Tải bản đầy đủ (.pdf) (204 trang)

Văn hóa thẩm mỹ trong nhà trường quân đội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.24 MB, 204 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

PHẠM VĂN XÂY

V¡N HãA THÈM Mü
TRONG NHµ TR¦êNG QU¢N §éI HIÖN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
Mã số: 62 31 06 40

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. VĂN ĐỨC THANH
PGS.TS. NGUYỄN TOÀN THẮNG

HÀ NỘI - 2017


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

6

1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

6



1.2. Đánh giá chung và bàn luận

19

Chương 2: LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA THẨM MỸ TRONG NHÀ
TRƯỜNG QUÂN ĐỘI Ở VIỆT NAM

23

2.1. Những vấn đề chung về văn hóa thẩm mỹ

23

2.2. Đặc trưng của văn hóa thẩm mỹ trong nhà trường quân đội

35

Chương 3: THỰC TRẠNG VĂN HÓA THẨM MỸ VÀ PHÁT HUY
VĂN HOÁ THẨM MỸ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN
ĐỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

58

3.1. Khái lược về khách thể và phương thức khảo sát

58

3.2. Thực trạng các yếu tố cấu thành văn hóa thẩm mỹ trong nhà
trường quân đội ở Việt Nam hiện nay


63

3.3. Thực trạng tác động tổng thể của văn hóa thẩm mỹ trong nhà
trường quân đội ở Việt Nam hiện nay

89

Chương 4: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN VĂN
HÓA THẨM MỸ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

104

4.1. Phát triển những yếu tố cấu thành của văn hóa thẩm mỹ trong nhà
trường quân đội

104

4.2. Phát huy văn hóa thẩm mỹ trong nhà trường quân đội

124

KẾT LUẬN

148

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN


151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

152

PHỤ LỤC

161


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH, HĐH :

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

GDTM

:

Giáo dục thẩm mỹ

GD-ĐT

:

Giáo dục, đào tạo

GS.TS


:

Giáo sư, tiến sỹ

NTQĐ

:

Nhà trường quân đội

Nxb

:

Nhà xuất bản

PGS.TS

:

Phó giáo sư, tiến sĩ

QĐNDVN

:

Quân đội nhân dân Việt Nam

VHTM


:

Văn hóa thẩm mỹ

VHNT

:

Văn hóa nghệ thuật

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa thẩm mỹ là lĩnh vực văn hoá đặc thù, biểu hiện trình độ phát triển
cao của văn hoá, phản ánh mối quan hệ thẩm mỹ của con người đối với hiện thực
thông qua hoạt động thẩm mỹ. Văn hóa thẩm mỹ (VHTM) luôn hiện diện, thẩm
thấu trong mọi hoạt động của đời sống xã hội, chắt lọc những giá trị từ chính đời
sống thẩm mỹ để tác động trở lại tâm thức, thói quen của con người, tôn vinh cái
đẹp, làm cho các hoạt động hưởng thụ, đánh giá, sáng tạo thẩm mỹ của con người
được thực hiện trên nền tảng một chỉnh thể giá trị chân - thiện - mỹ, hướng sự phát
triển nhân cách của con người theo chuẩn mực của cái đẹp. VHTM thực sự trở
thành tiêu chí tham chiếu, qui tụ thành hướng phát triển chung vì sự phát triển tiến

bộ của của con người và cộng đồng, xã hội.
Bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và giao lưu, hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng của nước ta hiện nay đang tạo điều kiện thuận lợi cho VHTM của
mỗi cá nhân phát triển gắn với hình thành nhân cách. Song, bối cảnh ấy đồng thời
đặt ra những khó khăn, thách thức cho việc định hướng, tiếp thu, thưởng thức, đánh
giá, sáng tạo những giá trị VHTM của mỗi người. Trong quân đội cũng đang diễn ra
sự đan xen phức tạp và chịu nhiều ảnh hưởng của các kênh tác động từ phía môi
trường xã hội và đã xuất hiện những "lệch chuẩn", mở đường cho những hiện tượng
tiêu cực, những phản giá trị thẩm mỹ len lỏi vào làm biến dạng đời sống văn hóa
tinh thần lành mạnh của quân nhân.
Đối với đời sống VHTM của nhà trường quân đội (NTQĐ) cũng vậy, thị
hiếu thẩm mỹ, tình cảm thẩm mỹ, nhu cầu thẩm mỹ và lý tưởng thẩm mỹ của cán
bộ, giảng viên, đặc biệt là học viên cũng ít nhiều bị ảnh hưởng tương tự. Do tuổi
đời, vốn sống, sự thử thách, rèn luyện chưa nhiều, nhân cách đang trong quá trình
định hình chưa thực sự ổn định… nên học viên trong NTQĐ dễ bị tác động, lôi
cuốn bởi những cảm xúc, thị hiếu thẩm mỹ mới lạ. Không ít học viên thiếu am hiểu
về VHTM cũng như vai trò của nó đối với đời sống thẩm mỹ của bộ đội. Việc tổ
chức các hoạt động VHTM ở một số NTQĐ chưa tạo ra được nhiều cái đẹp mang
tính hệ thống, chưa tạo được sức thu hút, lôi cuốn quân nhân vào lĩnh vực VHTM.
Khi ra trường, một bộ phận sĩ quan trẻ lý tưởng thẩm mỹ còn mờ nhạt; chưa thấu
hiểu hết các giá trị VHTM trong đời sống và hoạt động quân sự; chưa phát huy hết
vai trò VHTM trong đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo thẩm mỹ của bộ đội;


2
chưa biết bảo vệ, giữ gìn, phát huy những giá trị VHTM truyền thống của dân tộc và
quân đội. Thực trạng đó đòi hỏi phải coi trọng phát triển VHTM trong NTQĐ tạo ra
đời sống VHTM vui tươi, lành mạnh, xây dựng các NTQĐ thực sự trở thành "pháo
đài" vững chắc về chính trị, tư tưởng, đồng thời là nơi tiếp nhận những tri thức khoa
học thẩm mỹ mới hoà nhập với mặt bằng chung của giáo dục - đào tạo (GD-ĐT) trong

nước và quốc tế, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của quân đội trong tình hình mới.
Nhận thức đúng đắn vai trò to lớn của VHTM trong xây dựng quân nhân và
tập thể quân nhân văn hóa, những năm qua các NTQĐ luôn quan tâm xây dựng và
phát triển VHTM, tạo ra đời sống thẩm mỹ lành mạnh, phong phú và làm cho hệ giá
trị VHTM luôn lan tỏa, thẩm thấu đến đời sống sinh hoạt, giảng dạy, học tập và rèn
luyện của cán bộ, giảng viên, học viên, hình thành ở họ tinh thần lạc quan, biết cảm
thụ cái hay, cái đẹp trong đời sống và hoạt động quân sự, không ngừng thúc đẩy các
quan hệ hài hoà trong môi trường sư phạm quân sự. Tuy nhiên, so với yêu cầu của
thực tiễn, quá trình phát triển và phát huy VHTM trong NTQĐ vẫn còn nhiều mặt
hạn chế, chưa cập nhật được tình hình phát triển đời sống thẩm mỹ chung của xã
hội, chưa phát huy hết mọi tiềm năng sáng tạo, cũng như chưa tạo ra môi trường
thuận lợi để phát triển năng lực sáng tạo tiềm ẩn của các chủ thể. Một số nhà trường
chưa thực sự chú trọng, quan tâm đến phát triển VHTM và xây dựng đời sống
VHTM vui tươi, lành mạnh, chưa coi đó là một khâu quan trọng làm chuyển biến
toàn diện và nâng cao chất lượng GD-ĐT. Điều đó đã dẫn đến đời sống VHTM ở
một số nhà trường còn tẻ nhạt, đơn điệu, dễ nảy sinh suy nghĩ và hành động tiêu cực
của học viên, cũng như không phát huy hết tiềm năng sáng tạo và xây dựng những
tập thể quân nhân trong nhà trường trở thành "điểm sáng văn hoá". Tình hình đó đòi
hỏi cần phải có sự nghiên cứu chuyên sâu nhằm luận giải, tìm ra thực chất và cách
thức giải quyết một cách khoa học.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, việc nghiên cứu cơ bản, hệ thống về
"Văn hóa thẩm mỹ trong nhà trường quân đội hiện nay" dưới góc độ Văn hoá học
là vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Góp phần luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về VHTM, trên cơ sở
đó đề xuất những vấn đề cần giải quyết nhằm phát triển các yếu tố cấu thành
VHTM và phát huy VHTM trong NTQĐ đáp ứng mục tiêu phát triển toàn diện



3
nhân cách học viên hướng tới phát triển đội ngũ sĩ quan, nhân viên chuyên môn kỹ
thuật của quân đội trong tương lai.
2.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những vấn đề lý luận về VHTM và đặc trưng của VHTM trong NTQĐ.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng VHTM trong tổ chức và hoạt động ở một số
NTQĐ tiêu biểu ở Việt Nam hiện nay.
- Xác định những vấn đề đặt ra về phát triển VHTM trong NTQĐ hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là VHTM gắn với hoạt động GD-ĐT trong
các NTQĐ ở Việt Nam hiện nay, được xem xét dưới góc độ Văn hoá học.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận án nghiên cứu một cách sâu sắc từ điểm đến diện về
VHTM ở các NTQĐ. Hiện nay, do hệ thống các NTQĐ có hơn một trăm học viện,
nhà trường đóng quân trên phạm vi toàn quốc, do đó luận án gọi chung là nhà
trường quân đội và chỉ chọn đại diện 3 nhà trường tiêu biểu cho ba lĩnh vực: chính
trị, quân sự và văn hóa nghệ thuật (VHNT), bao gồm: Học viện Chính trị; Trường
Sĩ quan Lục quân 1; Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội.
- Về thời gian: Luận án lấy mốc thời gian nghiên cứu VHTM trong NTQĐ từ
năm 2010 đến nay thông qua hoạt động của các chủ thể thẩm mỹ, gắn với các hoạt
động giảng dạy và học tập trong NTQĐ.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện trên cơ sở quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về văn hoá, con người, các quan điểm về xây dựng đội ngũ cán bộ trong quân
đội, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng,
Tổng cục Chính trị… để khảo sát, tìm hiểu bản chất của VHTM, cũng như phân tích
đặc trưng của VHTM trong NTQĐ ở Việt Nam hiện nay.

Cơ sở thực tiễn: Luận án dựa trên thực trạng VHTM trong NTQĐ ở Việt
Nam hiện nay, thông qua hệ thống tài liệu, tư liệu, các văn bản, chỉ thị, nghị quyết,
của Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục chính trị và kết quả
điều tra, khảo sát trong quá trình thâm nhập thực tế của tác giả tại một số nhà trường


4
tiêu biểu trong hệ thống NTQĐ. Luận án cũng dựa trên thực trạng công tác đảng,
công tác chính trị và cuộc vận động xây dựng môi trường văn hóa trong quân đội
những năm qua, coi đây là nguồn cung cấp luận cứ định hướng tư tưởng và tổ chức
để thực hiện luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
Phương pháp phân tích và tổng hợp: Luận án tập trung nghiên cứu, phân tích
các tài liệu, các chỉ thị, nghị quyết, báo cáo tổng kết, các kết quả điều tra, nghiên
cứu về các hoạt động VHTM, giáo dục thẩm mỹ (GDTM) được thể hiện trong quá
trình GD-ĐT ở các NTQĐ từ năm 2010 đến nay, tiếp thu những kinh nghiệm thành
công, khắc phục những bất cập, từ đó tổng hợp, khái quát hóa, đưa ra những nhận
định có tính khoa học về phát triển và phát huy VHTM trong NTQĐ hiện nay.
Phương pháp lịch sử - logic: Phương pháp này giúp tác giả luận án đi sâu tìm
hiểu quá trình vận động và phát triển của VHTM trong NTQĐ ở Việt Nam hiện nay
gắn với nâng cao chất lượng GD-ĐT, xây dựng quân nhân và tập thể quân nhân có
văn hóa. Đồng thời, giúp cho tác giả luận án khái quát sự vận động của VHTM theo
đặc điểm của môi trường sư phạm quân sự và những vấn đề cần nghiên cứu phục vụ
cho triển khai thực hiện luận án.
Phương pháp hệ thống - cấu trúc: VHTM được cấu trúc bởi nhiều bộ phận,
nhiều thành tố, các bộ phận này có vị trí độc lập, chức năng riêng và vận động theo
qui luật của cái đẹp. Luận án sử dụng phương pháp này nhằm nghiêm cứu VHTM
trong NTQĐ VHTM một cách toàn diện, nhiều mặt, trong mối tương quan với hoạt
động GD-ĐT và hình thành nhân cách học viên, từ đó đưa ra những nhận định

nhằm phát triển và phát huy VHTM trong NTQĐ hiện nay.
Phương pháp chuyên gia: Phương pháp này giúp tác giả luận án tham khảo ý
kiến của các chuyên gia có trình độ cao để xem xét, nhận định, đánh giá về VHTM nói
chung, VHTM trong NTQĐ nói riêng; qua đó làm rõ hơn về vấn đề nghiên cứu và
kiểm chứng tính cần thiết phải phát triển và phát huy VHTM trong NTQĐ hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu trường hợp: Phương pháp này thực chất là sự phân
tích một hay một số trường hợp điển hình cụ thể theo mục đích nghiên cứu của
mình. Nghiên cứu VHTM trong NTQĐ sẽ rất khó khăn khi nghiên cứu toàn bộ hệ
thống hơn một trăm nhà trường, do đó tác giả luận án chỉ chọn ba nhà trường tiêu
biểu để khảo sát, đánh giá thực trạng VHTM.


5
Phương pháp điều tra xã hội học (phiếu hỏi anket): Luận án sử dụng phương
pháp này nhằm khảo sát thực trạng VHTM trong NTQĐ thông qua việc thu thập
thông tin khách quan từ những người được điều tra, khảo sát.
Phương pháp phỏng vấn sâu: Tác giả luận án tiến hành phỏng vấn một số
cán bộ, giảng viên và học viên trong NTQĐ, tìm ra nguyên nhân ưu, nhược điểm,
đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong hoạt động của các thiết chế VHTM tại các
nhà trường.
Phương pháp điền dã thực địa (bao gồm cả điền dã tham dự và điền dã quan
sát): Phương pháp này giúp cho nghiên cứu sinh có được những dữ liệu trung thực
thông qua quan sát thực tế, ghi âm, ghi hình thực tiễn đời sống VHTM trong
NTQĐ; qua đó nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về thực trạng VHTM và đưa ra những
nhận xét, đánh giá mang tính khách quan, khoa học, có sức thuyết phục.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về VHTM và những đặc trưng tiêu
biểu của nó trong NTQĐ ở Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá làm rõ thực trạng VHTM trong NTQĐ ở Việt Nam hiện
nay thông qua những yếu tố cấu thành của nó, từ đó xác định những vấn đề đặt ra

đối với phát triển VHTM trong NTQĐ hiện nay
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần xây dựng luận cứ khoa học nhằm
xây dựng, phát triển và phát huy VHTM trong quân đội và ở các NTQĐ.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ
nghiên cứu, giảng dạy trong các NTQĐ; đồng thời làm tài liệu tham khảo cho đội
ngũ cán bộ chính trị, cán bộ văn hóa vận dụng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
công tác đảng, công tác chính trị ở các đơn vị cơ sở.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận án kết cấu thành 4 chương, 7 tiết.


6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

Trong những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, giới nghiên cứu trong
nước và quốc tế đã có những công trình nghiên cứu về VHTM, VHTM trong nhà
trường nói chung và VHTM trong NTQĐ nói riêng. Có thể nhận thấy một số hướng
nghiên cứu như sau:
1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến văn hoá thẩm mỹ
Từ nhiều góc độ tiếp cận và luận giải khác nhau về văn hóa và VHTM, một
số công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài như: "Giáo dục thẩm mỹ cho
con em trong gia đình" của P.M. Iakôpxôn [59]; "Cơ sở lý luận văn hoá Mác Lênin" do A.I. Acnônđôp [1]; "Chủ nghĩa xã hội và nhân cách" của tập thể tác giả
[97]; "Mỹ học - khoa học diệu kỳ" của B.A. E-Ren-Grôxx [36]… đều coi văn hoá
như một phương thức đánh dấu trình độ phát triển của con người và khẳng định:
"VHTM là một thành tố nằm trong hệ thống văn hóa tinh thần" [1, tr.217]. Tác giả
B.A. E-Ren-Grôxx cho rằng trong đời sống "cái đẹp luôn gắn liền với sự khẳng

định cuộc sống" [36, tr.58], nên khi mỗi con người cảm nhận, lĩnh hội và đánh giá
cái đẹp phụ thuộc rất nhiều vào "trình độ văn hóa và mức độ phát triển của họ" [36,
tr.73]. Vì vậy, GD-ĐT trong nhà trường cần coi trọng VHTM để giúp người học
phát triển nhu cầu thẩm mỹ, bộc lộ khuynh hướng nghệ thuật và biết xây dựng cái
đẹp cho mình. Do đó, "việc khêu gợi sự thụ cảm thẩm mỹ ở các em là công tác đặc
biệt của gia đình và nhà trường" [90, tr.12], giúp cho các em phát triển khả năng
cảm thụ, hiểu về cái đẹp trong thiên nhiên, trong nghệ thuật và xã hội.
Các công trình "Nguyên lý Mỹ học Mác - Lênin" của hai tác giả IU.A. Lukin,
V.C. Xcacherơsiccôp [71]; "Mỹ học cơ bản và nâng cao" của M.F. Ôpxiannhicôp chủ
biên [87]... là sản phẩm nghiên cứu mang tính lý luận sâu sắc, khái quát khá đầy đủ
những vấn đề cơ bản về VHTM và các loại hình nghệ thuật cũng như nêu rõ vị trí,
vai trò của của nghệ thuật trong đời sống xã hội. Các học giả nêu rõ: "Hoạt động
thẩm mỹ (là sáng tạo "theo qui luật của cái đẹp" cũng như cảm thụ cái đẹp) đưa lại
cho con người niềm vui tinh thần cao quí… với ý nghĩa xã hội của nó, hoạt động
thẩm mỹ là phương tiện để đạt được mục đích nhất định" [71, tr.31]. Cái đẹp được


7
ẩn chứa trong mọi hoạt động của con người, trong mối quan hệ, giao tiếp xã hội, trong
lao động, sinh hoạt và trong nghệ thuật. Tuy nhiên, "cái đẹp luôn đòi hỏi sự hiểu biết,
đòi hỏi phải có tri thức" [71, tr.340], khi con người muốn cảm thụ được cái đẹp nhất
thiết phải hiểu được bản chất của các sự vật hiện tượng trong hiện thực. Do đó, việc
"phát triển văn hóa thẩm mỹ phải gắn liền với các nhiệm vụ giáo dục con người mới"
[71, tr.17] và phải làm cho "văn hóa thẩm mỹ thâm nhập dần dần vào tất cả mọi lĩnh
vực sống và hoạt động của con người… đồng thời, vạch mặt tất cả những thế lực phản
thẩm mỹ" [87, tr.687], trở thành sức mạnh để cổ vũ cho lao động, tô điểm sinh hoạt và
làm cao đẹp con người. Nhà nghiên cứu M.F. Ôpxiannhicôp cho rằng: "Nếu giải quyết
được những nhiệm vụ đó, nghĩa là đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển VHTM,
nghệ thuật, cho sự hình thành con người hài hòa và toàn diện của xã hội" [87, tr.35].
Con người luôn có nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo cái đẹp, khi cái đẹp tác động vào con

người sẽ làm hài hòa những tình cảm, nguyện vọng, khao khát từ tư tưởng của họ và
hình thành lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp.
Khi nghiên cứu về "Tu dưỡng đạo đức, tư tưởng", tác giả La Quốc Kiệt [65]
một nhà nghiên cứu Trung Quốc, đã đưa ra quan điểm về giá trị, luận chứng bản
chất và sự thống nhất giữa giá trị bản thân và giá trị xã hội trong nhân cách; đưa ra
nội dung, yêu cầu và con đường bồi dưỡng, xây dựng giá trị nhân cách. Đặc biệt,
ông đã đưa ra khái niệm "Tố chất văn hoá" và coi tố chất văn hoá là nền tảng, cốt
lõi có ảnh hưởng rất lớn và thẩm thấu mạnh mẽ tới sự hình thành và phát triển các
tố chất khác của con người. Do đó, việc tu dưỡng tố chất văn hoá sẽ là điều kiện
tiên quyết nhằm hoàn thiện nhân cách và năng lực thẩm mỹ ở mỗi cá nhân. Tuy
nhiên, trong tác phẩm này VHTM được tác giả hiểu theo nghĩa hẹp là "trình độ học
vấn". Do đó, nó chỉ được đặt bên cạnh các tố chất khác như: chính trị tư tưởng,
phẩm chất đạo đức, năng lực thẩm mỹ của mỗi cá nhân [65, tr.280-591].
Một số công trình bàn về vấn đề tầm quan trọng của VHTM như: "Xây dựng
và phát triển nền văn hóa thẩm mỹ ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong
điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế" của XiLửa BunKhăm [127]; "Vai trò của
văn hóa đối với sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Cộng hòa Dân chủ
nhân dân Lào hiện nay" của Son Tha Nu Thăm Ma Vông [93]… Trong công cuộc
đổi mới hiện nay ở Lào, vai trò của văn hóa nói chung, VHNT nói riêng đang từng
bước được khẳng định như là một nhân tố bên trong quá trình phát triển. Tác giả
Son Tha Nu Thăm Ma Vông đã nghiên cứu toàn diện và sâu sắc về văn hóa, VHTM


8
và coi "văn hóa nghệ thuật là một bộ phận quan trọng của VHTM, nằm trong văn
hóa tinh thần. Trung tâm của văn hóa nghệ thuật là sự sáng tạo, lưu giữ và phát huy
các giá trị nghệ thuật trong đời sống xã hội" [93, tr.16]. Do đó, cần xây dựng một
"nền văn hóa thẩm mỹ là cội nguồn của sức mạnh vật chất và tinh thần, là chỗ dựa,
là điểm xuất phát cho nhân dân các dân tộc" [127, tr.56]. Trên cơ sở nhận thức đầy
đủ vai trò và tác động của VHTM đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước, tác

giả XiLưa BunKhăm đã đề xuất các giải pháp về phương diện lãnh đạo và quản lý
để phát huy sức mạnh của VHTM và VHNT, làm cho các giá trị VHTM "thẩm thấu
vào toàn bộ các hoạt động xã hội, vừa đóng vai trò định hướng vừa là động lực và
hệ điều tiết quá trình phát triển kinh tế - xã hội [127, tr.63].
Các công trình nghiên cứu ở trong nước như: "C.Mác - Ph.Ăngghen V.I.Lênin và một số vấn đề lý luận văn nghệ" của Hà Minh Đức [34]; "Vai trò của
nghệ thuật trong đời sống tinh thần của con người" của Đào Duy Thanh [98]; "Vai
trò của văn hóa đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện
nay" của Đào Đình Thưởng [108]; "Nghệ thuật với sự phát triển nhân cách người
cán bộ lãnh đạo trong công cuộc đổi mới" của tác giả Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn
Quốc Tuấn - 2000 [54]… đã bàn sâu về vai trò của văn hóa nói chung, VHNT nói
riêng như là một nhân tố bên trong của quá trình phát triển kinh tế - xã hội và phát
triển nhân cách của mỗi người. Do đó, cần nhận thức đầy đủ về vai trò và tác động
của văn hóa và VHNT tới con người, xã hội trên cơ sở đó phát huy sức mạnh của
VHNT trong đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần và nâng cao năng lực thẩm mỹ của
nhân dân. Muốn vậy, trước tiên "nghệ thuật phải có sức mạnh trong việc phát triển
các thuộc tính trong tính cách và khí chất của người lãnh đạo theo yêu cầu của công
cuộc đổi mới" [54, tr.139], mặt khác, nghệ thuật phải góp phần làm cho "công nhân
và nông dân xứng đáng được hưởng những giá trị tốt đẹp nhất của nền văn hóa mới"
[34, tr.284]. Điều đó cho thấy, "nghệ thuật chân chính khi tác động đến thế giới tinh
thần của con người, nó không chỉ phát triển thị hiếu, năng lực cảm thụ, cảm xúc
thẩm mỹ mà còn có ý nghĩa đánh giá cái đẹp" [98, tr.77]. Tuy nhiên, trong nền kinh
tế thị trường hiện nay, chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, hưởng lạc, khát vọng
tiền tài, quyền lực đang len lỏi vào đời sống. Do đó, cần phải định hướng thị hiếu
thẩm mỹ cho các hoạt động thưởng thức, đánh giá và sáng tạo nghệ thuật, cũng như
cần nâng cao tính chiến đấu trong sáng tác, lý luận phê bình, để phục vụ sự nghiệp
đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN).


9
Một số công trình: "Quan hệ giữa cái thẩm mỹ và cái đạo đức trong cuộc

sống và trong nghệ thuật" của tác giả Nguyễn Văn Phúc [90]; "Đưa cái đẹp vào
cuộc sống" của Như Thiết [103]; "Thị hiếu thẩm mỹ trong đời sống thẩm mỹ" của
Nguyễn Chương Nhiếp [84], "Triết học thẩm mỹ và nhân cách" của Nguyễn Thế
Kiệt - 2014 [66]… đã tiếp cận VHTM như là cái được sinh ra để thỏa mãn nhu cầu
hưởng thụ cái đẹp, đem lại cho con người những khoái cảm tinh thần, sự phong phú
nội tâm, thức tỉnh khả năng cảm thụ và sáng tạo thẩm mỹ. Theo đó, việc đưa cái đẹp
vào các lĩnh vực của cuộc sống (lao động, chiến đấu, học tập, quan hệ giao tiếp, nếp
sống, lối sống, trang phục, nghệ thuật…) là một đòi hỏi tất yếu: "Bởi cái tốt và cái
đẹp cùng ra đời từ lao động. Từ lao động cho mình và cho xã hội, lương tâm, vinh
dự, trách nhiệm sẽ xuất hiện" [66, tr.71]. Một mặt, nó đáp ứng những nhu cầu về
văn hóa tinh thần của con người, mặt khác nó vạch trần cái xấu, cái lạc hậu. Để thực
hiện được nhiệm vụ "đưa cái đẹp vào cuộc sống hàng ngày đòi hỏi chủ thể thẩm mỹ
phải có ý thức, năng lực thẩm mỹ và phát huy tính chủ động, tích cực của mình"
[103, tr.38-110]. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, khi mà "các phản giá trị đang
làm méo mó thị hiếu của một bộ phận không nhỏ công chúng" [90, tr.117], cho nên
cần phải sử dụng VHTM như là phương tiện trong việc giáo dục đạo đức và xây
dựng nhân cách con người.
Một loạt công trình nghiên cứu về: "Văn hóa thẩm mỹ và nhân cách" của
Lương Quỳnh Khuê [63] "Văn hoá thẩm mỹ và sự phát triển con người Việt Nam
trong thế kỷ mới" của Nguyễn Văn Huyên [55]; "Văn hóa thẩm mỹ và sự phát triển
năng lực sáng tạo của con người" của Nguyễn Ngọc Thu [105]; "Văn hoá với sự
phát triển của xã hội Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa" của Lê Quang
Thiêm - 1998 [102]… đã khẳng định VHTM gắn liền với sự phát triển, hoàn thiện
những giá trị cao cả, tốt đẹp của con người, xã hội theo tiêu chí chân, thiện, mỹ "tạo
nên những nhân cách năng động, sôi nổi, đầy khát vọng đưa xã hội đến bình đẳng,
tự do, văn minh, hạnh phúc" [55, tr.20]. Văn hóa thẩm mỹ còn tạo môi trường cho
các hoạt động sáng tạo; đặc biệt trong điều kiện xã hội hiện nay khi khoa học, công
nghệ đang phát triển như vũ bão thì năng lực sáng tạo của con người càng có ý
nghĩa quan trọng, bởi "sáng tạo như là một hoạt động cải tiến, nâng cấp những cái
đã có lên một trình độ cao hơn" [105, tr.37]. Hơn nữa, "văn hóa thẩm mỹ không

phải là cái có sẵn, mà do con người tạo ra thông qua hoạt động thực tiễn" [105,
tr.53], nó làm cho mỗi người trở thành một chủ thể thẩm mỹ có khả năng cảm thụ,


10
nhận thức, đánh giá và sáng tạo theo "quy luật của cái đẹp". Tuy nhiên, sự suy thoái về
phẩm chất đạo đức, lối sống hiện nay tiếp tục diễn biến phức tạp, những tiêu cực, thói
hư tật xấu đang có biểu hiện gia tăng. Do đó, "văn hóa thẩm mỹ phải trở thành nền tảng
tinh thần của xã hội, đóng vai trò điều tiết và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
bằng chính tác động của nó đối với việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, hình
thành và phát triển ở họ một nhân cách hài hòa, toàn vẹn" [63, tr.110].
Trong các công trình về: "Vai trò của truyền thông đại chúng trong giáo dục
thẩm mỹ ở nước ta hiện nay" của Trần Ngọc Tăng [95]; "Về giáo dục thẩm mỹ ở
nước ta hiện nay" của Vĩnh Quang Lê [68]; "Giáo dục lý tưởng thẩm mỹ cho thanh
niên thông qua hệ thống thiết chế nhà văn hoá" của Trần Quốc Bảng [4]; "Giáo dục
thẩm mỹ trong việc hình thành lối sống văn hoá cho thanh niên vùng đồng bằng
sông Cửu Long hiện nay" của Lương Thanh Tân [96]… các tác giả đã tiếp cận
VHTM thông qua các hình thức GDTM nhằm "tác động vào tư tưởng, tình cảm của
con người bằng các giá trị thẩm mỹ" [68, tr.52]. Đó là cái đẹp trong lao động, sản
xuất, cái đẹp trong thiên nhiên, lịch sử, gương các anh hùng xưa và nay, cái đẹp của
những tư tưởng lớn, sự nghiệp lớn, cái đẹp của VHNT... Các hoạt động thẩm mỹ đã
dùng toàn bộ các giá trị VHTM làm phương tiện để giáo dục, nâng cao năng lực,
xây dựng tình cảm thẩm mỹ trong sáng để con người có thể phân biệt rạch ròi cái
đẹp, cái xấu. Nhưng trong bối cảnh hiện nay, cùng với sự xuất hiện nhiều điển hình
về lối sống đẹp thì cũng có sự suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống ở một bộ
phận cán bộ, đảng viên. Do đó, GDTM là một giải pháp hữu hiệu để định hướng giá
trị, "cổ vũ và làm lành mạnh hóa các nhu cầu của nhân dân và xã hội…" [96, tr.25].
Để tạo hiệu quả GDTM, cần dùng nhiều hình thức giáo dục một cách sâu rộng, hấp
dẫn, đặc biệt là "các phương tiện truyền thông đại chúng có thể góp phần GDTM
cho mọi đối tượng đông đảo nhất (trên quy mô toàn xã hội)" [96, tr.113-114].

GDTM là cơ chế trực tiếp để chuyển VHTM của xã hội thành VHTM cá nhân, tạo
cơ chế phòng ngừa ảnh hưởng của những phản giá trị nảy sinh từ mặt trái cơ chế thị
trường và hội nhập quốc tế; đồng thời kích thích năng lực thẩm mỹ tiềm ẩn trong
mỗi con người, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để phát triển chủ thể thẩm mỹ
đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Một số nghiên cứu tiêu biểu về: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn học và mỹ
học" của Cù Huy Chử [36]; "Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thẩm mỹ cho thế
hệ trẻ" của tác giả Nguyễn Chương Nhiếp và các cộng sự [83]; "Tư tưởng Hồ Chí


11
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng con người mới, văn hóa mới" của
Nguyễn Trung Thu [106]… đã khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự kết
tinh các giá trị văn hóa mang tầm vóc dân tộc và nhân loại, đại diện cho trí tuệ, tư
tưởng và tình cảm của dân tộc Việt Nam. Các giá trị tư tưởng của Người không chỉ
đúng với quá khứ, hiện tại mà còn có ý nghĩa sâu sắc đối với tương lai, là ngọn đèn
pha soi sáng, chỉ hướng cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc. Các tác
giả tiếp cận VHTM trong tư tưởng của Người từ cái đẹp được nảy sinh trong cuộc
sống, trong nghệ thuật và xác định "văn hóa nghệ thuật góp phần xây dựng con
người và trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống" [106, tr.162]. Do đó, sáng tạo
nghệ thuật phải vì nhân dân, phải biết ca ngợi cái hay, cái tốt, phê phán cái xấu,
"không nên chỉ viết cái tốt mà giấu cái xấu, nhưng phê bình phải đúng đắn. Nêu cái
hay cái tốt phải có chừng mực, chớ phóng đại…" [36, tr.69]. Đây chính là điều kiện
để mở đường cho cái đẹp phát triển, đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, làm cho
nhân dân, đặc biệt là thanh niên biết biến nhận thức thành niềm tin, biến niềm tin
thành lẽ sống và biến lẽ sống tốt đẹp thành lối sống, thành tập quán, thành "bản chất
người", vượt qua thói hư tật xấu để đến với cái đẹp, cũng như bồi dưỡng cho quân
và dân "một tình yêu say mê cái thiện và cái mỹ" [83, tr.46].
Những công trình nghiên cứu về: "Đạo đức học - Mỹ học và đời sống văn
hóa nghệ thuật" của Đỗ Huy [52]; "Sự biến đổi của chuẩn mực đánh giá thẩm mỹ

trong thời kỳ đổi mới ở Việt nam" của Vũ Thị Kim Dung [13];"Thực tiễn thẩm mỹ cội nguồn của văn hoá thẩm mỹ" của Nguyễn Ngọc Thu [104]; "Vai trò của văn
hóa thẩm mỹ đối với sự phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay" của Lê
Thị Thuỳ Dung [14]… đã tiếp cận VHTM thông qua hoạt động của chủ thể trong
đời sống thẩm mỹ. Hoạt động sáng tạo luôn đòi hỏi "chủ thể đó phải có con mắt, đôi
tai thẩm mỹ mới và có khả năng sáng tạo mới" [52, tr.284], phải lấy lịch sử dân tộc
làm điểm nhìn và lấy "đạo đức làm cơ sở cho cái thẩm mỹ" [52, tr.280] và phải biết
gắn mình trong "quan hệ thẩm mỹ, trong hoàn cảnh và điều kiện xã hội nhất định..."
[104, tr.34]. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay: "Đảng ta đã vạch rõ và nhấn mạnh
những biểu hiện xuống cấp về tư tưởng, đạo đức, lối sống. Đó là tệ sùng bái nước
ngoài, coi thường giá trị văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng cá nhân vị
kỷ, gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc" [13, tr.171]. Để khắc phục tình
trạng trên thì mỗi cá nhân phải tự "xây dựng cho mình một lý tưởng thẩm mỹ sáng
ngời… góp phần xây dựng nền kinh tế mới, chế độ xã hội mới và con người mới xã


12
hội chủ nghĩa" [52, tr.459]. Các chủ thể cần phải được sống và học tập trong một
môi trường VHTM lành mạnh, thấm đậm tinh thần nhân văn để hình thành thị hiếu
thẩm mỹ tiến bộ, lý tưởng thẩm mỹ đúng đắn, coi lý tưởng cách mạng là mục tiêu
phấn đấu, thắp sáng lên ở họ tình yêu cuộc sống, từng bước hoàn thiện bản thân và
giúp ích cho cộng đồng.
Trên cơ sở khảo sát thực tiễn trong nước và trên thế giới, các công trình: "Thỏa
mãn nhu cầu văn hóa và nâng cao thị hiếu nghệ thuật" của Trần Độ [31]; "Cái đẹp một giá trị" của Đỗ Huy [49]; "Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã
hội" do Huỳnh Khái Vinh [126]; "Các giá trị văn hóa Việt Nam chuyển từ truyền thống
đến hiện đại" của Đỗ Huy [53]… đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của lối sống, đạo
đức, chuẩn giá trị xã hội và cho rằng quá trình hội nhập, giao lưu quốc tế và sự phát
triển của đời sống kinh tế - xã hội... tất yếu dẫn đến sự chuyển hoá lối sống, đạo đức
với những cấp độ khác nhau. Do đó, "Chìa khóa giải quyết mối quan hệ giữa phát triển
văn hóa với xây dựng con người là phải xây dựng và hình thành được các giá trị (hệ giá
trị) nhằm xác định trình độ và điều chỉnh được năng lực sống và phát triển hợp lý giữa

cá nhân và xã hội, giữa con người và văn hóa" [126, tr.102]. Việc phát triển các giá trị
VHTM phải hướng tới thỏa mãn nhu cầu văn hóa, nhu cầu thẩm mỹ và nâng cao thị
hiếu nghệ thuật của nhân dân. Các tác giả cho rằng, cũng như nhu cầu văn hóa, thị hiếu
của người dân cần được đáp ứng bằng VHNT, vì "một bài hát hay có sức cổ vũ con
người vươn lên trước khó khăn gian khổ, trước hiểm nguy để giành thắng lợi" [31,
tr.77]. Do đó, cần xây dựng những tác phẩm VHNT chất lượng cao và đội ngũ những
nghệ sĩ sáng tạo tài năng, hướng con người tới cái đẹp chân chính, giáo dục, cổ vũ họ
vươn lên sáng tạo ra cái đẹp cho cuộc sống.
Hai sản phẩm nghiên cứu: "Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa" của Phạm Minh Hạc [38]; "Giá trị văn hóa truyền thống
dân tộc với việc xây dựng nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay" của Lương Gia
Ban, Nguyễn Thế Kiệt [2]… đã trình bày cơ sở khoa học của chiến lược phát triển
toàn diện con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH)
là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đưa ra mô hình nhân cách con
người Việt Nam là: "con người có lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, có đạo đức
trong sáng, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại; có ý chí kiên cường, có hoài bão lớn lao... và có ý thức
công dân, ý thức bảo vệ môi sinh, biết yêu cái đẹp" [38, tr.106-107]. Đây là mô hình


13
gắn bó chặt chẽ giữa đức và tài trong mỗi con người. Từ mô hình ấy, các tác giả đã
đưa ra định hướng và giải pháp cụ thể về phát triển con người Việt Nam trên bốn
phương diện cơ bản: đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và thể chất. Tuy nhiên, để phát triển
nhân cách toàn diện cần phải coi các giá trị VHTM và "giá trị văn hóa truyền thống
là nền tảng để tạo ra đội ngũ trí thức tương lai" [2, tr.77], cũng như làm chỗ dựa
vững chắc, khơi dậy ở họ ý chí kiên cường, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, tình yêu Tổ
quốc, giải quyết hài hoà các quan hệ truyền thống - hiện đại, thống nhất - đa dạng
của văn hoá và có ý chí vươn lên làm chủ cuộc sống, xây dựng lối sống tốt đẹp của
con người Việt Nam trong thời đại mới.

Các công trình khoa học: "Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011-2020
xu hướng và giải pháp" của tác giả Phạm Duy Đức [33]; "Những vấn đề lý luận về
phát triển văn hóa trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam" của Nguyễn Toàn Thắng
[101]; "Nghiên cứu về văn hóa và con người Việt Nam hiện nay" của Dương Phú
Hiệp [43]; "Sự biến đổi của các giá trị văn hóa trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Duy Bắc [6]… đã đưa ra dự báo và
xác định tầm nhìn chiến lược về phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020
và cho rằng: cần phải "tiếp cận với trình độ hiện đại của thế giới, khắc phục sự tụt
hậu và chậm trễ, nhất là lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ, chăm sóc y
tế, sáng tạo văn hóa nghệ thuật..." [33, tr.395]. Sự phát triển mạnh mẽ của CNH,
HĐH sẽ tạo nên nhiều biến động trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó có
VHTM, song cũng có mặt trái: "Xuất hiện không ít những hiện tượng phản giá trị
trong văn hóa nghệ thuật, xu hướng "thương mại hóa" có những lúc đã trở thành
dòng chủ đạo trên thị trường văn hóa nghệ thuật" [6, tr.186]. Điều đó cho thấy "sự
thay đổi về văn hóa thường âm thầm mà quyết liệt" [101, tr.166] và luôn tạo ra
những thách thức trong xây dựng và phát triển văn hóa, con người, do đó cần phải
biết tiếp thu các giá trị tiến bộ, tinh hoa của nhân loại và phải biết bảo vệ, giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, để giải quyết tốt vấn đề này "điều tiên quyết
của mọi sự lựa chọn là phải đổi mới tư duy" [43, tr.97] và ý thức của chủ thể văn
hóa, xây dựng một đường lối văn hóa đúng đắn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến văn hoá thẩm
mỹ trong nhà trường quân đội ở Việt Nam
Về công trình nghiên cứu ở nước ngoài, tiêu biểu có cuốn sách:"Bản chất cái
đẹp" của tác giả N. Khsenco [61] đã cho rằng xung quanh chúng ta không phải lúc


14
nào và cái gì cũng đẹp cả, nhiều hình thức lao động thiếu tính sáng tạo, trong lĩnh
vực quan hệ đạo đức xã hội còn thiếu thẩm mỹ, "do đó, mỗi lần tiếp xúc với cái đẹp
là một dịp bù đắp cho sự thiếu thốn cảm xúc. Sau mỗi lần được bù đắp con người

dường như được tăng thêm sức sống… làm tiêu tan sự căng thẳng, giảm bớt mệt
mỏi, tạo nên sự ài hòa trong quá trình phát triển của mình" [61, tr.28]. Đối với quân
đội, "lao động quân sự tuy nặng nhọc, nhưng cao quí và vui vẻ, bởi nó nhằm bảo vệ
cuộc sống hòa bình" [61, tr.115]. Cái đẹp trong môi trường quân sự được thể hiện ở
"tập quán, truyền thống và lối sống của quân đội… trong các nghi thức tuyên thệ,
trong các cuộc diễu binh, hành quân, thao diễn, trong các quan hệ, trong cách ăn
mặc chỉnh tề, chững chạc đều toát lên vẻ đẹp, tính chất long trọng, hân hoan của
người chiến sĩ" [61, tr.115]. Tuy nhiên, sự rèn luyện nhằm hoàn thiện con người
quân sự luôn đi đôi với GDTM, làm cho người chiễn sĩ không những phải có tri
thức thẩm mỹ mà phải biết cách sống và sử sự phù hợp với chuẩn mực thẩm mỹ của
quân đội. Do đó, cần phải giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ "những tình cảm như lòng
yêu Tổ quốc, tinh thần sẵn sàng lập công và sẵn sàng hy sinh quên mình, lòng quả
cảm, can trường… tạo khả năng cho các chiến sĩ thể hiện năng lực sáng tạo nghệ
thuật của mình" [61, tr.115-116]
Khi nghiên cứu "Mỹ học Mác - Lênin với việc giáo dục bộ đội", các tác giả
A.X. Milôviđôp, B.V. Xaphrônôp [72] đã đề cập đến VHTM trong hoạt động quân
sự bảo vệ Tổ quốc XHCN và công tác GDTM cho quân nhân trong quân đội nhằm
phát triển toàn diện về trí, đức, thể, mỹ. Theo các tác giả, hoạt động quân sự là lĩnh
vực thể hiện đặc biệt của cái đẹp và có giá trị về đạo đức, thẩm mỹ; cái đẹp trở
thành yếu tố tự nhiên và đứng ở vị trí trung tâm "thâm nhập vào quá trình lao động
và trở thành yếu tố tất yếu của toàn bộ hoạt động" [72, tr.45] quân sự. Bản thân hoạt
động quân sự bảo vệ Tổ quốc đã là "biểu hiện cao nhất những sức mạnh của con
người, chứa đựng những giá trị thẩm mỹ về sự hoàn thiện, đẹp đẽ, cao cả" [72,
tr.57], là "công cụ rất quan trọng để phân tích các mặt của cuộc sống kể cả hoạt
động quân sự" [72, tr.76], cũng như tạo ra những cảm hứng sáng tạo cho quân nhân
trong thực hiện nhiệm vụ. Điều đó cho thấy, "việc quân sự cũng đòi hỏi cả cảm
hứng sáng tạo và cả trí tuệ phát triển cao" [72, tr.84]. Sáng tạo là một biểu hiện căn
bản của VHTM, cho nên sáng tạo của người quân nhân và người nghệ sĩ có sự
tương đồng, đó là yếu tố nhạy cảm bên trong, sự biến đổi nhanh chóng các tình
huống chiến đấu cũng giống như hàng trăm ý nghĩ của người nghệ sĩ khi biểu diễn



15
trên sân khấu. Tức là, người nghệ sĩ và người chỉ huy trong quân đội giống nhau ở
cách suy nghĩ cảm tính, cụ thể, có hình tượng. Người quân nhân am hiểu và có năng
lực của một người "nghệ sĩ" biết hành động theo "những qui luật của cái đẹp", biết
"dốc hết toàn bộ sức lực và khả năng để thực hiện mục tiêu cao nhất là phục vụ sự
nghiệp hòa bình và an ninh của dân tộc" [72, tr.87]. Trong chiến đấu, người lính
phải phát huy khả năng nhạy bén, sự sáng tạo phải được bừng tỉnh nhanh chóng để
quyết định tình huống chiến đấu: "Các quân nhân hành động căn cứ vào những qui
luật khách quan của đấu tranh vũ trang, tuân theo những nguyên tắc của nghệ thuật
quân sự… nâng lên đến trình độ hoạt động sáng tạo theo "những qui luật của cái
đẹp" [72, tr.89]. Đặc biệt trong phần cuối, các tác giả đã ca ngợi Việt Nam một đất
nước nhỏ bé, còn nghèo nàn lạc hậu, nhưng bằng trí thông minh sáng tạo của mình
đã đánh bại mọi kẻ thù xâm lược và cho rằng: "Chỉ có lòng dũng cảm, sự đoàn kết
của toàn dân tộc Việt Nam từ bắc chí nam mới làm phá sản hy vọng của kẻ xâm
lược muốn dành thắng lợi bằng cái gọi là "chiến tranh đặc biệt" và "Việt Nam hóa
chiến tranh", mở đường đi tới đàm phán, giải quyết vấn đề Việt Nam bằng biện
pháp chính trị" [72, tr.337]. Tuy nhiên, thực tế luôn đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ trong
quân đội phải có trình độ thẩm mỹ sâu sắc và phải "đạt tới trình độ nghệ thuật, trình
độ tài nghệ thực sự" [72, tr.90]. Và chỉ khi mọi hoạt động quân sự được tuân theo
"quy luật của cái đẹp" thì mới có thể giúp quân nhân có bản lĩnh và năng lực thẩm
mỹ cao hơn, hoàn thiện hơn.
Các công trình nghiên cứu ở trong nước như: "Nuôi dưỡng giá trị văn hoá trong
nhân cách người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam" của tập thể tác giả thuộc Tổng
cục Chính trị [110]; "Phát triển giá trị văn hoá trong nhân cách sĩ quan trẻ Quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Xuân Trường [1212]… đã khẳng định những
giá trị VHTM là nguồn nuôi dưỡng con người lớn lên về văn hoá, trí tuệ, nhân cách,
phong cách ứng xử. Tuy nhiên, "Môi trường và đời sống quân đội là môi trường đặc biệt,
có nhiều tính đặc thù… cần thiết phải xây dựng và thực hiện chính quy để đảm bảo nâng

cao sức mạnh và khả năng hoàn thành nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu" [110,
tr.88]. Đồng thời, xây dựng chính quy chính là giá trị VHTM mang đặc thù quân sự,
"góp phần tạo ra những giá trị văn hóa trong nhân cách, bản lĩnh người chiến sĩ" [110,
tr.91], góp phần nâng cao chất lượng GD-ĐT, là điều kiện thuận lợi để mỗi chủ thể quân
sự tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, qua đó phát triển toàn diện bản
thân trên cơ sở kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại.


16
Hai cuốn sách: "Một số hiểu biết cơ bản về Văn học - Nghệ thuật và Giáo
dục thẩm mỹ" của Tổng cục Chính trị [109]; "Văn hóa học, văn hóa, tiếp nhận và
suy nghĩ" của Đinh Xuân Dũng [15]… đã giúp cho cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân
hiểu biết hơn về VHNT. Hiểu biết về VHTM cũng là một nhu cầu của cán bộ, chiến
sĩ trong quân đội, đồng thời là một đòi hỏi đối với NTQĐ trong quá trình GD-ĐT.
Bởi "Văn học - Nghệ thuật là một hoạt động thẩm mỹ, tác động toàn diện đến tư
tưởng, tình cảm, trí tuệ con người, làm phong phú đời sống tinh thần của con người,
làm tráng kiện tâm hồn, hình thành nhân cách con người" [109, tr.64]. Do đó, "mỗi
nhà trường quân đội, nơi đào tạo những sĩ quan quân đội nhân dân - phải trở thành
những điểm sáng về mặt văn hóa thẩm mỹ và có sức tác động tích cực đối với xã
hội" [15, tr.472]. Như vậy, phát triển các giá trị VHTM trong quân đội nói chung,
NTQĐ nói riêng, góp phần trực tiếp bồi dưỡng cán bộ, chiến sĩ về trình độ, năng lực
và tri thức VHTM, văn học, nghệ thuật, từ đó mỗi người sẽ có đủ "khả năng và trình
độ biết tổ chức cho đồng đội, cho cán bộ, chiến sĩ cùng hoạt động và sáng tạo thẩm
mỹ, góp phần làm đẹp hơn lên cuộc sống chiến đấu lao động, học tập, sinh hoạt của
mình" [109, tr.346]. Tuy nhiên, trong thực tế cần phải nắn chỉnh "những hiểu biết
không đầy đủ" về VHTM và GDTM, với phương châm "không được tách rời giáo
dục thẩm mỹ khỏi giáo dục - đào tạo toàn diện, đặc biệt là thế giới quan (chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh) sẽ không tạo được hiệu quả tổng hợp của các
nội dung, phạm vi giáo dục trong các nhà trường nói riêng và trong lực lượng vũ
trang nói chung" [15, tr.473].

Các nghiên cứu về "Nâng cao chất lượng hoạt động văn hoá ở đơn vị cơ sở
trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay" của Tổng cục Chính trị [113]; "Đổi
mới nội dung phương thức hoạt động văn hóa nghệ thuật trong quân đội góp phần
xây dựng nhân cách Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới" đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ
Quốc phòng, do tác giả Nguyễn Đức Trịnh chủ nhiệm đề tài - 2008 [10]… đã đề
cập đến nội dung, hình thức, phương pháp, phương tiện tổ chức hoạt động văn hóa
ở các đơn vị cơ sở trong quân đội và cho rằng: "Hoạt động văn hóa ở đơn vị cơ sở
sẽ khơi dậy và phát triển những tiềm năng tinh thần vốn có của mỗi người. Mặt
khác, chuyển tải những giá trị, chuẩn mực văn hóa đến quần chúng nhằm giáo dục,
xây dựng con người mới" [113, tr.13]. Thực tế cho thấy, trong quân đội đã có những
cách làm hay, hiệu quả trong việc tổ chức, duy trì hoạt động ngày nghỉ của bộ đội,
vừa đảm bảo đúng pháp luật về quyền con người vừa duy trì kỷ luật, kỷ cương theo


17
phẩm chất chính quy. Tuy thế, vẫn còn cách nghĩ, cách làm thiếu đồng bộ, hời hợt,
hành chính hóa văn hóa, nặng về hình thức, chưa phát huy và làm tỏa sáng được giá
trị văn hóa quân sự cũng như VHTM ở các đơn vị cơ sở. Do đó, việc "đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động VHNT trong quân đội là đổi mới toàn diện trên tất cả
các mặt" [10, tr.159].
Các công trình về: "Văn hoá quân sự Việt Nam" của giả Lê Văn Quang, Văn
Đức Thanh [91]; "Phát huy hệ giá trị văn hóa quân sự Việt Nam trong sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay" của Dương Quang Hiển [41]; "Đạo đức
học quân sự" của Tổng cục Chính trị [111]; "Giáo trình Văn hoá học" của Tổng cục
chính trị [115]… đã tiếp cận văn hoá quân sự với tính cách là một bộ phận đặc thù
của đời sống văn hoá xã hội. Tính đặc thù đó được thể hiện ở "sự thống nhất giữa
tính mực thước, nghiêm cách với tính năng động, mềm dẻo" [115, tr.50]. Bản thân
hoạt động quân sự có yêu cầu rất cao đối với quân nhân: "Nó đòi hỏi các thành viên
của mình phải có tính nghiêm chỉnh đặc biệt, tính chuẩn xác, ý thức chấp hành, sự
trầm tĩnh, sự nhanh chóng hoàn thành mọi mệnh lệnh" [111, tr.154]. Nhưng tính đặc

thù đó không đồng nghĩa với sự đóng kín, không giao lưu, phát triển, mà luôn xâm
nhập vào đời sống xã hội, qua đó làm giàu thêm văn hoá quân sự. Các tác giả khẳng
định: "Những yếu tố chung của đời sống văn hóa xã hội khi hội tụ, thẩm thấu vào
văn hóa quân sự cũng sẽ được cải biến một cách phù hợp với đặc điểm của tổ chức
và hoạt động quân sự" [91, tr.45] và ngược lại văn hóa quân sự đã đóng góp giá trị
không nhỏ cho sự phát triển văn hóa của dân tộc. Quá trình phát triển và "phát huy
hệ giá trị văn hóa quân sự trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện
nay phải đặc biệt chú trọng xây dựng nội dung giáo dục giá trị văn hóa quân sự toàn
diện" [41, tr.185], nhằm không ngừng mở rộng và làm giàu thêm các giá trị văn hoá
quân sự hiện có, tạo điều kiện để phát triển, hoàn thiện nhân cách quân nhân, nâng
cao sức mạnh chiến đấu của quân đội, mà trước hết là sức mạnh về chính trị - tinh
thần, tạo nền tảng văn hoá để đánh giặc và thắng giặc bằng văn hoá.
Bàn "Về xây dựng môi trường văn hoá cơ sở" của Văn Đức Thanh [99];
"Quan hệ thống nhất - đa dạng trong phát triển môi trường văn hóa quân sự ở các
trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay" của Đỗ Văn Ngoan [82];
"Nhập thân văn hóa trong phát triển nhân cách Bộ đội Cụ Hồ của thanh niên quân
đội hiện nay" của Hoàng Đình Chiều [11]... các tác giả đã tiếp cận môi trường văn
hóa với tính cách là tổng thể sống động của những giá trị vật chất và tinh thần hợp


18
thành môi trường sống, nuôi dưỡng, phát triển, hoàn thiện con người theo tiêu chí
chân, thiện, mỹ; đồng thời khẳng định: "vai trò của môi trường văn hóa cơ sở trong
xây dựng con người trước hết là định hướng giá trị đối với quá trình nhập thân văn
hóa của từng cá nhân nhằm hình thành, phát triển nhân cách" [99, tr.70], sẽ là "cái
nôi" nuôi dưỡng con người lớn lên về mặt văn hoá, trí tuệ, nhân cách, ứng xử...
trước hoàn cảnh. Đặc biệt, "môi trường văn hóa quân sự ở các trường sĩ quan là môi
trường thống nhất trong sự cùng tồn tại của các giá trị văn hoá, các quan hệ văn hoá,
các hình thái hoạt động văn hoá và các thiết chế văn hoá quân sự với các hệ giá trị
văn hoá sư phạm quân sự" [82, tr.69]. Các thành tố này không phải cứng đờ, bất

biến, mà luôn tạo ra sức hút mạnh mẽ đối với cán bộ, chiến sĩ, tạo động lực thúc đẩy
họ học tập, rèn luyện "nâng cao trình độ tự chuyển hoá nhận thức thành động cơ, ý
chí quyết tâm nhập thân văn hóa trong phát triển nhân cách" [11, tr.145].
Khi bàn về "Phát triển ý thức thẩm mỹ ở học viên sĩ quan chính trị cấp phân
đội trong quân đội ta hiện nay" của Nguyễn Chí Linh [70] và "Thanh niên quân đội
với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc" của Lưu Ngọc Khải, Nguyễn Văn Tùng
[62]… các tác giả đã cho rằng hoạt động trong lĩnh vực quân sự đã giúp mỗi quân
nhân có "những cảm xúc thẩm mỹ… những khoái lạc về mặt tinh thần" [70, tr.6] và
là "hoạt động đặc thù… được biểu hiện trong môi trường đặc biệt thông qua nhiệm
vụ và hệ thống điều lệ và những quy định cụ thể để đảm bảo mọi quân nhân thống
nhất trong nhận thức và hành động" [70, tr.82]. Thanh niên quân đội "là lực lượng
đông đảo, chủ yếu biên chế ở các đơn vị cơ sở và những học viên đào tạo ở các nhà
trường quân đội" [62, tr.52], do đó để nâng cao năng lực thẩm mỹ, đòi hỏi mỗi quân
nhân với tư cách chủ thể thẩm mỹ phải tự nâng cao trình độ, năng lực thụ cảm thẩm
mỹ - điều mà các công trình chưa luận giải. Có thể thấy, trong môi trường văn hóa
quân sự thì VHTM là phương thức để con người tái cấu trúc các giá trị thẩm mỹ,
nâng cao trình độ, năng lực thẩm mỹ và chuyển tải những quan điểm, lý tưởng, thị
hiếu thẩm mỹ vào nhân cách.
Hai cuốn sách nghiên cứu về "Văn hóa, đạo đức Hồ Chí Minh trong Bộ đội
Cụ Hồ" của tác giả Quang Hoài [47] và "Tư tưởng Hồ Chí Minh về Quân đội nhân
dân và việc vận dụng hiện nay" của Nguyễn Mạnh Hưởng [58]… các tác giả khẳng
định: "văn hóa Hồ Chí Minh là văn hóa vì con người… đạo đức Hồ Chí Minh là đạo
đức cách mạng" [47, tr.346] và chính văn hóa, đạo đức đó đã thấm vào từng cán bộ,
chiến sĩ, hình thành ở họ những đức tính thể hiện phẩm chất tốt đẹp của "Bộ đội Cụ


19
Hồ", trở thành giá trị văn hóa độc đáo của quân đội, của dân tộc. Tuy nhiên, trong
điều kiện hiện nay, với những diễn biến hết sức phức tạp, đang đặt ra những yêu cầu
mới đòi hỏi "quân đội phải được xây dựng vững mạnh về mọi mặt, cả chính trị và

quân sự, cả đạo đức và văn hóa" [47, tr.55]. Do đó, "phải đưa thẩm mỹ vào quân sự,
cuộc sống ăn ở, sinh hoạt của bộ đội phải đẹp và hấp dẫn" [46, tr.63] và "phải xây
dựng quân đội thực sự "văn hay, võ giỏi", giỏi trong đấu tranh vũ trang và giỏi cả
trong đấu tranh phi vũ trang, đáp ứng yêu cầu của phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới" [58, tr.257], làm cho mỗi người lính trở thành một nhân
cách văn hóa, một chủ thể độc lập, năng động sáng tạo, có lối sống, nếp sống, hành
vi ứng xử có văn hóa và có tính kỷ luật cao.
Nghiên cứu về "Văn hóa Nghệ thuật trong quân đội hiện nay" của Đặng Mỹ
Hạnh [39] và "Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động văn hóa nghệ thuật trong
quân đội thời kỳ mới" của Nguyễn Đức Trịnh [120]… với tư cách là người hoạt
động trong lĩnh vực nghệ thuật, hai tác giả khẳng định: "Cần phải phát huy vai trò
của văn hóa nghệ thuật cách mạng, góp phần tạo nên đời sống văn hóa tinh thần
phong phú… củng cố vững chắc mặt trận văn hóa tư tưởng, đấu tranh chống lại
những tư tưởng thù địch, phản nhân văn" [39, tr.3]... Công trình cũng cho rằng hoạt
động VHNT trong quân đội phải thỏa mãn nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá
trị VHNT, nhằm góp phần "xây dựng và phát triển nhân cách quân nhân cách mạng,
xây dựng đời sống tinh thần lành mạnh và đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ được giao" [120, tr.10]. Hơn thế, nghệ thuật phải "gắn liền với
công tác tư tưởng - văn hóa… gắn liền với việc nâng cao đời sống tinh thần của bộ
đội" [39, tr.86-92]. Tuy nhiên, các công trình mới chỉ tiếp cận ở góc độ nghệ thuật
mà chưa chỉ ra tác động của VHTM tới con người và tổ chức quân sự, cũng như
phát triển và phát huy VHTM trong nâng cao chất lượng GD-ĐT.
1.2. ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ BÀN LUẬN

1.2.1. Về thành tựu của giới nghiên cứu
Nhìn tổng thể, các công trình nghiên cứu trên đã tập trung phân tích, luận giải
những vấn đề chung mang tính khái quát về VHTM ở một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, VHTM đã được các công trình khoa học đề cập ở một số khía
cạnh, góc độ tiếp cận, phương pháp nghiên cứu khác nhau, cho rằng sự phát triển
của VHTM vừa tuân theo những những quy luật chung của văn hóa, vừa theo những

quy luật đặc thù của mình và thống nhất rằng VHTM dù là của cá nhân hay xã hội cũng


20
không có sẵn trong tự nhiên hay là cái bẩm sinh của con người, mà là sản phẩm do con
người sáng tạo ra thể hiện trình độ phát triển cao của các quan hệ văn hóa - xã hội. Tuy
nhiên, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu có tính hệ thống, chuyên biệt, sâu
sắc về VHTM trong NTQĐ dưới góc độ Văn hóa học.
Thứ hai, VHTM là một lĩnh vực được các nhà khoa học đặc biệt quan tâm
nghiên cứu trong những năm gần đây, với nhiều cách tiếp cận, khai thác, luận giải
một cách sâu, rộng khác nhau về khái niệm, cấu trúc, đặc điểm, chức năng, vai trò...
Tuy nhiên, đó chủ yếu là tiếp cận VHTM dưới góc nhìn của mỹ học, triết học… tức
là theo những quy luật đặc thù của VHTM, chứ chưa đặt VHTM trong quy luật phát
triển chung của văn hóa, cũng như xây dựng cấu trúc, khái quát đặc điểm và đánh
giá vai trò VHTM chưa đặt trong mối quan hệ phát triển tổng thể của văn hóa.
Thứ ba, vấn đề đánh giá thực trạng VHTM cũng đã được đề cập trong một số
công trình khoa học, bàn đến sự tác động toàn diện và sâu sắc của VHTM đến con
người cũng như đến mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Tuy nhiên, chưa
có công trình nghiên cứu chuyên biệt nào đánh giá thực trạng những yếu tố cấu
thành và nhứng tác động tổng thể của VHTM đối với tổ chức và hoạt động của
NTQĐ ở Việt Nam hiện nay, nhất là đánh giá vai trò thực tiễn của nó trong đáp ứng
nhu cầu tinh thần và hình thành nhân cách của cán bộ, giảng viên, học viên.
Thứ tư, hầu hết các công trình khoa học trên đều khẳng định tính độc đáo của
VHTM với cơ chế tác động đến thế giới tinh thần của con người bằng cái đẹp,
thông qua cái đẹp và bằng các giá trị chân, thiện, mỹ, làm nảy sinh nhu cầu, khát
vọng, tình cảm, đánh thức những năng lực sáng tạo tiềm ẩn trong mỗi con người.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào bàn sâu đến vấn đề phát triển và phát huy VHTM
trong NTQĐ ở Việt Nam hiện nay, nhằm làm cho các giá trị VHTM được tỏa sáng,
thẩm thấu vào tất cả các hoạt động trong NTQĐ, vào đời sống VHTM của cán bộ,
giảng viên, học viên.

1.2.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Tiếp cận hướng nghiên cứu "VHTM trong NTQĐ hiện nay", bên cạnh việc
kế thừa những giá trị khoa học của các công trình khoa học đã công bố từ nhiều góc
độ tiếp cận khác nhau, nghiên cứu sinh tiếp tục triển khai nghiên cứu các nội dung
cơ bản sau:
Một là, kế thừa và phát triển sâu sắc hơn cách tiếp cận VHTM dưới góc nhìn
Văn hóa học; qua đó làm rõ những khía cạnh bản chất của VHTM trên hai phương


21
diện: VHTM với tính cách là một bộ phận của văn hoá và VHTM với tính cách là
một thực thể của đời sống thẩm mỹ; đồng thời khái quát những yếu tố cấu thành của
VHTM cũng như những tác động tổng thể của nó đến hoạt động và đến nhân cách
của các chủ thể trong NTQĐ.
Hai là, tập trung làm rõ những khía cạnh mang tính đặc thù của VHTM trong
NTQĐ; đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của VHTM trong NTQĐ trên ba
phương diện chính: góp phần đáp ứng nhu cầu về văn hóa, tinh thần cho cán bộ,
giảng viên và học viên; nuôi dưỡng, hình thành nhân cách, xây dựng và phát triển
toàn diện tập thể quân nhân có văn hoá; góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy,
học tập và nghiên cứu khoa học.
Ba là, khảo sát, đánh giá thực trạng VHTM trong NTQĐ ở Việt Nam hiện
nay trên tất cả các yếu tố cấu thành của nó, bao hàm cả việc đánh giá tác động tổng
thể của VHTM đối với tổ chức và các hoạt động GD-ĐT trong NTQĐ ở Việt Nam
hiện nay, chỉ ra những biểu hiện tích cực, hạn chế và tìm ra nguyên nhân.
Bốn là, trên cơ sở khảo sát, đánh giá thực trạng VHTM trong NTQĐ ở Việt
Nam hiện nay, luận án xác định cần tiếp tục phát triển và phát huy VHTM trong
NTQĐ trên hai bình diện: vừa khuyến nghị phát triển các yếu tố cấu thành của
VHTM trong NTQĐ; vừa tìm ra giải pháp phát huy vai trò VHTM trong NTQĐ,
làm cho các giá trị VHTM (cái đúng, cái tốt, cái đẹp) xuyên thấm vào mọi phương
diện hoạt động trong NTQĐ, góp phần phát triển con người và các NTQĐ vững

mạnh toàn diện.
Tiểu kết chương 1
Trên cơ sở phân tích, đánh giá những thành quả nghiên cứu của các nhà khoa
học trong và ngoài nước liên quan đến VHTM, có thể thấy các công trình cơ bản
đều thống nhất coi VHTM hiện diện trong tất cả các hoạt động thực tiễn của con
người và tác động đến con người bằng cái đẹp, thông qua cái đẹp. VHTM đánh thức
không chỉ năng lực thẩm mỹ, mà còn đánh thức, làm nảy sinh nhu cầu cảm thụ và
sáng tạo cái đẹp trong mọi hoạt động thực tiễn của con người. VHTM chính là sự
đồng hóa, thẩm mỹ hóa, văn hóa hóa con người, xây dựng nhân cách con người
theo yêu cầu của xã hội và coi GDTM là phương tiện quan trọng giúp con người
hiểu đúng và cảm thụ cái đẹp trong nghệ thuật cũng như trong hiện thực, xây dựng
cảm quan làm phong phú thế giới tình cảm và làm cao đẹp nhân cách con người.


22
Các công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến VHTM trong NTQĐ ở
Viêt Nam đã đề cập, luận giải chủ yếu xoay quanh vấn đề xây dựng môi trường văn
hóa, môi trường sư phạm, đến phát triển năng lực, ý thức thẩm mỹ; định hướng thị
hiếu thẩm mỹ cho học viên trong NTQĐ… Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có
công trình khoa học nào trực tiếp bàn đến VHTM trong NTQĐ dưới góc nhìn của
Văn hóa học. Trên thực tế vẫn còn nhiều "điểm trống" trong lý luận và thực tiễn về
VHTM mang đặc thù quân sự. Những công trình trực tiếp nghiên cứu về VHTM
trong môi trường quân sự nói chung, NTQĐ nói riêng còn thưa vắng, chưa có công
trình khoa học nào đi sâu khai thác nội dung giá trị và sức mạnh đích thực của
VHTM. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài "Văn hóa thẩm mỹ trong nhà trường quân đội
hiện nay" không trùng lắp với bất kỳ các công trình khoa học đã được công bố và có
ý nghĩa cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn.



×