của mình. Rõ ràng, trong quá trình
tham gia giao dịch dân sự, một bên không có tinh thần tự nguyện, trái với ý
chí của người đó. Và dĩ nhiên là giao dịch dân sự này sẽ không có hiệu lực.
Ngoài việc Bộ luật Dân sự 2015 thêm cụm từ “cưỡng ép” thì Bộ luật
này đã thay thế luôn cụm từ “cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình” bằng cụm từ
“người thân thích của mình”. Đây là điểm tiến bộ, tích cực vì ở Điều 132 Bộ



luật Dân sự năm 2005 chỉ liệt kê các đối tượng trong phạm vi còn tương đối
hẹp. Mà trong thực tế, những người thân thích còn bao gồm cả bạn thân, ông,
bà, cô, dì, chú,… Vì vậy, việc thay thế cụm từ trên là rất cần thiết5.
Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ
được hành vi của mình (Điều 128 BLDS 2015)
Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời
điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu
cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần (Điều 130 BLDS 2015)
Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần khi một phần nội dung của giao dịch dân
sự vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao
dịch.
Tóm lại, các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự là một thể thống nhất
trong mối quan hệ biện chứng. Bởi vậy, xem xét một giao dịch phải đặt nó
trong một tổng thể của mối quan hệ biện chứng này. Giao dịch dân sự không
tuân thủ các điều kiện mà pháp luật quy định thì có thể bị Tòa án tuyên bố là
giao dịch vô hiệu toàn bộ hay từng phần.
III. Hậu quả pháp lý của tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và so sánh
với BLDS 2005:
1. Hậu quả pháp lý:
Như đã nói ở phần trên khi nào giao dịch dân sự nào đó bị tuyên bố vô hiệu
có nghĩa là giao dịch ấy không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên
tham gia và được nhà nước bảo đảm thực hiện. Theo điều 131 BLDS 2015
hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự được quy định như sau:

5

Đỗ Văn Đại, BLKH Những điểm mới BLDS 2015, NXB Hồng Đức 2016.



1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu,
hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để
hoàn trả.
3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa
lợi, lợi tức đó.
4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền
nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.
Khi một giao dịch vô hiệu, không có giá trị pháp lý tại thời điểm ký kết. Do
vậy không có giá trị bắt buộc đối với các bên tham gia giao dịch, nghĩa là
các bên không còn ràng buộc bởi quyền và nghĩa vụ với nhau. Khi giao dịch
dân sự vô hiệu các bên phải chấm dứt thực hiện giao dịch đó. Nếu mới xác
lập chưa thực hiện thì các bên không được thực hiện, còn trong trường hợp
đang thực hiện thì các bên không được thực hiện nữa.
*So sánh một số điểm khác biệt về hậu quả pháp lý so với BLDS 20056:
Tại khoản 2 Điều 137 BLDS 2005, “khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các
bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, nếu
không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp
tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp
luật”.
Ta thấy quy định này có một số hạn chế liên quan đến hoa lợi và lợi tức.
Liên quan đến vấn đề “hoa lợi, lợi tức” thì vào thời điểm trước lúc giao dịch
6

Đỗ Văn Đại, BLKH Những điểm mới BLDS 2015, NXB Hồng Đức 2016.



được xác lập thì hoa lợi, lợi tức chưa tồn tại nên nếu buộc bên mua trả cho bên
bán hoa lợi, lợi tức thu được thì sẽ dẫn đến tình trạng bên giao tài sản nhận
những thứ không có ở tình trạng ban đầu. Và Bộ luật Dân sự năm 2015 đã
khắc phục được nhược điểm này.
Thêm nữa, nếu trong Khoản 2 Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2005 chỉ
quy định “nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền”
thì Khoản 2 Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định cụ thể hơn
“trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để
hoàn trả”. Khi hoàn trả những điều đã nhận trong trường hợp không thể hoàn
trả được bằng vật đã giao thì nguyên tắc là số tiền phải bằng giá cả thị trường
của vật lúc giao dịch, thực hiện theo nguyên tắc này sẽ tạo sự công bằng cho
cả hai bên, cũng như dễ cho việc giải quyết của Tòa án khi xác định hậu quả
pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu. Như thế có thể thấy sự thay đổi này là
một điểm tiến bộ của Bộ luật Dân sự năm 2015, tránh sự quy định một cách
chung chung, nếu như hoàn trả bằng tiền mà thiếu căn cứ theo trị giá của vật
thì trong nhiều trường hợp sẽ dẫn đến sự thiếu công bằng cho các bên chủ thể
trong việc tham gia giao dịch.
Ví dụ như trong hợp đồng cho thuê xe máy sau khi bị tuyên bố vô hiệu,
Tòa án ra phán quyết hoàn trả lại tài sản tuy nhiên hiện nay giá trị tài sản đã bị
hao mòn (bao gồm cả hao mòn vô hình và hữu hình) theo thời gian thì sẽ
không đảm bảo được quyền lợi cho bên cho thuê, nhưng ngược lại nếu yêu
cầu bên thuê phải thanh toán giá trị tài sản tính theo thời điểm xác lập hợp
đồng thì rõ ràng, cách giải quyết đó không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của bên thuê. Bởi hiện tại xe đã bị hao mòn và bên thuê cũng đã phải trả chi
phí khấu hao tài sản trong giá thuê thiết bị.


Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015 còn bổ sung thêm Khoản 5 với nội

dung “ Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến
quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định”. Việc bổ
sung khoản 5 này là cần thiết và phù hợp với thực tiễn ngày nay.
2. Xử lý hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu:
Đây cũng là vấn đề quan trọng mà hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu
mang lại đó là vấn đề xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên có
lỗi gây ra giao dịch dân sự vô hiệu, bởi điều đó bảo vệ trực tiếp đến quyền
và lợi ích của các bên tham gia giao dịch, bảo vệ quyền và lợi ich của người
thứ ba. Trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải dựa vào
yếu tố lỗi của các chủ thể tham gia giao dịch. Thông thường đối với tất cả
các giao dịch dân sự vô hiệu, pháp luật quy định bên nào có lỗi thì phải bồi
thường cho bên không có lỗi, nếu cả hai bên cùng có lỗi thì mỗi bên chịu
phần thiệt hại của mình.
Nếu hoa lợi, lợi tức thu được từ giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm Điều
123 và 127 của BLDS 2015 thì bị tịch thu sung vào công quỹ nhà nước7.
3.Hậu quả pháp lý theo thỏa thuận được tòa án công nhận:
Trong giao dịch pháp luật dân sự nguyên tắc tự do cam kết, tự do thỏa thuận
là nguyên tắc đặc trưng, xuất phát từ tính độc lộc về sở hữu, tính tự chủ và
độc lập về tài sản của các chủ thể. Do vậy nguyên tắc thỏa thuận trở thành
nguyên tắc cơ bản và bao trùm toàn bộ ngành luật dân sự, được quy định cụ
thể tại Điều 3 BLDS 2015. Một số trường hợp giao dịch dân sự mà trong
giao dịch tài sản đưa ra là tài sản thuộc quyền sử hữu nhà nước và vậy các
bên chỉ có thể thỏa thuận với nhau về mức bồi thường mà không được đề
cập đến vấn đề tài sản.
7

Kho tài liệu.vn


Sự thỏa thuận của các đương sự có ý nghĩa rất lớn trong việc giải quyết dứt

điểm các vụ án dân sự vô hiệu, không những bớt công việc cho TAND mà
còn giảm sự khiếu nại, bức xúc kéo dài. Vì thế mà trong việc giải quyết các
hậu quả pháp lý do các giao dịch dân sự vô hiệu mang lại rất càn sự thỏa
thuận của các bên đương sự.
IV. Đánh giá:
Lịch sử lập pháp liên quan đến các vấn đề dân sự ở Việt Nam đã được hình
thành từ lâu, tuy nhiên nó chỉ được đánh dấu một bước phát triển kể khi Bộ
luật Dân sự đầu tiên của Việt Nam được ban hành (Bộ luật dân sự năm
1995), và được tiếp tục bổ sung qua những Bộ luật Dân sự tiếp theo. Đặc
biệt tại kì họp thứ 10 – Khóa XIII, Quốc hội đã thông qua Bộ luật dân sự
năm 2015, chính thức có hiệu lực từ ngày 1-1-2017.
Xét trong phạm vi những vấn đề liên quan đến giao dịch dân sự vô hiệu,
chúng ta có thấy so với Bộ luật dân sự 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015 có
nhiều điểm mới, tiến bộ, thể hiện một cách đầy đủ nhất với tính chất là luật
chung và định hướng cho việc xây dựng văn bản pháp luật điều chỉnh quan
hệ dân sự đặc thù, xử lí được những hầu hết những bất cập của Bộ luật Dân
sự hiện hành, giải quyết được phần lớn những vướng mắc trong thực tiễn
cuộc sống.
Để tạo cơ chế pháp lý điều chỉnh về giao dịch dân sự linh hoạt hơn, hạn chế
rủi ro pháp lý và tuyên bố vô hiệu một cách tùy tiện, tôn trọng được tự do ý
chí của các chủ thể. Bộ luật dân sự mới 2015 đã sửa đổi bổ sung một số nội
dung cơ bản về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, đường lối giải
quyết giao dịch dân sự vô hiệu, thời hiệu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.
Để từ đó có thể áp dụng, giải quyết tốt hơn các giao dịch dân sự.
C. PHẦN KẾT LUẬN:


Từ những điều đã phân tích ở trên chúng ta thấy rằng, trong cuộc sống,
những tình huống nhiều khi diễn ra theo những hướng hết xức phức tạp, đòi
hỏi những người giải quyết phải có cái nhìn thấu đáo, công bằng, quan trọng

nhất vẫn là am hiểu, nắm vững pháp luật. Sự đa dạng của các vấn đề trong
thực tiễn cũng đặt ra yêu cầu không ngừng hoàn thiện đối với hệ thống pháp
luật, và ở Việt Nam, điều này được thực hiện thông qua việc sửa đổi, bộ
sung các Luật, Bộ luật để phù hợp với thực tiễn qua từng giai đoạn của lịch
sử. Nhìn một cách khách quan có thể thấy, dù ít hay nhiều thì Bộ luật sau
luôn có những điểm tích cực, khắc phục được phần nào những hạn chế của
Bộ luật trước. Mặc dù, nhìn nhận một cách trung thực thì tính hoàn bị của
Luật luôn là tương đối nhưng với sự tiếp thu, sang tạo, phát triển, chúng ta
hoàn toàn có thể đặt niềm tin vào tính sát hợp ngày càng cao của sát hợp với
thực tiễn, đặc biệt trong lĩnh vực vốn phức tạp như lĩnh vực dân sự.


Danh mục tài liệu tham khảo
[1]. Bộ luật Dân sự năm 2005, Nxb Chính trị quốc gia, 2014;
[2]. Bộ luật Dân sự năm 2015, Nxb Chính trị quốc gia, 2016;
[3]. Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học Những điểm mới của Bộ luật Dân sự
năm 2015, Nxb Hồng Đức, 2016

MỤC LỤC:

Trang


A. PHẦN MỞ ĐẦU:…………………………………………………...…1
B. PHẦN NỘI DUNG:………………………………………………...….1
I. Giao dịch dân sự vô hiệu và điều kiện có hiệu lực :……………...……...2
1. Giao dịch dân sự:………………...………………………………………2
2. Điều kiện giao dịch dân sự có hiệu lực:……………………….…………2
II. Giao dịch dân sự vô hiệu:……………………………………..…………5
1. Khái niệm:…………..……………………………………………………5

2. Đặc điểm:…………………………………………………………………6
3. Các loại giao dịch dân sự vô hiệu và so sánh với BLDS 2005:……….….7
III. Hậu quả pháp lý giao dịch dân sự và so sánh với BLDS 2005:…......…13
IV. Đánh giá:…………………………………………..……………….…..17
C. PHẦN KẾT LUẬN:……………………………………...…………….18




×