Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

ket qua dieu tri ARV tai phong kham ngoai tru huyen que phong nghe an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.94 MB, 56 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
----------

LÊ THỊ THU TRANG

KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ ARV TRÊN BỆNH NHÂN
NHIỄM HIV/AIDS TẠI PHÒNG KHÁM NGOẠI TRÚ
HUYỆN QUẾ PHONG - TỈNH NGHỆ AN NĂM 2013

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP BÁC SỸ Y HỌC DỰ PHÒNG
KHÓA 2009 – 2015
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS Nguyễn Minh Sơn

HÀ NỘI – 2015


LỜI CẢM ƠN
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới
PGS.TS Nguyễn Minh Sơn – Phó trưởng bộ môn Dịch tễ trường Đại học Y Hà Nội,
người Thầy đã trực tiếp truyền thụ những kiến thức, kinh nghiệm quý báu, tận tình
hướng dẫn em trong nghiên cứu khoa học, trong quá trình thực hiện và hoàn thành
khóa luận tốt nghiệp.
Em xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, phòng Đào tạo Đại học, các thầy cô
trong Viện đào tạo YHDP & YTCC, đặc biệt các thầy cô bộ môn Dịch Tễ, trường
Đại học Y Hà Nội đã tạo điều kiện cho em trong quá trình học tập, tiếp cận với


nghiên cứu khoa học và hoàn thành đề tài.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các cán bộ phòng khám ngoại trú huyện Quế
Phong, tỉnh Nghệ An đã tạo điều kiện và nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình sử
dụng số liệu và thực hiện khóa luận này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè những người
luôn ở bên tôi, chăm sóc, động viên, giúp đỡ tôi trong cuộc sống cũng như trong
quá trình học tập và thực hiện đề tài này.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 25 tháng 5 năm 2015
Sinh viên

Lê Thị Thu Trang


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh Phúc

-------------

LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi:

Phòng Quản lý Đào tạo Đại học - Trường Đại học Y Hà Nội.
Phòng Đào tạo – Nghiên cứu khoa học - Hợp tác Quốc tế - Viện đào
tạo Y học Dự phòng và Y tế công cộng.
Hội đồng chấm khoá luận.

Tôi xin cam đoan đây là nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu
trong khóa luận là trung thực, do tôi trực tiếp phân tích và xử lý dựa trên sự cho
phép sử dụng số liệu của cơ sở nghiên cứu.

Kết quả nghiên cứu của khóa luận này chưa từng được công bố trên bất kì
tạp chí hay một công trình khoa học nào.
Hà Nội, ngày 25 tháng 5 năm 2015
Tác giả

Lê Thị Thu Trang


DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
AIDS

Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải
(Acquired Immune Deficiency Syndrome)

ARV

Điều trị kháng Retrovirus (Antiretroviral)

DTTS

Dân tộc thiểu số

HIV

Virus gây suy giảm miễn dịch ở người
(Human Immuno Deficiency Virus)

MSM

Nhóm quan hệ tình dục đồng giới tính


NCMT

Nghiện chích ma túy

NTCH

Nhiễm trùng cơ hội

PKNT

Phòng khám ngoại trú

PNBD

Phụ nữ bán dâm

QHTD

Quan hệ tình dục

UNAIDS

Chương trình Phối hợp của Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS
(The Joint United Nations On HIV/AIDS)

WHO

Tổ chức Y tế Thế Giới (World Health Organization)



MỤC LỤC
................................................................................................................................... 3
ĐẶT VẤN ĐỀ..........................................................................................................8
CHƯƠNG 1.............................................................................................................. 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU........................................................................................1
Cách khắc phục:..........................................................................................................20
CHƯƠNG 3............................................................................................................21
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU....................................................................................21
CHƯƠNG 4............................................................................................................30
BÀN LUẬN............................................................................................................30
KẾT LUẬN............................................................................................................41
KHUYẾN NGHỊ....................................................................................................43


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Phân bố bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS theo giới tính......................22
Biểu đồ 3.2. Tình trạng nhiễm trùng cơ hội chính của bệnh nhân.....................23
Biểu đồ 3.4. Nhóm số lượng CD4 của bệnh nhân trước và sau 12 tháng điều trị
................................................................................................................................. 25
................................................................................................................................. 26
Biểu đồ 3.5. Tỷ lệ tuân thủ điều trị ARV.............................................................27
Biểu đồ 3.7. Tình trạng tuân thủ của bệnh nhân với lịch hẹn khám lại............29


ĐẶT VẤN ĐỀ
Kể từ khi các nhà khoa học Pháp ở viện Pasteur Paris lần đầu tiên phân lập

được virus HIV từ máu một bệnh nhân AIDS vào năm 1983, trải qua ba thập kỷ đối
phó với đại dịch có quy mô lớn và diễn biến phức tạp, đến nay HIV/AIDS vẫn đang
tiếp tục là một đại dịch nguy hiểm toàn cầu. Theo báo cáo của UNAIDS năm 2014,
trong năm 2013 trên thế giới có 35 triệu người đang sống chung với HIV . Tính tới
tháng 6/2014, trên thế giới đã có 13,6 triệu người được nhận liệu pháp điều trị
kháng virus (ARV), vẫn còn hơn 22 triệu người đang sống chung với HIV/AIDS mà
không được điều trị .
Dịch HIV ở Việt Nam hiện nay vẫn trong giai đoạn tập trung, chủ yếu ở
nhóm có hành vi nguy cơ cao, đó là những người nghiện chích ma túy (NCMT),
phụ nữ bán dâm (PNBD) và nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM). Theo thống kê
mới nhất của Bộ Y tế, từ trường hợp nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện năm 1990
tại Thành phố Hồ Chí Minh tính đến ngày 30/9/2014, toàn quốc hiện có 224223
trường hợp báo cáo hiện nhiễm HIV trong đó số bệnh nhân chuyển sang giai đoạn
AIDS là 69617 . Mới xuất hiện ở Việt Nam trong vòng hơn 20 năm nhưng
HIV/AIDS đã gia tăng một cách nhanh chóng cả về số lượng người nhiễm cũng như
độ bao phủ trên cả nước.
Hiện nay đại dịch HIV/AIDS đã có mặt gần như trên mọi vùng miền đất
nước kể cả những khu vực khó khăn, vùng núi cao, vùng sâu vùng xa. Vấn đề
nhiễm HIV/AIDS trong nhóm dân tộc thiểu số (DTTS) là vấn đề y tế công cộng
đang nổi lên ở nước ta. Phần lớn khu vực DTTS sinh sống lại có nhiều nguy cơ tiềm
tàng lây lan dịch HIV/AIDS như trồng và sử dụng cây thuốc phiện, buôn bán và vận
chuyển ma túy, lạm dụng chất ma túy, mại dâm qua biên giới . Với sự hỗ trợ của
các tổ chức quốc tế, từ năm 2006, việc thành lập các phòng khám ngoại trú (PKNT)
cho người nhiễm HIV nhằm tư vấn, chăm sóc và điều trị bằng các thuốc ARV tại
nhiều tỉnh thành đóng vai trò quan trọng, góp phần gia tăng số người được tiếp cận
điều trị ARV, nâng cao hiệu quả điều trị và giảm đáng kể số tử vong do các bệnh
liên quan đến HIV/AIDS hàng năm.


Huyện Quế Phong là huyện miền núi biên giới phía tây tỉnh Nghệ An, một

trong những điểm nóng mới của tỉnh về tệ nạn xã hội và HIV/AIDS. Việc triển khai
các chương trình can thiệp cộng đồng phòng chống HIV/AIDS cũng như theo dõi,
giám sát và đánh giá hiệu quả các chương trình này đang đối mặt với nhiều khó
khăn về địa lý, dân trí, kinh tế, phong tục tập quán và những tệ nạn xã hội đang gia
tăng đặc biệt ở nhóm DTTS. Năm 2013, PKNT huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An đã
được thành lập nhằm mục đích chăm sóc, điều trị và cung cấp nhiều dịch vụ hỗ trợ
cần thiết đảm bảo việc tuân thủ điều trị đạt hiệu quả cao, giảm kỳ thị và hoà nhập
cộng đồng cho người nhiễm HIV/AIDS. Qua hơn một năm đi vào hoạt động, việc
đánh giá kết quả điều trị ARV tại PKNT huyện Quế Phong là vô cùng cần thiết.
Vì vậy, xuất phát từ thực tiễn trên tôi tiến hành nghiên cứu: “Kết quả điều trị
ARV trên bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS tại phòng khám ngoại trú huyện Quế
Phong – Tỉnh Nghệ An năm 2013” với hai mục tiêu sau:

1. Đánh giá kết quả điều trị ARV trên bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS tại
phòng khám ngoại trú huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An từ 01/2013 –
12/2013.
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến kết quả điều trị ARV trên bệnh nhân
HIV/AIDS tại phòng khám ngoại trú huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An từ
01/2013 – 12/2013.


1

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Các khái niệm cơ bản
1.1.1 HIV/AIDS
Năm 1981, bệnh nhân AIDS đầu tiên được mô tả ở California Hoa Kỳ. Năm
1986, Hội nghị định danh quốc tế mới đặt tên cho tác nhân gây bệnh là virus HIV
(Human Immuno Deficiency Virus). Virus gây suy giảm miễn dịch mắc phải ở người.

HIV có đặc điểm họ Retrovirus, có dạng hình cầu, kích thước khoảng 80-120nm, có
cấu trúc gồm 3 lớp: vỏ ngoài, vỏ trong và lõi. Hệ gen gồm ARN sợi đơn và có enzyme
sao chép ngược RT (Reverse Transcriptase). HIV-1 gây bệnh ở người, thuộc nhóm
Lentivirus có thời gian ủ bệnh dài và tiến triển tương đối chậm .

Cấu trúc virus HIV - 1
AIDS là viết tắt của cụm từ tiếng anh Acquired Immuno Deficiency
Syndrome có nghĩa là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải. Khái niệm này dùng
để chỉ giai đoạn cuối cùng của quá trình nhiễm HIV được thể hiện bởi các bệnh
nhiễm trùng cơ hội, ung thư và các bệnh liên quan đến rối loạn miễn dịch dẫn đến
tử vong. Thời gian từ khi nhiễm HIV đến biến chuyển thành bệnh AIDS tùy thuộc


2

vào hành vi và đáp ứng miễn dịch của từng người nhưng tựu chung lại trong khoảng
thời gian trung bình là 5 năm .
1.1.2 ARV
ARV (Antiretroviral) là thuốc kháng virus HIV, đặc hiệu dùng cho người
nhiễm HIV hoặc bị phơi nhiễm với HIV nhằm hạn chế sự phát triển của virus gây ra
hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người hoặc dự phòng lây nhiễm HIV và
không phải là thuốc điều trị các bệnh nhiễm trùng cơ hội ở người nhiễm HIV .
• Mục đích điều trị:
- Ức chế sự nhân lên của virus và kìm hãm lượng virus trong máu ở mức thấp nhất.
- Phục hồi chức năng miễn dịch, giảm nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội.
- Cải thiện chất lượng sống và tăng khả năng sống sót cho người bệnh .
• Các nhóm thuốc ARV đang được sử dụng tại Việt Nam:
- Nhóm thuốc ức chế men sao chép ngược nucleoside và nucleotide NRTI
(Nucleoside Reverse Transcriptase Inhibitor)
- Nhóm thuốc ức chế men sao chép ngưc không phải là nucleoside NNRTI

(Non Nucleoside Reverse Transcriptase Inhibitor)
- Nhóm thuốc ức chế men protease Pis (Protease Inhibitors) .
• Nguyên tắc điều trị bằng ARV:
- Điều trị ARV là một phần trong tổng thể các dịch vụ chăm sóc và hỗ trợ về y
tế, tâm lý và xã hội cho người nhiễm HIV/AIDS.
- Điều trị ARV chủ yếu là điều trị ngoại trú và được chỉ định khi người bệnh có
đủ tiêu chuẩn lâm sàng, và/hoặc xét nghiệm và chứng tỏ đã sẵn sàng điều trị.
- Bất cứ phác đồ nào cũng phải có ít nhất 3 loại thuốc. Điều trị ARV là điều trị
suốt đời. Người bệnh phải tuân thủ điều trị tuyệt đối để đảm bảo hiệu quả và
tránh kháng thuốc.
- Người nhiễm HIV được điều trị ARV vẫn phải áp dụng các biện pháp dự
phòng lây nhiễm virus cho người khác.
- Người nhiễm HIV được điều trị ARV khi tình trạng miễn dịch chưa phục hồi
cần tiếp tục điều trị dự phòng các bệnh nhiễm trùng cơ hội .
Theo quyết định 4139 QĐ/BYT về việc sửa đổi bổ sung một số nội dung trong
"Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị HIV/AIDS năm 2009”.
• Tiêu chuẩn bắt đầu điều trị ARV như sau:
- Người nhiễm HIV có số lượng tế bào CD4 ≤ 350 tế bào/mm 3 không phụ
thuộc giai đoạn lâm sàng, hoặc:


3

- Người nhiễm HIV ở giai đoạn lâm sàng III, IV không phụ thuộc số lượng tế
bào CD4 .
• Phác đồ điều trị ARV
- Phác đồ chính: TDF + 3TC + EFV hoặc TDF + 3TC + NVP
Chỉ định: Sử dụng một trong hai phác đồ này cho tất cả các người bệnh bắt
đầu điều trị ARV. Đối với phác đồ TDF + 3TC + EFV: Thuốc 3TC được sử dụng
với liều 300mg/ lần/ngày.

-

Phác đồ thay thế: AZT + 3TC + EFV hoặc AZT + 3TC + NVP
Chỉ định: Sử dụng một trong hai phác đồ này khi người bệnh có chống chỉ

định với TDF .


Theo dõi tuân thủ điều trị ARV:
-

Trong mỗi lần bệnh nhân tái khám, bác sĩ kiểm tra lại những thuốc người
bệnh được chỉ định và cách dùng.

-

Thời gian và cách dùng thuốc trong thực tế của bệnh nhân, số lần bỏ thuốc
hoặc quên.

-

Nếu người bệnh tuân thủ kém, cần tìm hiểu những vấn đề mà bệnh nhân gặp
phải: tác dụng phụ, bệnh lý mới xuất hiện, quên hoặc không đúng chỉ định,
hết thuốc, không có khả năng tài chính, thiếu hỗ trợ, bị bắt, cai nghiện tập
trung để tư vấn lại cẩn thận , .



Theo dõi tiến triển lâm sàng
-


Thăm khám, phát hiện và xử trí các tác dụng phụ.

-

Đánh giá lại giai đoạn lâm sàng, các nhiễm trùng cơ hội (NTCH), đánh giá
tiến triển các triệu chứng liên quan đến HIV. Phát hiện hội chứng phục hồi
miễn dịch nếu có .



Theo dõi tiến triển bệnh qua cận lâm sàng:
Bệnh nhân được theo dõi cân nặng và số tế bào CD4 định kì. Chức năng gan

thận định kì, PCR, huyết thanh chẩn đoán… Nếu có điều kiện, bệnh nhân sẽ được
theo dõi xét nghiệm tải lượng virus trong máu .


Theo dõi độc tính thuốc ARV


4

Bệnh nhân được cung cấp các thông tin về độc tính của các loại thuốc họ đang
sử dụng, được theo dõi các biểu hiện tác dụng phụ của thuốc ARV .


Các yếu tố liên quan đến kết quả điều trị ARV:
-


Kiến thức về HIV/AIDS đã được tư vấn, tập huấn trước điều trị ARV.

-

Tuân thủ điều trị ARV của bệnh nhân là uống đúng thuốc, uống đúng liều
lượng, uống đúng thời gian, uống đúng quy cách.

-

Hoàn cảnh gia đình: kinh tế, sự giúp đỡ của các thành viên trong gia đình,
tình trạng hôn nhân, con cái, nghề nghiệp.

-

Điều kiện: khoảng cách tới nơi nhận thuốc, phương tiện tuân thủ.

-

Tính chất công việc của người bệnh ảnh hưởng tới việc sử dụng thuốc.

-

Trình độ văn hoá và nhận thức của bệnh nhân.

-

Những hành vi, thói quen có khả năng ảnh hưởng không tốt tới tuân thủ: sử
dụng chất gây nghiện, bia rượu, thuốc lá…

-


Tính liên tục và sự sẵn có của các thuốc ARV.

-

Tác dụng phụ của thuốc ARV mà đối tượng mắc phải trong quá trình điều trị

-

Sự giúp đỡ của các tổ chức trong cộng đồng: y tế, xã hội , .

Các tiêu chuẩn đánh giá kết quả tuân thủ điều trị ARV:


Tuân thủ điều trị ARV tốt là đối tượng phải uống thuốc theo phác đồ bác sĩ điều

trị chỉ định đạt trên 95% trở nên.
- Bệnh nhân phải uống thuốc đúng liều lượng chỉ định: số lần quên thuốc trong
-

1 tháng nếu từ 0 - 3 lần trở xuống là tuân thủ điều trị tốt.
Đối với các thuốc uống 2 lần trong một ngày thì khoảng cách giữa các lần
uống thuốc phải cách nhau 12 giờ để đảm bảo tác dụng và an toàn nồng độ
đỉnh của thuốc, từ đó tránh nguy hiểm cho bệnh nhân. Như vậy ngày bệnh

-

nhân sẽ phải uống thuốc 2 lần vào những giờ nhất định.
Thuốc ARV phải được uống đúng giờ, uống sớm hoặc muộn thuốc nghĩa là


-

uống cách giờ quy định 60 phút.
Cách xử trí khi quên thuốc: Nếu quên thuốc dưới 4 giờ bệnh nhân phải uống

bù ngay, nếu quá 4 giờ, bệnh nhân phải chờ đến lần uống sau.
• Tuân thủ điều trị ARV không tốt (xấu) là đối tượng tự thay đổi, phác đồ, bỏ
thuốc hay quên thuốc trên 3 lần trong tháng, uống thuốc không đúng khoảng thời


5

gian quy định bắt buộc của phác đồ đang điều trị và không biết các xử trí khi quên
thuốc thì dễ dẫn đến khả năng kháng thuốc và thất bại điều trị ARV .
1.2 Tình hình dịch HIV/AIDS và điều trị ARV trên thế giới
Kể từ khi phát hiện lần đầu tiên trường hợp nhiễm HIV/AIDS vào năm 1981
tại Los Angeles (Mỹ) trong 5 bệnh nhân viêm phổi do Pneumocistis Carinii có quan
hệ tình dục đồng giới nam. Dịch HIV/AIDS đã lan rộng ra toàn cầu, khắp các
châu lục, khắp các quốc gia. Trải qua hơn 30 năm đối phó với đại dịch có quy
mô và diễn biến phức tạp, với những nỗ lực huy động cộng đồng cùng tiến bộ
của khoa học kĩ thuật, song cho đến nay HIV/AIDS vẫn đang tiếp tục là một đại
dịch nguy hiểm và chưa đủ sức đẩy lùi. Điều đáng ghi nhận trong các chương
trình phòng chống, ứng phó với đại dịch HIV/AIDS, đó là sự gia tăng tỷ lệ
những người nhiễm HIV được tiếp cận điều trị ARV, giảm tỷ lệ tử vong do
AIDS, kéo dài và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Trong năm 2013 trên thế giới có khoảng 35 triệu người đang sống chung với
HIV/AIDS. Kể từ khi khởi đầu của dịch tới nay, có khoảng 78 triệu người đã bị
nhiễm HIV và 39 triệu người đã tử vong vì các bệnh liên quan đến HIV/AIDS. Số
nhiễm mới HIV đã giảm 38% kể từ năm 2001, số trường hợp tử vong liên quan đến
AIDS cũng đã giảm 35% kể từ mức đỉnh trong năm 2005 .

Theo báo cáo GAP, số trẻ em <15 tuổi sống chung với HIV năm 2013 là 3,2
triệu người . Đa số là lây truyền HIV từ mẹ khi mang thai, khi sinh và khi cho con
bú. Tuy nhiên, tín hiệu khả quan là con số trẻ em nhiễm mới HIV trong năm 2008
đã giảm 18% so với năm 2001 và tới năm 2013, tỷ lệ này đã giảm 58% kể từ năm
2002. Khoảng 4 triệu người trẻ ở độ tuổi 15 - 24 đang bị nhiễm HIV/AIDS, 29%
trong số họ là thanh thiếu niên từ 15 - 19 tuổi và 16 triệu phụ nữ từ 15 tuổi đang
sống với HIV trong đó 80% sống ở tiểu vùng Sahara châu Phi. Hàng triệu người
hầu như không biết hoặc biết rất ít về HIV/AIDS để tự bảo vệ mình .
Hiện nay, dịch HIV/AIDS tương đối ổn định và tập trung chủ yếu trong nhóm
nguy cơ cao. Trên toàn cầu, những người đàn ông đồng tính và những người đàn
ông khác - người có quan hệ tình dục đồng giới (MSM) có nguy cơ bị nhiễm HIV


6

gấp 19 lần so với dân số nói chung. Tỷ lệ mắc HIV ở nhóm này đang gia tăng ở
nhiều nơi trên thế giới. Tuy nhiên chỉ có 1/10 người trong nhóm MSM nhận được
can thiệp dự phòng HIV. Nguy cơ nhiễm HIV trong nhóm mại dâm cũng lớn hơn
trong số 12 lần dân số nói chung. Phụ nữ chuyển giới có nguy cơ lây nhiễm HIV
cao hơn 49 lần so với tất cả nhóm người trưởng thành trong độ tuổi sinh sản. Tỷ lệ
nhiễm HIV cũng được ước tính là cao hơn 28 lần ở những người tiêm chích ma túy.
Các vấn đề rối loạn do lạm dụng ma tuý và các chất gây nghiện khác không được
điều trị gắn liền với tăng hành vi nguy cơ với HIV khiến cho việc điều trị ARV trở
nên phức tạp hơn, giảm chấp nhận điều trị ARV và giảm tuân thủ điều trị ARV dẫn
tới tăng các triệu chứng liên quan đến HIV và tăng tỷ lệ nhập viện. Việc lấp đầy
khoảng trống trong tiếp cận dịch vụ tư vấn, hỗ trợ, chăm sóc và điều trị ARV cho
đối tượng nguy cơ cao nhằm hướng tới kết thúc đại dịch AIDS vào năm 2030 là vô
cùng cần thiết .
Một trong những bước tiến quan trọng trong phòng chống lây truyền
HIV/AIDS, đó là sự hiểu biết của con người về quá trình nhân lên của HIV trong tế

bào miễn TCD4 và cùng với những tiến bộ khoa học trên cơ sở đó phát minh ra các
thuốc kháng virus ARV. Năm 1987, Zidovudin (AZT), thuốc kháng virus đầu tiên
được FDA (Food and Drug Administration) cho phép sử dụng đã mang hy vọng cho
điều trị AIDS. Đến nay đã có trên 30 loại thuốc được chấp thuận để điều trị AIDS.
Điều trị kháng retrovirus hoạt tính cao HAART (Highly Active Antiretroviral
Therapy) với sự kết hợp của 3 loại thuốc ARV có hiệu lực ức chế virus cao đã được
khuyến cáo vào năm 1996. Hiện tại, nếu một người mới nhiễm HIV ở độ tuổi 25
điều trị bằng ARV bằng phương pháp phối hợp thuốc và tuân thủ điều trị tốt, họ có
thể sống thêm 50 năm nữa. Do đó, HIV/AIDS đang chuyển đổi dần từ “một bệnh tử
hình” sang “một bệnh mạn tính có thể kiểm soát được” . Điều này đã mở ra niềm hi
vọng cho bệnh nhân HIV/AIDS cũng như mở rộng chương trình hành động có liên
quan sử dụng thuốc ARV là vũ khí để điều trị và dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS.
Tháng 6/2014, trên thế giới đã có 13,6 triệu người được nhận liệu pháp điều trị
kháng virus, để lại hơn 22 triệu người đang sống chung với HIV/AIDS mà không


7

được điều trị. Số người nhiễm HIV trên thế giới được tiếp cận điều trị các thuốc
ARV tăng hàng năm . Thế giới đang đi theo đúng định hướng để tiến tới điều trị
HIV cho ít nhất 15 triệu người vào năm 2015. Liệu pháp kháng virus bao phủ cho
người lớn vào cuối năm 2013 là 38%, trong khi độ bao phủ ở trẻ em chỉ đạt 24%.
Như vậy, ba trong số bốn trẻ em sống chung với HIV hoặc 76% trẻ em nhiễm
HIV/AIDS không được điều trị. Tuy nhiên, có sự tăng số lượng trẻ được điều trị
liệu pháp kháng virus từ 763000 trẻ năm 2013 lên 783000 trẻ vào nửa đầu năm
2014. Ở người lớn, số người được điều trị ARV tăng 6% .
Châu Phi là châu lục chịu tác động nặng nề nhất của đại dịch HIV/AIDS. Tại
vùng cận Sahara, nơi có số người nhiễm HIV cao nhất thế giới với 24,7 triệu người
nhiễm, chiếm gần 71% trong tổng số người nhiễm HIV toàn thế giới. Năm 2013, có
1,5 triệu ca nhiễm HIV mới tại tiểu vùng Sahara. Ba quốc gia Nigeria, Nam Phi và

Uganda đại diện gần 48% số nhiễm HIV mới trong khu vực Nam Phi, được coi là
những đất nước có số người nhiễm HIV/AIDS cao nhất trên thế giới, đã ghi nhận
mức giảm lớn nhất với 98000 người. Số người tử vong liên quan AIDS ở Nam Phi
giảm còn 48%. Thành công này là do sự gia tăng nhanh chóng số lượng người được
nhận liệu pháp điều trị thuốc kháng virus. Nam Phi là quốc gia có số lượng cao nhất
gần 2,6 triệu người điều trị và cam kết sẽ tăng gấp đôi con số đó trong vài năm tới.
Trên thế giới, sự gia tăng số lượng người tiếp nhận điều trị kháng virus cao nhất là ở
Nam Phi, theo sau là Ấn Độ ở mức 7%, Uganda 6%, và ở Nigeria, Mozambique,
Cộng hòa Tanzania và Zimbabwe 5% .
Dịch HIV/AIDS lan sang châu Á khá muộn, trường hợp nhiễm HIV đầu tiên
tại khu vực này được phát hiện tại Thái Lan vào năm 1985, đến cuối những năm 90,
Campuchia, Myanmar và Thái Lan công bố dịch đáng lo ngại trên toàn đất nước.
Dịch tễ học lây nhiễm HIV ở khu vực này có nhiều hình thái khác biệt, tại Thái
Lan và Campuchia hình thái lây nhiễm HIV chủ yếu qua QHTD khác giới,
nhưng một số nước khác như Việt Nam, Trung Quốc, Malaysia hình thái lây
nhiễm vẫn chủ yếu qua NCMT và tình trạng lây truyền qua QHTD khác giới
cũng ngày càng tăng . Sáu quốc gia Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Myanmar,


8

Thái Lan và Việt Nam chiếm hơn 90% số người sống chung với HIV trong khu
vực. Tính đến cuối năm 2013, hơn 700000 người bệnh ở khu vực Châu Á Thái
Bình Dương đã được điều trị ARV. Campuchia ghi nhận mức giảm lớn nhất
trong trường hợp tử vong liên quan đến AIDS 72%, tiếp theo là giảm 56% ở Thái
Lan và 29% ở Myanmar .
Khu vực Mỹ la tinh và vùng Caribe tiếp tục là một khu vực có độ che phủ
kháng virus cao. Khoảng 45% trong số 1,6 triệu người sống chung với HIV có thể
tiếp cận điều trị kháng virus điển hình ở các nước Argentina, Brazil, Belize, Chile,
Costa Rica, El Salvador, Mexico, Panama, Peru, Uruguay . Brazil đã sản xuất và

cung ứng thuốc miễn phí và đẩy mạnh can thiệp giảm tác hại bằng cách khuyến
khích sử dụng BCS. Brazil là một trong những nơi tiến hành toàn diện nhất trên thế
giới và có những kết quả rất tích cực .
Hướng dẫn điều trị HIV mới của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 2013
khuyến cáo áp dụng điều trị thuốc kháng virus sớm hơn. Bằng chứng gần đây cho
thấy rằng điều trị ARV sớm hơn sẽ giúp người nhiễm HIV sống lâu hơn, sống khỏe
hơn và làm giảm đáng kể nguy cơ lây truyền HIV cho người khác .
Ước tính sẽ có khoảng 3 triệu người được cứu sống trên toàn thế giới, phòng
ngừa được thêm 3,5 triệu ca nhiễm HIV mới từ nay cho đến năm 2025 nếu các bác
sỹ bắt đầu kê đơn thuốc cho bệnh nhân nhiễm HIV sớm hơn so với hiện tại. Khuyến
cáo mới khuyến khích tất cả các quốc gia bắt đầu điều trị cho những người lớn bị
nhiễm HIV khi CD4 của họ giảm xuống 500 tế bào/mm³ hoặc ít hơn khi hệ miễn
dịch của họ vẫn còn mạnh. Trước đó, vào năm 2010 là tiến hành điều trị khi TCD4
ở mức 350 tế bào/mm³ hoặc ít hơn. Thực tế, trên 90% các quốc gia đã áp dụng các
khuyến cáo năm 2010. Một số ít quốc gia như Algeria, Argentina và Brazil đã tiến
hành điều trị với mức CD4 là 500 tế bào/mm3. Các khuyến cáo mới cũng bao gồm
việc cung cấp điều trị kháng virus không phụ thuộc số lượng tế bào CD4 cho tất cả
trẻ em nhiễm HIV dưới 5 tuổi, tất cả phụ nữ mang thai, phụ nữ cho con bú bị nhiễm
HIV và cho tất cả những người dương tính với HIV nhưng bạn tình (vợ, chồng) của
họ không bị nhiễm .


9

Mặc dù vậy, hiện nay có khoảng 3/5 số người sống chung với HIV trên thế
giới không được tiếp cận điều trị ARV. Tỷ lệ của những người không được tiếp cận
điều trị điều trị là 58% ở Nam Phi, 64% ở Ấn Độ và 80% ở Nigeria. Nam Phi đã
công bố mục tiêu cung cấp 4,5 triệu người được tiếp cận điều trị ARV vào năm
2014. Bảo hiểm điều trị HIV chỉ bao phủ có 36% ở Ấn Độ và 20% ở Nigeria. Số trẻ
em được điều trị kháng virus ở mức thấp đạt tỷ lệ 24% nghĩa là ba trong số bốn đứa

trẻ sống chung với HIV không được điều trị HIV .
Điều trị ARV là một phần trong tổng thể các dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ về y
tế, tâm lý, xã hội cho người nhiễm HIV/AIDS và cần được tiếp cận bao phủ nhiều
hơn nữa. Một trong những nguyên tắc cơ bản trong điều trị ARV là sự tuân thủ điều
trị tuyệt đối. Đây là yếu tố quyết định sự thành công của điều trị và tránh tình trạng
kháng thuốc.

1.3 Tình hình dịch HIV/AIDS và điều trị ARV tại Việt Nam
1.3.1 Tình hình chung
Tại Việt Nam, kể từ ca nhiễm HIV đầu tiên vào tháng 12/1990 tại thành phố
Hồ Chí Minh, sau hơn 20 năm, đến nay dịch HIV/AIDS đã gia tăng nhanh chóng cả
về số lượng người nhiễm cũng như độ bao phủ trên cả nước. 63/63 tỉnh thành phố
đều có người nhiễm HIV/AIDS. Tính đến ngày 30/9/2014, toàn quốc hiện có
224233 trường hợp báo cáo hiện nhiễm HIV, trong đó số bệnh nhân chuyển sang
giai đoạn AIDS là 69617 và tính từ đầu vụ dịch HIV/AIDS đến nay có 70734
trường hợp người nhiễm HIV tử vong .
Theo báo cáo tình hình nhiễm HIV/AIDS và kết quả hoạt động phòng
chống HIV/AIDS 4 tháng đầu năm 2014 của Bộ Y tế, tỷ lệ người hiện mắc HIV
toàn quốc trên 100000 dân là 248 người. Tỉnh Điện Biên vẫn là địa phương có tỷ lệ
hiện mắc HIV trên 100000 dân cao nhất cả nước là 875 người, tiếp đến là thành phố
Hồ Chí Minh (690), đứng thứ 3 là Thái Nguyên (636) . Hình thái dịch HIV ở Việt
Nam hiện nay vẫn trong giai đoạn tập trung, chủ yếu ở nhóm có hành vi nguy cơ
cao, đó là những người NCMT, PNBD và MSM. Tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm
NCMT giảm dần trong giai đoạn từ năm 2004 - 2013. Tuy nhiên, ở hầu hết các tỉnh
thực hiện giám sát, dịch HIV/AIDS vẫn đang cao ở mức đáng báo động. Các tỉnh


10

miền Bắc, miền Trung lây nhiễm HIV qua NCMT cao hơn các tỉnh miền Nam,

người sử dụng ma tuý đang có xu hướng trẻ hơn thường dưới 30 tuổi và có sự thay
đổi khá nhanh từ hút sang chích với lý do chủ yếu là kinh tế .
Không chỉ tập trung chủ yếu ở khu vực thành thị và đô thị lớn, hiện nay đại
dịch HIV/AIDS đã có mặt kể cả những khu vực khó khăn, các thôn bản vùng núi
cao, vùng sâu vùng xa. Phần lớn các tỉnh có số lượng người nhiễm HIV cao tập
trung ở khu vực miền núi phía Bắc và biên giới Việt Lào, là nơi có nhiều đồng bào
dân tộc thiểu số sinh sống, lại có nhiều nguy cơ tiềm tàng làm lây lan HIV/AIDS
như trồng và sử dụng cây thuốc phiện, buôn bán vận chuyển chất ma tuý, lạm dụng
chất ma tuý. Tình hình tiêm chích ma tuý trong nhóm đồng bào DTTS nhất là vùng
biên giới đang gia tăng. Những vấn đề của phụ nữ DTTS bao gồm gánh vác các
công việc nặng nhọc, ít có quyền quyết định liên quan đến vấn đề sinh sản và ít có
cơ hội học tập, nâng cao kiến thức. Một số phụ nữ DTTS đi tới các vùng khác, đô
thị hành nghề mại dâm . Vì vậy, nhiễm HIV/AIDS trong nhóm DTTS đang là vấn
đề y tế công cộng cần được quan tâm ở nước ta. Dự án “Phòng chống HIV/AIDS ở
Việt Nam” tại một số tỉnh miền núi phía Bắc (Sơn La và Lai Châu), có trên 75% là
người DTTS trong tổng số mẫu điều tra. Kết quả HIV dương tính 40,6% ở nhóm
NCMT và 4,5% ở nhóm PNBD . Trong báo cáo hội nghị tổng kết dự án phòng
chống HIV/AIDS tại Thanh Hoá giai đoạn 2010 - 2012, Quan Hoá và Mường Lát là
hai huyện miền núi trọng điểm về tình hình ma tuý và HIV/AIDS, có số người
nhiễm HIV ở mức cao với 593 trường hợp nhiễm HIV tại Quan Hoá và 409 trường
hợp nhiễm HIV tại Mường Lát, trong đó chủ yếu là dân tộc Thái .
Với sự gia tăng nhanh chóng của số người nhiễm HIV và số người chuyển
sang giai đoạn AIDS, công tác chăm sóc, điều trị người nhiễm HIV/AIDS ngày
càng trở nên cấp thiết. Ngay từ năm 1994, khi số bệnh nhân AIDS ở Việt Nam bắt
đầu xuất hiện nhiều hơn, Bộ Y tế đã thành lâp 4 trung tâm điều trị thuốc kháng virus
được thực hiện ở tuyến trung ương gồm Viện Y học Lâm sàng các Bệnh Nhiệt đới
Quốc gia nay là bệnh viện Nhiệt đới Trung ương, Bệnh viện Trung ương Huế,
Trung tâm Bệnh nhiệt đới Thành phố Hồ Chí Minh và Viện Quân Y 108. Theo báo
cáo của Bộ Y tế, tính đến 30/9/2014, cả nước có 88800 bệnh nhân đang điều trị



11

ARV (84375 bệnh nhân người lớn và 4425 trẻ em), chiếm khoảng 36% số nhiễm
HIV có trong cộng đồng. Việc gia tăng số người được điều trị ARV trong thời gian
qua đã làm giảm đáng kể số tử vong do AIDS hằng năm, trong năm 2009 số ca
nhiễm HIV báo cáo tử vong khoảng 7000 - 8000 ca, đến nay số ca tử vong khoảng
2000-3000 ca .
Điều trị ARV cho người nhiễm HIV là liệu pháp dự phòng tốt, đây là quá
trình liên tục kéo dài suốt cuộc đời và đòi hỏi sự tuân thủ tuyệt đối của người bệnh.
Tại Việt Nam, Hướng dẫn quốc gia về chẩn đoán và điều trị HIV/AIDS được bổ
sung chỉnh sửa năm 2005, 2009, 2011. Bộ Y tế cũng có kế hoạch phân cấp điều trị
bằng việc thiết lập các phòng khám ngoại trú tại các tỉnh, thành phố. Các đối tượng
người lớn và trẻ em >18 tháng tuổi trở lên có kết quả xét nghiệm khẳng định HIV
dương tính và trẻ em <18 tháng tuổi có kết quả xét nghiệm HIV dương tính bằng kỹ
thuật sinh học phân tử đều được tiếp nhận đăng kí, quản lý, theo dõi điều trị tại các
cơ sở điều trị , . Việc mở rộng điều trị thuốc ARV tại các phòng khám ngoại trú đã
được tiến hành từ tháng 3 năm 2006 với sự hỗ trợ của các dự án quỹ Toàn cầu, Quỹ
hỗ trợ khẩn cấp của tổng thống Mỹ (Pepfar), quỹ Bill-Clinton…Tại các phòng
khám ngoại trú bệnh nhân sẽ được tiếp cận liệu pháp điều trị ARV, hỗ trợ điều trị
dự phòng nhiễm trùng cơ hội, khám, kiểm tra sức khoẻ định kỳ, tư vấn cải thiện
cuộc sống, tái hoà nhập cộng đồng... Tất cả các hoạt động trên đều hoàn toàn miễn
phí cho người nhiễm HIV/AIDS. Ngoài ra, các phòng khám cũng hỗ trợ chăm sóc
bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS tại gia đình thông qua lực lượng cộng tác viên và đồng
đẳng viên.
Tính đến 30/9/2014, Việt Nam đã triển khai mới nhiều cơ sở điều trị, nâng
tổng số lên là 318 điểm điều trị đặt tại cơ sở y tế, 47 điểm điều trị ARV tại các trại
giam và trung tâm giáo dục chữa bệnh và lao động xã hội. Hiện nay, chương trình
phòng chống HIV/AIDS đang triển khai mở rộng các điểm cấp phát thuốc tại xã
phường, đảm bảo tiếp cận tốt hơn cho người nhiễm HIV . Tốc độ tăng trưởng bệnh

nhân điều trị ARV trung bình là 942 bệnh nhân/tháng (trung bình 3 tháng gần nhất).
Phác đồ bậc 1 chiếm đa số với tỷ lệ là 97%, còn lại là phác đồ bậc 2 và phác đồ


12

khác. Qua theo dõi điều trị cho thấy tỷ lệ duy trì điều trị sau 12 tháng ở người lớn là
82,1% và trẻ em là 82,8% tỷ lệ này cao hơn tỷ lệ khuyến cáo của WHO (80%) .
Tuy nhiên, do tình trạng phân biệt đối xử còn phổ biến, bệnh nhân đăng
ký điều trị muộn, bệnh nhân sống xa khu vực điều trị, nhiều bệnh nhân là người
NCMT di biến động thường xuyên đã ảnh hưởng đến chất lượng điều trị ARV.
Ngoài ra do tỷ bệnh nhân HIV mắc lao cao nên liên quan nhiều đến tình trạng tử
vong của bệnh nhân AIDS. Kinh phí cho phòng chống HIV/AIDS của các tổ chức
nước ngoài cắt giảm đã tác động đến việc đảm bảo duy trì các xét nghiệm thường
quy cho bệnh nhân, các hoạt động hỗ trợ cộng đồng không còn duy trì, ảnh hưởng
tới việc hỗ trợ tuân thủ điều trị của bệnh nhân cũng như giới thiệu bệnh nhân mới
tham gia điều trị .
1.3.2 Tại địa bàn nghiên cứu
Trong 5 tháng đầu năm 2013, Nghệ An là một trong 10 tỉnh có số trường hợp
xét nghiệm mới phát hiện dương tính lớn nhất với 231 trường hợp (5,3%) chỉ
đứng sau Thành phố Hồ Chí Minh: 801 trường hợp (18,3%). Các huyện miền núi
của tỉnh Nghệ An đứng đầu về số gia tăng trường hợp nhiễm HIVAIDS là Quế
Phong tăng 29 trường hợp, Quỳ Châu tăng 9 trường hợp, Tương Dương tăng 14
trường hợp .
Trong những năm gần đây, tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS ở đồng bằng có xu
hướng giảm nhưng lại gia tăng ở các huyện miền núi. Nguyên nhân chính dẫn đến
tình trạng gia tăng người nhiễm HIV ở các huyện miền núi là hành vi tình dục
không an toàn và sử dụng ma tuý khá phổ biến. Điều đáng quan tâm là độ tuổi của
nhóm người nhiễm HIV trên địa bàn còn rất trẻ, chủ yếu từ 20 - 39 tuổi, tập trung ở
thành phố Vinh và các huyện miền núi như Quế Phong, Tương Dương, Quỳ Châu...

Quế Phong là một huyện miền núi biên giới phía Tây Bắc tỉnh Nghệ An.
Trước kia, từng được ví như là thủ phủ của loài hoa Anh Túc. Ngày nay, Quế Phong
trở thành huyện có vị trí quan trọng, chiến lược về an ninh quốc phòng và là điểm
nóng về tội phạm ma tuý, tệ nạn xã hội. Đồng bào DTTS trong đó dân tộc Thái
chiếm chủ yếu trên địa bàn huyện. Người dân nơi đây có lịch sử lâu đời trồng và sử
dụng cây thuốc phiện, trình độ dân trí thấp, phong tục tập quán lạc hậu nên việc


13

hiểu biết pháp luật và bảo vệ sức khoẻ cho chính bản thân mình còn nhiều hạn chế.
Hàng năm số người bị bắt về tội mua bán sử dụng mua bán ma túy tại Quế Phong
luôn lọt vào top đầu trong các huyện của Nghệ An. Theo báo cáo của trung tâm
phòng chống HIV/AIDS tỉnh Nghệ An, Quế Phong cũng là huyện có tỷ lệ gia tăng
số người nhiễm HIV/AIDS nhanh nhất. Năm 2002 Quế Phong đứng thứ 11 trong số
các huyện, thị xã có bệnh nhân nhiễm HIV tại tỉnh Nghệ An, thì đến năm 2012 Quế
Phong đã đứng thứ 2 về số người bị nhiễm mới, chỉ đứng sau thành phố Vinh. Theo
thống kê tại Trung tâm y tế huyện Quế Phong tỉnh Nghệ An, kể từ trường hợp phát
hiện ca đầu tiên nhiễm HIV vào ngày 12/2/2000 (trường hợp này đến cai nghiện,
thường trú tại khối 4 thị trấn Kim Sơn) tính đến ngày 30/9/2013 phát hiện tại bệnh
viện có 791 người nhiễm HIV. Huyện Quế Phong có 14/14 xã đều có người nhiễm
HIV. Đồng Văn là xã dẫn đầu huyện về tỷ lệ người nghiện và người nhiễm HIV.
Trong năm 2010, toàn xã phát hiện 52 trường hợp dương tính với virus HIV/AIDS.
Tháng 1/2011 phát hiện thêm được 13 trường hợp. Theo số liệu Ủy ban quốc gia về
phòng chống HIV/AIDS, chỉ trong năm 2010 - 2011, xã Đồng Văn có 21 người chết
vì AIDS . Đây là những số liệu thực tế tổng hợp của những người được lấy máu xét
nghiệm tại bệnh viện, còn bao nhiêu người có nguy cơ cao chưa được lấy máu để
phát hiện trường hợp bệnh. Đó là tảng băng chìm, con số thực tế có thể cao hơn
nhiều so với số liệu thống kê được.


1.4 Các nghiên cứu về điều trị ARV
Trên thế giới cũng như tại Việt Nam đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về
kết quả điều trị và ảnh hưởng củatuân thủ điều trị đến kết quả điều trị ARV như sau:
Theo Bussmann và cộng sự (2009) nghiên cứu trên 650 bệnh nhân được điều
trị thuốc kháng virus ARV tại Botswana cho thấy, sau 1 năm điều trị, số lượng tế
bào TCD4 tăng trung bình 137 tế bào/mm 3 và sau 2 năm con số này là 199 tế
bào/mm3 , tỷ lệ bệnh nhân còn sống sau điều trị 1 năm là 96,6% và sau 2 năm là
95,4% .
Nghiên cứu tại Kenya của Talam và cộng sự (2008) cho thấy chỉ có 43,2 %
bệnh nhân tuân thủ điều trị trong suốt thời gian điều trị bệnh. Các lý do phổ biến


14

nhất cho việc không tuân thủ bao gồm: xa nhà (68,8%), bận (58,9%), quên (49%),
có quá nhiều thuốc cần uống (32,6%) và tác dụng phụ (28,9%). Vì vậy cần giáo dục
cho bệnh nhân tầm quan trọng của việc tuân thủ tuyệt đối với uống ARV theo chỉ
dẫn như là một biện pháp can thiệp hữu hiệu .
Tại Pháp, nghiên cứu của tác giả Camelia Protopopescu và các cộng sự
(2009) đã cho thấy rằng sự không tuân thủ điều trị thường gặp ở những người trẻ,
có con nhỏ, có triệu chứng trầm cảm, sử dụng rượu hàng ngày và thiếu sự hỗ trợ
người thân .
Nghiên cứu do Amberbir và cộng sự (2008) thực hiện tại Ethiopia đã cho
thấy, những bệnh nhân có người hỗ trợ điều trị cũng như sử dụng các phương tiện
để trợ giúp việc ghi nhớ uống thuốc có tỷ lệ tuân thủ điều trị cao hơn những bệnh
nhân không có người hỗ trợ .
Tại Nepal, nghiên cứu của Wasti và cộng sự năm 2012 cho thấy, 85,5% bệnh
nhân tuân thủ tốt. Thiếu kiến thức về ARV và cách thức điều trị ARV cũng là yếu tố
nguy cơ dẫn đến việc không tuân thủ .
Nghiên cứu tại Nigeria của Uzochukwu và cộng sự (2009) cho thấy tỷ lệ bệnh

nhân không tuân thủ đầy đủ thuốc điều trị là 75%, trung bình một tháng số ngày
quên thuốc là 3,57 ngày. Nguyên nhân là do tác dụng phụ của thuốc, quên không
mang theo thuốc, sợ sự kì thị xã hội, bán thuốc của họ cho những người khác không
trong chương trình .
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Kính và cộng sự (2010) cho thấy tỷ lệ
bệnh nhân duy trì phác đồ bậc 1 sau 12 tháng điều trị là 89,8%, sau 24 tháng là
87,1%. Cân nặng trung bình của bệnh nhân tăng so với trước điều trị là 2,1 kg, số
lượng tế bào CD4 sau 12 tháng và 24 tháng điều trị lần lượt là 245,3 và 395 tế
bào/mm3. Tác giả cũng đã kết luận việc duy trì sử dụng ARV đã có những tác động
khả quan đối với tăng cường khả năng miễn dịch cho bệnh nhân .
Nghiên cứu đánh giá sự tuân thủ điều trị ARV và một số yếu tố liên quan ở
người nhiễm HIV tại các phòng khám ngoại trú tỉnh Ninh Bình (2012) của tác giả
Tạ Thị Lan Hương cho thấy sau điều trị ARV từ 6 tháng tới 48 tháng, chưa đến


15

50% số bệnh nhân có tăng cân, >94% bệnh nhân không còn nhiễm trùng cơ hội và
>94% bệnh nhân có số lượng CD4 tăng so với trước điều trị ARV .
Nghiên cứu tại phòng khám ngoại trú quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh của
Hà Thị Minh Đức cho thấy, tỷ lệ tuân thủ điều trị ARV là 67%. Bệnh nhân có người
trợ giúp thì tuân thủ điều trị cao hơn bệnh nhân không có người trợ giúp (p=0,03).
Bệnh nhân có kiến thức đúng về tác dụng phụ thì tuân thủ điều trị cao hơn bệnh
nhân có kiến thức chưa đúng (p=0,02). Không có mối liên quan giữa kiến thức
chung đúng với tuân thủ điều trị .
Một nghiên cứu định tính của Hồ Thị Hiền và Hoàng Văn Thuyết được thực
hiện tại huyện Quang Bình – Hà Giang về việc tuân thủ điều trị ở bệnh nhân AIDS.
Kết quả cho thấy, bệnh nhân có nghiện chích ma tuý thực hiện tuân thủ điều trị kém
hơn so với bệnh nhân không NCMT. Tỷ lệ tái khám đúng hẹn của bệnh nhân
NCMT cao hơn 20% so với bệnh nhân không NCMT. Các yếu tố cản trở việc tuân

thủ điều trị là phụ thuộc ma tuý, chi phí đi lại tại vùng sâu vùng xa còn khó khăn.
Gia đình và thầy thuốc đóng vai trò quan trọng trong hỗ trợ bệnh nhân .


16

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại phòng khám ngoại trú trung tâm y tế huyện
Quế Phong – tỉnh Nghệ An. Huyện Quế Phong được thành lập theo quyết định số
52/CP ngày 19 tháng 4 năm 1963 của Chính phủ do chia tách từ huyện Quỳ Châu
cũ. Là một huyện miền núi biên giới, với 73,10 km đường biên giới tiếp giáp với
huyện Sầm Tớ - tỉnh Hủa Phăn - Nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. Cách thành
phố Vinh 180km về phía Tây Bắc tỉnh Nghệ An. Tổng diện tích tự nhiên toàn
huyện là 189543,43 ha trong đó địa hình đồi núi chiếm chủ yếu 70% diện tích tự
nhiên. Toàn huyện có 15km đường quốc lộ 48 chạy qua, giao thông trên địa bàn nội
huyện và giao lưu kinh tế với bên ngoài khó khăn. Trên 90% dân số là đồng bào
DTTS, chủ yếu hoạt động nông nghiệp, trình độ dân trí thấp, phong tục tập quán lạc
hậu, đời sống người dân còn gặp nhiều khó khăn .


×