Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

tìm hiểu về chế độ đa đảng ớ các nước tư bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.72 KB, 22 trang )

A.LỜI MỞ ĐẦU

Đa nguyên chính trị xuất hiện vào đầu thế kỷ 18, khi giai cấp tư sản còn là
giai cấp tiến bộ trong đấu tranh bảo vệ sự đa dạng và bình đẳng của các nhóm xã
hội có lợi ích khác nhau, phát triển quyền tự do dân chủ tư sản. Đó là một khuynh
hướng xã hội - triết học, tuyệt đối hóa sự đa dạng đối kháng của các nhóm đảng
phái, tổ chức chính trị khác nhau trong xã hội. Hệ thống đa đảng là hệ thống mà ở
đó có nhiều đảng chính trị có khả năng giành quyền điều hành chính phủ một cách
độc lập hay liên minh với nhau. Trên thế giới hiện nay đa số vẫn thực hiện chế độ
đa nguyên đa đảng và trong nước đã không ít người đang đấu tranh để nước ta trở
thành đa nguyên đa đảng vì vậy em chọn tên đề tài là: “Tìm hiểu về chế độ đa
đảng ớ các nước tư bản” nhằm có cái nhìn tổng quan về chế độ đa đảng ở một
số quốc gia. Qua đó, đánh giá so sánh sự lựa chọn một đảng ở nước ta”.

1


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ KHÁI NIỆM, NGUỒN GỐC, HÌNH THỨC VỀ
CHẾ ĐỘ ĐA ĐẢNG.
1.1 MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.1.1 THỂ CHẾ:
- Thể chế là một hệ thống những quy định, luật lệ, giá trị, chuẩn mực
hợp thành những nguyên tắc tổ chức và phương thức vận hành của một xã hội ở
một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.
-Thể chế chính trị là hệ thống các định chế, các giá trị, chuẩn mực hợp
thành những nguyên tắc tổ chức và phương thức vận hành của một chế độ chính trị,
là hình thức thể hiện các thành tố của hệ thống chính trị thuộc thượng tầng kiến
trúc, là cơ sở chính trị - xã hội quy định tính chất, nội dung của chế độ xã hội nhằm
bảo vệ quyền lợi và lợi ích của giai cấp cầm quyền.
1.1.2 ĐẢNG PHÁI CHÍNH TRỊ:


Đảng phái chính trị là một tổ chức chính trị tự nguyện với mục tiêu
được một quyền lực chính trị nhất định trong chính quyền, thường là bằng cách
tham gia các hoạt động bầu cử. Các đảng thường chọn cho mình một hệ tư tưởng
hay một đường lối nhất định làm kim chỉ nam hành động nhằm đại diện cho một
liên minh giữa các lợi ích riêng rẽ. Các đảng thường có mục tiêu thực hiện một
nhiệm vụ, lý tưởng của một tầng lớp, giai cấp, quốc gia để bảo vệ quyền lợi của
tầng lớp, giai cấp hay quốc gia đó.
Hiện nay, trên thế giới tồn tại hai dạng thể chế đảng chính trị bao gồm
đơn đảng và đa đảng, trong đó, loại hình đa đảng bao gồm lưỡng đảng, đa đảng và
liên minh đảng cầm quyền.
1.1.3 VỀ CHẾ ĐỘ ĐA ĐẢNG:
Chế độ đa đảng là một hình thái chính trị nhà nước trong đó lý do tồn tại của
các đảng là sự cạnh tranh về quyền lực. Mỗi đảng thường là đại diện cho các lực
lượng chính trị khác nhau, các nhóm lợi ích khác nhau… theo đuổi những lý tưởng,
mục tiêu khác nhau, thường là đối lập với nhau về nhiều mặt, từ chính sách đối nội,
2


đối ngoại, đến quan điểm, hệ tư tưởng – chế độ xã hội và ngày nay còn là thái độ,
ứng xử đối với môi trường.
1.2. NGUỒN GỐC CỦA CHẾ ĐỘ ĐA ĐẢNG:
Sự xuất hiện học thuyết "tam quyền phân lập" gắn liền với cuộc đấu
tranh của giai cấp tư sản chống lại chế độ phong kiến chuyên chế. Để hạn chế
quyền lực của nhà vua, các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản đã đưa ra luận điểm về
sự cần thiết phân chia quyền lực nhà nước thành các nhánh quyền lực độc lập.
Những nhà tư tưởng này đã nhận thấy ở các nhà nước quân chủ chuyên chế quyền
lực nhà nước tập trung trong tay một nhà quân chủ (một người), dẫn đến việc độc
đoán, lạm quyền, tuỳ tiện trong việc sử dụng quyền lực nhà nước.
Thuyết “Tam quyền phân lập" ra đời là một bước tiến bộ so với chế
độ quân chủ phong kiến. Nó đã trở thành ngọn cờ tư tưởng tập hợp quần chúng

chống chế độ phong kiến trong quá trình cách mạng tư sản thế kỷ XVII - XVIII.
Khi giai cấp tư sản giành được chính quyền, học thuyết "Tam quyền phân lập" trở
thành nguyên tắc cơ bản về tổ chức hoạt động của nhà nước tư sản nhằm hạn chế
sự độc quyền, lạm quyền, tuỳ tiện trong việc sử dụng quyền lực nhà nước. Nguyên
tắc này đã tạo ra cơ chế kiềm chế và đối trọng giữa các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp trong nhà nước tư sản.
Học thuyết "Tam quyền phân lập" gắn liền và phù hợp với chế độ
chính trị đa đảng của nhà nước tư sản. Có nhà nước tư sản áp dụng học thuyết này
một cách mềm dẻo (ở các nhà nước theo chính thể đại nghị, giữa hành pháp và lập
pháp có sự phối hợp với nhau và hành pháp chịu trách nhiệm trước lập pháp); có
những nhà nước áp dụng học thuyết này một cách cứng rắn (ở các nhà nước theo
chính thể cộng hoà tổng thống có sự độc lập của các cơ quan quyền lực, hành pháp
không chịu trách nhiệm trước lập pháp). Như vậy, có thể thấy rằng, không có một
khuôn mẫu cố định của học thuyết "Tam quyền phân lập" để áp dụng chung cho
mọi nhà nước tư sản với các hình thức nhà nước khác nhau và càng không thể có
một khuôn mẫu chung về tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước áp dụng chung
cho mọi nhà nước với những chế độ chính trị khác nhau. Ngay đối với một đất
3


nước, thì cách thức tổ chức và phân công quyền lực nhà nước cũng không phải là
bất biến, mà phải được tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện cho phù hợp với từng giai
đoạn lịch sử của nước đó.
Xã hội tư bản lấy tự do cạnh tranh làm nền tảng cho sự tồn tại và phát
triển chế độ đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập. Các giai cấp có lợi ích khác
nhau đều có quyền thành lập đảng chính trị của mình và được phép hoạt động trong
khuôn khổ pháp luật của nhà nước tư sản. Trong xã hội ấy, các tập đoàn tư bản
lũng đoạn khác nhau cũng thành lập ra các đảng chính trị để bảo vệ cho lợi ích của
tập đoàn đó. Họ ra sức công kích lẫn nhau. Mỗi đảng đều đưa ra cương lĩnh tranh
cử nhằm lôi kéo các tầng lớp dân cư mong chiếm được nhiều ghế trong các cuộc

bầu cử quốc hội, giành chức vụ đứng đầu cơ quan hành pháp (tổng thống, thủ
tướng) để đứng ra thành lập chính phủ.
Cơ chế đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập được coi như là cơ chế dân
chủ nhất, thích hợp nhất trong một xã hội mà quyền lực nhà nước được coi là trung
tâm giành giật trên chính trường của các thế lực tư sản. Chừng nào trong xã hội còn
sự cạnh tranh đối nghịch về lợi ích giữa các giai cấp, các tập đoàn tư bản thì chừng
ấy cơ chế đa đảng còn có thể phát huy tác dụng. Mặt khác, cũng cần lưu ý rằng,
mâu thuẫn giữa các đảng chính trị của các tập đoàn tư bản khác nhau thường không
phải là mâu thuẫn một mất, một còn. Nói chung, về bản chất nó đều bảo vệ quyền
lợi cơ bản của giai cấp tư sản đã được xác định trong Hiến pháp mà bất kỳ đảng
nào cũng đều phải tuân theo. Các đảng ấy chỉ khác nhau về lợi ích cục bộ, còn về
cơ bản nó vẫn thống nhất với nhau và khi cần phải bảo vệ lợi ích chung thì nó vẫn
cố kết với nhau như bàn thạch. Do đó, dù có mâu thuẫn, nhưng cuối cùng, sau
những ván bài chính trị, họ vẫn có thể nhân nhượng nhau, hợp tác với nhau, chia sẻ
quyền lực cho nhau; thành ra cơ chế đa đảng, xét đến cùng thì bản chất vẫn là một,
vẫn chỉ là đảng của giai cấp tư sản thay nhau nắm giữ quyền lực nhà nước.
- Chế độ đa đảng tồn tại ở nhiều nước trên thế giới còn do những yếu tố lịch
sử, trong quá trình đấu tranh giành độc lập, hoặc phá bỏ chế độ phong kiến, trong
suốt quá trình phát triển kinh tế, văn hóa của từng quốc gia. Từ khi giai cấp tư sản
4


nắm giữ được ngọn cờ dân tộc, biến dân tộc đó thành dân tộc - tư sản thì toàn bộ
dân cư của quốc gia đều vận động trong quỹ đạo của giai cấp tư sản.
1.3 CÁC HÌNH THỨC ĐA ĐẢNG:
Căn cứ vào số lượng các đảng phái chính trị trong xã hội cũng như cách thức
hoạt động của các đảng này, người ta phân chia thành 3 dạng: lưỡng đảng, đa đảng
và liên minh đảng cầm quyền.
- Lưỡng đảng: đời sống chính trị của quốc gia do hai chính đảng chi phối,
hoặc chỉ tồn tại hai đảng, hoặc nếu nhiều hơn thì các đảng khác đều không đủ thế

lực, đều lu mờ trước sân khấu chính trị rồi ngả về ủng hộ một trong hai đảng.
- Đa đảng: Số lượng chính đảng chi phối đời sống chính trị của một quốc gia
nhiều hơn hai đảng.
- Liên minh đảng cầm quyền: Trong các quốc gia có thể chế chính trị đa
đảng, một đảng nào đó chiếm được đa số (sau thắng lợi bầu cử), nhưng chưa đạt
đến mức độ tuyệt đối thì phải liên minh với một số đảng khác tạo thành một liên
minh cầm quyền. Khi đó giữa các đảng có sự dàn xếp với nhau, điều hòa về các vị
trí chủ chốt trong nội các, điều hòa về chính sách và quyền lực. Đảng nào chiếm số
lượng cử tri đông nhất thì đảng đó có nhiều đại biểu trong quốc hội, có nhiều ghế
trong chính phủ, chiếm nhiều vị trí chủ chốt trong chính quyền nhà nước.

5


CHƯƠNG 2: MỘT SỐ MÔ HÌNH CỤ THỂ VỀ CHẾ ĐỘ ĐA ĐẢNG
CÁC NƯỚC TƯ SẢN TRÊN THẾ GIỚI.
2.1 MỸ:
Hoa Kỳ là liên bang tồn tại lâu đời nhất trên thế giới. Ở nước Mỹ có nhiều
chính đảng, mỗi đảng đều đại diện cho lợi ích của những bộ phận dân cư khác
nhau. Nhưng từ ngày thành lập Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (1776) tới nay, không
đảng nào có đủ sức mạnh cạnh tranh với hai đảng (Đảng Cộng hòa và Đảng Dân
chủ) đại diện cho hai tập đoàn tư bản kếch xù. Thành thử lịch sử Nhà nước Mỹ, kể
từ khi họ giành được độc lập tới nay, là lịch sử đấu tranh, giành giật giữa hai chính
đảng mà kết cục là Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa thay nhau cầm quyền. Các
chính đảng khác đều không đủ thế lực, đều lu mờ trước sân khấu chính trị rồi ngả
về ủng hộ một trong hai đảng.
2.1.1 Sự hình thành hệ thống hai đảng (lưỡng đảng):
- Hình thành từ đầu thập kỷ 90 thế kỷ XVIII, dưới chính quyền Tổng
thống Oasinhtơn. Do không được Tổng thống ủng hộ, Jephesơn tập hợp thành
nhóm Cộng hòa đổi tên thành Cộng Hòa – Dân chủ, tiền thân của Đảng Dân chủ

sau

này.
- Đến năm 1824, đảng phân liệt thành nhiều phe phái và phân chia thành hai

nhóm chống đối nhau: Đảng Dân chủ (đại diện cho chế độ nô lệ ở miền Nam) và
Đảng Uých (đại diện cho các chủ ngân hàng, tư sản và chủ đồn điền miền Nam).
- Trong những năm 1850, Đảng Uých sụp đỗ và đến 1854, những người thuộc
Đảng Uých và những người thuộc Đảng Dân chủ có xu hướng chống chế độ nô lệ đã
thành lập Đảng Cộng hòa (đại diện cho quyền lợi của miền Bắc và miền Tây). Đảng
Dân chủ và Đảng Cộng hòa thay nhau nắm chính quyền cho đến ngày nay.
- Ngoài ra, ở Mỹ còn tồn tại một số đảng khác như: Đảng Dân túy, Cấp tiến,
Độc lập, Cải cách, Đảng Cộng sản Mỹ (được thành lập 1920).
2.1.2 Đặc điểm:
Chính trị tại Hoa Kỳ hoạt động dưới một hệ thống lưỡng đảng gần như suốt
chiều dài lịch sử Hoa Kỳ. Đối với các chức vụ được đưa ra bầu cử ở các cấp, bầu
6


cử sơ bộ do tiểu bang đảm trách sẽ được tổ chức để chọn ra các ứng cử viên của
từng đảng chính yếu để chuẩn bị cho tổng tuyển cử sau đó. Từ lần tổng tuyển cử
năm 1856, hai đảng có ảnh hưởng chi phối là Đảng Dân chủ được thành lập năm
1824 (mặc dù nguồn gốc của đảng có thể lần tìm ngược về năm 1792), và Đảng
Cộng hòa thành lập năm 1854.
- Có nhiều chính đảng, mỗi đảng đại diện cho lợi ích của những bộ phận dân
cư khác nhau à các chính đảng khác đều không đủ thế lực, đều lu mờ và ngả về ủng
hộ một trong hai đảng.
- Hệ thống Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa ở Mỹ không gắn bó và kỷ
luật. Nội bộ các đảng không đồng nhất, thiếu sự gắn kết do nền tảng xã hội mỗi
đảng khác nhau nhưng đều cùng bảo vệ quyền lợi cơ bản của giai cấp tư sản à tổ

chức và hoạt động của hai đảng như hai tổ chức bầu cử.
- Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa như hai tổ chức tranh cử thường trực.
Khi bầu cử kết thúc thì hoạt động của các đảng cũng dừng.
- Tổ chức lỏng lẻo, quyền lực phân tán, không có nội quy, kỷ luật, chế định
đảng viên. Không có tôn chỉ lâu dài, không có cương lĩnh cố định.
- Các tổ chức trong đảng hoạt động độc lập, quan hệ trên dưới rời rạc.
- Tuy nhiên, hai đảng thống nhất ở mục tiêu chung là bảo vệ chế độ sở hữu
tư nhân, hiến pháp liên bang, thể chế chính trị đương thời,…
2.2 Liên hiệp vương quốc anh và bắc ailen:
2.2.1 Sự hình thành hệ thống đa đảng:
Các đảng chính trị ở Vương quốc Anh ra đời vào giữa thế kỷ thứ 19. Từ đó
đến những năm 1920, Đảng Bảo thủ và Đảng Tự do thống trị đời sống chính trị ở
Vương quốc Anh. Tuy nhiên, năm 1923, Công Đảng – một liên minh giữa các
nghiệp đoàn và nhiều tổ chức theo đường lối xã hội chủ nghĩa – giành thắng lợi
trong cuộc tổng tuyển cử và lên nắm quyền trong một thời gian ngắn.
Trong suốt Chiến tranh Thế giới lần thứ Hai, trong khoảng thời gian từ năm
1939 đến năm 1945, Chính phủ Vương quốc Anh là một liên minh hiệu quả của ba
chính đảng.
7


Từ sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới lần thứ Hai năm 1945, đảng Bảo
thủ và Công đảng luôn thống lĩnh chính trị nước Anh, thay nhau lên nắm quyền từ
đó đến nay.
Đảng Tự do sáp nhập với Đảng Dân chủ Xã hội mới được thành lập năm
1988 để lập ra đảng Dân chủ Tự do và trở thành đảng lớn thứ ba ở Vương quốc
Anh. Ba đảng này đại diện cho phái đoàn của Vương quốc Anh trong Nghị viện
châu Âu và các cơ quan phân cấp ở Xcốt-len và xứ Uên.
Bắc Ai-len khác với các nước khác trong Vương quốc Anh ở chỗ sự gắn kết
đảng phái chủ yếu dựa trên gốc gác tôn giáo và dân tộc của cá nhân. Đảng Dân chủ

Tự do và Công đảng không tranh giành bầu cử ở đây. Đảng Bảo thủ có tham gia
tranh giành ghế, nhưng nhận được rất ít sự ủng hộ trong các cuộc bầu cử gần đây.
Ở Vương quốc Anh có ba chính đảng chính, gồm Công Đảng, Đảng Bảo thủ và
Đảng Dân chủ Tự do.
Một số đảng phái chính trị nhỏ khác cũng có đại diện trong nghị viện Vương
quốc Anh và châu Âu, và trong các cơ quan chính quyền phân cấp ở Xcốt-len, xứ
Uên và Bắc Ai-len.
Có một số đảng theo đường lối dân tộc chủ nghĩa ở Xcốt-len – Đảng Dân tộc
Xcốt-len – và ở xứ Uên – Đảng Plaid Cymru.
Bắc Ai-len có một số đảng bị chia tách chủ yếu dựa trên đường lối dân tộc và
tôn giáo. Các đảng như vậy bao gồm Đảng của những người liên hiệp Ulster
(Ulster Unionists), Đảng của những người liên hiệp Dân chủ (Democratic
Unionists), Đảng Dân chủ và Lao động (Social Democratic and Labour Party) và
Đảng Sinn Féin.
Đảng Xanh (Green Party) và Đảng Độc lập Vương quốc Anh (UK
Independence Party) cũng nhận được khá nhiều sự ủng hộ
2.2.2 Đặc điểm:
- Không giống các quốc gia châu Âu khác, Liên hiệp Vương quốc Anh sử
dụng hệ thống một đại biểu cho một đơn vị bầu cử (first-past-the-post system) để
tuyển chọn thành viên Quốc hội. Do đó, các cuộc tuyển cử và các chính đảng tại
8


Anh bị chi phối bởi Luật Duverger, dẫn đến việc qui tụ các ý thức hệ chính trị
tương đồng về một vài chính đảng lớn và hạn chế khả năng của các đảng nhỏ giành
được quyền đại diện tại Quốc hội.
- Trong lịch sử, chính trường Anh quốc bị chi phối bởi hệ thống lưỡng đảng,
mặc dù hiện nay có ba chính đảng đang kiểm soát hệ thống chính trị tại đây. Lúc
đầu, Bảo thủ và Tự do là hai chính đảng thống trị chính trường, nhưng Đảng Tự do
sụp đổ vào đầu thế kỷ 20 và được thế chỗ bởi Đảng Lao động. Trong thập niên

1980, các đảng viên Tự do sáp nhập với Đảng Dân chủ Xã hội để thành lập thành
lập Đảng Dân chủ Tự do, có đủ thực lực để được xem là một chính đảng lớn. Còn
có các chính đảng nhỏ hơn tham gia vào các cuộc tuyển cử. Trong số này có vài
đảng giành được ghế tại Quốc hội.
- Sự tồn tại của hai đảng đối lập trong hoạt động nhà nước đã góp phần hạn
chế đáng kể sự lạm quyền. Một trong những biểu hiện rõ rệt của nó là chế độ nội
các bóng “shadow cabinet” ở Anh. Theo đó, đảng đối lập thành lập ra một chính
phủ riêng của mình với chức năng chủ yếu là phản biện lại chính sách của chính
phủ đương nhiệm và trong trường hợp đảng cầm quyền buộc phải ra đi, chính phủ
“trong bóng tối” này sẽ tiếp quản nhiệm vụ mới một cách tương đối dễ dàng và
suôn xẻ.
- Các đảng được tổ chức chặt chẽ, luôn thống nhất nhưng không có cương
lĩnh lâu dài và điều lệ.
- Các đảng phái tìm cách tác động đến sự hình thành bộ máy nhà nước
bằng cách cử ra ứng cử viên tham gia tranh cử vào các cơ quan lập pháp, hành
pháp.
- Tác động đến hoạt động của bộ máy nhà nước: điều này được thể hiện ở sự
kiểm soát và tác động của đảng đến các thành viên của nó khi họ tham gia chính
quyền, đặc biệt là họ khi nắm giữ những chức vụ lãnh đạo cấp cao (như tổng thống,
thủ tướng). Thông qua các đảng viên cốt cán đó, đảng khéo léo đưa những chủ
trương, đường lối của mình vào chính sách, pháp luật của nhà nước theo hướng có
lợi cho đảng mình.
9


- Hệ thống chính phủ Anh được áp dụng ở nhiều nơi trên thế giới - một di
sản từ thời quá khứ thực dân — chủ yếu tại các quốc gia trong Khối Thịnh vượng
chung Anh. Thành viên Nghị viện (Member of Parliement) chiếm đa số trong Hạ
viện thường là phái có quyền chỉ định thủ tướng - thường là lãnh đạo của đảng lớn
nhất hay, nếu không có đảng nào chiếm đa số, là liên minh lớn nhất.

2.3 Pháp:
2.3.1 Sự hình thành hệ thống đa đảng:
Nước Pháp hiện nay có trên dưới 20 đảng, tập hợp thành hai phe: tả và hữu.
Trong phe tả lại chia thành tả, trung tả, cực tả. Trong phe hữu có hữu, trung hữu và
cực hữu.
2.3.2. Đảng xã hội Pháp:
Năm 1901, ở Pháp tồn tại hai Đảng Xã hội, một Đảng theo xu hướng Macxít,
một Đảng chống Macxít. Năm 1905, hai Đảng này sáp nhập thành Phân bộ Pháp
của Quốc tế Công nhân. Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, nội bộ đảng lại chia rẽ,
đa số đảng viên ủng hộ Chính phủ tham gia chiến tranh.
Từ Đại hội Tua thàng 12 – 1920, ¾ số đại biểu tán thành tham gia quốc
tế cộng sản và tách ra thành lập Đảng Cộng sản. Đảng xã hội suy yếu. Nhưng từ
năm 1924, PS liên kết với những người cấp tiến, khôi phục lực lượng và dần dần
trở thành Đảng lớn trong quốc hội, nhiều thời kỳ giành quyền thành lập Chính phủ.
Cử tri cửa PS tương đối đồng đều trong các tầng lớp dân cư, nhưng nhiều
nhất là công nhân, những người làm công ăn lương, thu nhập thấp.
Tổ chức đảng gồm 3 cấp: trung ương, tỉnh và đảng bộ cơ sở, không có cấp
chi bộ. Cơ quan quyền lực cao nhất là đại hội đảng, họp mỗi năm một lần, bầu ban
chấp hành (Hội đồng toàn quốc) gồm 27 người, đứng đầu là Bí thư thứ nhất. Tuy
nhiên trong nội bộ Đảng vẫn còn tồn tại các phe nhóm, mâu thuẫn với nhau.
2.3.3 Đảng liên minh vì nền cộng hòa (OPR)
Tiền thân của đảng này là tập hợp dân tộc Pháp, do Đờ Gôn thành lập năm
1947. Đảng trải qua nhiều lần đổi tên: Liên minh vì nền cộng hoà mới (1958), Liên
10


minh dân chủ vì nền cộng hoà (1968). Đảng có tên như hiện nay từ namư 1976,
dưới sự lãnh đạo của ông Chirac.
Từ năm 1958 – 1978, Đảng này đã trở thành đảng cánh hữu lớn nhất
nước Pháp, có số lượng cử tri và nghị sĩ cao nhất. Cử tri của Đảng là những người

làm nghề tự do: thợ thủ công, thương gia, công chức cao cấp, tín đồ Thiên chúa
giáo.
Đảng được tổ chức thành 3 cấp: trung ương, tỉnh và các đơn vị bầu cử. Cơ
quan cao nhất là đại hội đảng. Đại hội bầu ban chấp hành trung ương, Bộ chính trị.
Hen nay Đảng có 12 đảng viên là Nghị sĩ Châu Âu. Bộ máy tổ chức của Đảng gọn
nhẹ, chỉ có khoảng 70 người chuyên trách ở trung ương. Cấp tỉnh có Bí thư, tỉnh
uỷ, các đơn vị bầu cử có Bí thư, đảng uỷ. Hoạt động của Đảng thông qua các đảng
viên nắm giữ các chức vụ trong chính phủ và Quốc hội.
2.3.4 Đảng cộng sản (PCF)
Đảng thành lập năm 1920, do tách ra từ Đảng Xã hội. Đảng đóng vai trò đặc
biệt quan trọng trong thời kỳ Mặt trận Bình dân năm 1935, lãnh đạo phong trào
chống chủ nghĩa phatxít. Đảng đấu tranh bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động. Đảng lien minh với Đảng Xã hội trong các cuộc bầu cử,
tham gia Chính phủ của phe tả vào các thời kỳ: 1945 – 1947, 1980 – 1984, 1997 –
2002. Trong cuộc bầu cử Tổng thống và Quốc hội năm 2002 Đảng bị thất bại nặng
nề. Những năm gần đây, nhất là từ khi chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở Châu Âu, uy tín
của Đảng bị giảm sút và hiện nay đang trong thời kỳ khủng hoảng.
Đảng có khoảng 60 vạn đảng viên, tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân
chủ, sinh hoạt theo đơn vị lãnh thổ, đơn vị sản xuất. Cơ quan cao nhất là đại hội
Đảng, nhiệm kỳ 3 năm. Đại hội bầu ban chấp hành trung ương, Bộ chính trị, Ban
Bí thư, bầu Hội đồng Kiểm tra chính trị, Hội đồng Kiểm tra Tài chính. Hội đồng
Dân tộc của Đảng là Cơ quan cố vấn gồm các thành viên là uỷ viên Bộ Chính trị,
các Nghị sĩ, Bí thư Đảng uỷ các xí nghiệp lớn.
2.3.5 Đảng Xanh
11


Ra đời vào những năm 1980, Đảng Xanh là một đảng có ảnh hưởng lớn
trong phe tả, đấu tranh bảo vệ môi trường, chống chiến tranh. Đảng này chủ trương
xây dưng nền kinh tế tương trợ, đáp ứng lợi ích chung, tăng lương cho người lao

động, cải cáh lương hưu, áp dụng tuần làm việc 35 giờ. Đảng kêu gọi tiết kiệm
năng lượng, đa dạng hoá các nguồn năng lượng tái tạo nhưng chống các nhà máy
điện nguyên tử.
2.3.6 Đảng Mặt trận Dân tộc
Là Đảng cực hữu thành lập năm 1972, lãnh tụ của đảng là ông Le Pen. Bản
chất đảng là quốc gia chủ nghĩa, bài ngoại, than Phatxít chống Cộng hoà. Đảng chủ
trương thanh trừng sắc tộc, cho rằng giữa các chủng tộc không thể có sự bình đẳng
về khả năng cũng như trình tự tiến hoá.
Ngoài ra còn một số đảng khác như đảng cộng hòa, Liên minh dân chủ pháp,
Đảng cấp tiến và xã hội…
* Đặc điểm:
Khác với Mỹ, sự khác biệt giữa các Đảng là không lớn, ở Pháp các đảng
phân thành hai cực đối lập và sự liên kết trong đảng rất chặt chẽ, các đảng viên phải
tuân thủ nghiêm ngặt nghị quyết của đảng. Đặc trưng của hệ thống đảng ở Pháp là
chưa có đảng nào chiếm đa số tuyệt đối trong các cuộc bầu cử, nên các đảng phải
liên minh với nhau.
Hệ thống đảng phái ở Pháp tương đối phức tạp, số lượng đảng nhiều, các liên
minh đảng không chặt chẽ dẫn đến thiếu ổn định, chính phủ thường xuyên thay đổi.
Đứng đầu phe tả, nhưng Đảng Xã hội có xu hướng trung tả, ngả dần về phía hữu,
có chính sách gần với đảng Liên minh vì nền cộng hòa, một đảng trung hữu. Hai
đảng này thay nhau cầm quyền hàng chục năm, nhưng không tạo ra bước về phát
triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy người dân Pháp muốn có sự đổi mới. Đã có
nhiều cử tri bỏ phiếu cho các đảng cực hữu hoặc cực tả gây nên biên động lớn về
chính trị.
2.4. ĐỨC:
2.4.1 Sự hình thành hệ thống đa đảng:
12


Từ thế kỷ 19, nước Đức đã duy trì hệ thống đa đảng. Gần đây nhất năm

1994, Quốc hội ban hành luật về các đảng chính trị. Thông qua bầu cử, các đảng
cạnh tranh nhau để nắm quyền lực nhà nước.
2.4.1.1 Đảng Xã hội-Dân chủ (SPD)
Đảng ra đời năm 1963, đã 4 lần cầm quyền. Đợt dài nhất từ năm 1969-1982,
trong liên minh với Đảng Dân chủ-Tự do.
Hiện nay SPD có gần 1 triệu đảng viên. Đó là các nhân viên, công chức nhà
nước, trong đó công nhân chiếm ¼. Bộ máy SPD gọn nhẹ từ trung ương đến địa
phương, chỉ từ cấp khu vực trở lên mới có người chuyên trách.
SPD từ chối chủ nghĩa Mác, điều hòa lợi ích lao động và tư bản bằng con
đường cải cách kinh tế-xã hội. Chủ trương xây dựng một nền “kinh tế thị trường xã
hội” với đặc trưng: tư hữu hóa tự do kinh doanh, nhà nước quản lý phát triển kinh
tế thông qua pháp luật và ủy ban chống độc quyền để điều chỉnh và giảm bớt cạnh
tranh, cân bằng xã hội thông qua các chính sách bảo hiểm, đền bù xã hội và trợ cấp
xã hội. Đảng nhấn mạnh vai trò kiểm sóat của nhà nước trong quản lý kinh tế.
SPD chủ trương cố gắng làm dịu tình hình quốc tế, phát triển quan hệ với các nước
xã hội chủ nghĩa, đòi giảm vũ khí hạt nhân, phi quân sự hóa vũ trụ. Đảng là thành
viên sáng lập và nhiều năm liền đứng đầu Quốc tế Xã hội.
2.4.1.2 Liên minh Dân chủ Thiên chúa giáo (CDU).
Đảng thành lập năm 1945, gồm những người theo đạo Thiên chúa giáo và
Tin lành, đại diện cho tầng lớp đại tư bản và giáo sĩ. Ngoài ra trong CDU còn có
các công chức, nông dân khá giả, công nhân xây dựng. Hiện nay, CDU có khoảng
734.000 đảng viên.
CDU muốn phục thù những thất bại trước đây, xem lại các đường biên giới
Châu Âu, chủ trương nước Đức có vũ khí hạt nhân.
Từ năm 1983-1998, CDU là đảng cầm quyền. Năm 1998, do mất uy tín, nội
bộ chia rẽ nên đảng mất quyền lãnh đạo chính phủ.
2.4.1.3 Đảng Dân chủ-Tự do (FDP).
13



Thành lập năm 1948, đại diện cho xu hướng tự do, tư bản độc quyền, đảng
quan tâm tới lợi ích của các nhà kinh doanh vừa và nhỏ, công chức, viên chức, trí
thức, thợ thủ công và nông dân. Đảng bên vực sở hữu cá nhân, tự do kinh doanh và
tự do cạnh tranh. Trong đối ngoại, đảng ủng hộ việc triển khai các tên lửa của Mỹ ở
Đức. Năm 1982, đảng này tham gia chính phủ do CDU lãnh đạo. Hiện nay, đảng có
khoảng 72.000 đảng viên.
Cơ quan lãnh đạo là Ban chấp hành liên bang và Ủy ban liên bang. Cơ quan báo
chí là tạp chí Diễn đàn tự do, Người tự do và Bản tin phóng viên dân chủ tự do.
2.4.1.4 Đảng Xanh
Đảng Xanh thành lập năm 1980 với quan điểm chính trị và họat động
thực tiễn là bảo vệ môi trường thiên nhiên và xã hội, giữ gìn sinh thái trong lành và
bền vững. Cơ sở xã hội là những họat động văn hóa, khoa học, kỹ thuật, giáo dục,
đặc biệt là giáo dục thế hệ trẻ. Nguyên tắc tổ chức là phân quyền cho các địa
phương. Mục đích của đảng là: dùng phương pháp hòa bình, phi bạo lực để cải tạo
và tiêu diệt chủ nghĩa tư bản, xây dựng một xã hội không có bốc lột và bạo lực,
chống chiến tranh, chạy đua vũ trang, chống khai thác thiên nhiên.
Đảng có hơn 30.000 đảng viên. Trong cuộc bầu cử năm 1998, đảng này
giành 47 ghế trong Hạ viện, tham gia liên minh với đảng Xã hội-Dân chủ thành lập
Chính phủ và giữ 3 ghế Bộ trưởng.
Ngoài ra ở Đức còn có các đảng khác như Đảng Dân tộc dân chủ, Đảng cộng
sản Đức…
2.4.2 Đặc điểm:
Xuất phát từ phương thức bầu cử, cho nên đảng nào năm Hạ viện sẽ trở
thành đảng cầm quyền. Tuy nhiên sau bài học đắt giá về chế độ chuyên chế,
phatxít, người dân Đức không muốn quyền lực tập chung vào một đảng hay một
các nhân nào, nên từ sau chiên tranh thế giới thứ hai đến nay, nước Đức thường
xuyên duy trì “hệ thống hai đảng rưỡi” nh ưng kh ông bao giờ đạt đa số trong Quốc
hội mà phải liên minh với một hoặc nhiều đảng nhỏ khác.
14



Trong quá trình hoạt động, đảng cầm quyền không thể tự định tất cả, mà phải
thương lượng, điều chỉnh chính sách với đảng trong liên minh cầm quyền.
2.5. Liên bang nga:
2.5.1 Sự hình thành hệ thống đa đảng:
Năm 1917, Đảng Bôn-Sê-Vich do Lênin lãnh đạo đã tiến hành cuộc Cách
mạng tháng mười, lật đổ chế độ Nga hoàng, xây dựng nhà nước chuyên chính vô
sản đầu tiên trên thế giới. Với khẩu hiệu công khai hóa, dân chủ hóa, các trào lưu tư
tưởng tự do phát triển. Ngay trong Đảng Cộng sản Liên Xô cũng khuyến khích đa
nguyên ý kiến. Trong Đảng xuất hiện các phe nhóm có cương lĩnh khác nhau:
mácxit, cộng sản, dân chủ… Từ tháng 3/1991, các đảng phái, các phong trào, liên
minh bắt đầu đăng ký hoạt động. Đến cuối năm 1991 đã có 26 đảng đăng ký. Và
đến 01/7/1998 ở nước Nga có 95 đảng chính trị.
Tuy nhiên, pháp luật Nga không cho phép các tổ chức chính trị dùng bạo lực
để thay đổi Hiến pháp và phá hoại an ninh quốc gia, cấm các tổ chức thành lập lực
lượng vũ trang. Theo bộ luật mới được thông qua về các đảng phái (năm 2001), có
những quy định chặt chẽ về số lượng, vai trò ảnh hưởng đối với nhân dân, cho nên
đến cuối năm 2002, số đảng đáp ứng đủ tiêu chí theo luật chỉ có gần 30 đảng.
2.5.2 Đặc điểm:
- Các đảng ở Liên bang Nga được hình thành bằng hai cách: từ dưới lên và từ
trên xuống:
Từ dưới lên: ban đầu xuất hiện một nhóm người có cùng chí hướng, dưới
hình thức các câu lạc bộ, nhóm sáng kiến, sau đó phát triển dần thành các đảng. Ví
dụ: Đảng Lao động tự do, Đảng Nga, Đảng phục sinh, Phong trào dân chủ Nga,
Yablôkô… Các đảng được hình thành theo cách này thường có tổ chức không chặt
chẽ, phụ thuộc rất nhiều vào uy tín của lãnh tụ
Từ trên xuống: do các cá nhân – lãnh tụ đứng ra thành lập. Đây là những
người có cương vị cao trong bộ máy chính quyền hoặc QUốc hội, vá cách thành lập
này đang rất phổ biến. Các đảng này phụ thuộc rất lớn vào chính quyền, khi không
15



được chính quyền ủng hộ thì uy tín giảm sút ngay chóng. Ví dụ: Phong trào “Ngôi
nhà của chúng ta”.
Ngoài ra còn một số đảng được thành lập trên các nguyên tắc khác: trên cơ
sở tổ chức kinh tế - thương mại (Đảng tự do Kinh tế), Đảng Nhân dân yêu nước
được thành lập trên cơ sở các cưu chiến binh Apganishtan, Đảng sáng kiến dân chủ
được thành lập trên cơ sở Liên minh giới chủ và những người cho thuê…
Các đảng phái ở Liên bang Nga hiện nay có gần 30 đảng, đại diện cho một
số trào lưu chính trị chủ yếu như sau:
Phong trào dân chủ: ra đời từ thời ký cải tổ ổ Liên Xô, hình thành xu hướng
chính trị đối lập Đảng Cộng sản Liên Xô, đấu tranh đòi cải cách kinh tế, chính trị,
đòi thiết lập chế độ đa nguyên, đa đảng ở Liên Xô. Năm 1990, các đảng dân chủ
đầu tiên ra đời: Đảng Xã hội – Dân chủ, Dân chủ Nga, Đảng Cộng hòa Nga
Phong trào Cộng sản: Vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX, với khẩu hiệu dân
chủ hóa, công khai hóa, trong lòng Đảng Cộng sản Liên Xô đã xuất hiện các nhóm
đối lập. Đó là các nhóm: Cương lĩnh Đảng Cộng Sản Liên Xô, Cương lĩnh Macxít.
Từ hai tổ chức trên sau chia thành các phe nhóm: Đảng những người Cộng sản
Nga, liên minh những người Cộng sản Nga, Đảng Công nhân – Cộng sản Nga…
với tổng cộng hơn 10 đảng phái. Lớn nhất là Đảng Cộng sản Liên bang Nga hình
thành trên cơ sở Đảng Cộng sản Liên Xô cũ, thành lập vào tháng 2-1993.
Phong trào Dân chủ yêu nước và Quốc gia: là các tổ chức có tư tưởng dân
tộc, nhấn mạnh vai trò của nước Nga, dân tộc Nga, khơi dậy lòng tự hào dân tộc
của các tầng lớp dân cư. Xu hướng dân tộc yêu có: Phong trào ký ức, Tổ quốc,
Đảng Dân tộc cộng hòa, Phong trào thống nhất dân tộc, Đảng Nga…
- Ranh giới giữa các đảng chính trị và các phong trào, đoàn thể xã hội ở Nga
hiện nay không rõ ràng. Có nhiều phong trào, tổ chức đoàn thể hoạt động với tư
cách là một đảng, và ngược lại có nhiều đảng hoạt động còn yếu, vai trò như một tổ
chức chính trị - xã hội.
- Tình trạng đa đảng cộng sản là bước lùi của phong trào cộng sản, phản ánh

mâu thuẫn, các trào lưu tư tưởng khác nhau. Tất cả các đảng cộng sản đếu có điểm
16


chung là chủ nghĩa Mac-Lenin, chủ nghĩa xã hội, chính quyền Xô viết, xóa bỏ ách
áp bức bóc lột, ưu tiên chế độ công hữu, khôi phục Liên Xô… Mâu thuẫn chủ yếu
giữa các đảng cộng sản tập trung vào các vấn đề về tư tưởng lý luận, con đường
đấu tranh, phương thức giành chính quyền (bạo lực cách mạng hay đấu tranh nghị
trường), hội chứng lãnh tụ. vấn đề sở hữu tư bản trong chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị
trường, vấn đề tôn giáo – vô thần…

17


CHƯƠNG III. ĐÁNH GIÁ NHẬN XÉT CHUNG
3.1. ƯU ĐIỂM:
Do tồn tại của nhiều đảng chính trị, mỗi đảng đều muốn tranh giành
quần chúng, tranh thủ tìm sự ủng hộ của nhiều cử tri nên đảng đều phải luôn tự rèn
luyện, trau dổi, tổng kết thực tiễn và không ngừng đổi mới về chính trị, tư tưởng, tổ
chức .. làm cho đời sống trong xã hội ngày càng phát triển trên tất cả các mặ văn
hóa, kinh tế, xã hội. Để duy trì vị trí lãnh đạo cao nhất của mình, các đảng cầm
quyền luôn nổ lực điều hành công việc quản lý nhà nước có hiệu quả, còn các đảng
chính trị đối lập muốn lên vị trí cầm quyền cũng phải tìm hiểu và tìm cách nói lên
được yêu cầu nguyện vọng của nhân dân, qua đó chính là nguyên nhân động lực để
các đảng phái khác cũng phải cố gắng nhằm lôi kéo thu hút các tầng lớp trong xã
hội ủng hộ đảng của mình. Đây cũng chính là lý do giúp người dân có điều kiện
phát biểu nguyện vọng và những thắc mắc của mình. Cũng chính do sự cạnh tranh
giữa các Đảng mà lãnh đạo của các Đảng luôn chịu sự kiểm soát của các đảng viên,
nhờ vậy ngăn chặn được sự độc đoán và chuyên quyền của Đảng cầm quyền trong
xã hội.

3.2. HẠN CHẾ:
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã nhìn thấy những hạn chế của thuyết phân quyền
và đã chỉ ra bản chất bên trong của nó và quyền lực nhà nước được sinh ra từ mâu
thuẫn giai cấp. Sự xuất hiện giai cấp, đồng thời cũng xuất hiện nhà nước và cùng
với nó là quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước là quyền lực của một nhóm chủ
thể nhất định đối với toàn xã hội, với đặc thù sử dụng những biện pháp cưỡng chế
mang tính nhà nước. Quyền lực nhà nước là phạm trù thuộc thượng tầng kiến trúc,
do đó, tính chất của quyền lực nhà nước sẽ do hạ tầng cơ sở là các quan hệ kinh tế
quy định. Bộ phận cấu thành quan trọng nhất tạo nên bản chất của quyền lực nhà
nước là ý chí của giai cấp cầm quyền. Quyền lực nhà nước chỉ tồn tại thông qua bộ
máy nhà nước. Bộ máy này tạo nên sức mạnh của quyền lực nhà nước. Bản thân
nhà nước không phải là quyền lực, mà cùng với pháp luật chỉ là những công cụ
thực hiện quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước là quyền lực chính trị, phục vụ
18


lợi ích của giai cấp thống trị và, do đó, về bản chất, nó là quyền lực thống nhất.
Nguyên tắc phân quyền chỉ tồn tại khi có sự tranh giành quyền lực giữa các thế lực
xã hội khác nhau. Ở nhà nước tư sản, quyền lực nhà nước được tổ chức theo
nguyên tắc "Tam quyền phân lập", nhưng xét về bản chất, thì quyền lực nhà nước
lại thống nhất ở tính giai cấp và tính chính trị. Trên thực tế, phân chia quyền lực
hoàn toàn không tạo thành bức tường giữa các quyền lực, vì về bản chất, quyền lực
nhà nước là thống nhất trong một nhà nước thống nhất. Vì vậy, ngay trong các nhà
nước tư sản, bên cạnh tư tưởng về sự kiềm chế, đối trọng giữa các quyền lực, đã
đòi hỏi sự cần thiết về mối tương hỗ, phối hợp giữa các quyền lực. Đối với những
vấn đề có tính nguyên tắc trong chính sách nhà nước, thì mọi nhánh quyền lực đều
phải hành động thống nhất với nhau, nếu không sẽ dẫn đến tình trạng vô chính phủ
và tan rã. Như vậy, có thể thấy rằng, quan điểm về tổ chức phân chia quyền lực
không có ý nghĩa tuyệt đối, phân chia quyền lực không loại trừ sự thống nhất trong
chính sách nhà nước về những vấn đề có tính nguyên tắc và sự tương hỗ, phối hợp

giữa các nhánh quyền lực.
Việc tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc "Tam quyền phân lập”, tuy
có những mặt tích cực trong việc hạn chế sự lạm quyền, tuỳ tiện sử dụng quyền lực,
nhưng mặt khác, lại tạo ra cơ chế kiềm chế, cản trở việc hình thành các cơ cấu, tổ
chức nhà nước. Vì vậy, trong những trường hợp này, để giải toả tình hình, các
nhánh quyền lực nhà nước, các chính đảng, lực lượng đối lập buộc phải thoả hiệp
với nhau.
Thể chế đa đảng cũng dễ khuyến khích các lực lượng đối lập vì lợi ích cục
bộ chỉ biết phản đối tất cả những gì của đảng cầm quyền, bất chấp phải-trái, đúngsai, không tôn trọng những lợi ích chính đáng của nhân dân. Thực tế đã và đang
diễn ra ở không ít các quốc gia là các đảng tranh giành quyền lực, đấu đá lẫn nhau,
gây ra rối loạn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Thậm chí, sự tranh giành quyền lực giữa các đảng đã đẩy một số nước lâm
vào khủng hoảng chính trị, chẳng những quyền dân chủ của người dân không được
đảm bảo mà tính mạng của họ cũng bị đe dọa.
19


C. KẾT LUẬN
Tóm lại, ở các nước theo chế độ đa nguyên, đa đảng dù có nhiều đảng phái
khác nhau thường xuyên duy trì hoạt động trong một xã hội nhưng đều có một đảng
lớn trong số các đảng đó đứng lên nắm quyền, quản lý xã hội. Các đảng này vừa mang
bản chất giai cấp tư sản, đồng thời vừa đóng vai trò là lực lượng đại diện cho dân tộc
trong quá trình đấu trang giành độc lập dân tộc. Đảng nào lựa chọn cương lĩnh chính
trị đúng đắn phù hợp với điều kiện thực tế trong và ngoài nước và đề ra được những
đường lối, chiến lược, sách lược phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với hoàn cảnh đất
nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội, giữ vững được an ninh chính trị, phát triển
khoa học kỹ thuật tốt và thành công trong việc điều hòa quyền lợi của giai cấp và
quyền lợi dân tộc thì được nhân dân ủng hộ, ngược lại nếu đảng nào đề ra những chủ
trương đường lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội không phù hợp với điều kiện
thực tế, kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội và gây chia rẽ dẫn tới mất đoàn kết trong

xã hội thì sẽ bị nhân dân lật đổ. Sự lựa chọn chế độ đa đảng hay một đảng lãnh đạo cầm quyền phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia. Trước tiên phải đặt lợi
ích của cả dân tộc lên trên hết, phải lấy an ninh quốc gia, ổn định và phát triển bền
vững làm tiền đề, căn cứ để đặt ra mục tiêu yêu cầu khác. Đồng thời trước khi lựa
chọn chế độ nào đều phải được sự đồng tình, ủng hộ của đại đa số nhân dân, thông qua
những người đại diện của mình đó là Quốc hội.

20


MỤC LỤC

21


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Văn Thành: Chính trị của Chủ nghĩa Tư Bản, hiện tại và tương
lai. NXB CTQG,H, 2002.
2. Nguyễn ĐÌnh Tân(2006), thể chế đảng cầm quyền- Một số lí luận và
thực tiễn, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

22



×