Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Bẫy thu nhập trung bình thực trạng và giải pháp vượt qua của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (787.31 KB, 24 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP HCM

MÔN: Phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế
Đề tài: “Bẫy thu nhập trung bình” thực trạng và giải pháp vượt qua của Việt
Nam”
Giáo viên hướng dẫn : TS Trần Đăng Thịnh

Tp Hồ Chí Minh 19 tháng 5 năm 2015


Phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế
Mục Lục

Trang 2


Phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế

A: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong những năm 60 của thế kỉ XX, nhắc đến châu Á là nhắc đến chiến
tranh, nghèo đói và lạc hậu. Tuy nhiên, chỉ 20 năm sau, cả thế giới phải tràn trồ
thán phục và thay đổi cách nhìn về châu Á, khi “những con rồng” châu Á nổi lên
bên cạnh Nhật Bản, cục diện đã hoàn toàn thay đổi, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng
Kông, Singapore đã trở thành những nơi thịnh vượng của thế giới. Bên cạnh đó
những nước đang phát triển như Indonesia, Malaysia, Thái lan được ví như những
con hổ sẽ hóa rồng trong nay mai.
“Sự thần kỳ Đông Á” hay “Đông Á phục hưng” là những cụm từ được nhắc
đến nhiều nhất khi nói về khu vực này. Từ giới quan chức lãnh đạo cấp cao của các
“con hổ” đến các chuyên gia trong và ngoài nước, đến những người dân bình


thường nhất của các quốc gia này đều có chung một khát vọng phát triển, một khát
khao cháy bỏng và một niềm tin vững chắc vào sự thịnh vượng của đất nước , niềm
tin vào sự hóa rồng trong nay mai. Nhưng đã qua rồi 2, 3 thập kỷ thì hổ vẫn là hổ,
hổ vẫn chưa thể “cất cánh” đề hóa rồng, người dân vẫn phải sống trong cảnh thu
nhập chỉ ở mức trung bình mà chưa thể vươn lên tầm các quốc gia phát triển được.
Không những chỉ có Thái Lan, Malayxia,… ở Đông Á mà ở các nước Mỹ Latinh
như Brazil, Peru… cũng có chung một hoàn cảnh như thế.
Các chuyên gia kinh tế trên thế giới, báo chí trong và ngoài nước đều nói
đến cụm từ “Bẫy thu nhập trung bình” (Middle income trap), và cho rằng các nước
Đông Á và Mỹ Latinh đã không thể tránh được nó trên con đường phát triển của
mình.
Năm 2008, Việt Nam đặt bước chân đầu tiên vào nhóm những nước có thu
nhập trung bình, thoát khỏi tình trạng nghèo đói và kém phát triển. Mức thu nhập
bình quân cũng tăng nhanh trông thấy. Tuy nhiên những dấu hiệu của “ bẫy thu
nhập trung bình” đã xuất hiện một cách hết sứ rõ ràng: tăng trưởng ngày càng
chậm, năng suất kém, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chỉ mang tính hình thức, các chỉ
số xếp hạng toàn cầu vẫn trì trệ…. Vậy chúng ta làm thế nào để vượt qua bẫy và
không rơi vào tình trạng “ chưa giàu thì đã già”

Trang 3


Phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế
Bài tiểu luận với tựa đề “ “Bẫy thu nhập trung bình” thực trạng và giải pháp
vượt qua của Việt Nam” sẽ phân tích vấn đề này.
2. Mục tiêu nghiên cứu:






Lý luận về “ bẫy thu nhập trung bình”.
Làm rõ các dấu hiệu của “ bẫy thu nhập trung bình”
Ảnh hưởng của “bẫy thu nhập trung bình”
Thực trạng tại Việt Nam và giải pháp để vượt “bẫy thu nhập trung bình” của
Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
− Nền kinh tế Việt Nam
4. Phương pháp nghiên cứu:
− Tổng hợp, so sánh, thông kê.
5. Kết cấu của đề tài
Chương 1: Khái quát về hiện tượng “ bẫy thu nhập trung bình” ở các nước đang
phát triển.
Chương 2: Một số ví dụ về các nước rơi vào bẫy thu nhập trung bỉnh
Chương 3: Thực trạng tại Việt Nam và giải pháp

B: NỘI DUNG
Chương 1: Khái quát về hiện tượng “ bẫy thu nhập trung bình” ở các nước
đang phát triển.
1.1. Khái niện về bẫy thu nhập trung bình.
Ngày 23/12/2009, cùng với gói viện trợ 500 triệu $, ngân hàng thế giới
(WB) đã chính thức công bố Việt Nam đã thoát khỏi nhóm các nước có mức thu
nhập thấp, vươn lên hàng ngũ các quốc gia có mức thu nhập trung bình khi thu
nhập bình quân đầu người của nước ta đạt trên 1000$/năm.
Vậy bẫy thu nhập trung bình là gì?
Trang 4


Phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế

WB phân loại thu nhập của các quốc gia trên thế giới theo 3 mức:
− Nước có thu nhập thấp: thu nhập bình quân đầu người dưới mức 1000$/năm.
− Nước có mức thu nhập trung bình: thu nhập bình quân đầu người đạt từ
1000$ đến 10000$/năm.
− Nước có mức thu nhập cao: thu nhập bình quân đầu người đạt trên
10000$/năm.
Bẫy thu nhập trung bình hiểu một cách đơn giản nhất đó là khi một quốc gia
thoát khỏi mức thu nhập thấp bước vào nhóm các nước có mức thu nhập trung
bình, nhưng trong một thời gian dài có thể là 30 năm, 50 năm hoặc có thể là mãi
mãi nước đó vẫn không thể vươn lên hàng các quốc gia có mức thu nhập cao,
nghĩa là nước đó đã mắc vào bẫy thu nhập trung bình.
Theo Indermit Gill, cố vấn và Homi Kharas, chuyên gia kinh tế trưởng của
Ngân hàng thế giới “ Bẫy của các nước thu nhập trung bình”hay “Bẫy thu nhập
trung bình” là tình trạng không đáp ứng nổi những đòi hỏi cao và rất cao khi nền
kinh tế đã đạt đến mức thu nhập trung bình. Có hai mốc quan trọng: GDP trên
1000 USD người/năm và khoảng 10.000 USD người/năm. Chỉ có nền kinh tế nào
vượt qua mốc thứ nhất và sau đó tiếp tục tăng trưởng mạnh để đạt tới mốc thứ hai,
rồi vẫn tiếp tục tăng trưởng thì mới trở thành nền kinh tế công nghiệp hóa.
Theo quan niệm của của Kenichi Ohno, Viện Nghiên cứu chính sách Quốc
gia Tokyo và của Homi Kharas, chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng thế giới,
sự ngộ nhận về khả năng đáp ứng yêu cầu cao và rất cao về trình độ chuyên môn
hóa của nền kinh tế, trình độ nguồn nhân lực bản địa và trình độ quản lý vĩ mô
chính là bẫy thu nhập trung bình ngăn cản sự hóa rồng của nền kinh tế: tưởng là đã
đáp ứng được các nhu cầu để tiếp tục phát triển, nhưng hóa ra thế vẫn chưa đủ để
“cất cánh”; không còn quá nghèo để phải dồn mọi nguồn lực cho tăng trưởng, song
lại chưa đủ giàu về hạ tầng kinh tế - xã hội, về các nguồn lực nội sinh cho “bước
nhảy sinh mệnh” của đất nước.
Cái chính của bẫy thu nhập ở đây chính là chất lượng phát triển, trình độ
phát triển của một đất nước không thể vượt qua được cái ngưỡng do chính mình
tạo ra.

Cũng theo giáo sư Kenichi Ohno, bẫy thu nhập trung bình được ví như một
cái “trần thủy tinh vô hình” ngăn cản sự phát triển của các quốc gia từ giai đoạn 2
lên giai đoạn 3 trong quá trình phát triền 4 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Do sự gia tăng FDI ồ ạt, các lĩnh vực của nền kinh tế như thiết
kế, công nghệ, sản xuất và marketing đều được chỉ đạo bởi người nước
ngoài. Ở giai đoạn này, các nguyên liệu và các thành phần quan trọng của
sản xuất đều phải nhập khẩu, nguồn lực trong nước chỉ cung cấp đất công
nghiệp và lao động kỹ năng thấp. Điều đó tạo việc làm cho người nghèo,

Trang 5


Phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế
nhưng giá trị nội tại thấp và giá trị được tạo ra chủ yếu bởi người nước
ngoài. Việt Nam đang ở giai đoạn này.
+ Giai đoạn 2: Khi FDI tích lũy và sản xuất mở rộng, cung nội địa cho nền
kinh tế bắt đầu phát triển. Ở giai đoạn này, công nghiệp lắp ráp trở nên cạnh
tranh và vòng tuần hoàn giữa nhà lắp ráp và nhà cung cấp được thiết lập.
Nguồn lực trong nước đã tạo ra sự phát triển cho nền công nghiệp. Sáng tạo
giá trị nội tại tăng, nhưng sản xuất cơ bản vẫn dưới sự quản lý và hướng dẫn
nước ngoài. Thailand và Malaysia đã đạt đến giai đoạn này.
+ Giai đoạn 3: Nội địa hóa kỹ năng và kiến thức bằng cách phát triển nguồn
nhân lực trong nước để thay thế lao động nước ngoài ở mọi khâu của sản
xuất bao gồm quản lý, công nghệ, thiết kế, vận hành xí nghiệp, hậu cần,
quản lý chất lượng, và marketing là thách thức tiếp theo của nền kinh tế. Khi
mức độ phụ thuộc nước ngoài giảm, giá trị nội tại tăng đáng kể. Nền kinh tế
nổi lên như một nhà xuất khẩu năng động của các sản phẩm chất lượng cao,
thách thức những đối thủ cạnh tranh ở trình độ cao hơn và thiết lập lại bức
tranh công nghiệp toàn cầu. Hàn Quốc và Đài Loan đang trong giai đoạn
này.

+ Giai đoạn 4: Giai đoạn cuối cùng, nền kinh tế tạo được khả năng tạo ra sản
phẩm mới và xu hướng thị trường toàn cầu. Nhật Bản, Mỹ và một số nước
EU hiện đang là những nhà sáng tạo công nghiệp.

Sơ đồ của ông Kenichi Ohno về bẫy thu nhập trung bình
Chiếc trần thủy tinh vô hình giữa giai đoạn 2 và giai đoạn 3 chính là “bẫy
thu nhập trung bình”. Vượt qua được sự ngăn cản của chiếc trần thủy tinh này, nền
kinh tế sẽ chuyển từ giai đoạn phụ thuộc một phần vào ngoại lực sang hoàn toàn
dựa vào nội lực. Lúc đó, nguồn nhân lực trong nước đủ trình độ thay thế hoàn toàn
Trang 6


Phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế
lao động nước ngoài, nền kinh tế đủ trình độ là nhà xuất khẩu năng động với các
sản phẩm chất lượng cao đáp ứng và cạnh tranh với nền kinh tế thế giới.
Thái Lan, Malayxia đã thành công với giai đoạn đầu quá trình công nghiệp
hóa những họ cũng chỉ quẩn quanh mãi ở mức thu nhập bình quân đầu người
5000$/năm trong suốt 30 năm nay. Các nước Mỹ Latinh đã từng tăng trưởng ấn
tượng liên tục 50-60 năm đặc biệt là Brazil với mức tăng trưởng bình quân
6%/năm suốt 100 năm, nhưng đến nay khu vực này vẫn đang giậm chân tại chỗ.
Chỉ có Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore và mới đây nhất là Chile mới
thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và vươn lên hàng ngũ các quốc gia có thu nhập
cao. Vậy Việt Nam thì sao? Nội dung tiếp theo của bài viết sẽ phân tích rõ những
nguy cơ làm cho chúng ta có thể mắc kẹt vào bẫy thu nhập trung bình.
Như vậy, “bẫy thu nhập trung bình” trong quan niệm của Kenichi Ohno và
của Homi Kharas có khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta có thể rút ra khái niệm ngắn
gọn về“ Bẫy của các nước thu nhập trung bình” như sau:
“ Bẫy của các nước thu nhập trung bình”hay “Bẫy thu nhập trung bình” là
một thuật ngữ dùng để chỉ tình trạng mắc kẹt của nhiều quốc gia đã thoát nghèo,
gia nhập vào nhóm nước có thu nhập trung bình nhưng mất nhiều thập niên vẫn

không trở thành quốc gia phát triển.
1.2. Nguyên nhân của tình trạng vướng vào “bẫy thu nhập trung bình”
Các quốc gia đang phát triển lại vướng vào “ bẫy thu nhập trung bình” là do các
nguyên nhân chính sau :
+ Sự suy giảm hiệu quảvốn đầu tư sau quá trình kích thích tăng trưởng.
+ Tiếp tục tình trạng của một nền kinh tếgia công .
+ Sựphân hóa thu nhập dẫn đến phân cực và bất ổn.
Ngoài ra, quá trình phát triển từ thu nhập thấp đến thu nhập trung bình cũng
ngầm chứa nhiều yếu tố là nguyên nhân để một nước rơi vào bẫy trung bình. Đó là
sự hủy hoại môi trường sống mà phải mất nhiều nguồn lực và thời gian khắc phục,
sự thay đổi môi trường xã hội dễ tạo ra những xung đột, tâm lý đòi thưởng công
trạng biểu hiện ở nhu cầu hưởng thụ sớm.
Thực tế, có nhiều nền kinh tế ở châu Á từ nghèo chuyển thành có thu nhập
trung bình, nhưng có rất ít trong số đó vượt lên nhưtrường hợp của Đài Loan và
Hàn Quốc. Philippines là quốc gia điển hình của tình trạng vướng vào bẫy thu
nhập trung bình đã không thểvượt qua ngưỡng 2.000 USD trong nhiều thập niên.
Indonesia cũng mất hơn một thập niên để từ trên 1.000 USD vượt lên hơn 2.000
USD/người. Còn Thái Lan thì bất ổn kéo dài từ sau 2005 và cũng mất hơn hai thập
niên mới vượt qua con số3.000 USD.
1.3. Các giải pháp để thoát khỏi tình trạng “ bẩy thu nhập trung bình”

Trang 7


Phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế
1.3.1 Các giải pháp để thoát khỏi tình trạng “bẫy thu nhập trung bình” dưới góc
nhìn của các chuyên gia
Ở bất kỳ giai đoạn nào, nếu muốn nền kinh tế có những thành tựu trong tăng
trưởng và phát triển, mỗi nền kinh tế đều cần phải được quản lý sáng tạo và điều
chỉnh không ngừng. Tuy nhiên, nếu chỉ như thế, nền kinh tế vẫn không vượt qua

được bẫy thu nhập trung bình. Những đòi hỏi cao và rất cao để vượt qua bẫy này,
theo Indermit Gill, Homi Kharas và các chuyên gia WB, gồm:
+ Chuyển từ đa dạng hóa sang chuyên môn hóa: Khi bắt đầu tăng trưởng, các
nền kinh tế đều có xu hướng đa dạng hóa. Nhưng xu hướng này đảo ngược
thành chuyên môn hóa khi nền kinh tế đạt tới một ngưỡng nào đó về hiệu
quả tính trên quy mô tương ứng. Ở Singapore, ngưỡng này là 2500 USD
người/năm. Một số nước khác từ5000 - 8000 USD người/năm.
+ Có ý chí và có phương thức đổi mới công nghệ: Khi các doanh nghiệp trong
một nền kinh tế đạt tới “biên giới công nghệ” thì cần phải khuyến khích sự
xuất hiện của các doanh nghiệp mới với công nghệ mới. Điều này đòi hỏi
phải thay đổi từ luật lệ, chính sách đến bản thân doanh nghiệp. Chọn thời
điểm thực hiện bước chuyển này và xử lý được sự phản kháng của các nhóm
lợi ích là thách thức lớn đối với các chính phủ.
+ Biết ưu tiên đầu tưcho giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học: Chuyển ưu
tiên từ đầu tư chung cho giáo dục sang đầu tư cho các nghiên cứu khoa học
(R&D) khi nền kinh tế đạt tới trình độ nào đó về chuyên môn hóa, đòi hỏi
phải sản xuất được những sản phẩm mới với các quy trình công nghệ mới.
Thông thường, do không biết chính xác các hoạt động R &D nào cần đầu tư,
các chính phủ buộc phải ưu tiên đầu tư cho giáo dục đại học và sau đại học.
1.3.2 Chính sách công nghiệp tiên phong:
Chính sách công nghiệp tiên phong nhằm củng cố sự cân bằng vốn rất mong
manh và hay thay đổi giữa chỉ đạo của nhà nước và định hướng thịtrường, giữa
cam kết toàn cầu hóa và duy trì công cụchính sách, giữa lãnh đạo quyết đoán với
nhu cầu lắng nghe doanh nghiệp tư nhân một cách cẩn trọng. Chính sách này rất
khó thực hiện so với việc đơn giản buông lỏng thị trường hoặc kiểm soát mọi việc
bằng cỗ máy nhà nước. Hợp phần chủ đạo của chính sách này là chấp nhận cơ chế
thị trường và toàn cầu hóa, tinh thần học hỏi linh hoạt của cả chính phủvà khu vực
tư nhân, và mối tương tác phức tạp, không ngừng thay đổi giữa hai khu vực này.
Cụ thể hơn, chính sách công nghiệp tiên phong phải thỏa mãn tất cảnh ững điều
kiện sau:

+ Phát triển theo cơ chế thị trường trong bối cảnh toàn cầu hóa: khu vực tư
nhân tham gia chủ yếu vào hoạt động sản xuất, đầu tư, thương mại và các
hoạt động kinh tế khác trong môi trường cạnh tranh mở do cơ chế thị trường
và quá trình toàn cầu hóa tạo ra. Nhà nước không tham gia vào hoạt động
Trang 8


Phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế

+
+
+

+
+

sản xuất, trừ những lĩnh vực khu vực tư nhân chưa sẵn sang tiếp quản vai trò
của nhà nước.
Nhà nước mạnh: Nhà nước đảm đương vai trò vững chắc và chủ động trong
việc định hướng và hỗ trợ phát triển mặc dù về nguyên tắc, mọi hoạt động
sản xuất đều do tư nhân tiếp nhận là chủyếu.
Giữ lại những công cụchính sách phù hợp cho các nước công nghiệp hóa đi
sau.
Phát triển năng lực động: Nâng cao năng lực chính sách và tính năng động
của khu vực tư nhân. Nội lực hóa kỹnăng và công nghệcó trong nguồn vốn
con người của công dân các nước: Đây là phần quan trọng nhất của mục tiêu
và giải pháp chính sách công nghiệp.
Cộng tác công tư hiệu quả: Xây dựng mối quan hệ hợp tác hiệu quả giữa hai
khu vực nhà nước và tư nhân một cách vững chắc trên sự tin tưởng lẫn nhau
và tham gia một cách tích cực từ hai phía.

Kiến thức sâu rộng về công nghiệp: nhằm tránh đánh giá sai chính sách và
gây ảnh hưởng chính trị. Chính phủ cần phải tích lũy đầy đủ những kiến
thức về ngành công nghiệp mà mình muốn can thiệp.Trên thực tế, có rất
nhiều dẫn chứng về chính sách công nghiệp tiên phong đã được thực hiện,
mà cụ thể là ở các nước Đông Á như Singapore, Malayxia, Thái Lan.

Chương 2: Một số ví dụ về các nước rơi vào “bẫy thu nhập trung bỉnh”
Lấy ví dụ, Đông Á được biết đến với mức tăng trưởng bứt phá đầy ấn tượng,
nhưng không phải tất cả các nền kinh tế trong khu vực đều phát triển thành công.
Điển hình như Nhật Bản bắt đầu công nghiệp hóa từ rất sớm, Đài Loan và Hàn
Quốc cũng đạt được thu nhập và năng lực công nghiệp tương đối cao. Tuy nhiên,
bên cạnh đó, Malaixia và Thái Lan vẫn “khựng” lại ở mức thu nhập trung bình dù
các nước này đã tiến hành công nghiệp hóa cùng thời điểm với Đài Loan và Hàn
Quốc từ những năm 1960. Trong khu vực ASEAN, Malaixia với GDP bình quân
đầu người là hơn 7.750 đô la Mỹ(theo số liệu sơ bộ của quốc gia năm 2009) và
Thái Lan, với GDP bình quân đầu người là hơn 6.973 đô la Mỹ( theo ước tính của
Quỹ Tiền tệ Quốc tế năm 2009) có thể là nạn nhân của “bẫy thu nhập trung bình”.
2.1.

Malayxia

Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (2009): “ Thách thức về trung hạn
quan trọng nhất đối với kinh tế Malaixia là gia nhập vào nhóm các nước có thu
nhập cao. Malaixia đã tăng trưởng vững chắc trọng vài thập kỷ qua, nhưng vẫn còn

Trang 9


Phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế
phụ thuộc vào mô hình kinh tế dựa vào tích lũy vốn là chủ yếu. Mặc dù đã đạt

được nhiều thành công trong quá khứ nhưng khả năng tăng trưởng của Malaixia
vẫn tụt hậu so với các nền kinh tế khác trong khu vực. Nền kinh tế dường như bị
mắc vào bẫy của thu nhập trung bình- không thể duy trì tính cạnh tranh của một
nhà sản xuất khối lượng lớn với chi phí thấp, cũng như không thể nâng cấp chuỗi
giá trị và tăng trưởng nhanh bằng cách thâm nhập vào các thị trường hàng hóa và
dịch vụ mang tính tri thức và sáng tạo đang tăng trưởng mạnh”.
Thủ tướng Malaixia Najib Tun Razak, người nắm quyền vào tháng 4 năm
2009, đã coi việc vượt qua bẫy thu nhập trung bình là mục tiêu kinh tế quan trọng
nhất của chính phủ. Để đạt được mục tiêu đề ra, thủ tướng Najib muốn huy động
các chính sách và nguồn lực hiện có để tự do hơn nữa nền kinh tế, thúc đẩy đầu tư
tư nhân, hình thành các ngành tạo giá tr ịmới, cải cách ngân sách, phát triển nguồn
nhân lực- được coi là năm trụcột trong “Mô hình kinh tế mới”của ông:

Trang 10


Phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế

Mô hình kinh tế mới của Malaixia
2.2.

Thái Lan

Ngược lại, Thái Lan đang nỗ lực từng bước phát triển công nghiệp bằng
cách tiếp tục con đường đang đi của mình. Thái Lan vẫn tiếp tục khuyến khích FDI
vào lĩnh vực chế tạo, thúc đẩy công nghệ khuôn mẫu, tăng cường năng lực và liên
kết các nhà sản xuất linh kiện nội địa. Việc tiếp tục củng cố các cụng công nghiệp
ô tô vẫn là trụ cột trong chính sách công nghiệp của Thái Lan.
Một trong các dự án hỗtrợ nỗ lực này là Dự án phát triển nguồn nhân lực
trong ngành công nghiệp ô tô hiện đang được triển khai với sự hỗ tr ợtoàn diện của

bốn công ty sản xuất ô tô lớn của Nhật Bản. Một định hướng chính sách khác là
phát triển sản xuất ô tô sinh thái. Đồng thời, Thái Lan cũng khuyến khích phát triển
các lĩnh vực mới như du lịch khám chữa bệnh, công nghệ sinh học và ITC. Dựa
trên các thành quả đạt được trong quá khứ, Thái Lan áp dụng cách tiếp cận hai
chiều, vừa phát triển cơ sở công nghiệp cũ đồng thời tìm kiếm các nguồn tăng
trưởng mới.

Hình :5 chiến lược và 12 kế hoạch hành động của ngành công nghiệp ô tô Thái
Lan
Một điểm khác nhau dễ dàng nhìn thấy giữa Malaixia và Thái Lan đó việc
lựa chọn lực đẩy cơ bản của chính sách công nghiệp. Trong khi Thái Lan hoàn toàn
theo thị trường và toàn cầu hóa, nỗlực xây dựng một môi trường kinh doanh mở
và tự do, không kỳ vọng vào việc tạo ra các thương hiệu quốc gia, thì Malaixia lại
Trang 11


Phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế
áp dụng các biện pháp chỉ đạo và hành chính để dẫn dắt khu vực tư nhân hoặc khu
vực nước ngoài đi theo một định hướng nhất định, trong đó bao gồm cả việc phát
triển và thúc đẩy việc sản xuất ô tô mang thương hiệu quốc gia. Malaixia đang đặt
cược vào cú nhảy cóc trong khi Thái Lan vẫn đi trên con đường cũ. Cả hai đều kỳ
vọng thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, nhưng cách thức mỗi nước lựa chọn để
đạt được mục tiêu tương đối khác nhau.
2.3. Indonexia
Indonesia có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam, trong đó tăng trưởng
kinh tế đều không xuất phát từ năng suất mà từ lợi thế có sẵn. Quốc gia này tuy có
mức thu nhập trung bình 3.580 $/người/năm nhưng đã tụt xuống hạng 120/189
quốc gia trên bảng xếp hạng Doing Business 2013. Indonesia cũng đang rơi vào
tình trạng đáng báo động khi mà dù là quốc gia thu hút FDI về sản xuất ô tô và
hàng tiêu dùng song Indonesia lại không là cứ điểm sản xuất cho xuất khẩu. Không

chỉ có vậy, từ năm 2000 tới 2010, tỷ lệ công nghiệp chế biến trong GDP của nước
này đã giảm từ 27,7% xuống 24,8% và trong xuất khẩu từ 57,1% xuống 37,5%.
Thêm vào đó, chủ nghĩa kinh tế dân tộc đang tăng khiến chính sách FDI trở nên
chặt chẽ hơn thay vì mở rộng. Quan trọng hơn, Quy hoạch (BAPPENAS) và dịch
vụ nhà đầu tư (BKPM) của nước ngày tuy được đánh giá là tốt, song Bộ Công
nghiệp rất yếu kém và manh mún. Chính sách DNNVV & đào tạo nghề cứng nhắc,
không có sự hỗ trợ cho các khu công nghiệp, công nghiệp hỗ trợ, năng suất hoặc
đổi mới. Sự phân cấp khiến Chính phủ rất khó thi hành các chính sách công nghiệp
trên cả nước. Indonesia đang dần mất đi dấu hiệu công nghiệp hóa và đã bước vào
bẫy thu nhập trung bình gần thập kỷ nay.
Chương 3: Thực trạng tại Việt Nam và giải pháp
3.1. Kinh tế của Việt Nam.
3.1.1. Kinh tế Việt Nam qua các con số.
Theo số liệu do Tổng Cục Thống kê công bố, năm 2014 là năm đầu tiên
trong kế hoạch 5 năm (2011-2015) kể từ 2011 đến nay, tăng trưởng kinh tế không
chỉ về đích mà còn vượt kế hoạch. So với kế hoạch chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế
5,8% mà Quốc hội đưa ra thì năm 2014 đạt 5,98% quả là con số đáng mừng cho
nền kinh tế Việt Nam. Mức tăng trưởng năm 2014 cao hơn mức tăng trưởng 5,25%
của năm 2012 và 5,42% của năm 2013 cho thấy dấu hiệu tích cực của nền kinh tế
trước bối cảnh chính trị. Mức tăng trưởng có dấu hiệu hồi phục này đã giúp cho
nền kinh tế vĩ mô có được sự ổn định - mục tiêu mà Việt Nam theo đuổi trong
nhiều năm nay, đặc biệt là sau khi lạm phát lên tới trên 20% trong năm 2008 - năm
đầu tiên Việt Nam chịu tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Con số tăng

Trang 12


Phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế
trưởng 5,98% được Tổng Cục Thống kê chính thức công bố đã khiến giới chuyên
gia không khỏi bất ngờ.


Hình : Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2004-2014 (đơn vị: %).
Nguồn: Tổng Cục Thống kê 2014
Kết quả cho thấy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2007 có mức tăng
cao nhất và năm 2009 có mức tăng thấp nhất. Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam
chính thức trở thành thành viên WTO nên có nhiều cơ hội cũng như điều kiện
thuận lợi cho nền kinh tế, các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế đều được hoàn
thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch. Trong năm 2007, Việt Nam được xếp vào
hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong khu vực. Trước tình hình
khủng hoảng tài chính thế giới nổ ra năm 2008, nền kinh tế Việt Nam cũng không
nằm ngoài sự ảnh hưởng đó. Ở giai đoạn này, mức tăng GDP luôn thấp hơn 7% và
ngày càng đi xuống, đến năm 2012 chỉ còn 5,25%, chưa bằng hai phần ba so với
mức trước khủng hoảng. Trong khi đó, trước thời điểm khủng hoảng, Việt Nam
luôn được coi là một trong những điểm sáng trên bản đồ kinh tế toàn cầu với tốc độ
tăng trưởng bình quân đạt 7,8%/ năm.
Mặc dù kinh tế Việt nam có dấu hiệu phục hồi tăng trưởng, nhưng khi xem
xét cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế thì thấy doanh nghiệp tư nhân đóng góp
chỉ khoảng trên dưới 10% và không thay đổi trong suốt từ năm 2005 - 2013. Trong
khi đó, thành phần kinh tế cá thể đóng góp nhiều nhất vào GDP, chiếm khoảng

Trang 13


Phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế
32% từ 2007 - 2013. Điều này phần nào cho thấy nền kinh tế hiện nay khá manh
mún và phát triển nhỏ lẻ.
Năng suất lao động của Việt Nam liên tục tăng trong thời gian qua, bình
quân đạt 3,7%/năm trong giai đoạn 2005 - 2014, góp phần thu hẹp dần khoảng
cách so với năng suất lao động của các nước trong khu vực. Năm 2012 tăng 3,05%,
năm 2013 tăng 3,83%, năm 2014 tăng 4,34%, chủ yếu do chuyển dịch cơ cấu lao

động từ ngành nông nghiệp có năng suất lao động thấp hơn sang các ngành công
nghiệp, dịch vụ có năng suất lao động cao hơn. Trong đó năng suất lao động khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,4%, công nghiệp và xây dựng tăng 4,3%,
dịch vụ tăng 4,4%. Tuy nhiên, hiện nay năng suất lao động Việt Nam chỉ bằng 1/18
năng suất lao động của Singapore; bằng 1/6 của Malaysia; bằng 1/3 của Thái Lan
và Trung Quốc.
Sự hồi phục của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2014 là cơ sở quan trọng
để các chuyên gia kinh tế thống nhất quan điểm và đặt ra mục tiêu tăng trưởng
6,2% trong năm 2015 là hợp lý. Trong năm 2015, Việt Nam sẽ sớm thực hiện các
cam kết theo các Hiệp định mới ký kết gồm: Hiệp định thương mại tự do Việt Nam
- Hàn Quốc, Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Hải quan
Nga-Belarus-Kazakhstan. Đồng thời, tiếp tục đàm phán Hiệp định Thương mại Tự
do Việt Nam - EU, Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương
(TPP) và tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN, qua đó tạo điều kiện thuận lợi thúc
đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP năm 2015. Việc thực thi các hiệp định thương
mại trong thời gian tới sẽ khiến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2015
tăng mạnh hơn so với năm 2014.
3.1.2. Nhận xét về mô hình phát triển kinh tế của Việt Nam.
Về cơ bản, mô hình tăng trưởng Việt Nam bao gồm các điểm chính: coi mở
cửa và hội nhập khu vực là yếu tố tiên quyết đối với tăng trưởng, củng cố thương
mại nội vùng và đầu tư trực tiếp nước ngoài, tiết kiệm và đầu tư ở mức cao, chuyển
đổi năng động cơ cấu công nghiệp, đô thị hóa và di cư nông thôn – thành thị, giải
quyết các vấn đề liên quan đến tăng trưởng như chênh lệch giàu nghèo, ô nhiễm,
tắc nghẽn giao thông...
Sau hơn 25 năm Đổi mới, Việt Nam đã thu được những thành tựu rất có ý
nghĩa trong thúc đẩy tăng trưởng, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống người
dân,… Những thành tựu đó có nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ bản chất của quá
trình Đổi mới: đó là đảm bảo ổn định kinh tế- xã hội cùng với mở rộng cơ hội và
quyền lựa chọn sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng của người dân thông qua việc tiến
hành những cải cách định hướng thị trường và “mở cửa”, hội nhập kinh tế quốc tế.

Trên thực tế, mô hình phát triển của Việt Nam đã chứa đựng nhiều yếu tố
đáp ứng tư duy mới về phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay: có sự kết
hợp giữa Nhà nước, thị trường và hội nhập, chính sách kinh tế với chính sách xã
Trang 14


Phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế
hội, môi trường,… Ý tưởng chủ đạo trong xây dựng mô hình phát triển đã được
Đại hội IX (năm 2001) và Đại hội X (năm 2006) Đảng cộng sản Việt Nam nhấn
mạnh là “nền kinh tế thị trường định hướng XHCN” và gắn với “chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế”.
Đồng thời, thực tiễn Đổi mới, cải cách ởViệt Nam cũng cho thấy sự phức tạp
của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Dấu ấn tư duy quản lý nhà nước, nhất là trong phân
bổn guồn lực của một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung còn khá đậm nét; khung
khổ pháp lý còn thiếu đồng bộ, mâu thuẫn (cả trong thể hiện văn bản và thực thi),
và có những điểm chưa thật tương thích với cơ chế thị trường và tiến trình hội
nhập. Hiệu lực thực thi, khả năng giải trình yếu, và việc thiếu ràng buộc trách
nhiệm của bộ máy là những vấn đề nổi cộm. Sự phối hợp hoạch định, thực thi
chính sách, giám sát và trao đổi phản hồi cũng còn nhiều bất cập. Các doanh
nghiệp trong nước vẫn còn thiếu sức cạnh tranh, các chính sách và thể chế còn yếu
kém so với chuẩn mực các nước trong khu vực Đông Nam Á. Các hoạt động công
nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu, vẫn chủ yếu do công ty
nước ngoài nắm giữ, trong khi giá trị mà người lao động và các công ty trong nước
còn hạn chế.
3.1.3. Đổi mới lần hai: chất lượng hơn GDP danh nghĩa
Có thể thấy tuy đã đổi mới được 20 năm nhưng nền kinh tế của ta vẫn còn
rất nhiều vấn đề. Sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta vẫn còn nằm ở vị trí của
nhóm 40% các nền kinh tế có sức cạnh tranh thấp. Chưa nói tới giấc mơ trở thành
nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020 thì thành tựu "nước thu nhập trung bình"

mới đạt được cũng đang rất mong manh. Áp lực cho nền kinh tế Việt Nam phải tái
cơ cấu, đổi mới chiều sâu để có nội lực mạnh, sức cạnh tranh cao đang rất cấp
bách.
Theo kế hoạch của Chính phủ, trọng tâm tái cơ cấu nền kinh tế trong giai
đoạn 5 năm 2011-2015 là 3 lĩnh vực gồm đầu tư công và phân cấp đầu tư, doanh
nghiệp Nhà nước và hệ thống ngân hàng.
Trong đó, đối với lĩnh vực đầu tư, nhiệm vụ cấp thiết là lập lại trật tự kỷ
cương trong quản lý, giảm đầu tư công, điều trị tận gốc căn bệnh xin -cho, chạy
đua thành tích bằng mọi giá, đầu tư ồ ạt, dài trải mà không tính hiệu quả kinh tế.
Cụ thể như việc quán triệt nguyên tắc chỉ khuyến khích sản xuất, tăng thu ở những
địa bàn có lợi thế tiềm năng thực sự, mang lại hiệu quả lợi nhuận, tạo ra nguồn thu
đúng và đủ. Việc lập dự toán ngân sách Nhà nước dựa trên kết quả đầu ra thay vì
đầu vào như hiện nay.
Đối với doanh nghiệp Nhà nước, Chính phủ sẽ rà soát làm rõ nguyên nhân
chậm trễ quá trình cổ phần hóa DNNN, đánh giá toàn diện hiệu quả, tình trạng thua

Trang 15


Phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế
lỗ của Tập đoàn, Tổng công ty và từ đó hoàn thiện tái cơ cấu các đơn vị này, đổi
mới quản trị.
Trọng tâm thứ ba là ở lĩnh vực ngân hàng, được cho là cấp bách nhưng nhạy
cảm với sự ổn định của nền kinh tế. Tái cơ cấu ngành này sẽ theo hướng giảm bớt
số lượng các ngân hàng thương mại, xác đinh lại qui mô cần thiết, nâng cao chất
lượng các tổ chức tín dụng.
Có thể nói, đề bài tổng thể của câu chuyện tái cơ cấu này thì đã rõ nhưng
giải pháp chính sách cụ thể vẫn còn mơ hồ. Tái cấu trúc nền kinh tế đã được nhắc
tới rầm rộ từ 3 năm trước khi khủng hoảng tài chính Mỹ xảy ra, để rồi giờ đây vẫn
còn là dự án trên giấy. Kế hoạch của Chính phủ đặt ra cho thấy sẽ phải mất thêm 1

năm nữa để "nghiên cứu, làm đề án" trước khi đi vào hiện thực!
Thẳng thắn nhận định, TS Trần Du Lịch ( Đại biểu quốc hội) cho rằng, mọi
mục tiêu của các kế hoạch 5 năm trước dường như chỉ chú trọng vào tốc độ tăng
GDP, mà không chú trọng vào chất lượng tăng trưởng. Các kế hoạch này đều có
nội dung đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhưng trên thực tế không có chính
sách để thúc đẩy sự chuyển dịch, như qua hệ thống luật pháp và các công cụ điều
tiết vĩ mô.
Vì lẽ đó, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, tái cấu trúc phải như câu chuyện
đổi mới kinh tế 20 năm trước của Việt Nam. Chính phủ cần tạo ra những chính
sách mà ở đó, các thành phần kinh tế phải tìm được động lực đổi mới cho mình,
các địa phương không ham thành tích tăng trưởng bất chấp mọi giá như hiện nay.
Đã có ý kiến cho rằng, có thể Chính phủ không cần đặt mục tiêu tăng trưởng
bao nhiêu % như một chỉ tiêu cứng vì đó chỉ là GDP danh nghĩa mà quan trọng
hơn là phải đi vào từng lĩnh vực với các thước đo hiệu quả cụ thể.
Như TS Trần Du Lịch nhấn mạnh, mục tiêu kinh tế của Nhà nước phải thể hiện qua
chính sách cụ thể nhằm tác động vào thị trường, chính thị trường sẽ tác động vào
định hướng đầu tư hoạt động của doanh nghiệp. Khi đó, tái cơ cấu không phải là
chính sách hô hào, kêu gọi hoặc là mệnh lệnh hành chính, hiển nhiên là động lực
của sự phát triển trong môi trường cạnh tranh toàn cầu.
3.2. Việt Nam trước nguy cơ mắc bẫy thu nhập trung bình
Sự phát triển của nước ta có rất nhiều nét tương đồng với hai nước trên.
Chính vì vậy, bẫy thu nhập trung bình đang giăng sẵn trên con đường phát triển
của nước ta, nếu không cẩn trọng, việc nước ta mãi mãi là nước có mức thu nhập
trung bình sẽ trở thành sự thật.
Bước vào nhóm các quốc gia có mức thu nhập trung bình đó là một thành
tựu đáng nhân được lời khen cho những cố gắng của Đảng và toàn dân ta. Tuy
nhiên hãy nhìn vào một thực tế rõ ràng rằng, với thu nhập bình quân đầu người
1000$/năm, nước ta vẫn đứng vào nhóm những nước có mức thu nhập thấp nhất
châu Á (dưới 2000$) cùng với Bangladesh, Campuchia, Lào, Mông Cổ, Sri lanka,
Trang 16



Phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế
Papua New Guinea, Nepal. Hãy nhìn ra thế giới xung quanh, chúng ta còn tụt lại
quá xa, ngay cả với những nước láng giềng có mức thu nhập trung bình.
Để gia nhập nhóm các quốc gia có mức thu nhập trung bình, ngoài những lý
do tích cực như: chính sách đổi mới hiệu quả, tự do hóa đúng thời điểm, chúng ta
đã chuyển ra kinh tế thị trường, phát huy được tinh thần kinh doanh, sự năng động
của người dân thì điểm mấu chốt để Việt Nam đạt được mức tăng trưởng đó là
chúng ta dựa quá nhiều vào khai thác và xuất khẩu tài nguyên, nguồn nhân công
dồi dào, giá rẻ; phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI, FPI,
ODA,...) mà chưa xây dựng được giá trị nội tại của riêng mình. Nói cách khác
nguồn lực lớn nhất của đất nước ta là con người lại không tận dụng được.
Liệu chúng ta có đang bị ru ngủ bởi những lời ngon ngọt “tính năng động”, “
triển vọng tốt đẹp vào nền kinh tế”, “Việt Nam sẽ hóa rồng trong nay mai”... để rồi
không thấy hay giả vờ không thấy những thực trạng đau lòng của nền kinh tế nước
ta hiện nay, mà nều không thay đổi nó sự thịnh vượng của đất nước sẽ mãi chỉ là
giấc mơ mà thôi.
Thu nhập của nước ta hiện nay phụ thuộc vào tới hơn 70% từ tài nguyên. Ai
cũng biết khoáng sản là một tài nguyên không thể tái tạo, vì thế tài nguyên khoáng
sản phải được quy hoạch, bảo vệ, sử dụng một cách hợp lý, tối ưu phục vụ cho sự
phát triển kinh tế đất nước và phải đảm bảo cho các thế hệ mai sau còn sử dụng.
Nhưng thực tế lại khác xa, tài nguyên khoáng sản lại được khai thác một cách bừa
bãi. Từ dầu thô, đến quặng sắt, quặng magnetit, mangan, kẽm,... tất cả đều được
khai thác tối đa có thể. Nhưng nếu khai thác mà để phục vụ cho sản xuất trong
nước còn đỡ, đằng này khái thác để rồi đem đi bán dưới dạng thô, hoặc nếu hơn thì
chỉ là sơ chế mà thôi. Chính vì vậy giá trị mà nó mang lại cực kì thấp. Tỉnh, thành
nào có tài nguyên khoáng sản là ra sức khai thác tối đa, để chạy theo thành tích,
chay theo mục tiêu tăng trưởng GDP đã được đề ra. Tất cả chỉ nhìn thấy được cái
lợi trước mắt mà không thấy được hậu quả dài hạn mà nó để lại cho thế hệ sau. Cứ

đà khai thác như thế này chỉ vài năm nữa tài nguyên sẽ cạn kiệt. Đã thế, cuối năm
2009, Bộ Tài chính có quyết định giảm mức thuế suất thuế xuất khẩu của mặt hàng
quặng apatít từ mức 10% xuống 7%. Bộ Công Thương đã có văn bản đề nghị Thủ
tướng cho xuất khẩu 400.000 tấn tinh quặng sắt, 84.000 tấn magnetit, 18.000 tấn
mangan, 44.000 tấn kẽm... Một nghịch lý khác là tập đoàn Than và Khoáng sản
Việt Nam đã báo động rằng từ năm 2013, Việt Nam sẽ phải nhập than đá nhưng
cũng chính tập đoàn này trong năm 2009 đã xuất khẩu 29 triệu tấn than đá và năm
2010 lại đề nghị xuất khẩu tiếp 18 triệu tấn. Có phải vì lợi ích cục bộ của chính tập
đoàn này?!
Một thực tế khác đó là trình độ phát triển của người lao động Việt Nam còn
quá thấp so với mức trung bình của thế giới. Chúng ta đã luôn tự làm khổ mình khi
mà sự phát triển của nước ta trong những năm gần đây phụ thuộc quá nhiều vào
Trang 17


Phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế
nguồn vốn FDI chủ yếu đầu tư vào các nghành có hàm lượng công nghệ thấp.
Những đồ thải của ngành công nghiệp thế giới đều đổ xô vào nước ta, còn những
ngành yêu cầu kĩ thuật cao thì chẳng thấy đâu. Điều này đã làm cho người lao động
Việt Nam mãi chìm trong những kiến thức sơ khai của ngành công nghiệp thế giới,
nguồn lực lớn nhất là con người đã không được tận dụng. Nguy cơ nước ta trở
thành một bãi rác thãi công nghiệp của thế giới là rất lớn. Tác giả Nguyễn Trung
của bài viết “"Lời nguyền tài nguyên" và nguy cơ của một nước làm thuê” đã nhân
định rằng “Trên thực tế nước ta đang đứng trước nguy cơ trở thành một nước đi
làm thuê và đất nước cho thuê với cả nghĩa đen và nghĩa bóng”.

Tăng trưởng GDP và ICOR một số quốc gia Đông Á
So sánh chỉ số ICOR giữa Việt Nam và các nước trong khu vực chúng ta sẽ
thấy rõ hiệu quả đầu tư của chúng ta như thế nào – thấp nhất trong khu vực. Điều
đó đủ cho chúng ta thấy sự yếu kém trong khâu quản lý, tổ chức, thực hiện các dự

án đầu tư cũng như là việc các dự án này chủ yếu là các dự án có hàm lượng chất
xám thấp, chủ yếu yêu cầu nhiều lao động rẻ tiền. Như thế thì ICOR cao cũng chỉ
là hệ quả tất yếu mà thôi.
Hiện tại nền kinh tế nước ta phát triển ở mức thấp trên các phương diện:
trình độ lao động, hàm lượng công nghệ, năng lực kinh doanh, năng lực quản lý đất
nước, hiệu quả kinh tế, sự phát triển của con người, của văn hóa, xã hội. Liệu Việt
Nam sẽ phát triển như thế nào trong tương lai khi mà hàm lượng tri thức quá thấp,
phát triển chỉ dựa vào xuất khẩu tài nguyên thô, lực lượng lao động dồi dào, giá rẻ,
mà chắc chắn những lợi thế này sẽ biến mất trong nay mai, nếu như thế này thì làm
sao mà phát triển bền vững được cơ chứ!
Theo như ông Nguyễn Trung cho rằng, công nghiệp hóa hiện nay ở đất nước
ta là gặp gì làm nấy, và hậu quả của nó chính là gây ảnh hưởng lớn đến môi trường
sinh thái, hạn hán, lũ lụt ngày càng gia tăng, đất nước ta đang bị ‘mặt trăng hóa”
nhiều vùng miền do việc khai thác tài nguyên bừa bãi. Cuộc sống người dân còn
nghèo, bất bình đẳng trong xã hội ngày càng gia tăng. Nếu nhìn vào thu nhập bình
quân đầu người là 1000$/năm để nói chúng ta thoát nghèo là hoàn toàn không
Trang 18


Phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế
chính xác. Chỉ tiêu GDP bình quân đầu người chỉ là một chỉ tiêu thô, tổng hợp và
không nói lên được điều gì về bất bình đẳng trong thu nhập của xã hội. Có vài đại
gia về bất động sản, chứng khoán có thu nhập cả hàng trăm triệu đô/năm, trong khi
đó có rất nhiều gia đình có tới chục miệng ăn nhưng chỉ có vài ba sào ruộng thì làm
sao gọi là thoát nghèo được chứ.
Một điều đáng để nói hiện nay nữa là tình trạng tham nhũng. Gọi là cương
quyết với tham nhũng, giải quyết triệt để “giặc nội xâm” nhưng thực tế đi kèm theo
nó là thờ ơ với tham nhũng, không có tham nhũng mới là chuyện lạ. Liệu nước ta
có thể trở nên thịnh vượng và giàu có khi mà có những kẻ luôn vì lợi ích của mình
mà bóp méo đi lợi ích của nhân dân, ăn của dân đến tận xương tủy.

Một yếu kém nữa có thể làm cho chúng ta khó đạt được mức thu nhập cao
đó chính là hệ thống hành chính của chúng ta qua rườm rà, phức tạp, cơ sở hạ tầng
còn yếu kém, môi trường kinh doanh chưa năng động, nhất là khu vực tư nhân còn
quá yếu mà theo Gs Kenichi Ohno sự năng động của khu vực tư nhân là một trong
những yếu tố quan trọng nhất giúp các nước thoát khỏi mức thu nhập trung bình.
Thái lan và Malaysia đã không làm được điều đó chính vì vậy họ đã giậm chân tại
chỗ ở mức thu nhập trung bình. Thực tế Việt Nam hiện nay, các doanh nghiệp nhà
nước độc quyền đã làm bóp méo thị trường. Còn nhớ vào năm 2007, khi mà đầu tư
cho khu vực doanh nghiệp nhà nước ở mức thấp nhất trong lịch sử nhưng vẫn
chiếm tới 47% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Nói một cách chung nhất nguy cơ có thể làm nước ta mắc vào bẫy thu nhâp
trung bình đó chính là việc hoạch định chính sách của chúng ta. Từ trước đến nay
chúng ta chủ yếu tăng trưởng theo chiều rộng, chính vì vậy chỉ để ý đến tăng
trưởng kinh tế mà không chú trọng đến chất lượng tăng trưởng, tăng trưởng đạt
mức cao nhưng chất lượng tăng trưởng lại ở mức thấp. Nếu cứ phát triển theo con
đường này sự phát triển của chúng ta có thể nhanh nhưng không bền vững và
không sớm thì muộn đất nước sẽ không phát triển được. Chúng ta đã dự định hoàn
thành mục tiêu công nghiệp hóa đất nước vào năm 2020, nhưng chưa có một chính
sách rõ ràng, chưa vạch ra được những việc phải làm, con đường phải đi để thực
hiện được mục tiêu đó. Nếu cứ tình trạng ì ạch, không chịu thay đổi hoạch định
chính sách chúng ta sẽ đứng mãi ở mức thu nhập trung bình mà thôi.
Trên là một số nguy cơ có thể đưa nước ta mắc vào bẫy thu nhập trung bình,
nhưng đó chỉ là nguy cơ mà thôi.
Vậy thực tế thì sao: Phân tích dữ liệu của 124 quốc gia từ năm 1950-2010
chỉ ra rằng, trường hợp một quốc gia ở mức thu nhập trung bình thấp trong 28 năm
hoặc nhiều hơn; hoặc một quốc gia ở mức thu nhập trung bình cao trong 14 năm
hoặc nhiều hơn có nghĩa là quốc gia đó đã rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Tuy
nhiên, theo World Bank Vietnam thì Việt Nam vừa đạt được mức thu nhập trung

Trang 19



Phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế
bình thấp, do đó, còn quá sớm để nhận định rằng Việt Nam đã mắc bẫy thu nhập
trung bình.
Trước đó, hồi đầu tháng 4/2014, Giám đốc Ngân hàng Phát triển Châu Á
(ADB) tại Việt Nam ông Tomoyuki Kimura khẳng định Việt Nam chưa rơi vào bẫy
thu nhập trung bình. Theo dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ tăng nhẹ, đạt
mức 5,6% trong năm 2014 và tiếp tục tăng lên 5,8% trong năm 2015 cùng với sự
phục hồi kinh tế ở Hoa Kỳ và khu vực đồng euro và các bước tiến trong việc khắc
phục những yếu kém trong hệ thống ngân hàng nội địa. Trong bối cảnh kinh tế thế
giới nói chung thì triển vọng này quả là không quá tồi.
"Tuy nhiên, việc Việt Nam có thể đạt được mức tăng trưởng tiềm năng, tức
là cao hơn tăng trương do ADB dự báo còn phụ thuộc nhiều vào quá trình cải
cách doanh nghiệp nhà nước, cải cách hệ thống tài chính - ngân hàng và đầu tư
công. Nếu Việt Nam không làm được điều này thì việc rơi vào bẫy thu nhập trung
bình là điều chắc chắn sẽ xảy ra”. - Ông Tomoyuki Kimura khuyến cáo.
3.3. Các biện pháp giúp Việt Nam thoát “bẫy thu nhập trung bình” và vươn
lên tầm quốc gia phát triển.
Chúng ta đang đứng ở ngã ba đường, việc có thể hóa rồng hay không phụ
thuộc vào sự lựa chọn của chính chúng ta. Nếu chọn con đường đi đúng, Việt Nam
sẽ là những con rồng trong nay mai như các nước Nics.
Ngay từ bây giờ chúng ta cần phải hoạch định lại con đường đi rõ ràng cho
mình, tái cấu trúc lại nền kinh tế hiện nay, có như vậy nước ta mới thoát khỏi nguy
cơ mắc vào bẫy thu nhập trung bình.
Đầu tiên chúng ta phải vạch rõ những việc phải làm, con đường phải đi thật
chi tiết để đạt được mục tiêu công nghiệp hóa đất nước vào năm 2020. Cần xác
định rõ như thế nào là một nước công nghiệp hóa, và để đạt được nó ngay từ hôm
nay chúng ta phải làm gì, năm nay phải làm gì, 5 năm tới phải làm gì, và 10 năm
tới chúng ta làm như thế nào. Hay nói cách khác phải hoạch định rõ chính sách,

mục tiêu cụ thể cho từng thời kì, các chính sách và mục tiêu đó phải sát với thực
tiễn, và phải nhằm một mục đích là phát triển bền vững.
Tăng truởng hiện nay của chúng ta phụ thuộc quá nhiều vào đầu tư nước
ngoài, xuất khẩu tài nguyên, lao động giá rẻ, những yếu tố đó đã đưa chúng ta thoát
nghèo nhưng không đảm bảo cho chúng ta phát triển lên thành nước có thu nhập
cao được. Chúng ta chỉ có thể trở thành nước phát triển khi mà chúng ta biết tận
dụng nguồn lực con người một cách tốt nhất. Điều đó có nghĩa là cần phải nâng
cao tay nghề cho người lao động, tập trung phát triển đất nước theo chiều sâu chứ
không phải là chiều rộng như trước nữa. Khi mà sự cạnh tranh trên thế giới ngày
càng một khắc nghiệt thì chúng ta phải biết tạo ra những giá trị riêng, những thế
mạnh của mình có như vậy mới có thể cạnh được trên thị trường.

Trang 20


Phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế
Chúng ta nên tập trung thu hút những dự án FDI có hàm lượng công nghệ
cao và hạn chế dần dần những dự án yêu cầu nhiều lao động nhưng tay nghề thấp.
Khuyến khích phát triển các ngành có công nghệ cao. Phải phát huy được tính sáng
tạo, đầu óc suy nghĩ nơi người lao động. tập trung sản xuất ra những sản phẩm có
hàm lượng tri thức cao.
Theo ông Martin Rama, chuyên viên kinh tế cao cấp của ngân hàng Thế giới
để thoát bẫy thu nhập trung bình, các quốc gia cần chuyên biệt về một lĩnh vực nào
đó, nơi mà họ có thể gặt hái được thành công về kinh tế, dẫn dầu về công nghệ sản
xuất. Chính vì vậy, ngay từ bây giờ chúng ta cần phải xác định rõ ràng ngành nào
sẽ là ngành công nghiệp chủ chốt của chúng ta trong tương lai để đầu tư phát
triển.Và ngành đó phải là ngành yêu cầu công nghệ cao.
Trong cuốn “Đông Á phục hưng” do Ngân hàng Thế giới xuất bản năm
2008, đã nêu rõ những bài học để hóa rồng của các nước châu Á. Đó là, muốn đi từ
một nước thu nhập trung bình lên giàu có, các nước phải thực hiện ba sự chuyển

đổi quan trọng: từ đa dạng hóa sang chuyên môn hóa, từ tích lũy sang sáng tạo, từ
kỹ năng cơ bản sang kỹ năng tiên tiến. Người ta cũng nhận định một số nước châu
Á đã thành công trong hội nhập khu vực, hội nhập quốc tế, nhờ vậy đã thoát nghèo,
trở thành nước thu nhập trung bình, và ngày nay để vươn lên giàu có, các nước đó
phải thực hiện cuộc hội nhập thứ ba - hội nhập bên trong nước mình.
Vì thế, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng: “Thực hiện 3 sự chuyển
đổi này đối với nước ta chính là chuyển sang mô hình tăng trưởng mới, không theo
bề rộng mà theo chiều sâu, lấy hiệu quả, chất lượng làm thước đo chính. Không
dựa chủ yếu vào khai thác tài nguyên, sức lao động giá rẻ và vốn đầu tư lớn mà
dựa chủ yếu vào công nghệ, tính sáng tạo và năng suất lao động để tăng trưởng.
Tạo nên lợi thế của mình để tham gia dây chuyền sản xuất trong khu vực và toàn
cầu một cách hữu hiệu nhất".
Còn việc thực hiện cuộc hội nhập bên trong, theo bà: “Chính là xây dựng
một môi trường tự do, bình đẳng, bảo đảm điều kiện tối đa cho sự phát triển sáng
tạo của mỗi con người trong một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Và những
“công cụ” chủ yếu để thực hiện những việc trên chính là một nhà nước trong sạch,
vững mạnh, một đội ngũ doanh nhân - doanh nghiệp năng động, sáng tạo, và một
nền giáo dục tiên tiến, mở cơ hội học tập và phát triển không ngừng cho mọi người
dân”. Như lời bà Lan nói, chúng ta phải biết gắn kết tăng trưởng với bền vững, ổn
định kinh tế vĩ mô, xây dựng được một hệ thống pháp luật công khai, minh bạch,
cuơng quyết xử lý tất cả các tệ nạn có thể có trong bộ máy nhà nước. Một điều rất
quan trọng đó là chúng ta phải đầy mạnh đa dạng hóa các thị trường vốn, tự do hóa
thương mại dịch vụ, tăng cường công tác tiếp thị thị trường, tìm kiếm thị trường,
vươn ra tầm quốc tế.

Trang 21


Phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế
Một điều rất quan trọng nữa, đó chính là phải tạo mọi điều kiện để làm cho

kinh tế khu vực tư nhân của chúng ta năng động hơn. Hạn chế hơn nữa sự có mặt
của nhà nước trong nền kinh tế. Những gì tư nhân làm được hãy khuyến khích họ
làm, có như vậy mới tạo ra được một môi trường kinh doanh năng động, góp phần
thúc đẩy đất nước phát triển.

C: KẾT LUẬN
Qua hơn hai mươi năm phát triển, chúng ta đã đi được một đoạn đường dài
khi chuyển mình từ một nước bị chiến tranh tàn phá thành một quốc gia có mức
thu nhập trung bình, đời sống được cải thiện. Tuy nhiên đó chưa phải là đích đến
cùa chúng ta, chung ta phải đi lên, vượt quá các thử thách khó khăn nhất. Khi đó
thah2 công mới tới

Trang 22


Phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế
Tài liệu tham khảo:
/> /> />Vượt qua bẫy thu nhập trung bình: Đổi mới hoạch định chính sách công
nghiệp ở Việt Nam. Kenichi Ohno (VDF/GRIPS). Sửa đổi 18/3/2010.
www.vdf.org.vn/Doc/2010/Sym18Mar10KOhnoSlidesV.pdf
Bẫy thu nhập trung bình .
/>Làm sao thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình? – P/v Lê Đăng Doanh.
/>%E1%BA%ABy-thu-nh%E1%BA%ADp-trung-binh-pv-le-dang-doanh/
Kinh tế Việt Nam nên tránh bẫy thu nhập trung bình
/>"Lời nguyền tài nguyên" và nguy cơ của một nước làm thuê.
/>Để VN thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình: Cần 30 năm và một chính sách
tốt.
/>Việt Nam vẫn là nước thu nhập thấp.
/>Việt Nam đứng trước bẫy thu nhập trung bình.
/>Làm gì để kinh tế Việt Nam không rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”?

/>Tránh “bẫy thu nhập trung bình”. />Hành động để tránh “bẫy thu nhập trung bình”. />Khát vọng phát triển và bẫy thu nhập trung bình.
/>Malaysia
công
bốmô
hình
kinh
tế
mới.
/>Trang 23


Phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế
Chảy
máu
tài
nguyên
khoáng
sản.
/>Tài nguyên khoáng sản rồi sẽ sớm cạn kiệt.
/>Đổi mới cách làm chiến lược.
/>
Trang 24



×