Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Giải quyết tranh chấp đầu tư nước ngoài bằng trọng tài ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (564.83 KB, 16 trang )

Giải quyết tranh chấp đầu tư nước ngoài bằng
trọng tài ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập
quốc tế
Nguyễn Thị Hường
Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Luật Quốc tế; Mã số: 60 38 60
Người hướng dẫn: TS. Lê Văn Bính
Năm bảo vệ: 2008
Abstract: Trình bày một số vấn đề lý luận về trọng tài và tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư
nước ngoài, sự cần thiết của phương thức giải quyết tranh chấp đầu tư nước ngoài bằng trọng
tài trong điều kiện hội nhập quốc tế. Nghiên cứu pháp luật về giải quyết tranh chấp đầu tư
nước ngoài bằng trọng tài; Quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài; Thi hành quyết định của trọng tài và việc công nhận, cho
thi hành tại Việt Nam các phán quyết của Trọng tài nước ngoài. Trình bày thực trạng giải
quyết tranh chấp về đầu tư nước ngoài bằng trọng tài ở Việt Nam, nguyên nhân làm hạn chế
việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Nêu một số kiến nghị nhằn nâng cao hiệu quả giải
quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài bằng trọng tài: sự cần thiết phải có Luật
trọng tài thương mại, hoàn thiện pháp luật về đầu tư liên quan đến giải quyết tranh chấp và
hoàn thiện phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Keywords: Hội nhập quốc tế, Tranh chấp thương mại, Trọng tài, Đầu tư nước ngoài

Content
Lời mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Sự phát triển mạnh mẽ của xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới không chỉ
đánh dấu bằng sự gia tăng mối quan hệ cũng như sự phụ thuộc nhiều mặt giữa các quốc gia,
mà đằng sau bức tranh toàn cảnh đó là sự tham gia của quá trình di chuyển vốn đầu tư từ nơi
này sang nơi khác ở phạm vi quốc gia và quốc tế. Song đi cùng với sự gia tăng về đầu tư là
những mâu thuẫn, bất đồng về lợi ích làm phát sinh tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư nước
ngoài giữa các chủ thể kinh doanh.



Do đó, một câu hỏi luôn được đặt ra cùng với bài toán phát triển đất nước, là làm thế
nào để giải quyết một cách tốt nhất các mâu thuẫn, bất đồng này bởi đây luôn là một vấn đề
phức tạp, nhạy cảm. Điều này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các bên tham
gia tranh chấp mà còn ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển, sức thu hút của nền kinh tế quốc
gia nói chung trong nền kinh tế toàn cầu. Nếu ta tạo ra được một hệ thống giải quyết tranh
chấp hiệu quả chính là tạo sự bảo đảm cho môi trường đầu tư ổn định và cơ sở pháp lý vững
chắc để bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư. Điều này đối với các nhà đầu tư nước ngoài có
ý nghĩa hơn cả việc tăng cường các biện pháp ưu đãi, khuyến khích đầu tư.
Đặc biệt, hiện nay trong bối cảnh Luật đầu tư được Quốc hội khoá XI nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 đã có hiệu lực từ ngày 1
tháng 7 năm 2006 đã tạo ra sự chuyển biến cho nền kinh tế. Luật đầu tư năm 2005 được áp
dụng để điều chỉnh chung cho hoạt động đầu tư trong nước cũng như hoạt động đầu tư nước
ngoài, nên về nguyên tắc sẽ không có sự phân biệt đối xử giữa hai loại hình đầu tư này. Do
đó, sức thu hút của Việt Nam đối với nguồn vốn đầu tư nước ngoài tăng lên nhanh, hình thức
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng đa dạng hơn và tranh chấp đầu tư cũng ngày càng
phức tạp hơn.
Với tính chất là “cơ quan tài phán tư”, trọng tài có những ưu thế mà các phương thức
giải quyết tranh chấp khác không thể có như đề cao ý chí tự do thoả thuận của các bên, tố
tụng trọng tài không bị ràng buộc về mặt lãnh thổ hay bị chi phối bởi quyền lực nhà nước,
quyết định trọng tài có hiệu lực thi hành ngay kể từ ngày được công bố nên đáp ứng nhu cầu
khôi phục nhanh những tổn thất về tiền hàng trong đầu tư thương mại…. Do đó, nâng cao
hiệu quả giải quyết tranh chấp cũng như uy tín của các Trung tâm trọng tài là một vấn đề có ý
nghĩa vô cùng quan trọng. Việc nghiên cứu “ Giải quyết tranh chấp đầu tư nước ngoài bằng
trọng tài ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế ” có nhiều ý nghĩa cả về lý luận lẫn
thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu và tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết tranh chấp đầu tư bằng con đường trọng tài là một vấn đề thu hút được rất
nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học pháp lý. Hiện nay có khá nhiều các công trình
nghiên cứu và các bài viết về vấn đề này như: „„Giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư

nước ngoài ở Việt Nam, thực trạng và phương hướng hoàn thiện‟‟ (Luận văn thạc sĩ của Đỗ
Thị Ngọc, năm 2000), “Giải quyết tranh chấp kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường ở
Việt Nam” (Luận án tiến sĩ của Đào Văn Hội, năm 2003 ); „„Vai trò của Toà án trong hoạt


động giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài ở Việt Nam‟‟ (Luận văn Thạc sĩ của Vũ
ánh Dương, năm 2006); „„Hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại của Việt Nam trong điều
kiện hội nhập quốc tế‟‟ (Luận án tiến sĩ của Nguyễn Đình Thơ, năm 2007)…..
Ngoài ra, có những bài viết của các nhà khoa học về trọng tài thương mại hay về đầu
tư nước ngoài đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: “Những điểm tương đồng pháp luật
trọng tài thương mại Việt Nam và các nước trên thế giới ”(Nguyễn Đình Thơ, tạp chí Dân
chủ và pháp luật, số 9 năm 2006 ), “Về thẩm quyền của trọng tài thương mại và những lưu ý
trong hoạt động thụ lý các tranh chấp có thoả thuận trọng tài ” ( Nguyễn Thị Hằng Nga, tạp
chí Luật học, số 7 năm 2006 ), „„Pháp luật về đầu tư ở Việt Nam – Quá trình hình thành và
phát triển‟‟ (PGS.TS Trần Ngọc Dũng, tạp chí Luật học, số 10/2007), „„Xu hướng phát triển
văn hoá trọng tài thương mại quốc tế‟‟ (Dương Văn Hậu, tạp chí Dân chủ và pháp luật, năm
2005 )…
Như vậy, trong khoa học pháp lý nói chung thì các vấn đề trọng tài thương mại và
tranh chấp đầu tư nước ngoài không phải là những vấn đề nghiên cứu hoàn toàn mới, bởi nó
được rất nhiều các nhà khoa học pháp lý và các công trình nghiên cứu quan tâm. Nhưng với
thực tiễn thì nó là một vấn đề cấp thiết và mang nhiều ý nghĩa. Hiện nay, trong thực tiễn kinh
doanh và khoa học pháp lý, ta luôn được nghe và được nhắc đến những cụm từ như „„doanh
nghiệp Việt Nam còn biết rất ít đến trọng tài‟‟, hay „„doanh nghiệp Việt Nam còn e ngại trọng
tài‟‟, tình trạng „„bùng nổ tranh chấp về đầu tư‟‟, còn đối với tranh chấp đầu tư thương mại
quốc tế thì „„doanh nghiệp Việt Nam luôn là bên chịu nhiều thua thiệt‟‟.... Điều này nói lên
rằng, mặc dù trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp có nhiều ưu thế nhưng vẫn
chưa được các doanh nghiệp biết đến và sử dụng hiệu quả. Đặc biệt với bản chất là „„cơ quan
tài phán tư‟‟ nên trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp nhất đối với đầu
tư nước ngoài.
Ngoài ra, „„trọng tài‟‟ và „„đầu tư nước ngoài‟‟ mặc dù là những vấn đề được quan tâm

nhiều trong khoa học pháp lý, nhưng dưới góc độ nghiên cứu một cách chuyên sâu và cụ thể
của việc giải quyết tranh chấp đầu tư nước ngoài bằng trọng tài thì cho đến nay vẫn chưa có
công trình, bài viết nào đề cập một cách cụ thể và toàn diện. Hiệu quả của phương thức giải
quyết tranh chấp này đối với đầu tư nước ngoài chưa được các nhà khoa học pháp lý dành
cho sự quan tâm ngang tầm với ý nghĩa của nó. Vì vậy, có thể nói, vấn đề mà đề tài nghiên
cứu, dưới một góc độ nào đó vẫn có tính mới và mang tính cấp thiết trong khoa học pháp lý
Việt Nam, cần phải được quan tâm, tiếp tục giải quyết.


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu một cách cụ thể và toàn diện các vấn đề về tranh chấp trong lĩnh
vực đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nguyên nhân làm phát sinh tranh chấp qua đó đưa ra
kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật về đầu tư nước ngoài nói chung và pháp luật về
giải quyết tranh chấp đầu tư nước ngoài nói riêng.
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng của hệ thống pháp luật hiện hành về trọng tài, vai trò,
ý nghĩa của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài; đánh giá những mặt tích cực
cũng như hạn chế, bất cập của loại hình giải quyết tranh chấp kinh tế này. Thông qua việc
nghiên cứu những mặt hạn chế để đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện phương pháp giải quyết
tranh chấp đầu tư nước ngoài bằng trọng tài.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đầu tư có yếu tố nước ngoài là một vấn đề rộng, bao gồm rất nhiều lĩnh vực khác
nhau. Tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư có thể là tranh chấp giữa hai Chính phủ về việc thực
hiện các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, tranh chấp giữa Chính phủ nước nhận đầu
tư với tổ chức, cá nhân là nhà đầu tư nước ngoài hoặc tranh chấp giữa các nhà đầu tư với
nhau... Trong phạm vi bài viết này, tác giả muốn đi sâu vào nghiên cứu tranh chấp giữa các
nhà đầu tư với nhau theo quy định của pháp luật Việt Nam về đầu tư nước ngoài.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử; các quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước và pháp luật; cũng như các quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng, Nhà nước

trong công cuộc phát triển kinh tế và hoàn thiện hệ thống pháp luật nước ta trong giai đoạn
hiện nay.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu luận văn tác giả sử dụng các phương pháp như:
phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp… để đưa ra những kết
luận, nhận định để làm sáng tỏ nội dung luận văn của mình.

References
A.
Tiếng Việt


I.

Văn kiện của Đảng

1.

Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2001), Tài liệu nghiên cứu văn kiện Đại hội Đảng
IX của Đảng, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.

2.

Bộ Chính trị Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Nghị quyết số 07/NQ-TW
ngày 27 tháng 11/2001 về hội nhập kinh tế quốc tế.

II.

Văn bản pháp luật trong nước

3.


Hiến pháp Việt Nam năm 1992; sửa đổi,bổ sung ngày 25 tháng 12 năm 2001.

4.

Bộ luật dân sự năm 2005.

5.

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.

6.

Luật đầu tư năm 2005.

7.

Luật thương mại năm 2004 .

8.

Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003.

9.

Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004.

10.

Nghị định số 25/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/1/2004 hướng dẫn thi hành

Pháp lệnh trọng tài thương mại.

11.

Nghị định 78/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 9/8/2006 quy định về đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài.

12.

Nghị định số 108/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư.

13.

Nghị định số 88/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29/8/2006 hướng dẫn thủ tục đăng
ký kinh doanh.

14.

Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao
ngày hướng dẫn thi hành Pháp lệnh trọng tài thương mại.

II.

Văn bản pháp luật quốc tế

15.

Công ước về thiết lập Tổ chức Bảo đảm đầu tư đa biên MIGA năm 1985.


16.

Công ước Rome 1980 về Luật áp dụng đối với nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng 1980

17.

Công ước Washington 1965 về giải quyết tranh chấp đầu tư giữa quốc gia và nhà đầu
tư nước ngoài.

18.

Công ước New-york 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước
ngoài.

19.

Luật Mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế năm 1985.

20.

Quy tắc Trọng tài UNCITRAL 1976.

21.

Hiệp định khung về thiết lập khu vực đầu tư ASEAN (AIA) năm 1998.


22.

Hiệp định ASEAN về khuyến khích và bảo hộ đầu tư 1998.


23.

Hiệp định giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hoa Kỳ về Quan hệ thương
mại năm 2000.

24.

Hiệp định giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Nhật Bản về Tự do, Xúc tiến
và Bảo hộ đầu tư năm 2003.

25.

Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam
và Chính phủ Liên bang Nga, 1994.

26.

Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Trung
Hoa, 1992.

27.

Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Malaysia, 1992.

28.

Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Singapore, 1992.

III.


Sách tham khảo

29.

Bộ tư pháp (2006), Hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.

30.

Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật đầu tư, Nxb CAND, Hà Nội.

31.

Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa Luật (2006), Giáo trình Luật Thương mại quốc tế,
Nxb ĐHQGHN, Hà Nội.

32.

Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa Luật (2003), Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb
ĐHQGHN, Hà Nội.

33.

Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa Luật (2006), Giáo trình Luật kinh tế: Luật doanh
nghiệp – Tình huống- Phân tích- Bình luận Tập I, Nxb ĐHQGHN, Hà Nội.

34.

Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2006), Giáo trình Tư pháp quốc tế Việt Nam, Nxb Đại
học quốc gia TP. HCM, TP. HCM


35.

Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (2003), Trọng tài và các phương thức giải quyết
tranh chấp lựa chọn, Hà Nội.

36.

Hoàng Ngọc Thiết (2002), “Tranh chấp từ hợp đồng xuất nhập khẩu - án lệ trọng tài
và kinh nghiệm”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37.

Viện Đại học Mở Hà Nội (2007), Giáo trình “Luật kinh tế”, Nxb Thống kê 2007, Hà
Nội.

38.

Vụ pháp chế Bộ kế hoạch và đầu tư (2003), Một số nội dung cơ bản của các Hiệp định
đầu tư quốc tế, Nxb Lao Động, Hà Nội.

IV.

Báo, Tạp chí

39.

Lại Thế Anh (2007), “Vài nét về thực trạng trọng tài thương mại Việt Nam”, Số



chuyên đề về Trọng tài thương mại, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật tháng 6/2007.
40.

Trần Thị Bảo ánh (2008), “Thực trạng pháp luật về mua bán doanh nghiệp”, Tạp chí
Luật học (5).

41.

Vũ Khoan (2003), “Nâng cao cạnh tranh để hội nhập thành công”, Việt Nam vói tiến
trình hội nhập quốc tế, Nxb Thống kê, Hà Nội.

42.

Lê Hồng Hạnh (2008), “Pháp luật và thực tiễn trọng tài thương mại ở Việt Nam”, Tài
liệu hội thảo về Trọng tài thương mại, Hà Nội.

43.

Lưu Tiến Hải (2008), “Cao trào sóng FDI”, Báo Đầu tư ngày 2/1/2008.

44.

Dương Văn Hậu (2007), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của trọng tài thương mại
hiện nay”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề về trọng tài thương mại.

45.

Dương Văn Hậu (2005), “Xu hướng phát triển văn hoá trọng tài thương mại quốc tế”,
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề về Trọng tài thương mại quốc tế.


46.

Vũ Mạnh Hồng (1999), “Toà kinh kế với việc giải quyết tranh chấp kinh tế hiện nay”,
Tạp chí Thông tin Khoa học pháp lý (5).

47.

Trần Hữu Huỳnh (2008), “Giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt
Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam”, Tài liệu hội thảo về
Trọng tài thương mại, Hà Nội.

48.

Trần Hữu Huỳnh (2005), “Một số điểm về phương thức giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề Pháp luật về doanh nghiệp.

49.

Hồng Liên (2007), “Trọng tài trực tuyến và kinh nghiệm của Trung tâm giải quyết
tranh chấp tên miền Trung Quốc”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (7).

50.

Vũ Trần Khánh Linh (2005), “Bàn về một vụ tranh chấp tại Trung tâm trọng tài quốc
tế Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và Pháp Luật, Số chuyên đề về Trọng tài thương mại.

51.

Trần Minh Ngọc (2005), “Về khái niệm trọng tài thương mại quốc tế”, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật (7).


52.

Nguyễn Thị Vân (2005), “Tình hình hoạt động trọng tài thương mại ở Việt Nam sau
hơn một năm có Pháp lệnh trọng tài thương mại”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số
chuyên đề về trọng tài thương mại.

53.

Trịnh Hải Yến (2007), “Sự chấp nhận thẩm quyền xét xử của các Toà trọng tài quốc tế
đối với tranh chấp giữa Quốc gia với nhà đầu tư nước ngoài trong các Hiệp định đầu tư
song phương của Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế (69).


54.

“ấn tượng 2007”, Báo điện tử cập nhật ngày 27/8/2008
Http://www.mofa.gov.vn/vi/nr040807105039/ns080121154347?b_start:int=45

55.

“Các dự án hàng tỷ USD đang vào Việt Nam”, Báo điện tử cập nhật ngày 23/7/2008
Http://vietbao.vn/kinhte/cac-du-an-hang-ty-USD-dang-vao-Viet-Nam/55196817/90/

56.

“Dự thảo Luật trọng tài thương mại: Tiệm cận Luật trọng tài quốc tế”, Báo điện tử cập
nhật ngày 29/7/2008.
Http://www.vntrades.com/tintuc/modules.php?name=New&file=print&sid=3105


57.

“Tình hình thu hút FDI năm 2006”, Báo điện tử cập nhật ngày 25/6/2008
Http://fia.mpi.gov.vn/Default.aspx?ctl=Article2&TabID=4&mID=237&aID=396

V.

Tài liệu khác

58.

Bộ tư pháp, Hội Luật gia Việt Nam, Dự án Star Việt Nam (2003), Tài liệu tập huấn
Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ và Trọng tài thương mại, Hà Nội.

59.

Đào Văn Hội (2003), “Giải quyết tranh chấp kinh tế trong điều kiện kinh tế thị
trường”, Luận án tiến sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội.

60.

Đỗ Thị Ngọc (2000), “Giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài ở Việt
Nam, Thực trạng và Phương hướng hoàn thiện”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học
Luật Hà Nội.

61.

Nguyễn Lan Nguyên (1999), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam”, Luận án Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội.


62.

Nguyễn Đình Thơ (2007), “Hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại của Việt Nam
trong điều kiện hội nhập quốc tế”, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường ĐH Luật Hà Nội.

63.

Nguyễn Thị Yến (2005), “Sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động của trọng
tài thương mại”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường đại học Luật Hà Nội.

64.

Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (2006), “Báo cáo kết quả hoạt động 2004 và
phương hướng hoạt động 2005”, Hà Nội.

B.

Tiếng Anh

65.

Markhuleatt–James and Nicholas Gould (1996), International commercial arbitration,
A hand book, LLP London –New york , Hongkong.


Giải quyết tranh chấp đầu tư nước ngoài bằng
trọng tài ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập
quốc tế
Nguyễn Thị Hường

Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Luật Quốc tế; Mã số: 60 38 60
Người hướng dẫn: TS. Lê Văn Bính
Năm bảo vệ: 2008
Abstract: Trình bày một số vấn đề lý luận về trọng tài và tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư
nước ngoài, sự cần thiết của phương thức giải quyết tranh chấp đầu tư nước ngoài bằng trọng
tài trong điều kiện hội nhập quốc tế. Nghiên cứu pháp luật về giải quyết tranh chấp đầu tư
nước ngoài bằng trọng tài; Quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài; Thi hành quyết định của trọng tài và việc công nhận, cho
thi hành tại Việt Nam các phán quyết của Trọng tài nước ngoài. Trình bày thực trạng giải
quyết tranh chấp về đầu tư nước ngoài bằng trọng tài ở Việt Nam, nguyên nhân làm hạn chế
việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Nêu một số kiến nghị nhằn nâng cao hiệu quả giải
quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài bằng trọng tài: sự cần thiết phải có Luật
trọng tài thương mại, hoàn thiện pháp luật về đầu tư liên quan đến giải quyết tranh chấp và
hoàn thiện phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Keywords: Hội nhập quốc tế, Tranh chấp thương mại, Trọng tài, Đầu tư nước ngoài

Content
Lời mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Sự phát triển mạnh mẽ của xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới không chỉ
đánh dấu bằng sự gia tăng mối quan hệ cũng như sự phụ thuộc nhiều mặt giữa các quốc gia,
mà đằng sau bức tranh toàn cảnh đó là sự tham gia của quá trình di chuyển vốn đầu tư từ nơi
này sang nơi khác ở phạm vi quốc gia và quốc tế. Song đi cùng với sự gia tăng về đầu tư là
những mâu thuẫn, bất đồng về lợi ích làm phát sinh tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư nước
ngoài giữa các chủ thể kinh doanh.


Do đó, một câu hỏi luôn được đặt ra cùng với bài toán phát triển đất nước, là làm thế
nào để giải quyết một cách tốt nhất các mâu thuẫn, bất đồng này bởi đây luôn là một vấn đề

phức tạp, nhạy cảm. Điều này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các bên tham
gia tranh chấp mà còn ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển, sức thu hút của nền kinh tế quốc
gia nói chung trong nền kinh tế toàn cầu. Nếu ta tạo ra được một hệ thống giải quyết tranh
chấp hiệu quả chính là tạo sự bảo đảm cho môi trường đầu tư ổn định và cơ sở pháp lý vững
chắc để bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư. Điều này đối với các nhà đầu tư nước ngoài có
ý nghĩa hơn cả việc tăng cường các biện pháp ưu đãi, khuyến khích đầu tư.
Đặc biệt, hiện nay trong bối cảnh Luật đầu tư được Quốc hội khoá XI nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 đã có hiệu lực từ ngày 1
tháng 7 năm 2006 đã tạo ra sự chuyển biến cho nền kinh tế. Luật đầu tư năm 2005 được áp
dụng để điều chỉnh chung cho hoạt động đầu tư trong nước cũng như hoạt động đầu tư nước
ngoài, nên về nguyên tắc sẽ không có sự phân biệt đối xử giữa hai loại hình đầu tư này. Do
đó, sức thu hút của Việt Nam đối với nguồn vốn đầu tư nước ngoài tăng lên nhanh, hình thức
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng đa dạng hơn và tranh chấp đầu tư cũng ngày càng
phức tạp hơn.
Với tính chất là “cơ quan tài phán tư”, trọng tài có những ưu thế mà các phương thức
giải quyết tranh chấp khác không thể có như đề cao ý chí tự do thoả thuận của các bên, tố
tụng trọng tài không bị ràng buộc về mặt lãnh thổ hay bị chi phối bởi quyền lực nhà nước,
quyết định trọng tài có hiệu lực thi hành ngay kể từ ngày được công bố nên đáp ứng nhu cầu
khôi phục nhanh những tổn thất về tiền hàng trong đầu tư thương mại…. Do đó, nâng cao
hiệu quả giải quyết tranh chấp cũng như uy tín của các Trung tâm trọng tài là một vấn đề có ý
nghĩa vô cùng quan trọng. Việc nghiên cứu “ Giải quyết tranh chấp đầu tư nước ngoài bằng
trọng tài ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế ” có nhiều ý nghĩa cả về lý luận lẫn
thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu và tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết tranh chấp đầu tư bằng con đường trọng tài là một vấn đề thu hút được rất
nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học pháp lý. Hiện nay có khá nhiều các công trình
nghiên cứu và các bài viết về vấn đề này như: „„Giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư
nước ngoài ở Việt Nam, thực trạng và phương hướng hoàn thiện‟‟ (Luận văn thạc sĩ của Đỗ
Thị Ngọc, năm 2000), “Giải quyết tranh chấp kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường ở
Việt Nam” (Luận án tiến sĩ của Đào Văn Hội, năm 2003 ); „„Vai trò của Toà án trong hoạt



động giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài ở Việt Nam‟‟ (Luận văn Thạc sĩ của Vũ
ánh Dương, năm 2006); „„Hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại của Việt Nam trong điều
kiện hội nhập quốc tế‟‟ (Luận án tiến sĩ của Nguyễn Đình Thơ, năm 2007)…..
Ngoài ra, có những bài viết của các nhà khoa học về trọng tài thương mại hay về đầu
tư nước ngoài đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: “Những điểm tương đồng pháp luật
trọng tài thương mại Việt Nam và các nước trên thế giới ”(Nguyễn Đình Thơ, tạp chí Dân
chủ và pháp luật, số 9 năm 2006 ), “Về thẩm quyền của trọng tài thương mại và những lưu ý
trong hoạt động thụ lý các tranh chấp có thoả thuận trọng tài ” ( Nguyễn Thị Hằng Nga, tạp
chí Luật học, số 7 năm 2006 ), „„Pháp luật về đầu tư ở Việt Nam – Quá trình hình thành và
phát triển‟‟ (PGS.TS Trần Ngọc Dũng, tạp chí Luật học, số 10/2007), „„Xu hướng phát triển
văn hoá trọng tài thương mại quốc tế‟‟ (Dương Văn Hậu, tạp chí Dân chủ và pháp luật, năm
2005 )…
Như vậy, trong khoa học pháp lý nói chung thì các vấn đề trọng tài thương mại và
tranh chấp đầu tư nước ngoài không phải là những vấn đề nghiên cứu hoàn toàn mới, bởi nó
được rất nhiều các nhà khoa học pháp lý và các công trình nghiên cứu quan tâm. Nhưng với
thực tiễn thì nó là một vấn đề cấp thiết và mang nhiều ý nghĩa. Hiện nay, trong thực tiễn kinh
doanh và khoa học pháp lý, ta luôn được nghe và được nhắc đến những cụm từ như „„doanh
nghiệp Việt Nam còn biết rất ít đến trọng tài‟‟, hay „„doanh nghiệp Việt Nam còn e ngại trọng
tài‟‟, tình trạng „„bùng nổ tranh chấp về đầu tư‟‟, còn đối với tranh chấp đầu tư thương mại
quốc tế thì „„doanh nghiệp Việt Nam luôn là bên chịu nhiều thua thiệt‟‟.... Điều này nói lên
rằng, mặc dù trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp có nhiều ưu thế nhưng vẫn
chưa được các doanh nghiệp biết đến và sử dụng hiệu quả. Đặc biệt với bản chất là „„cơ quan
tài phán tư‟‟ nên trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp nhất đối với đầu
tư nước ngoài.
Ngoài ra, „„trọng tài‟‟ và „„đầu tư nước ngoài‟‟ mặc dù là những vấn đề được quan tâm
nhiều trong khoa học pháp lý, nhưng dưới góc độ nghiên cứu một cách chuyên sâu và cụ thể
của việc giải quyết tranh chấp đầu tư nước ngoài bằng trọng tài thì cho đến nay vẫn chưa có
công trình, bài viết nào đề cập một cách cụ thể và toàn diện. Hiệu quả của phương thức giải

quyết tranh chấp này đối với đầu tư nước ngoài chưa được các nhà khoa học pháp lý dành
cho sự quan tâm ngang tầm với ý nghĩa của nó. Vì vậy, có thể nói, vấn đề mà đề tài nghiên
cứu, dưới một góc độ nào đó vẫn có tính mới và mang tính cấp thiết trong khoa học pháp lý
Việt Nam, cần phải được quan tâm, tiếp tục giải quyết.


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu một cách cụ thể và toàn diện các vấn đề về tranh chấp trong lĩnh
vực đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nguyên nhân làm phát sinh tranh chấp qua đó đưa ra
kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật về đầu tư nước ngoài nói chung và pháp luật về
giải quyết tranh chấp đầu tư nước ngoài nói riêng.
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng của hệ thống pháp luật hiện hành về trọng tài, vai trò,
ý nghĩa của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài; đánh giá những mặt tích cực
cũng như hạn chế, bất cập của loại hình giải quyết tranh chấp kinh tế này. Thông qua việc
nghiên cứu những mặt hạn chế để đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện phương pháp giải quyết
tranh chấp đầu tư nước ngoài bằng trọng tài.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đầu tư có yếu tố nước ngoài là một vấn đề rộng, bao gồm rất nhiều lĩnh vực khác
nhau. Tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư có thể là tranh chấp giữa hai Chính phủ về việc thực
hiện các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, tranh chấp giữa Chính phủ nước nhận đầu
tư với tổ chức, cá nhân là nhà đầu tư nước ngoài hoặc tranh chấp giữa các nhà đầu tư với
nhau... Trong phạm vi bài viết này, tác giả muốn đi sâu vào nghiên cứu tranh chấp giữa các
nhà đầu tư với nhau theo quy định của pháp luật Việt Nam về đầu tư nước ngoài.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử; các quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước và pháp luật; cũng như các quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng, Nhà nước
trong công cuộc phát triển kinh tế và hoàn thiện hệ thống pháp luật nước ta trong giai đoạn
hiện nay.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu luận văn tác giả sử dụng các phương pháp như:

phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp… để đưa ra những kết
luận, nhận định để làm sáng tỏ nội dung luận văn của mình.

References
A.
Tiếng Việt


I.

Văn kiện của Đảng

1.

Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2001), Tài liệu nghiên cứu văn kiện Đại hội Đảng
IX của Đảng, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.

2.

Bộ Chính trị Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Nghị quyết số 07/NQ-TW
ngày 27 tháng 11/2001 về hội nhập kinh tế quốc tế.

II.

Văn bản pháp luật trong nước

3.

Hiến pháp Việt Nam năm 1992; sửa đổi,bổ sung ngày 25 tháng 12 năm 2001.


4.

Bộ luật dân sự năm 2005.

5.

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.

6.

Luật đầu tư năm 2005.

7.

Luật thương mại năm 2004 .

8.

Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003.

9.

Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004.

10.

Nghị định số 25/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/1/2004 hướng dẫn thi hành
Pháp lệnh trọng tài thương mại.

11.


Nghị định 78/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 9/8/2006 quy định về đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài.

12.

Nghị định số 108/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư.

13.

Nghị định số 88/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29/8/2006 hướng dẫn thủ tục đăng
ký kinh doanh.

14.

Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao
ngày hướng dẫn thi hành Pháp lệnh trọng tài thương mại.

II.

Văn bản pháp luật quốc tế

15.

Công ước về thiết lập Tổ chức Bảo đảm đầu tư đa biên MIGA năm 1985.

16.

Công ước Rome 1980 về Luật áp dụng đối với nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng 1980


17.

Công ước Washington 1965 về giải quyết tranh chấp đầu tư giữa quốc gia và nhà đầu
tư nước ngoài.

18.

Công ước New-york 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước
ngoài.

19.

Luật Mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế năm 1985.

20.

Quy tắc Trọng tài UNCITRAL 1976.

21.

Hiệp định khung về thiết lập khu vực đầu tư ASEAN (AIA) năm 1998.


22.

Hiệp định ASEAN về khuyến khích và bảo hộ đầu tư 1998.

23.


Hiệp định giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hoa Kỳ về Quan hệ thương
mại năm 2000.

24.

Hiệp định giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Nhật Bản về Tự do, Xúc tiến
và Bảo hộ đầu tư năm 2003.

25.

Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam
và Chính phủ Liên bang Nga, 1994.

26.

Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Trung
Hoa, 1992.

27.

Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Malaysia, 1992.

28.

Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Singapore, 1992.

III.

Sách tham khảo


29.

Bộ tư pháp (2006), Hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.

30.

Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật đầu tư, Nxb CAND, Hà Nội.

31.

Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa Luật (2006), Giáo trình Luật Thương mại quốc tế,
Nxb ĐHQGHN, Hà Nội.

32.

Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa Luật (2003), Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb
ĐHQGHN, Hà Nội.

33.

Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa Luật (2006), Giáo trình Luật kinh tế: Luật doanh
nghiệp – Tình huống- Phân tích- Bình luận Tập I, Nxb ĐHQGHN, Hà Nội.

34.

Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2006), Giáo trình Tư pháp quốc tế Việt Nam, Nxb Đại
học quốc gia TP. HCM, TP. HCM

35.


Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (2003), Trọng tài và các phương thức giải quyết
tranh chấp lựa chọn, Hà Nội.

36.

Hoàng Ngọc Thiết (2002), “Tranh chấp từ hợp đồng xuất nhập khẩu - án lệ trọng tài
và kinh nghiệm”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37.

Viện Đại học Mở Hà Nội (2007), Giáo trình “Luật kinh tế”, Nxb Thống kê 2007, Hà
Nội.

38.

Vụ pháp chế Bộ kế hoạch và đầu tư (2003), Một số nội dung cơ bản của các Hiệp định
đầu tư quốc tế, Nxb Lao Động, Hà Nội.

IV.

Báo, Tạp chí

39.

Lại Thế Anh (2007), “Vài nét về thực trạng trọng tài thương mại Việt Nam”, Số


chuyên đề về Trọng tài thương mại, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật tháng 6/2007.
40.


Trần Thị Bảo ánh (2008), “Thực trạng pháp luật về mua bán doanh nghiệp”, Tạp chí
Luật học (5).

41.

Vũ Khoan (2003), “Nâng cao cạnh tranh để hội nhập thành công”, Việt Nam vói tiến
trình hội nhập quốc tế, Nxb Thống kê, Hà Nội.

42.

Lê Hồng Hạnh (2008), “Pháp luật và thực tiễn trọng tài thương mại ở Việt Nam”, Tài
liệu hội thảo về Trọng tài thương mại, Hà Nội.

43.

Lưu Tiến Hải (2008), “Cao trào sóng FDI”, Báo Đầu tư ngày 2/1/2008.

44.

Dương Văn Hậu (2007), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của trọng tài thương mại
hiện nay”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề về trọng tài thương mại.

45.

Dương Văn Hậu (2005), “Xu hướng phát triển văn hoá trọng tài thương mại quốc tế”,
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề về Trọng tài thương mại quốc tế.

46.

Vũ Mạnh Hồng (1999), “Toà kinh kế với việc giải quyết tranh chấp kinh tế hiện nay”,

Tạp chí Thông tin Khoa học pháp lý (5).

47.

Trần Hữu Huỳnh (2008), “Giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt
Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam”, Tài liệu hội thảo về
Trọng tài thương mại, Hà Nội.

48.

Trần Hữu Huỳnh (2005), “Một số điểm về phương thức giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề Pháp luật về doanh nghiệp.

49.

Hồng Liên (2007), “Trọng tài trực tuyến và kinh nghiệm của Trung tâm giải quyết
tranh chấp tên miền Trung Quốc”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (7).

50.

Vũ Trần Khánh Linh (2005), “Bàn về một vụ tranh chấp tại Trung tâm trọng tài quốc
tế Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và Pháp Luật, Số chuyên đề về Trọng tài thương mại.

51.

Trần Minh Ngọc (2005), “Về khái niệm trọng tài thương mại quốc tế”, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật (7).

52.


Nguyễn Thị Vân (2005), “Tình hình hoạt động trọng tài thương mại ở Việt Nam sau
hơn một năm có Pháp lệnh trọng tài thương mại”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số
chuyên đề về trọng tài thương mại.

53.

Trịnh Hải Yến (2007), “Sự chấp nhận thẩm quyền xét xử của các Toà trọng tài quốc tế
đối với tranh chấp giữa Quốc gia với nhà đầu tư nước ngoài trong các Hiệp định đầu tư
song phương của Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế (69).


54.

“ấn tượng 2007”, Báo điện tử cập nhật ngày 27/8/2008
Http://www.mofa.gov.vn/vi/nr040807105039/ns080121154347?b_start:int=45

55.

“Các dự án hàng tỷ USD đang vào Việt Nam”, Báo điện tử cập nhật ngày 23/7/2008
Http://vietbao.vn/kinhte/cac-du-an-hang-ty-USD-dang-vao-Viet-Nam/55196817/90/

56.

“Dự thảo Luật trọng tài thương mại: Tiệm cận Luật trọng tài quốc tế”, Báo điện tử cập
nhật ngày 29/7/2008.
Http://www.vntrades.com/tintuc/modules.php?name=New&file=print&sid=3105

57.

“Tình hình thu hút FDI năm 2006”, Báo điện tử cập nhật ngày 25/6/2008

Http://fia.mpi.gov.vn/Default.aspx?ctl=Article2&TabID=4&mID=237&aID=396

V.

Tài liệu khác

58.

Bộ tư pháp, Hội Luật gia Việt Nam, Dự án Star Việt Nam (2003), Tài liệu tập huấn
Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ và Trọng tài thương mại, Hà Nội.

59.

Đào Văn Hội (2003), “Giải quyết tranh chấp kinh tế trong điều kiện kinh tế thị
trường”, Luận án tiến sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội.

60.

Đỗ Thị Ngọc (2000), “Giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài ở Việt
Nam, Thực trạng và Phương hướng hoàn thiện”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học
Luật Hà Nội.

61.

Nguyễn Lan Nguyên (1999), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam”, Luận án Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội.

62.


Nguyễn Đình Thơ (2007), “Hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại của Việt Nam
trong điều kiện hội nhập quốc tế”, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường ĐH Luật Hà Nội.

63.

Nguyễn Thị Yến (2005), “Sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động của trọng
tài thương mại”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường đại học Luật Hà Nội.

64.

Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (2006), “Báo cáo kết quả hoạt động 2004 và
phương hướng hoạt động 2005”, Hà Nội.

B.

Tiếng Anh

65.

Markhuleatt–James and Nicholas Gould (1996), International commercial arbitration,
A hand book, LLP London –New york , Hongkong.



×