Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.14 KB, 89 trang )

Chương 1
GIỚI THIỆU CHUNG
Sinh hoạt chuyên môn là cụm từ rất quan thuộc đối với mỗi người giáo
viên bởi lẽ đó là một việc làm thường xuyên trong hoạt động của nhà trường.
Đây là một trong các hình thức bồi dưỡng giáo viên, nhằm nâng cao năng lực
chuyên môn của giáo viên, từ đó nâng cao chất lượng học tập cho học sinh và
nâng cao chất lượng giáo dục nói chung.
Theo quy định, sinh hoạt chuyên môn được thực hiện hàng tuần ở tất cả
các trường, mỗi giáo viên tham dự sinh hoạt chuyên môn ít nhất 2 lần trong một
tháng và họ đều có sổ dự giờ, sổ ghi chép học tập nghiệp vụ cùng với các loại hồ
sơ sổ sách chuyên môn khác như sổ điểm, sổ chủ nhiệm, sổ soạn bài v.v...
Các hình thức tổ chức sinh hoạt chuyên môn phổ biến hiện nay bao gồm:
- Học tập chuyên môn nghiệp vụ. Nội dung học tập có thể theo các chuyên
đề được xác định dựa trên nhu cầu của giáo viên của mỗi huyện, tỉnh hoặc theo
chỉ đạo chung của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nội dung học tập còn là các văn bản
chỉ đạo mới hoặc những nhiệm vụ mới trong năm học.
- Dự giờ học tập đồng nghiệp. Việc dự giờ có thể diễn ra tại trường hoặc
cụm trường, chủ yếu theo các chuyên đề được xác định trong kế hoạch năm học.
Ngoài ra, việc dự giờ tại trường cũng có thể theo chuyên đề nào đáp ứng nhu
cầu của giáo viên trong trường. Thông thường một giáo viên được đánh giá là
vững vàng về chuyên đề nào sẽ được phân công chuẩn bị và thực hiện giờ dạy
được coi là "giờ dạy mẫu" của chuyên đề đó.
Người dự giờ sẽ theo dõi các hoạt động dạy của giáo viên để nhận xét về
phương pháp, về việc phân bố thời gian, về các khâu, các bước của giờ dạy so
với sách giáo khoa, sách giáo viên và các tài liệu hướng dẫn khác. Người dự giờ
cũng chú ý đến các câu hỏi, các lời hướng dẫn của giáo viên, đồ dùng giáo viên
sử dụng để xem có gì sai sót, bất hợp lý không.

1



Mặc dù Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã xác định bồi dưỡng qua sinh
hoạt chuyên môn là hoạt động quan trọng nhằm giúp cho giáo viên có đủ năng
lực chủ động lựa chọn nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù
hợp đối tượng học sinh cụ thể của lớp mình, trường mình, song với cách dự giờ
và nhận xét như mô tả ở trên, mục tiêu bồi dưỡng giáo viên khó có thể đạt được.
Một số lý do có thể kể ra là: 1) Thứ nhất, giờ học được dự thường là giờ học với
"kịch bản" được chuẩn bị rất kỹ vì đây là giờ mẫu minh họa cho nội dung
chuyên đề, những mặt mạnh, kể cả năng khiếu, sở trường của giáo viên minh
họa được sử dụng để thể hiện giờ dạy, do đó những gì quan sát được không giúp
tháo gỡ những khó khăn của giáo viên khác và họ khó có thể áp dụng những gì
học được vào thực tế dạy học của mình; 2) Thứ hai, nếu áp dụng những gì học
được của đồng nghiệp, việc chỉ tập trung quan sát và nhận xét các hoạt động của
giáo viên dễ dẫn đến việc áp dụng một cách máy móc, không phù hợp với đặc
điểm học sinh và khả năng của chính giáo viên; 3) Thứ ba, do chỉ tập trung quan
sát và nhận xét giáo viên nên những góp ý phê bình thường là áp đặt theo chủ
quan của người nói, chung chung, tạo áp lực cho người dạy minh họa và làm nản
lòng những giáo viên sẽ được phân công dạy minh họa. Hơn nữa, những nhận
xét cũng thiếu tính thuyết phục, thậm chí gây nên những căng thẳng không đáng
có do không dựa vào chứng cứ về việc học của học sinh.
Làm thế nào để qua mỗi buổi sinh hoạt chuyên môn từng giáo viên sẽ học
tập được một điều gì đó thật hữu ích cho chuyên môn nghiệp vụ của mình? Làm
thế nào để sinh hoạt chuyên môn trở thành "món ăn tinh thần" không thể thiếu
của mỗi thầy cô giáo? Làm thế nào để sinh hoạt chuyên môn mang lại hiệu quả
thiết thực nhằm nâng cao năng lực chuyên môn và mang lại hiệu quả học tập
cho học sinh, nâng cao chất lượng giáo dục?
CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC HỌC CỦA HỌC SINH
Để học sinh tham gia các hành động học tập thực sự, có ý nghĩa và có
chất lượng, các em cần có các hành động: tìm kiếm, nghiên cứu, phân tích, thực
hành, chia sẻ,... với hoạt động học tập cụ thể: thu thập, đọc, nghe, xem, quan sát,
2



suy nghĩ, so sánh, phân loại, áp dụng, sáng tạo, thảo luận, trình bày, v.v... Các
hành động đó phải dựa trên cơ sở của sự hứng thú, sự chủ động, sự thoải mái,
hợp tác, có đủ thời gian, được chia sẻ và phản hồi,...
Tuy nhiên, việc học của học sinh hiện nay tồn tại 3 vấn đề cơ bản: (i) Môi
trường lớp học (môi trường tinh thần) chưa thân thiện, thoải mái; (ii) Học sinh
chưa thấy hứng thú thực sự nên học tập chưa tích cực, chủ động; (iii) Chất lượng
việc học chưa cao.
 (i) MÔI TRƯỜNG LỚP HỌC CHƯA THỰC SỰ THÂN THIỆN, THOẢI MÁI
Môi trường lớp học thân thiện và thoải mái là điều kiện quan trọng để học
sinh học tập tốt. Môi trường đó là môi trường tinh thần, thể hiện chủ yếu ở mối
quan hệ giữa các thành viên trong lớp học.
Trong nhiều lớp học, quan hệ giữa giáo viên và học sinh còn thể hiện tính
khuôn mẫu cứng nhắc, chưa thực sự tin cậy và thoải mái; thiếu quan tâm lắng
nghe lẫn nhau; thậm chí có lớp học còn mang tính kỷ luật cao, khác xa với mối
quan hệ giao tiếp thông thường làm cho việc học không thoải mái, thiếu tự nhiên
và hấp dẫn. Một số giáo viên tự cho mình có quyền lực tối cao trong lớp học và
luôn phân biệt bằng khoảng cách với học sinh. Một số giáo viên yêu cầu học
sinh phải lễ phép và tôn trọng đến mức quá đáng, thường xuyên bắt lỗi học sinh
và làm cho các em sợ sệt, lo lắng, không dám trình bày suy nghĩ của mình với
thầy cô. Một số giáo viên lầm tưởng rằng quản lý lớp học bằng kỷ luật, làm cho
học sinh biết sợ sẽ tạo ra nền nếp tốt. Đôi khi, vì bất lực mà giáo viên có xử sự
bằng lời nói và hành vi tiêu cực với học sinh. Chúng ta có thể thấy rõ tính kỷ
luật cứng nhắc ở những khẩu hiệu trong lớp học như: "Kỷ luật, trật tự", "Kỷ
cương và nền nếp", những tiếng gõ thước mạnh và liên hồi để nhắc học sinh trật
tự, chú ý vào bài học hay việc học sinh luôn phải "ngồi đẹp" theo yêu cầu giáo
viên, chỉ được đứng lên, ngồi xuống khi được phép của giáo viên... Giáo viên
thường đưa học sinh vào nền nếp, kỷ luật lớp học theo ý chủ quan vì cho rằng
học sinh phải có nghĩa vụ và trách nhiệm như thế và quên mất những quyền lợi

cơ bản của các em. Điển hình của những lớp học có kỷ luật còn thể hiện ở việc
3


bố trí kiểu ngồi học của học sinh phổ biến theo mô hình tất cả học sinh đều ngồi
nhìn hướng lên phía bục giảng, học sinh khó có thể tự nhiên khi trao đổi, cộng
tác với bạn học khi các em thấy cần thiết.
Hơn nữa, quan hệ lớp học chưa thể hiện sự chấp nhận lẫn nhau. Sự chấp
nhận lẫn nhau giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với nhau là hiểu nhau
thực sự, thừa nhận thực tại, tin cậy và lắng nghe lẫn nhau. Trong nhiều giờ học,
chúng ta thường thấy chủ yếu giáo viên hỏi - học sinh trả lời nhưng hiếm khi
thấy các em có cơ hội chủ động hỏi giáo viên, bạn bè hoặc thắc mác những gì
mình chưa hiểu. Giáo viên chưa chấp nhận sự khác nhau của từng em học sinh.
Cụ thể, họ có xu hướng quan tâm nhiều hơn, hài lòng, ưu ái và chấp nhận những
học sinh nhanh chóng tiếp thu bài học, làm tốt các nhiệm vụ do giáo viên giao
cho và có thái độ ngược lại với các em học sinh còn lại. Hơn thế nữa, nhiều cán
bộ quản lý và giáo viên luôn cố đòi hỏi và phấn đấu đến "sự đồng đều" về kết
quả thành tích học tập của học sinh.
Chúng ta cũng thường thấy giáo viên phàn nàn về chất lượng hoặc kết quả
học tập của các em học sinh (đặc biệt các học sinh có lực học trung bình trở
xuống) đồng thời lấy các lý do từ học sinh (chưa chăm học, chưa chú ý nghe
giảng, tiếp thu chậm,...) để giải thích cho những kết quả đó. Hiếm khi thấy giáo
viên nhận trách nhiệm về bản thân mình. Họ chưa có thói quen suy nghĩ: mọi
việc làm suy cho cùng đều bắt đầu từ việc học của các em và cuối cùng cũng vì
kết quả và thành tích học tập của từng em học sinh. Đồng thời, các em đến
trường để học vì các em là học sinh (khác giáo viên), khi xem xét kết quả việc
học tập của học sinh phải căn cứ từ việc dạy của giáo viên, nếu không có việc
học của các em thì không có việc dạy của giáo viên.
Quan hệ lớp học với sự chấp nhận lẫn nhau là điều kiện đặc biệt quan
trọng để tạo nên sự tương tác và phản hồi đa chiều trong các hoạt động học tập.

Khi học sinh không có sự chấp nhận của giáo viên, các em cũng khó thực sự
chấp nhận giáo viên. Giáo viên biết chấp nhận học sinh thì học sinh sẽ chấp
nhận giáo viên, khi đó học sinh cũng sẽ biết chấp nhận lẫn nhau. Khi đã chấp
4


nhận và tôn trọng lẫn nhau, học sinh sẽ cộng tác với giáo viên và bạn bè trong
giờ học. Lúc đó, lớp học sẽ trở nên nền nếp mà thoải mái, việc học sẽ thân thiện,
có chất lượng hơn.
Nhiều giáo viên vẫn nghĩ rằng, môi trường lớp học đã thân thiện và thoải
mái khi lớp học đã được trang trí sinh động, đẹp mắt hoặc treo các khẩu hiệu
mới, kê bàn ghế theo cách mới... Nhưng thực tế thì việc làm đó đã thực sự đem
lại sự thân thiện và thoải mái trong học tập của học sinh chưa? Điều đó, nếu
không có sự quan sát, suy ngẫm việc học của mỗi học sinh thì giáo viên không
dễ dàng nhận ra.
Trong nhà trường, học sinh học theo các lớp từ đầu cấp đến cuối cấp. Nếu
suốt trong quá trình đó, môi trường lớp học thường xuyên thiếu thân thiện và
thoải mái thì sẽ tạo ra nền nếp và thói quen học tập thụ động. Do đó học sinh
không thể có động lực tham gia hoạt động học tập một cách chủ động, tích cực.
 (ii) HỌC SINH KHÔNG HỨNG THÚ TRONG KHI HỌC (BIỂU HIỆN RÕ
Ở THÁI ĐỘ, LỜI NÓI, NÉT MẶT, CỬ CHỈ, ÁNH MẮT, HÀNH VI...).

Đứng trước cửa lớp các giờ học hàng ngày, chúng ta dễ bắt gặp tình trạng
có những em học sinh uể oải, rầu rĩ và ánh mắt thiếu tập trung vào bài học. Đó là
do nội dung bài học không phù hợp với các em. Học sinh giỏi thì không thích
học vì bài học quá dễ và không thú vị, còn học sinh yếu thì không hiểu bài,
không theo kịp tiến độ bài học. Khi nội dung bài học nhiều, cần nhiều hoạt động
nên giáo viên phải đẩy nhanh tốc độ bài học, các em học sinh trung bình trở
xuống dễ cảm thấy chán nản và bị tụt lại phía sau, thậm chí nhiều em học sinh
yếu hay bị giáo viên bỏ quên. Các em thấy chán nản, không hứng thú do nội

dung bài học và phương pháp tổ chức hoạt động học tập của giáo viên lệ thuộc
vào sách giáo khoa (SGK) và sách giáo viên (SGV) nên không phù hợp bản
thân.
Ngoài ra, chúng ta còn có thể bắt gặp hình ảnh những lớp học các em học
sinh thi đua nhau chơi trò chơi, cười cợt, thi đua nhau trả lời những câu hỏi rất
đơn giản, có tính ghi nhớ, hoặc nêu lại những gì đã viết trong SGK. Thoạt nhìn,
5


có vẻ các em đang hứng thú học tập nhưng đó không phải hứng thú thực sự vì
những hoạt động đó không có ý nghĩa gì với các em. Đó chính là sự hứng thú
giả tạo, không có tác dụng khích lệ động lực và phát triển nâng cao chất lượng
học tập cho học sinh.
Trên thực tế nhiều giờ học, việc học của học sinh khác với ý định của giáo
viên nhưng nó vẫn diễn ra, kéo dài vì giáo viên không quan tâm để ý hoặc không
nhận ra. Do đó, học sinh không hứng thú, quan tâm vào bài học và không thể
học tốt theo những gì giáo viên muốn. Mặt khác, khi các hoạt động học tập diễn
ra hình thức, hời hợt sẽ tạo cho học sinh có cảm giác nhàm chán, không hứng
thú và quan tâm.
 (iii) CHẤT LƯỢNG VIỆC HỌC CỦA HỌC SINH CHƯA CAO HỌC SINH
"HỌC NHIỀU" NHƯNG "HIỂU ÍT"

Đây là vấn đề khá phổ biến, thể hiện cụ thể ở việc các em phải tham gia
nhiều hoạt động trong một giờ học (thường 4-6 hoạt động) nhưng lại ít có ý
nghĩa trong việc phát triển hiểu biết và năng lực của các em. Tham gia thực hiện
nhiều hoạt động nhưng chủ yếu là các hoạt động học tập hình thức, kém ý nghĩa.
Tính hình thức thể hiện ở chỗ các hoạt động đó không phù hợp với thực tế năng
lực và sự quan tâm của các em. Hơn nữa, lượng nội dung trong mỗi bài học khá
nhiều khiến học sinh luôn phải chạy đua với thời gian để hoàn thành hết nội
dung bài học, tốc độ giờ học thường diễn ra khá nhanh. Học sinh không kịp hiểu

bài hoặc muốn hiểu thêm nhưng không còn cơ hội. Nhiều khi các em chỉ cần
biết, ghi nhớ và làm thuần thục các kỹ năng thông thường (đọc, viết, nghe, nói,
tính toán).
Chính vì phải đẩy nhanh tiến độ học tập và nội dung học tập không phù
hợp với nhu cầu, khả năng của các đối tượng học sinh nên các hoạt động học tập
(kể cả hoạt động nhóm và cá nhân) thường diễn ra vội vàng, hình thức, thiếu tự
nhiên và tính cộng tác.

6


Nhìn qua, chúng ta thường nghĩ các em đang học nhưng khi quan sát và
suy ngẫm sâu sắc về việc học của các em, trong nhiều thời điểm trong một giờ
học, chúng ta thấy các em chưa học thực sự.
Mặc dù học nhiều nội dung nhưng nội dung học tập ở mức độ nhận thức
thấp, nông cạn và kém ý nghĩa. Tính kém ý nghĩa thể hiện ở chỗ các hoạt động
học tập được thực hiện bằng các nhiệm vụ, bài tập, câu hỏi giao cho học sinh
thường không đòi hỏi học sinh phải suy nghĩ sâu, mỗi khi có một học sinh trả
lời đúng câu hỏi do giáo viên đưa ra thì việc học lại chuyển sang nội dung khác.
Có giờ học, các em chỉ cần rèn luyện làm đi làm lại cho đúng và thành thạo các
bài tập nhưng chưa hiểu sâu ý nghĩa hoặc mối liên quan những nội dung đó. Mặt
khác, vì nội dung bài học nhiều, học sinh phải đẩy nhanh tiến độ học theo kịp sự
điều khiển của giáo viên, dẫn đến các em không đủ thời gian suy nghĩ, đào sâu,
phát triển mở rộng hiểu biết, nhiều em không kịp hiểu bài, tụt lại phía sau. Các
em ít có cơ hội đào sâu suy nghĩ, hiểu sâu sắc ý nghĩa bản chất, khám phá và mở
rộng hiểu biết, hình thành các năng lực tư duy, năng lực học tập, khả năng diễn
đạt, tăng cường thái độ học tập, động lực học tập...
Việc học đó của các em chỉ là "tìm kiếm câu trả lời đúng", nông cạn và
kém ý nghĩa. Như vậy, xét theo quan điểm học tập thực sự và học tập có ý nghĩa
thì chất lượng học tập của học sinh và ở nhiều giờ học, môn học chưa đảm bảo.

Các em học nhiều (thời gian và số lượng kiến thức, hoạt động học tập nhiều)
nhưng hiểu ít (thiếu độ sâu và chiều rộng hiểu biết, thiếu các năng lực mới).
Tóm lại, các vấn đề lớn và căn bản liên quan đến việc học của học sinh
nêu trên quyết định trực tiếp và lâu dài đến chất lượng việc học của từng học
sinh, ở mọi lớp học và bài học. Các vấn đề đó không có tính chất đơn lẻ, nó có
mối quan hệ khăng khít với nhau, tác động qua lại với nhau. Đồng thời, chúng
cùng có một nguyên nhân xuất phát từ nhận thức và năng lực chuyên môn của
người giáo viên.

7


CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC PHÁT TRIỂN CHUYÊN MÔN
CỦA GIÁO VIÊN
Các vấn đề liên quan đến việc học của học sinh nêu trên có các nguyên nhân
cơ bản sau:
a) Giáo viên không biết hoặc chưa nhận ra được vấn đề liên quan đến việc
học của học sinh, chưa quan tâm và chưa thấy được ý nghĩa của vấn đề đó. Kể
cả khi giáo viên có nhận ra vấn đề nhưng tự bản thân họ chưa biết cách tìm và
phân tích nguyên nhân, rồi xác định làm thế nào để cải thiện tình hình đó. Nhiều
giáo viên chưa có ý thức thường xuyên tự đặt ra và tìm câu trả lời cho những câu
hỏi sau:
- Học sinh học như thế nào?
- Học sinh có học thực sự không?
- Việc học đó ý nghĩa gì với các em? Tại sao?
- Từng em học sinh học như thế nào?
- Sự thay đổi hoặc phản ứng của từng em học sinh trong các thời điểm
khác nhau của giờ học như thế nào? Tại sao?...
b) Do phương thức dạy học "Tìm kiếm câu trả lời đúng" đã trở thành lối
mòn trong mỗi giáo viên. Giáo viên thường dạy học theo kinh nghiệm, truyền lại

và phụ thuộc vào định hướng của SGK và SGV. Họ chưa biết lựa chọn nội dung
và phương pháp dạy học phù hợp với các em, cũng như điều chỉnh việc dạy phù
hợp với việc học của các em trong những tình huống cụ thể. Do vậy, giúp giáo
viên thay đổi các thói quen, kỹ năng dạy học truyền thống rất cần có cách tiếp
cận mới, lâu dài và kiên trì trong bồi dưỡng chuyên môn cho họ.
c) Giáo viên áp dụng cách quản lý lớp học kiểu truyền thống nên tạo ra
văn hóa lớp học truyền thống với biểu hiện như: nhiều kỷ luật, nghi thức, thiếu
đối thoại đa chiều giữa các thành viên trong lớp học (giáo viên - học sinh, học
sinh - học sinh, học sinh - giáo viên). Giáo viên chỉ quan tâm mối quan hệ bản
thân với "học sinh - cả lớp), chưa có ý thức và thói quen quan tâm chú ý riêng
tới từng đối tượng học sinh. Trong mối quan hệ đó, thói quen tạo ra quyền lực
8


và những quy tắc lớp học cứng nhắc của người giáo viên vô hình chung tạo ra
những khoảng cách thầy và trò, trò với trò.
Hiện nay, nhiều giáo viên vẫn chưa học được cách chấp nhận học sinh - là
một điều kiện đặc biệt quan trọng trong giáo dục lấy học sinh làm trung tâm.
Giáo viên chưa hiểu được chính sự tôn trọng, chấp nhận nhân cách học sinh là
những điều kiện quan trọng đầu tiên trong giáo dục phát huy tính tích cực, lấy
học sinh làm trung tâm.
d) Nhìn chung, còn nhiều giáo viên thiếu các năng lực mới như: các hiểu
biết liên quan đến nội dung dạy học, các kiến thức, kỹ năng mới về tâm lý, giáo
dục học như năng lực quan sát, lắng nghe, cảm nhận, phản ứng tinh tế và nhạy
cảm trước việc học của riêng từng cá nhân học sinh - một điều rất cần thiết với
giáo viên để đáp ứng tốt nhất việc học của từng cá nhân học sinh.
Giáo viên không hoặc chưa có khả năng tự giám sát, theo dõi và điều
chỉnh bản thân do đặc tính môi trường làm việc có tính đơn lẻ giữa các lớp học
khác nhau, do vậy công việc của họ bị ngăn cách bởi những bức tường hữu hình
và vô hình.

Để khắc phục được các vấn đề liên quan đến việc học của học sinh hiện
nay, cần phải có cách tiếp cận mới để giúp giáo viên nhận ra vấn đề, hiểu rõ
nguyên nhân, sự cần thiết cũng như cách thay đổi.
Trước tiên là giáo viên phải tự mình nhận ra vấn đế đó có liên quan bản
thân mình cũng như với đồng nghiệp trong trường mình. Từ việc nhận ra vấn đề
và nguyên nhân, hiểu rõ sự cần thiết và ý nghĩa của việc phải thay đổi, giáo viên
sẽ biết cách và có khả năng cải thiện chất lượng việc học của học sinh và đổi
mới nhà trường.
Như vậy, việc phát triển năng lực chuyên môn của giáo viên là yêu cầu tất
yếu, cấp thiết và phải có chính sách cụ thể của các cấp quản lý giáo dục và mỗi
nhà trường.
Để nâng cao năng lực chuyên môn cho giáo viên, chúng ta cần phải thực
hiện các nhiệm vụ cơ bản sau đây:
9


 Trước hết, cần phải làm cho mỗi giáo viên nhận ra một cách đầy đủ,
sâu sắc các vấn đề liên quan đến phát triển chuyên môn của mình
Hiện nay, nhiều giáo viên chưa hiểu đúng về năng lực bản thân và chưa
chấp nhận bản thân và đồng nghiệp. Mỗi khi có đánh giá, nhận xét hay xếp loại
chuyên môn trong các kỳ đánh giá xếp loại theo quy định của Phòng, Sở Giáo
dục và Đào tạo, giáo viên thường có xu hướng tự nâng mức bản thân bằng hoặc
cao hơn người khác. Giáo viên thường tự đánh giá mình đạt mức tốt, khá (hiếm
khi tự đánh giá trung bình, yếu). Thực tế, cơ bản họ không muốn đánh giá bản
thân thấp hơn người khác kể cả khi họ hiểu rằng trên thực tế mình chưa đạt được
mức tự đánh giá. Mặt khác, giáo viên có xu hướng bằng lòng với năng lực bản
thân. Đặc biệt, với những giáo viên được coi là giáo viên giỏi luôn bằng lòng với
kết quả đánh giá hiện tại và không tiếp tục phấn đấu, học hỏi chuyên môn. Họ
không phấn đấu đạt được những tiêu chuẩn cao hơn của người giáo viên trong
thời kỳ mới. Thậm chí, ngay cả khi nhu cầu học tập hiện tại của học sinh chưa

được đáp ứng họ cũng chưa nhận ra hoặc chưa quan tâm đến.
 Giúp giáo viên có khả năng nhận ra, biết chấp nhận mỗi cá nhân
học sinh
Khi biết chấp nhận học sinh như một cá thể độc lập, họ sẽ biết chấp nhận
bản thân và ngược lại. Chấp nhận học sinh là điều kiện cần để tiến hành giáo
dục theo quan điểm giáo dục lấy học sinh làm trung tâm. Người giáo viên có
biết chấp nhận học sinh thì mới có thể tạo ra môi trường học tập thoải mái và
tiến hành bài học có ý nghĩa. Họ có thể thể hiện tình yêu thương, trân trọng với
tất cả học sinh như con em của chính mình, nếu một lớp học có 30 em học sinh
thì cả 30 em đều được yêu quý như nhau.
Hiện nay, các cấp quản lý giáo dục luôn yêu cầu và mong muốn giáo viên
quan tâm đến mọi đối tượng học sinh (đặc biệt những học sinh có khó khăn
trong học tập) trong quá trình dạy học nhưng nhận ra lúc nào cần phải quan tâm
như thế nào, làm thế nào để học có thói quen tự giác, thường xuyên quan tâm
đến học sinh thì không dễ dàng.
10


 Giáo viên cần hiểu đúng và áp dụng được phương pháp giáo dục
mới vào thực tế giảng dạy hàng ngày
Thực tế hiện nay đội ngũ giáo viên tiểu học được đào tạo và bồi dưỡng
hàng năm về phương pháp dạy học mới. Nhưng giữa lý thuyết và thực tế, giữa
nhận thức và hành động luôn có khoảng cách lớn. Trong những chương trình bồi
dưỡng vẫn còn nhiều giáo viên chưa hiểu đúng và đủ bản chất vấn đề. Chỉ khi
bắt đầu vào vận dụng thực tế dạy học trên lớp, họ mới thực sự gặp phải khó
khăn.
Nhiều giáo viên có thể biết và hiểu lý thuyết nhưng trong thực hành tác
nghiệp, trước những tình huống đa dạng, phức tạp nảy sinh trong việc học của
học sinh, việc vận dụng lý thuyết để giải quyết các vấn đề thực tế còn nhiều khó
khăn. Thậm chí, do có nhiều giáo viên hiểu chưa đúng, nên số đông trong số họ

còn e ngại và thiếu quyết tâm vận dụng cái mới.
Khi thực hiện Chương trình Giáo dục, nhiều giáo viên vẫn tin rằng chỉ cần
cố gắng dạy học theo đúng, đủ những gì theo SGK, SGV là tốt rồi. Từ đó có ý
thức thực hiện dạy học theo khuôn mẫu một cách thụ động. Khi họ muốn thay
đổi cho phù hợp thực tế nhưng lại gặp khó khăn khi không biết phải thay đổi
như thế nào và làm cách nào để thay đổi.
 Giáo viên cần được khuyến khích và hỗ trợ tự học nâng cao năng
lực và đổi mới phương pháp dạy học
Chủ trương của ngành Giáo dục - Đào tạo khuyến khích giáo viên tự học
nâng cao năng lực chuyên môn và đổi mới phương pháp dạy học, song trên thực
tế thì việc khuyến khích và hỗ trợ giáo viên thực hiện việc tự học còn hạn chế.
Giáo viên sẽ tự học những gì, như thế nào, lúc nào và ở đâu để đảm bảo hiệu
quả thiết thực cho công việc dạy học hàng ngày, đáp ứng tốt việc học của học
sinh là những câu hỏi lớn mỗi giáo viên không thể tự mình giải quyết. Mặc dù
hầu hết giáo viên đều được khuyến khích học để nâng cao trình độ đào tạo (đạt
chuẩn và trên chuẩn trình độ đào tạo) nhưng năng lực chuyên môn đáp ứng đổi
mới phương pháp dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm còn nhiều hạn
11


chế. Điều này thể hiện ở thực trạng hiện nay, trước định hướng của các cấp quản
lý giáo dục cho phép và khuyến khích giáo viên vận dụng, điều chỉnh nội dung
các bài học trong SGK cho phù hợp với các đối tượng học sinh nhưng do chưa
có hiểu biết sâu rộng về nội dung bài học đó nên nhiều giáo viên chưa dám hoặc
không có khả năng thực hiện, họ vẫn chỉ dạy những gì có sẵn trong SGK. Mặc
dù tỉ lệ giáo viên đạt trình độ đào tạo trên chuẩn (đã tốt nghiệp đại học, cao
đẳng) khá cao nhưng năng lực chuyên môn vẫn chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới
hiện nay. Điều đó chứng tỏ cơ hội học tập thực sự có ý nghĩa để nâng cao năng
lực chuyên môn của giáo viên vẫn chưa đảm bảo.
Trong khi cơ hội tự học chỉ có thể được tạo ra và phát huy trên cơ sở tạo

ra các "tình huống học tập cộng tác" giữa các giáo viên. "Tình huống học tập
cộng tác" đó chỉ có thể xuất hiện khi các nhà trường tổ chức cho giáo viên các
buổi để họ "chia sẻ chuyên môn" trong sinh hoạt chuyên môn theo cách tiếp cận
mới. Trong đó, họ có cơ hội được học hỏi bằng quá trình tự trải nghiệm, học hỏi
từ đồng nghiệp nhờ thiết kế giáo án, tiến hành, dự giờ nhiều bài học ở các lớp
học khác nhau. Đó là con đường học tập thiết thực, hiệu quả và phù hợp nhất
hiện nay đối với tất cả các giáo viên.
 Đổi mới cách tiếp cận và phương thức tổ chức thực hiện sinh hoạt
chuyên môn ở nhà trường
Hiện nay, ở tất cả các nhà trường, hàng tuần và tháng vẫn duy trì truyền
thống và nền nếp tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn cho giáo viên. Tuy
nhiên, cách tiếp cận và phương thức tổ chức thực hiện vẫn chưa thực sự đổi mới,
chưa mang tính chất chia sẻ chuyên môn vì vẫn còn thiên về đánh giá, đối chiếu
so với tiêu chuẩn hoặc có tính "làm mẫu" của giáo viên giỏi. Trong khi thực tế
năng lực mỗi cá nhân giáo viên khác nhau, hoàn cảnh và điều kiện dạy học khác
nhau, việc học của học sinh ở các giờ học lại luôn luôn biến đổi. Do đó, tất cả
các giáo viên cần được tham gia vào quá trình học tập bằng thực tế theo phương
thức chia sẻ chuyên môn.

12


Người giáo viên luôn luôn cần được trau dồi, bổ sung, và nâng cao khả
năng chuyên môn để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người học, sự biến đổi
của các yếu tố trong quá trình giáo dục (nội dung chương trình, phương pháp,
người học,...).
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, cần có một cách tiếp cận mới, quan
trọng và có ý nghĩa để phát triển các năng lực chuyên môn giáo viên đó là tạo cơ
hội cho giáo viên được thường xuyên tham gia sinh hoạt chuyên môn. Đây là
cách tiếp cận mới giúp giáo viên học tập lẫn nhau trong thực tế và qua thực tế

thông qua trải nghiệm thực sự vào quá trình dự giờ-quan sát-suy ngẫm và chia
sẻ thực tế việc học của học sinh để phát triển các năng lực mới và cần thiết, đáp
ứng yêu cầu nâng cao chất lượng học tập cho học sinh. Hơn thế nữa, thực tế đã
chứng minh, sinh hoạt chuyên môn không chỉ giúp nâng cao năng lực chuyên
môn cho mỗi giáo viên mà còn xây dựng được "tính đồng nghiệp" tốt đẹp trong
một "cộng đồng học tập"; giúp họ tìm thấy ý nghĩa và những giá trị mới và sự
thú vị của nghề nghiệp, qua đó khích lệ sự say mê chuyên môn, tích cực và chủ
động xây dựng lại và đổi mới nhà trường.

13


Chương 2
NHỮNG ĐIỂM CHÍNH CỦA SINH HOẠT CHUYÊN MÔN
TRIẾT LÝ CỦA SINH HOẠT CHUYÊN MÔN MỚI
Khi đề cập đến sinh hoạt chuyên môn, thì câu hỏi quan trọng nhất mà
chúng ta cần đặt ra là "Tại sao chúng ta cần thay đổi cách dạy học?". Một số
người thì cho rằng đó là vì chương trình thay đổi. Theo chương trình giáo dục
hiện đại thì học sinh được coi là trung tâm của quá trình dạy và học. Chúng ta
cũng có thể hỏi "Lấy học sinh làm trung tâm của quá trình dạy và học nghĩa là
gì?". Có thể sẽ có một vài người cho rằng đó là các vấn đề liên quan đến kỹ
thuật, ví dụ như cách đặt câu hỏi, cách tổ chức hoạt động nhóm hay sử dụng
giáo cụ trực quan vào bài học.
Để thay đổi các kỹ thuật dạy học, giáo viên cần phải thận trọng. Ở một số
trường, giáo viên thường cảm thấy vui khi giới thiệu nhiều thứ "mới" trong lớp
học của họ và họ tin rằng việc dạy học đã đổi mới theo hướng dạy học tích cực.
Điều này có thực sự đúng không? Có một nguy cơ lớn là giáo viên tự hài lòng
với bản thân trong khi thực tế thì lại rất ít học sinh có thể tiếp thu hết những cái
mới đó. Trải qua một thời gian làm theo cách đó, khi nhận ra kết quả học tập của
học sinh vẫn nghèo nàn, phụ huynh và giáo viên lại quay trở về cách dạy truyền

thống dựa trên ghi nhớ và ôn luyện tập trung vào thời gian ngay trước kỳ thi.
Dưới đây là một số các quan điểm được coi như là triết lý của sinh hoạt
chuyên môn: i) Đảm bảo cơ hội học tập cho mọi em học sinh; ii) đảm bảo các cơ
hội phát triển chuyên môn cho mọi giáo viên; iii) đảm bảo cơ hội cho càng nhiều
phụ huynh học sinh tham gia vào quá trình học tập càng tốt.
 (i) ĐẢM BẢO CƠ HỘI HỌC TẬP CHO MỌI EM HỌC SINH
Học sinh được coi là trung tâm của việc dạy và học bởi vì bản thân giáo
dục là dành cho học sinh. Thuật ngữ "học sinh" ở đây hàm ý là những ai? Có
phải nó đề cập đến một nhóm học sinh có thể nhanh chóng đáp ứng các yêu cầu
của giáo viên? Thế còn những em có vẻ chậm hiểu và chậm đáp ứng yêu cầu của
14


giáo viên thì sao? Trên thực tế, nhiều học sinh bị bỏ rơi và bị giáo viên đánh giá
thấp. Tình trạng này dẫn đến sự phân chia lớn trong lớp học giữa nhóm "các em
học tốt" và "những em còn lại". Trên thực tế thì mỗi em học sinh đều phải là một
nhân vật chính trong trường học cho dù trình độ nhận thức, hoàn cảnh gia đình
của em đó là thế nào. Giáo viên phải biết chấp nhận mọi em học sinh. Điều này
nghe thì có vẻ dễ dàng và hiển nhiên nhưng lại rất khó thực hiện. Không có học
sinh tốt hay xấu, mọi em học sinh đều rất đáng quý. Tương tự như vậy, không có
nhận xét nào từ phía học sinh là tốt hay xấu, đúng hay sai, mọi nhận xét của các
em đều đáng quý.
 (ii) ĐẢM BẢO CƠ HỘI PHÁT TRIỂN CHUYÊN MÔN CHO MỌI GIÁO
VIÊN

Mọi giáo viên đều có quyền nâng cao năng lực chuyên môn của mình. Đạt
được điều lý tưởng đảm bảo cơ hội học tập cho mọi học sinh là việc cực kỳ khó
khăn. Vì vậy, hàng ngày giáo viên cần phải liên tục trau dồi chuyên môn. Không
có khả năng chuyên môn, giáo viên sẽ dễ dàng từ bỏ việc nhận biết cảm nhận và
suy nghĩ của học sinh cùng với việc tạo cơ hội cho các em được học tập có chất

lượng. Nói cụ thể hơn, giáo viên cần phải có các khả năng sau: (1) hiểu những
điều học sinh suy nghĩ và cảm nhận, (2) có kiến thức đầy đủ về các môn học để
dạy và (3) quyết định các chiến lược và sắp xếp việc dạy phù hợp nhất. Giáo
viên cần phải có đầy đủ cơ hội để học tập cùng với đồng nghiệp trong trường
của họ để trở thành người có đủ năng lực trong các lĩnh vực nói trên.
 (iii) ĐẢM BẢO CƠ HỘI CHO CÀNG NHIỀU PHỤ HUYNH HỌC SINH
THAM GIA VÀO QUÁ TRÌNH HỌC TẬP CÀNG TỐT

Ai là người nuôi dưỡng và phát triển học sinh? Trách nhiệm đó thuộc về
ai? Đó là trách nhiệm không chỉ của riêng giáo viên mà còn là trách nhiệm của
các bậc cha mẹ. Do vậy, mối quan hệ giữa phụ huynh và nhà trường phải là mối
quan hệ hợp tác. Phụ huynh có thể đóng góp hỗ trợ cho việc học của con em
mình theo nhiều cách khác nhau. Phụ huynh có thể cung cấp thông tin hay tài
liệu, đồ dùng. Phụ huynh có thể tham gia vào việc học của học sinh trên lớp. Họ
15


có thể đóng vai trò là người học cùng học sinh trong bài học trên lớp. Họ cũng
có thể hỗ trợ giáo viên khi giáo viên cần trợ giúp đặc biệt cho việc học của học
sinh (ví dụ về môn Toán hoặc Tiếng Việt ở mức độ cơ bản). Họ còn có thể tham
gia đóng góp ý kiến cho hội đồng nhà trường hay ban đại diện phụ huynh học
sinh để tư vấn các chính sách và việc quản lý nhà trường.
Như đã đề cập ở trên, nhằm đạt được mục tiêu lấy học sinh làm trung tâm,
điều quan trọng đối với tất cả các bên liên quan như học sinh, giáo viên và phụ
huynh là phải coi chính bản thân họ là những nhân vật chính ở trường học. Cung
cấp cơ hội học tập cho tất cả các bên liên quan nói trên là cách phù hợp nhằm
đáp ứng nhu cầu nói trên. Đây chính là nguyên lý nền tảng của sinh hoạt chuyên
môn và đổi mới nhà trường dựa trên sinh hoạt chuyên môn và xây dựng cộng
đồng học tập.
CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỔI MỚI SINH HOẠT CHUYÊN MÔN

Để tiến hành đổi mới sinh hoạt chuyên môn, mỗi nhà trường cần thực hiện
các giải pháp sau:
- Chia sẻ tầm nhìn, giúp người tham gia nhận thức được ý nghĩa, tầm quan
trọng của sinh hoạt chuyên môn mới;
- Đề ra và thực hiện đúng các nguyên tắc của tổ chức sinh hoạt chuyên
môn;
- Xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch sinh hoạt chuyên môn đúng
kỹ thuật, kiên trì và liên tục.
 Giải pháp 1: Chia sẻ tầm nhìn, giúp người tham gia nhận thức
được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc sinh hoạt chuyên môn
Tất cả các thành viên mỗi nhà trường muốn tham gia có hiệu quả việc
sinh hoạt chuyên môn cần phải hiểu rõ sinh hoạt chuyên môn là gì, nó có ý
nghĩa đối với sự thay đổi của bản thân và của nhà trường như thế nào?

16


Sinh hoạt chuyên môn là một quá trình các giáo viên tham gia vào các
khâu từ chuẩn bị, thiết kế bài học sáng tạo, dạy thể nghiệm, dự giờ, suy ngẫm và
chia sẻ các ý kiến sâu sắc về những gì đã diễn ra trong việc học của học sinh.
Đây là hoạt động học tập lẫn nhau, học tập trong thực tế, là nơi thử nghiệm và
trải nghiệm những cái mới, là nơi kết nối lý thuyết với thực hành, giữa ý định và
thực tế. Trong quá trình học tập đó, giáo viên sẽ học được nhiều điều để phát
triển năng lực chuyên môn mới. Cần tránh để giáo viên có suy nghĩ coi đó chỉ là
việc sinh hoạt chuyên môn thông thường mà họ đã và đang thực hiện từ trước
đến nay và không học tập được nhiều. Cần tạo cho họ có động lực tham gia sinh
hoạt chuyên môn để học tập lẫn nhau, nâng cao năng lực chuyên môn. Cần cho
giáo viên thấy được sinh hoạt chuyên môn có mục đích chính là nâng cao chất
lượng các bài học của học sinh. Mục đích đó sẽ đạt được khi các giáo viên biết:
- Học cách quan sát tinh tế, nhạy cảm việc học của học sinh. Hình thành

khả năng quan sát, phán đoán và phản ứng trước thông tin thu được từ học sinh đây là một năng lực mới đặc biệt quan trọng đối với giáo viên.
- Đào sâu hiểu biết về công việc của mỗi giáo viên, làm cho họ hiểu sâu,
rộng hơn về học sinh, về đồng nghiệp, về bản thân trước các yêu cầu luôn thay
đổi trong hoạt động dạy học. Hình thành sự chấp nhận lẫn nhau giữa các giáo
viên và giữa giáo viên với học sinh.
- Cùng nhau xây dựng và tạo nên văn hóa nhà trường: cộng tác giải quyết
các vấn đề đặt ra (ví dụ: các thắc mắc về chương trình - SGK, về việc học của
học sinh) giữa các giáo viên; xây dựng tình đồng nghiệp, mối quan hệ nhà
trường thân thiện, học tập lẫn nhau. Tạo ra động lực sư phạm tích cực, sự quan
tâm, niềm say mê chuyên môn của tất cả các giáo viên.
- Tạo cơ hội cho mọi cán bộ quản lý, giáo viên hiểu về mối quan hệ giữa
các quy định, chính sách của ngành (đổi mới nội dung, chương trình - SGK, đổi
mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra, đánh giá...) và công việc hàng ngày
của mỗi cá nhân.

17


- Tích lũy các kinh nghiệm, nâng cao năng lực huyên môn và năng lực đổi
mới phương pháp dạy học theo hướng dạy học tích cực, lấy học sinh làm trung
tâm của bất cứ ai tham gia sinh hoạt chuyên môn, làm cho từng bài học có chất
lượng hơn, từ đó làm thay đổi mỗi thành viên trong trường, tiến tới đổi mới nhà
trường.
Việc chia sẻ tầm nhìn cần được bắt đầu từ cán bộ quản lý ở sở, phòng
giáo dục, đặc biệt các hiệu trưởng trong các nhà trường và toàn thể giáo viên.
Họ phải có niềm tin vào sinh hoạt chuyên môn - chìa khóa để đổi mới nhà
trường. Việc chia sẻ tầm nhìn được thực hiện thông qua đọc kỹ, suy ngẫm và
thực hiện những điều được đề cập trong tài liệu này với niềm tin, mong muốn
đổi mới và quyết tâm vận dụng thực hiện.
 Giải pháp 2: Đề ra và thực hiện các nguyên tắc chung để đảm bảo

việc sinh hoạt chuyên môn hiệu quả
A. Sáu nguyên tắc chung về quản lý
Q1: Coi sinh hoạt chuyên môn là trụ cột, là chính sách quan trọng
nhất
Các cấp quản lý giáo dục (Sở GD-ĐT, Phòng GD-ĐT, hiệu trưởng nhà
trường) phải coi sinh hoạt chuyên môn là trụ cột, là chính sách quan trọng nhất
để đổi mới nhà trường, nâng cao chất lượng việc học của học sinh.
Q2: Hiểu rõ, tin tưởng ý nghĩa, tầm quan trọng và cùng nhau nhất trí
quyết tâm thực hiện
Mọi giáo viên đều hiểu rõ, tin tưởng ý nghĩa, tầm quan trọng và cùng
nhau nhất trí quyết tâm thực hiện sinh hoạt chuyên môn mới. Cán bộ quản lý và
giáo viên phải có quyết tâm cao trong việc đổi mới nhà trường thông qua kiên trì
thực hiện sinh hoạt chuyên môn, bởi vì sinh hoạt chuyên môn theo hướng tiếp
cận mới là trụ cột, là chính sách quan trọng nhất để đổi mới nhà trường. Việc
duy trì liên tục với số lần càng nhiều thì sự thay đổi và tiến bộ trong từng thành
viên trong nhà trường càng lớn.
Q3: Cùng được tham gia và thực hiện đúng kỹ thuật
18


Mọi cán bộ quản lý và giáo viên nhà trường đều phải cùng được tham gia
và thực hiện đúng kỹ thuật sinh hoạt chuyên môn. Sự tham gia của tất cả mọi
người trong nhà trường, trong đó có cả phụ huynh học sinh, là đặc biệt cần thiết,
nó sẽ biến mỗi nhà trường thành một "cộng đồng học tập".
Quán triệt ý nghĩa, tầm quan trọng và thực hiện đúng kỹ thuật sinh hoạt
chuyên môn mới cho mọi giáo viên trong trường hiểu rõ, tin tưởng là vô cùng
cần thiết (đặc biệt trong giai đoạn đầu thực hiện đổi mới sinh hoạt chuyên môn).
Nếu hiểu và làm đúng, buổi sinh hoạt chuyên môn có thể kéo dài 4-5 tiếng
nhưng mọi người tham gia vẫn thấy hào hứng. Cán bộ quản lý trường học và
giáo viên cốt cán được tập huấn và quán triệt tầm nhìn, triết lý của sinh hoạt

chuyên môn. Việc hướng dẫn kỹ thuật tổ chức thực hiện sinh hoạt chuyên môn
rất quan trọng, nếu không làm đúng, chúng ta sẽ quay trở lại cách sinh hoạt
chuyên môn truyền thống, không đảm bảo hiệu quả. Để đảm bảo đúng kỹ thuật
tổ chức thực hiện, các trường gần nhau có thể liên kết tổ chức sinh hoạt chuyên
môn theo cụm và có hướng dẫn làm thí điểm về sinh hoạt chuyên môn nhằm xây
dựng mô hình và rút kinh nghiệm.
Q4: Có sự hỗ trợ cụ thể, thường xuyên từ các cấp quản lý
Sinh hoạt chuyên môn phải được sự hỗ trợ cụ thể, thường xuyên từ các
cấp quản lý (từ Sở GD&ĐT, Phòng Giáo dục).
Môi trường học phải được ủng hộ, tạo điều kiện về thời gian để sinh hoạt
chuyên môn liên tục, thường xuyên; mọi giáo viên cần được khuyến khích đổi
mới phương pháp giáo dục.
Q5: Vận dụng, trải nghiệm những ý tưởng sáng tạo, những hiểu biết
mới
Tất cả những ý tưởng sáng tạo, những hiểu biết mới về dạy học tích cực,
lấy học sinh làm trung tâm đều được vận dụng, trải nghiệm trong sinh hoạt
chuyên môn.
Q6: Thực hiện theo 2 giai đoạn và thực hiện liên tục

19


Sinh hoạt chuyên môn phải thực hiện liên tục và thực hiện theo 2 giai
đoạn: Giai đoạn 1: Hình thành cách dự giờ, suy ngẫm mới, xây dựng quan hệ
đồng nghiệp mới; Giai đoạn 2: Tập trung phân tích các nguyên nhân, các mối
quan hệ trong giờ học và tìm biện pháp cải tiến, nâng cao chất lượng các bài
học.
* Giai đoạn 1: Hình thành cách dự giờ, suy ngẫm mới, xây dựng quan
hệ đồng nghiệp mới
Trong giai đoạn này sinh hoạt chuyên môn cần tập trung thực hiện các

mục tiêu sau:
- Luyện tập cách quan sát và suy nghĩ về việc học của học sinh trong giờ
học; tích lũy, làm phong phú các hiểu biết sâu sắc về học sinh, về nội dung bài
học và môn học. Từ đó, giáo viên sẽ hình thành được kỹ năng quan sát nhạy
cảm, tinh tế về học sinh trong công việc hàng ngày; có khả năng phán đoán
nhanh nhạy, chính xác để điều chỉnh việc dạy phù hợp việc học của học sinh.
- Làm thay đổi cách nhìn, cách nghĩ và cảm nhận của giáo viên về mỗi
học sinh trong từng hoàn cảnh khác nhau (suy nghĩ, tình cảm, thái độ, khó khăn,
mong muốn,... của học sinh trước nhiệm vụ học tập, trước bản thân, bè bạn và
trước thầy cô giáo).
- Hình thành thói quen lắng nghe lẫn nhau: rèn tập cách chia sẻ ý kiến, từ
đó hình thành mối quan hệ đồng nghiệp thân thiện, cộng tác và học tập lẫn nhau.
Sinh hoạt chuyên môn không phải là nơi để giáo viên giỏi dạy giáo viên yếu, mà
đó là nơi giúp mọi giáo viên học tập lẫn nhau, giáo viên giỏi nhiều khi có thể
học tập được những điều bổ ích từ các giáo viên khác và từ học sinh. Sự chia sẻ
sâu sắc việc học của từng học sinh trong những hoàn cảnh và thời điểm cụ thể sẽ
tạo ra "tình huống học tập" tự nhiên nhưng rất hữu ích với tất cả các giáo viên.
* Giai đoạn 2: Tập trung phân tích các nguyên nhân, các mối quan hệ
trong giờ học và tìm biện pháp cải tiến, nâng cao chất lượng các bài học
Sau khi đã đạt được các mục tiêu của giai đoạn 1, cần chuyển sang giai
đoạn 2 nhằm nâng cao chất lượng của sinh hoạt chuyên môn qua việc:
20


- Đi sâu nghiên cứu, phân tích các phương án dạy học đáp ứng tốt việc
học của học sinh, các mối quan hệ trong lớp học, các kỹ năng cần thiết để nâng
cao chất lượng việc học của học sinh.
- Tăng cường vận dụng, thử nghiệm những ý tưởng sáng tạo khi dạy minh
họa. Tất cả những ý tưởng sáng tạo, những hiểu biết mới về phương pháp dạy
học tích cực, lấy học sinh làm trung tâm đều được vận dụng, trải nghiệm trong

sinh hoạt chuyên môn.
Từ đó, hình thành, củng cố và phát triển các năng lực, kỹ năng nghề
nghiệp của giáo viên. Mỗi buổi sinh hoạt chuyên môn là một bài học từ thực tế
cho tất cả giáo viên và kết quả sinh hoạt chuyên môn sẽ thay đổi từ từ theo quá
trình, thường không dễ nhận thấy ngay, nhưng toàn diện và bền vững. Vì vậy,
sinh hoạt chuyên môn nên tổ chức càng nhiều lần và liên tục càng tốt.
B. Các nguyên tắc chung về kỹ thuật
K1: Khuyến khích sự chủ động tìm tòi, sáng tạo của tất cả các giáo
viên khi chuẩn bị bài dạy minh họa và áp dụng vào việc dạy học hàng ngày
Giáo viên phải tích cực, chủ động tự đọc, tự học, nghiên cứu tài liệu mới;
nghiên cứu và thử nghiệm các bài dạy với thiết kế bài học sáng tạo, mới mẻ khi
chuẩn bị bài dạy minh họa hoặc trong khi tiến hành bài học hàng ngày. Điều
quan trọng là xem xét sự sáng tạo đó có phù hợp việc học của học sinh không và
đem lại hiệu quả như thế nào. Giáo viên nên thảo luận kế hoạch bài học với các
đồng nghiệp dạy cùng khối và thậm chí là khác khối nữa (thảo luận không chính
thức).
Điều quan trọng trong sinh hoạt chuyên môn cũng như trong dạy học
hàng ngày là giáo viên không bám vào mô hình lý tưởng nhất định mà phải biết
đưa ra tiến trình dạy học thay đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác phù hợp
với tình huống học thực tế của học sinh.
K2: Chỉ quan sát, suy ngẫm về việc học và các vấn đề liên quan đến
việc học của học sinh

21


Người dự giờ phải quan sát tỷ mỉ, tinh tế, nhạy cảm việc học của từng học
sinh để suy ngẫm và chuẩn bị chia xẻ ý kiến phong phú, sâu sắc. Những dấu
hiệu từ học sinh thể hiện rõ ở khuôn mặt, lời nói, điệu bộ, sản phẩm học tập...
Không nên chỉ quan sát việc dạy của giáo viên, cần chú ý quan sát mối quan hệ

phản ứng của học sinh trước nội dung bài học và hành động của giáo viên.
Không coi trọng việc ghi chép tiến trình bài dạy. Giáo viên dự giờ thoải mái ghi
chép trong sổ dự giờ (nếu kiểm tra, nhà trường nên đánh giá sổ dự giờ của giáo
viên theo hướng này).
K3: Ai cũng phải có ý kiến riêng; Ý kiến phải cụ thể, tỉ mỉ; Lắng nghe
và tôn trọng các ý kiến của nhau; Không xếp loại giờ dạy; Không phê bình,
chỉ trích (gv và học sinh)
Người dự giờ phải có suy ngẫm sâu sắc về việc học của học sinh và các
vấn đề liên quan để đưa ra ý kiến riêng càng cụ thể, tỉ mỉ càng tốt (không nói
chung chung). Mọi người phải lắng nghe và tôn trọng các ý kiến của nhau khi
thảo luận. Giáo viên phải đặt mình vào hoàn cảnh của giáo viên dạy minh họa;
đồng cảm với khó khăn và chia sẻ thành công với giáo viên dạy minh họa.
Không nên quan tâm đến các tiêu chuẩn truyền thống của một giờ dạy (thời
gian, nội dung kiến thức, sự hoàn hảo về tiến trình lên lớp...). Cần quan tâm đến
thái độ, hành vi, suy nghĩ, sản phẩm học tập, thực tế việc học của các em học
sinh và mối quan hệ của chúng với ý định tiến hành của giáo viên. Không nên
rút ra kết luận thống nhất chung (có thể nhấn mạnh lại các vấn đề nổi bật, đáng
quan tâm và chú ý trong buổi sinh hoạt chuyên môn).
Tuyệt đối không xếp loại giờ dạy minh họa trong sinh hoạt chuyên môn
(kể cả trong suy nghĩ). Bởi vì giờ dạy là của chung mọi người khi tham gia sinh
hoạt chuyên môn (không của riêng giáo viên dạy minh họa). Thực tế, không có
giờ dạy hoàn hảo, giờ dạy chính là giờ học dành cho học sinh, không phải dành
cho giáo viên. Hơn nữa, việc học của học sinh không cố định và muốn thay đổi
cái cũ, áp dụng cái mới cần một quá trình lâu dài.

22


XÂY DỰNG VÀ THỰC THI KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG
Một buổi sinh hoạt chuyên môn cần được thực hiện đầy đủ theo 4 bước:

(1) Chuẩn bị bài học minh họa (BHMH); (2) Tiến hành bài học minh họa và dự
giờ; (3) Thảo luận chia sẻ các suy ngẫm về bài học, và (4) Áp dụng vào các bài
dạy hàng ngày. Bước 4 là khâu cuối cùng của một buổi sinh hoạt chuyên môn,
đồng thời chuẩn bị ý tưởng cho bước một của buổi sinh hoạt chuyên môn khác.
Cứ như vậy, chúng ta có vòng phát triển sinh hoạt chuyên môn diễn ra thường
xuyên tại mỗi nhà trường.
Sơ đồ 1. Vòng phát triển của SHCM
Để thực hiện kế hoạch hành động sinh hoạt chuyên môn nên tổ chức ít
nhất 1 tuần 1 buổi sinh hoạt chuyên môn (thường là vào buổi chiều). Tổng thời
gian 1 buổi sinh hoạt chuyên môn cần ít nhất từ 3-4 tiếng, trong đó bao gồm cả
thời gian dự giờ một tiết học và thời gian thảo luận.
Cố gắng huy động tất cả cán bộ quản lý và giáo viên cùng dự. Giai đoạn
đầu, khi mới tổ chức sinh hoạt chuyên môn nên bố trí chung toàn trường để tập
cách làm và xây dựng thói quen mới. Giai đoạn sau khi đã thành thạo, có thể
tách việc tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo nhóm tổ nếu trường đông giáo viên
để tăng cơ hội phát biểu ý kiến cho người dự.

23


Chương 3
PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN SINH HOẠT CHUYÊN MÔN MỚI
BƯỚC 1: CHUẨN BỊ BÀI DẠY MINH HỌA
 PHÂN CÔNG BÀI DẠY MINH HỌA
Khuyến khích giáo viên tự nguyện đăng ký tự chọn môn, bài học để dạy
minh họa (như vậy người tham dự sẽ học tập được nhiều hơn). Nếu không có
giáo viên tự nguyện, người chủ trì lựa chọn giáo viên, môn, bài học và lớp dạy
minh họa. Các giáo viên trong trường cần được cử quay vòng, để lần lượt ai
cũng được dạy minh họa.
 CHUẨN BỊ BÀI DẠY MINH HỌA

Nên phân công để tất cả các giáo viên đều được tham gia vào sinh hoạt
chuyên môn và cùng phối hợp với nhau khi soạn bài và thực hiện dạy. Đặc biệt,
đối với những giáo viên còn tự ti, càng nên được giúp đỡ, hỗ trợ trực tiếp. Giáo
viên dạy minh họa có thể tự mình soạn bài hoặc cùng giáo viên khác. Nhóm, tổ
chuyên môn cũng có thể chọn môn, chọn bài dạy, chọn giáo viên dạy và cùng
trao đổi phương án lên lớp.
Để bài dạy minh họa thể hiện tính sáng tạo, cần khuyến khích giáo viên
mạnh dạn tổ chức dạy học áp dụng các ý định mới, thử nghiệm cách làm mới để
cùng nghiên cứu thông qua dự giờ, suy ngẫm, chia sẻ (ví dụ: điều chỉnh mục tiêu
bài học, chọn nội dung thú vị cho bài học, thiết kế các hoạt động theo tiến trình
linh hoạt, bố trí chỗ ngồi của học sinh sáng tạo, đặt câu hỏi hay, đào sâu suy
nghĩ của học sinh, để học sinh hứng thú, học tập có ý nghĩa, phát huy tính tích
cực của các em...).
Nên tôn trọng và khuyến khích sự tự chủ, sáng tạo của giáo viên khi soạn
bài với ý tưởng mới. Mục tiêu, nội dung và phương pháp của giờ học do giáo
viên dạy minh họa chủ động lựa chọn. Do đó, giáo viên dạy minh họa cần tự
quyết định mục tiêu bài học, lựa chọn nội dung, đồ dùng, kết cấu và tiến trình
bài học.
24


Giáo viên tuyệt đối không dạy học sinh trước khi dạy minh họa bởi vì nếu
dạy trước, học sinh sẽ không hứng thú học tập và việc thử nghiệm không còn
thực tế nữa.
 YÊU CẦU ĐỐI VỚI BÀI DẠY MINH HỌA
Bài dạy minh họa cho sinh hoạt chuyên môn cần phải là các bài dạy có sự
sáng tạo, thể hiện một hay các khía cạnh sau:
- Bài học đặt ra các mục tiêu mới có ý nghĩa hơn với học sinh, có thể khác
với các sách hướng dẫn chung hiện nay;
- Bài học có điều chỉnh nội dung bài dạy trong SGK cho phù hợp và có ý

nghĩa với học sinh;
- Có ý định sáng tạo về tổ chức hoạt động học tập để nâng cao chất lượng
bài học.
BƯỚC 2: TIẾN HÀNH BÀI HỌC VÀ DỰ GIỜ
Tiến hành bài học và tổ chức dự giờ là bước để giáo viên dạy minh họa tiến
hành bài học và các giáo viên dự giờ, thu thập thông tin để chuẩn bị cho
việc suy ngẫm và chia sẻ
 DỰ GIỜ BÀI HỌC NHƯ THẾ NÀO?
Việc bố trí dự giờ là khâu quan trọng trong sinh hoạt chuyên môn, là cơ
sở để giáo viên có cái và cách nhìn mới, nhận ra các vấn đề liên quan đến công
việc của bản thân và đồng nghiệp. Để đảm bảo hiệu quả việc dự giờ cần lưu ý
làm tốt các bước chuẩn bị bài học, tiến hành dạy minh họa của người dạy minh
họa, tổ chức dự giờ theo cách quan sát mới và quay phim video bài học. Các
bước cụ thể như sau:
- Chuẩn bị lớp dạy minh họa và bố trí người dự giờ: Bố trí lớp dạy minh
họa có đủ chỗ ngồi hoặc đứng cho người quan sát thuận lợi. Nếu lớp học quá
chật hẹp, không đủ chỗ cho người dự, nên chia giáo viên dự giờ theo nhóm tổ
khối.

25


×