Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S Trần Anh Thục Đoan
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT
----------------
LƯƠNG THỊ TRANG
MSSV: 1354060178
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ THEO
THỦ TỤC RÚT GỌN Ở CẤP SƠ THẨM
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ
VẤP
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
NGÀNH LUẬT KINH TẾ
Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2016
SVTH: Lương Thị Trang
Trang 1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT
----------------
LƯƠN
G THỊ TRANG
MSSV: 1354060178
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ THEO
THỦ TỤC RÚT GỌN Ở CẤP SƠ
THẨM TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
QUẬN GÒ VẤP
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
NGÀNH LUẬT KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
ThS. TRẦN ANH THỤC ĐOAN
Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2016
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S Trần Anh Thục Đoan
LỜI CẢM ƠN
Để bài báo cáo này đạt kết quả tốt đẹp, tôi đã nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ của
nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân. Với tình cảm sâu sắc, chân thành, cho phép tôi
được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến tất cả các cá nhân và cơ quan đã tạo điều kiện
giúp đỡ trong quá trình học tập và nghiên cứu đề tài. Trước hết tôi xin gởi tới các
thầy cô khoa Luật Trường Đại học Mở TP.HCM lời chào trân trọng, lời chúc sức
khỏe và lời cảm ơn sâu sắc. Với sự quan tâm, dạy dỗ, chỉ bảo tận tình chu đáo của
thầy cô, đến nay tôi đã có thể hoàn thành bài báo cáo thực tập, đề tài:“Giair quyết vụ
án dân sự theo thủ tục rút gọn ở cấp sơ thẩm tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp” .
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới giảng viên hướng dẫ – Th.S. Trần
Anh Thục Đoan đã quan tâm giúp đỡ, hướng dẫn tôi hoàn thành tốt báo cáo này
trong thời gian qua. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến lãnh đạo Trường Đại học Mở
TP.HCM, các Khoa Phòng ban chức năng đã trực tiếp và gián tiếp giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài. Không thể không nhắc tới sự chỉ đạo của
các cán bộ tại TAND quận Gò, đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt thời
gian thực tập tại TAND quận Gò Vấp. Với điều kiện thời gian cũng như kinh
nghiệm còn hạn chế của một sinh viên, báo cáo này không thể tránh được những
thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cô để tôi
có điều kiện bổ sung, nâng cao ý thức của mình,phục vụ tốt hơn công tác thực tế sau
này.
Xin chân thành cảm ơn!
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 08 tháng 01năm 2017
Sinh viên
Lương Thị Trang
SVTH: Lương Thị Trang
Trang 3
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
........................................................................................................................................
......................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
..........
...........................................................................
Giảng viên hướng dẫn
Trần Anh Thục Đoan
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S Trần Anh Thục Đoan
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. TAND
: Tòa Án Nhân Dân
2. TTRG
: Thủ tục rút gọn
3. TTTT
: Thủ tục thông thường
4. TTDS
: Tố tụng dân sự
5. BLTTDS 2015
: Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự 2015
SVTH: Lương Thị Trang
Trang 5
MỤC LỤC
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
SVTH: Lương Thị Trang
GVHD: Th.S Trần Anh Thục Đoan
Trang 7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S Trần Anh Thục Đoan
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.
Tên đề tài.
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ THEO THỦ TỤC RÚT GỌN Ở CẤP
SƠ THẨM TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP
2.
Lý do chọn đề tài.
Trong điều kiện kinh tế và xã hội luôn phát triển không ngừng, kéo theo là
những mâu thuẫn tranh chấp về dân sự tăng theo là một hệ quả tất yếu.
Theo thống kê, từ năm 2005 đến 2016, các vụ án dân sự tòa án nhân dân
các cấp thụ lý tăng mạnh từ 223.228 vụ lên tới gần 400.000 vụ, tăng
khoảng 56,4%. Số lượng các vụ án TAND cấp sơ thẩm thụ lý và giải
quyết cũng rất lớn, thường chiếm trên 90% số lượng án giải quyết của
toàn hệ thống Tòa án và lượng án tồn đọng của Tòa án các cấp cũng
không nhỏ. Trong khi đó hầu hết các tranh chấp dân sự ở Việt Nam đều
phải giải quyết bằng con đường tòa án, con đường này xuất hiện nhiều vấn
đề bất cập làm chậm quá trình giải quyết vụ việc , theo quy định của bộ
luật tố tụng dân sự 2005 thì thủ tục tố tụng thông thường được tòa án áp
dụng để giải quyết các tranh chấp dân sự kéo dài từ 2 tháng đến 6 tháng và
chỉ có một thủ tục tố tụng dân sự chung cho việc giải quyết tất cả các loại
tranh chấp dân sự. Thực tiễn xét xử các tranh chấp dân sự, hôn nhân
và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động tại tòa án các cấp cho thấy,
có nhiều loại tranh chấp đơn giản, giá trị tài sản tranh chấp thấp, nội dung
tranh chấp cụ thể và chứng cứ rõ ràng… nhưng các tòa án vẫn phải tiến
hành đầy đủ các thủ tục theo quy định chung của bộ luật tố tụng dân sự để
giải quyết, dẫn tới thời gian giải quyết kéo dài, tốn kém tiền bạc của nhà
nước và của đương sự.Có nhiều ý kiến cho rằng những quy định này đang
dần không còn phù hợp với thực tiễn.
Dựa trên những bất cập đó, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã bổ sung
quy định giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn tại phần thứ tư, từ
Điều 316 đến 324 của bộ luật trên cơ sở đơn giản hóa các thủ tục tố tụng
thông thường nhằm giải quyết vụ án nhanh chóng, hiệu quả nhưng vẫn
SVTH: Lương Thị Trang
Trang 8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S Trần Anh Thục Đoan
bảo đảm đúng pháp luật đối với một số loại vụ việc cụ thể. Đây có thể coi
là một bước phát triển đột phá trong hệ thống pháp luật việt Nam, hướng
đến sự cắt giảm các thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp trong quá trình
giải quyết vụ án.Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm vượt trội thì thủ tục
này vẫn còn những bất cập giữa lý thuyết và thực tiễn, gây khó khăn cho
việc giải quyết những vụ án theo thủ tục này. Do đó để tìm hiểu kỹ càng
và có cái nhìn bao quát hơn,em xin chọn đề tài “giải quyết vụ án dân sự
theo thủ tục rút gọn ở cấp sơ thẩm tại TAND Gò Vấp” làm đề tài nghiên
cứu cho báo cáo thực tập của mình.
3. Mục tiêu nghiên cứu.
- Nghiên cứu, tìm hiểu và đánh giá những quy định của pháp luật trong việc
-
áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án dân sự ở cấp sơ thẩm.
Phân tích thực trạng áp dụng thủ tục rút gọn trong quy trình tố tụng tại
TAND quận Gò Vấp. Dựa vào cơ sở quy phạm pháp luật và thực tiễn tại
tòa án Gò Vấp đánh giá các quy định pháp luật về thủ tục rút gọn khi áp
dụng có khả thi?
Cán bộ tại TAND quận Gò Vấp đã có đưa ra những biện pháp nào để khắc
phục những bấp cấp của quy định pháp luật về thủ tục rút gọn đối với tình
hình thực tế tại tòa án Gò Vấp. Những giải pháp đó có đảm bảo tính hợp
pháp, quyền và nghĩa vụ hợp pháp của người dân.
4.
Phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu trong phạm vi các văn bản pháp luật: BLTTDS 2015 và các
văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành.
Nội dung: Thực trạng áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án dân sự ở
cấp sơ thẩm tại tòa án nhân quận Gò Vấp
Thời gian: 7/2016 – 12/2016
5. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu thực tế: khảo sát thực tế, thu thập thông tin liên
quan trong quá trình tiếp cận hồ sơ vụ án, tham gia vào các thủ tục tại tòa.
-
Từ đó đưa ra các số liệu cần thiết cho bài báo cáo.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: nghiên cứu, tìm hiểu qua các nguồn văn
bản quy phạm pháp luật, giáo trình, tạp chí khoa học pháp lý,và các nguồn
thông tin có tổng hợp chọn lọc trên internet liên quan đến thủ tục rút gọn
trong tố tụng dân sự.
SVTH: Lương Thị Trang
Trang 9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
6.
GVHD: Th.S Trần Anh Thục Đoan
Bố cục báo cáo.
-
Mở đầu
Tên đề tài
Lý do chọn đề tài
Mục tiêu nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Bố cục báo cáo
PHẦN 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỦ TỤC RÚT GỌN
TRONG TTDS.
2.1 Lịch sử “ tố tụng dân sự rút gọn” ở Việt Nam và sự ra đời
của thủ tục rút gọn trong Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS)
2015
2.1.1 Lịch sử “ Tố tụng rút gọn” ở Việt Nam.
2.1.2 Thủ tục rút gọn trong BLTTDS 2015.
-
Lý do thúc đẩy sự đời của thủ tục rút gọn(TTRG) trong BLTTDS 2015
Các giai đoạn tố tụng theo TTRG trong BLTTDS 2015
2.2 Điều kiện áp dụng TTRG
2.2.1 Tòa án giải quyết vụ án theo TTRG khi có đủ các điều kiện theo khoản 1
điều 317 BLTTDS 2015.
2.2.2 Trường hợp ngoại lệ theo khoản 2 điều 317 BLTTDS 2015
2.3 Chuyển vụ án được giải quyết theo TTRG sang thủ tục
thông thường (TTTT)
2.3.1 Xuất hiện tình tiết mới làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết
theo TTRG thì tòa án phải ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo
TTTT.
SVTH: Lương Thị Trang
Trang 10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S Trần Anh Thục Đoan
2.3.2 Các trường hợp có các yếu tố mới xuất hiện nhưng không làm chuyển thủ
thục giải quyết vụ án.
PHẦN 3 THỰC TRẠNG KHI ÁP DỤNG THỰC TẾ TẠI
TAND QUẬN GÒ VẤP.
3.1. Tình hình áp dụng Thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án dân
sự tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp
3.2 Những vướng mắc trong quy định pháp luật, dẫn đến khó
khăn khi áp dụng thủ tục rút gọn vào thực tế.
3.2.1 Vướng mắc trong việc thụ lý vụ án theo thủ tục rút gọn
3.2.2 Những vướng mắc trong giai đoạn chuẩn bị xét xử của thủ tục rút gọn.
3.2.3 Vướng mắc trong giai đoạn quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút
gọn.
3.2.4 Những vướng mắc khác.
PHẦN 4 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM KHẮC PHỤC KHÓ
KHĂN KHI ÁP DỤNG TTRG TẠI TAND QUẬN GÒ VẤP.
4.1 Những kiến nghị chung đối với những quy định về Thủ tục
rút gọn trong BLTTDS 2015.
4.2 Những kiến nghị về việc áp dụng Thủ tục rút gọn để giải
quyết vụ án dân sự ở cấp sơ thẩm tại TAND quận Gò Vấp
PHẦN 5 KẾT LUẬN.
PHẦN 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỦ TỤC RÚT GỌN
TRONG TTDS.
SVTH: Lương Thị Trang
Trang 11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S Trần Anh Thục Đoan
2.1 Lịch sử “ tố tụng dân sự rút gọn” ở Việt Nam và sự ra đời
của thủ tục rút gọn trong Bộ luật tố tụng dân sự 2015
2.1.1 Lịch sử “ Tố tụng rút gọn” ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn từng được quy định từ năm
1946. Tuy nhiên, thời đó hình thức tố tụng rút gọn này hạn chế ở chỗ chỉ có một
hình thức duy nhất là xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm và chỉ được áp
dụng đối với tranh chấp dân sự có giá ngạch thấp. Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
trước đây nằm rải rác trong một số văn bản như: Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946
về tổ chức tòa án và quy định các ngạch thẩm phán có quy định chánh án xử một
mình, sắc lệch số 51 ngày 17/4/1946 về thẩm quyền tòa án sơ cấp về dân sự,
thương mại và điều 112 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 có quy định có
thể xét xử một thẩm phán, không có hộ thẩm nhân dân trong vụ án nhỏ, đơn giản.
Nghị định số 32 ngày 06/4/1952 của Bộ Tư pháp, Thông tư số 4013 ngày
09/5/1959 của Bộ Tư pháp và Thông tư liên bộ thẩm phán - Tòa án nhân dân tối
cao số 93 ngày 11/11/1959 có quy định tòa án huyện có quyền chung thẩm trong
một số lĩnh vực. gày 02 tháng 06 năm 2005 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số
49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 trong đó có nội dung:
“ xây đựng cơ chế theo thủ tục rút gọn đối với một số điều kiện nhât định”
Vấn đề trên không được xây dựng trong luật chung là luật tố tụng mà được quy
định ở luật chuyên nghành. Khoản 2 Điều 41 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng năm 2010 quy định , vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
được giải quyết theo thủ tục đơn giản quy định trong pháp luật tố tụng dân sự khi
có đủ các điều kiện sau đây:
“ a) Cá nhân là người tiêu dùng khởi kiện; tổ chức, cá nhân trực tiếp cung cấp
hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng bị khởi kiện;
b) Vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng;
c) Giá trị giao dịch dưới 100 triệu đồng”
Tuy nhiên Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004, được sửa đổi, bổ sung năm 2011
vẫn chưa “cho phép” Tòa án được xét xử theo thủ tục đặc biệt này.
SVTH: Lương Thị Trang
Trang 12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S Trần Anh Thục Đoan
Có thể nói các văn bản trên tuy chưa được quy định chặt chẽ để áp dụng phổ
biến trong các giai đoạn tố tụng tại thời điểm còn hiệu lực, nhưng điều này đã
cho thấy các nhà làm luật Việt Nam tại thời điểm đó đã ý thức được việc phát
triển các quy định pháp luật để lược bớt các giai đoạn không cần thiết đấy
nhanh, quá trình giải quyết các vụ án đơn giản
2.1.2 Thủ tục rút gọn trong BLTTDS 2015.
-
Lý do thúc đẩy sự đời của thủ tục rút gọn(TTRG) trong BLTTDS 2015
Như những số liệu đã đưa ra ở mục lý do chọn đề tài, đã cho thấy rằng công
tác giải quyết vụ án dân sự của cán bộ tòa án gặp nhiều khó khắn nhất là ở trình
tự, thủ tục và các thời hạn trong BLTTDS 2005 còn rườm rà. Có những vụ việc
đơn giản, rõ ràng nhưng lại bị kéo dài không cần thiết.
Ví dụ như vụ án Phạm Văn Quang kiện Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại
thương Việt Nam (VCB) ra Tòa án nhân dân quận 1, thành phố Hồ Chí Minh yêu
cầu bị đơn trả lại số tiền rất nhỏ là 5.500 đồng phí ATM. Theo nội dung vụ kiện
thì ngày 03/4/2013, nguyên đơn đến trụ ATM của VCB đặt ở Quang Trung (Gò
Vấp) để rút 15 triệu đồng. Những lần trước nguyên đơn chỉ cần giao dịch ba lần
(mỗi lần rút được 05 triệu đồng) và chỉ mất phí rút tiền là 3.300 đồng. Tuy nhiên,
thời điểm này trụ ATM chỉ còn tiền mệnh giá 50.000 đồng nên nguyên đơn phải
rút đến tám lần, mỗi lần rút 1.750.000 đồng và phải chịu phí rút tiền là 8.800
đồng. Như vậy, so với mọi lần, nguyên đơn phải mất thêm 5.500 đồng. Vì cho
rằng đây là hành vi lừa dối khách hàng để thu lợi thêm nên nguyên đơn làm đơn
khởi kiện. Sau gần một năm thụ lý, ngày 23/01/2014 Tòa án nhân dân quận 1,
thành phố Hồ Chí Minh đã đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm bác yêu cầu của nguyên
đơn đòi bị đơn trả lại 5.500 đồng phí ATM. Chính vì thủ tục rút gọn chưa được
áp dụng nên những vụ án đơn giản, giá trị tranh chấp chỉ 5.500 đồng mà gần một
năm sau vụ việc mới được giải quyết, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của nguyên
đơn cũng như uy tín của ngân hàng.
Ví dụ trên cho thấy việc cho ra đời TTRG trong BLTTDS 2015 là hoàn toàn cần
thiết phù hợp với sự phát triển của xã hội.
- Các giai đoạn tố tụng theo TTRG trong BLTTDS 2015
SVTH: Lương Thị Trang
Trang 13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S Trần Anh Thục Đoan
Trong khoa học luật tố tụng nói chung và khoa học luật tố tụng dân sự nói
riêng, các thủ tục tố tụng được chia thành hai loại là thủ tục tố tụng thông thường
và thủ tục tố tụng đặc biệt. Đương nhiên, thủ tục rút gọn là một dạng của tố tụng
đặc biệt. Thủ tục này được áp dụng để giải quyết vụ án dân sự có đủ các điều
kiện quy định với trình tự đơn giản, rút ngắn thời gian so với thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự thông thường nhưng vẫn bảo đảm quyền lợi của những người
tham gia tố tụng và đúng pháp luật.
Theo khoản 1 Điều 316 BLTTDS2015 “ Thủ tục rút gọn là thủ tục tố tụng được
áp dụng để giải quyết vụ án dân sự có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật
này với trình tự đơn giản so với thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thông thường
nhằm giải quyết vụ án nhanh chóng nhưng vẫn bảo đảm đúng pháp luật.”
Quyết định đưa vụ án ra sử theo thủ tục rút gọn đối với các vụ án đã đủ điều kiện
được quy định tại điều 318 BLTTDS 2015. Kèm theo các điều kiện nhằm giải
quyết vụ án nhanh chóng thì việc quy định thời hạn ngắn nhất để giải quyết vụ án
là điều không thể thiếu, do đó, trong thời gian 01 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án
sơ thẩm, thẩm phán phải ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử. Và ở giai đoạn
chuẩn bị xét xử phúc thẩm thì thời hạn này cũng chỉ 01 tháng. Như vậy, thời hạn
chuẩn bị xét xử ở cả giai đoạn sơ thẩm và phúc thẩm chỉ là 02 tháng, giảm 04
tháng so với thủ tục thông thường (chưa kể thời gian gia hạn thời hạn chuẩn bị
xét xử đối với thủ tục thông thường).Các khiều nại, kiến nghị và giải quyết khiếu
nại, kiến nghị về quyết định đưa vụ án ra xét xử được quy định tại điều 319
BLTTDS 2015.
Bên cạnh đó, số lượng thành viên của Hội đồng xét xử theo thủ tục này cũng đã
được giảm xuống, còn một thẩm phán và không có sự tham gia của các hội thẩm
nhân dân, quy định tại Điều 65 “Việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án dân sự
theo thủ tục rút gọn do một Thẩm phán tiến hành.” Điều 320 BLTTDS 2015
quy định về phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn tại điều luật này ta thấy điểm
khác biệt nhất của TTRG so với TTTT là tiến hành hòa giải tại phiên xét xử quy
định tại khoản 3 điều này “ Sau khi khai mạc phiên tòa, Thẩm phán tiến hành
hòa giải, trừ trường hợp không được hòa giải theo quy định tại Điều 206 hoặc
SVTH: Lương Thị Trang
Trang 14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S Trần Anh Thục Đoan
không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 của Bộ luật này.
Trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết
trong vụ án thì Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự theo quy định tại Điều 212 của Bộ luật này. Trường hợp các đương sự
không thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Thẩm
phán tiến hành xét xử.
Việc trình bày, tranh luận, đối đáp, đề xuất quan điểm về việc giải quyết vụ án
được thực hiện theo quy định tại Mục 3 Chương XIV của Bộ luật này”, theo đó
thẩm phán không tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải riêng mà Thẩm phán tiến hành hòa giải, ngay sau khai mạc
phiên tòa, về các tài liệu, chứng cứ ngay tại phần điều kiện để áp dụng Thủ tục
rút gọn đã nêu rõ là có tài liệu chứng cứ đầy đủ, đảm bảo đầy đủ căn cứ để đưa
vụ án ra giải quyết và Tòa án không phải tiến hành thu thập chứng cứ, có nghĩa là
trước khi đưa vụ án ra xét xử các bên đương sự đã được biết hết tài liệu,và trong
quá trình thụ lý không xuất hiện thêm chứng cứ mới nên không cần phải qua giai
đoạn công chứng cứ như trong Thủ tục thông thường. Tại phiên tòa xét xử nếu
các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về toàn bộ các vấn đề phải giải quyết
trong vụ án thì thẩm phán kết thúc phiên hòa giải, sau 07 ngyaf kể từ ngày phiên
tòa kết thúc, thẩm phán ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên đương
sự, còn nếu không thỏa thuận đươc với nhau hì thẩm phán tiến hành xét thử theo
thủ tục chung. Việc này trước hết đối với các bên đương sự, việc xét xử theo thủ
tục rút gọn sẽ tiết kiệm thời gian, chi phí, công sức cũng như giảm bớt những
thiệt hại, phiền phức.
Áp dụng thủ tục rút gọn sẽ giảm thời gian giải quyết vụ án nhưng vẫn đảm bảo
việc giải quyết vụ án khách quan, đúng pháp luật, đảm bảo quyền lợi của các
bên, giảm công việc của Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký, đồng thời nâng cao hiệu
quả hoạt động của Tòa án. Với việc giải quyết nhanh chóng các tranh chấp; khiếu
kiện, thủ tục rút gọn góp phần làm giảm đáng kể số lượng án ngày càng gia tăng
trong giai đoạn hiện nay và xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, hiện
đại.
SVTH: Lương Thị Trang
Trang 15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S Trần Anh Thục Đoan
2.2 Điều kiện áp dụng TTRG
2.2.1 Tòa án giải quyết vụ án theo TTRG khi có đủ các điều kiện theo khoản 1
điều 317 BLTTDS 2015.
Với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì thủ tục rút gọn được áp
dụng không phân biệt giá trị tranh chấp. Đây là một điều hết sức hợp lý bởi giá
trị tranh chấp mặc dù lớn hay nhỏ nhưng tính chất đơn giản, đương sự thừa nhận
sự việc thì vẫn xét xử theo thủ tục rút gọn, không nên kéo dài việc giải quyết vụ
án. Quy định tại khoản 1 Điều 37 BLTTDS 2015.
“ Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa
nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án
và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ;
b) Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng;
c) Không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài, trừ
trường hợp đương sự ở nước ngoài và đương sự ở Việt Nam có thỏa thuận đề
nghị Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn hoặc các đương sự đã xuất trình
được chứng cứ về quyền sở hữu hợp pháp tài sản và có thỏa thuận thống nhất về
việc xử lý tài sản”
Vậy quy định “có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng” có nghĩa là các
tình tiết đơn giản, dễ dàng để Tòa án xác định được sự thật khách quan và cũng
rất thuận lợi việc kiểm tra tính hợp pháp của yêu cầu khởi kiện của đương sự,
chẳng hạn như giữa nguyên đơn và bị đơn có giao dịch hợp đồng mua bán hàng
hóa trong hợp đồng có các điều khoản nêu rõ quyền và nghĩa vụ của các bên, mỗi
lần giao dịch đều có hóa đơn chứng từ rõ ràng do vậy bị đơn thể chối cãi trách
nhiệm đới, với việc thanh toán các khoản tiền trong các lần giao dịch theo hợp
đồng và phần lãi quá hạn. Quan hệ pháp luật không phức tạp, nghĩa là tính chất
vụ án đơn giản về mặt pháp lý, chứng cứ rõ ràng. Điều này giúp cho thẩm phán
dễ dàng đưa ra quyết định xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn
SVTH: Lương Thị Trang
Trang 16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S Trần Anh Thục Đoan
Về quy định “đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ” Đương sự - theo quy định của
BLTTDS được hiểu bao gồm cả nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan. Với các tranh chấp mà đương sự thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ,
nghĩa là một trong các bên hoặc nhiều bên trong quan hệ tranh chấp đều thừa
nhận nghĩa vụ của mình đối với bên có quyền mà giữa họ không đưa ra bất kỳ
yêu cầu phản đối nào so với yêu cầu khởi kiện và sự thừa nhận thực hiện nghĩa
vụ đó không trái với đạo đức xã hội cũng như không vi phạm điều cấm của pháp
luật, do vậy, Tòa án coi đó là trường hợp đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ. Tuy
nhiên, nếu như bị đơn chỉ đồng ý trả khoản tiền là nợ gốc, đồng thời, phản đối
yêu cầu thanh toán lãi quá hạn vì cho rằng nguyên đơn đã tính lãi quá cao trường
hợp này vẫn áp dụng được TTRG, vì bị đơn thừa nhận nghĩa vụ, nghĩa vụ ở đây
là trả phần nợ gốc và khoản tiền lãi cho nguyên đơn. Bị đơn chỉ phản đối việc
nguyên đơn tính lãi suất quá cao chứ không phải là việc bị đơn phủ nhận nghĩa
vụ trả nợ của mình đối với nguyên đơn. Như vậy, vấn đề còn lại của tranh chấp
này, đó là xác định lãi suất cho phù hợp theo quy định của pháp luật mà thôi.
Như vậy tùy từng tình tiết của vụ việc mà thẩm phán quyết đỉnh có áp dụng
TTRG để giải quyết vụ án trong những trường hợp tương tự sao cho phù hợp với
quy định pháp luật.
2.2.2 Trường hợp ngoại lệ theo khoản 2 điều 317 BLTTDS
2015
Theo khoản 2 Điều 317 “Đối với vụ án lao động đã được thụ lý, giải quyết
theo thủ tục rút gọn mà người sử dụng lao động có quốc tịch nước ngoài hoặc
người đại diện theo pháp luật của họ đã rời khỏi địa chỉ nơi cư trú, nơi có trụ sở
mà không thông báo cho đương sự khác, Tòa án thì bị coi là trường hợp cố tình
giấu địa chỉ. Tòa án vẫn giải quyết vụ án đó theo thủ tục rút gọn quy định tại
Phần này.”
Đây có thể coi là một trường hợp đặc biệt trong áp dụng TTRG, vì rõ ràng là nó
không có đủ điều kiện để áp dụng Thủ tục rút gọn quy định tại điểm c khoản 1
SVTH: Lương Thị Trang
Trang 17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S Trần Anh Thục Đoan
điều 317 BLTTDS 2015 về nơi cư trú của các đương sự. Nhưng vì tính chất của
vụ án là Lao Động nếu áp dụng TTTT để giải quyết thì sẽ có thời gian tố tụng
khá dài làm ảnh hưởng đến sự ổn định trong công việc và đời sống, sinh hoạt của
người lao động. Vì vậy dựa vào trường hợp cố tình giấu địa chỉ để hợp thức điều
kiện áp dụng thủ tục rút gọn, đây được xem là tình tiết linh hoạt trong quá trình
thụ lý vụ án.
2.3 Chuyển vụ án được giải quyết theo TTRG sang thủ tục
thông thường .
Xuất hiện tình tiết mới làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết theo
TTRG thì tòa án phải ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo TTTT.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 317 và khoản 4 Điều 320 BLTTDS 2015,
quy định trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc tại phiên tòa xét xử theo TTRG,
nếu xuất hiện tình tiết mới làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết
theo TTRG thì Tòa án phải ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo
TTTT, cụ thể là: phát sinh tình tiết mới mà các đương sự không thống nhất do đó
cần phải xác minh, thu thập thêm tài liệu, chứng cứ hoặc cần phải tiến hành giám
định; cần phải định giá, thẩm định giá tài sản tranh chấp mà các đương sự không
thống nhất về giá; cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; phát sinh người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; phát sinh yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập;
phát sinh đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài, yêu cầu
xác minh, thu thập chứng cứ ở nước ngoài mà cần phải thực hiện ủy thác tư
pháp.
Vì sao lại quy định như vậy? Theo các nhà lập pháp thì khi xuất hiện các tình tiết
mới như trên trừ trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 điều 317 BLTTDS
2015, các tình tiết mới này có thể làm biến đổi bản chất vụ án, làm cho vụ án
không còn đủ điều kiện để áp dụng Thủ tục rút gọn như “tình tiết đơn giản,
chứng cứ rõ ràng” .Như vậy thì cần phải thực công tác điều tra làm rõ chứng cứ,
tình tiết mới có thể đưa vụ án ra xét xử, mà giai đoạn xác minh chứng cứ và tình
tiết tốn rất nhiều thời gian trong khi đó thời gian ra quyết định đưa vụ án ra xét
xử theo khoản 1 điều 318 BLTTDS 2015 là 01 tháng kể ngày thụ lý vụ án, với
SVTH: Lương Thị Trang
Trang 18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S Trần Anh Thục Đoan
thời gian ngắn và gấp rút như vậy không đảm bảo cho quá trình điểu tra của tòa
án, thẩm phán hay các bên đương sự ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên. Ví dụ như vụ án về giải quyết đòi bồi thường thiệt hại khi
bị công trình xây dựng lấn chiếm đất và gây thiệt hại tài sản, khi có thông báo
thụ lý nguyên đơn đã cung cấp chứng cứ, bị đơn đã thừa nhận hành vi xây đựng
công trình lấn chiếm và đồng ý bồi thường thiệt hại do mình gây ra, xét thấy vụ
án có đủ điều kiện để áp dụng Thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án theo điểu 317
BLTTDS 2015 Thẩm phán được phân công đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử
theo thủ tục rút gọn nhưng trong giai đoạn xét xử bên bị đơn cho rằng số tiền bồi
thường mà nguyên đơn yêu cầu quá cao so với mức độ thiệt hại và yêu cầu của
nguyên đơn là vô lý nên yêu cầu Thẩm phẩn phán ra quyết định tiến hành thẩm
định lại mức độ thiệt hại tài sản vậy đã xuất hiện tình tiết thuộc khoản 3 điều 317
BLTTDS 2015 nên vụ án phải chuyển sang giải quyết theo thủ tục thông thường.
Việc thẩm định mức độ thiệt hại trên thực tế mất rất nhiều thời gian như vậy nếu
không chuyển sang giải quyết theo thủ tục thông thường thì sẽ không thể giải
quyết vụ án trong thời hạn 01 tháng như quy định trong Thủ tục rút gọn.
.
PHẦN 3 THỰC TRẠNG KHI ÁP DỤNG THỰC TẾ TẠI
TAND QUẬN GÒ VẤP.
3.1. Tình hình áp dụng Thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án dân
sự tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp
Bảng 1. thống kê số liệu hoạt động của TAND quận Gò Vấp 1/07/2016 đến
20/12/2016
Loại vụ
việc
Tranh chấp
dân sự
Hôn nhân
gia đình
Thủ tục giải
quyết
TTR
TTTT
G
Đơn yêu
cầu
Thụ lý
Đình chỉ/
Tạm đình
chỉ
411
300
138
120
119
1
760
500
294
145
145
0
SVTH: Lương Thị Trang
Xét xử
Trang 19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Kinh doanh
thương mại
133
90
Lao động
120
86
GVHD: Th.S Trần Anh Thục Đoan
50
20
19
1
23
40
40
0
Nguồn: sổ thụ lý tại TAND quận Gò Vấp
Trên bảng 1 là số liệu thực tế tại TAND quận Gò Vấp trong thời gian từ khi
BLTTDS 2015 có hiệu lực là ngày 01/07/2016 đến ngày 20/12/2016. Như vậy
tính cho đến thời điểm hiện tại thì BTTDS 2015 cùng với những quy định về thủ
tục rút gọn đã có hiệu lực thi hành hơn năm tháng và tại TAND quận Gò Vấp đã
cập nhập những quy định mới để áp dụng vào việc giải quyết vụ án trong thực tế
đối với những vụ việc đáp ứng đủ điều kiện theo những quy định pháp luật. Cụ
thể là đã có hai vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn, đảm bảo đúng trình
tự pháp luật, tính minh bạch, công bằng đem lại những lợi ích nhất định cho các
đương sự bởi vì đã được lược bỏ những thủ tục rườm rà làm cho quá trình giải
quyết vụ án đơn giản, tiết kiệm được rất nhiều thời gian và cả chi phí cho cả
đương sự và cán bộ tòa án.
Tuy vậy tại TAND quận Gò Vấp số lượng vụ án được giải quyết theo thủ tục rút
gọn vẫn chiếm một tỷ lệ quá thấp so với thủ tục thông thường. Điều này cho thấy
việc những quy định của thủ tục rút gọn vẫn chưa được áp dụng triệt để tại Tòa
án quận Gò Vấp.
3.2 Những vướng mắc trong quy định pháp luật, dẫn đến khó
khăn khi áp dụng thủ tục rút gọn vào thực tế.
3.2.1 Vướng mắc trong việc ra quyết định thụ lý vụ án theo thủ tục rút gọn.
Bên cạnh những điểm tích tực mà việc áp dụng thủ tục rút gọn mang lại thì
trên thực tế tại TAND quận Gò Vấp trong quá trình giải quyết vụ án bằng Thủ
tục rút gọn lại gặp phải nhiều khó khăn đến từ nhiều hướng khác nhau.
Vướng mắc thứ nhất đó là theo quy định tại điểm b khoản 3 điều 191
BLTTDS 2015 Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày được phân công, thẩm
phán phải xem xét đơn khởi kiện để ra quyết định thụ lý vụ án theo thủ tục thông
SVTH: Lương Thị Trang
Trang 20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S Trần Anh Thục Đoan
thường hoặc là theo thủ tục rút gọn. Điều này có nghĩa thẩm phán được giao giải
quyết vụ án chỉ có thời gian là 5 ngày để xem xét hồ sơ khởi kiện, xác định vụ án
này có đáp ứng đủ các điều kiện, yêu cầu để thụ lý theo thủ tục rút gọn hay
không?. Điều này gây khó khăn rất lớn cho các thẩm phán vì thời gian để xem
xét ra quyết định thụ lý theo thủ tục nào là quá ngắn khiến cho các thẩm phán
không nghiên cứu kỹ hồ sơ nên sợ rằng nếu ra quyết định thụ lý theo thủ tục rút
gọn, sẽ sảy ra sai sót. Cũng ngay tại giai đoạn ra quyết định thụ lý vụ án theo thủ
tục nào của BTTTDS 2015,không có quy định nào về việc cho phép các bên
đương sự được quyền yêu cầu, khiếu nại về quyết định áp dụng thủ tục nào để
giải quyết vụ án, vì hơn ai hết đương sự là người hiểu rõ nhất nội dung tranh
chấp, các chứng cứ hay sự thừa nhận nghĩa vụ của các bên nguyên đơn và bị
đơn có đáp ứng được những điều kiện để áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết vụ
án. Các yêu cầu hay đề nghị của đương sự ở giai đoạn này sẽ là cơ sở để thẩm
phán căn cứ vào đó mà xem xét hồ sơ vụ án rồi đi đến quyết định sẽ thụ lý vụ án
theo thủ tục rút gọn hay thủ tục thông thường. Đương sự ở giai đoạn này khi
nhận được quyết định áp dụng thủ tục thụ lý nào đối với vụ án của mình, nếu như
nhận thấy quyết định thụ lý của thẩm phán chưa phù hợp với trường hợp của
mình thì cũng có thể khiếu nại để tòa án xem xét lại quyết định trên tránh trường
hợp sau khi vụ án được thụ lý bước vào giai đoạn chuẩn bị xét xử mới phát hiện
ra sai sót, như vậy sẽ làm mất thời gian của các bên. Một vụ việc trong thực tế đã
cho thấy những quy định của pháp luật về việc quyết định thụ lý vụ án theo thủ
tục nào, còn chưa được hoàn thiện gây khó khăn cho việc áp dụng vào thực tế.
Đó là ví dụ 1, tranh chấp về hợp đồng giữa nguyên đơn là Ngân hàng Á Châu và
bị đơn là Công ty TNHH 1 thành viên Hùng Vương khi nguyên nộp đơn khởi
kiện yêu cầu bị đơn trả nợ và lãi xuất quá hạn thì có nộp kèm chứng cứ là các
hợp đồng, hóa đơn, chứng từ của mỗi lần giao dịch giữa hai bên làm cho hồ sơ
rất dày.Thẩm phán được phân công giải quyết thấy hồ sơ nhiều và không có thời
gian để nghiên cứu nên đã ra quyết định giải quyết định giải quyết vụ án theo thủ
tục thông thường, nhưng sau khi đi vào giải quyết nghiên cứu hồ sơ thẩm phán
mới phát hiện ra rằng tuy vụ án có số lượng chứng cứ nhiều nhưng các yêu cầu
hai bên rất rõ ràng và bên bị đơn cũng thừa nhận rằng có vay vốn tại ngân hàng
SVTH: Lương Thị Trang
Trang 21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S Trần Anh Thục Đoan
Á Châu và chậm thanh toán dẫn đến số nợ quá hạn như trong hợp đồng và phần
tranh chấp của hai bên là thời gian trả nợ và tài sản thế chấp. Nhìn vào trường
hợp này ta thấy rõ được vướng mắc đã nêu ở trên đó là vì không có đủ thời gian
nghiên cứ hồ sơ nên thẩm phán đã dựa vào số lượng các chứng cứ mà nguyên
đơn nộp kèm hồ sơ nên kết luận một cách máy móc rằng vụ việc này không đáp
ứng đủ các điều kiện để áp dụng thủ tục rút gọn và đã đưa ra thông báo thụ lý
theo thủ tục thông thường làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên đương sự.
Ta cũng nhận ra được rằng nếu như ngay trong giai đoạn ra quyết định thụ lý vụ
án theo thủ tục nào, này mà đương sự là Ngân hàng Á Châu được quyền khiếu
nại về quyết định của thẩm phán , thì sẽ được xét lại hồ sơ và đưa ra thông báo
đến đương sự giữ nguyên thủ tục lý theo quyết định ban đầu hay thay đổi thụ lý
vụ án nếu làm như vậy sẽ khắc phục được những sai sót ngay từ bước đầu tránh
được các thủ tục pháp sinh về sau, tiết kiệm được thời gian, chi phí cho cả đương
sự và cán bộ tòa án.
3.2.2 Những vướng mắc trong giai đoạn chuẩn bị xét xử của
thủ tục rút gọn.
- Khó khăn về mặt thời gian:
Theo quy định tại điều 318 BLTTDS 2015 2015 thì sau 01 tháng kể từ ngày
thụ lý vụ án theo thủ tục rút gọn, phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo Thủ
tục rút gọn và mở phiên tòa xét xử trong thời hạn 10 ngày có nghĩa là thời gian
chuẩn bị xét xử theo thủ tục này là rất ngắn,không phù hợp với tình hình thực tế
hiện nay vì hiện nay các thẩm phán cần một khoảng thời gian dài hơn để giải
quyết vụ án bởi các lý do sau:
Dựa trên tình hình thực tế qua sát tại TAND quận Gò Vấp thấy được bởi vì
những hạn chế về nguồn nhân lực. Hiện nay, TAND quận Gò Vấp mỗi ngày đều
nhận khoảng 30 yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự và số lượng này ngày càng
tăng, tạo nên một khối lượng công việc cực kỳ lớn. Tính trung bình mỗi thẩm
phán mỗi tháng đều nhận giải quyết từ 18 đến 20 hồ sơ trải đều từ kinh doanh
thương mại, tranh chấp đất đai, chia thừa kế, hôn nhân gia đình… những vụ này
có cả đơn giản và phức tạp, trong khi đó mỗi thẩm phán đều chỉ được sắp xếp
SVTH: Lương Thị Trang
Trang 22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S Trần Anh Thục Đoan
một thư ký hỗ trợ giúp việc, với số lượng công việc lớn như vậy thì sẽ không bảo
đảm việc giải quyết vụ án. Những quy định về thời hạn giải quyết vụ án với thời
gian ngắn và gấp rút thì các thẩm phán rất khó có thể đảm bảo được đúng thời
hiệu như những quy định của pháp luật,nên các thẩm phán hạn chế việc đưa vụ
án theo thủ tục rút gọn.
Khó khăn nữa tác động trực tiếp đến việc đảm bảo thời hạn giải quyết vụ án đó là
công tác cấp, tống đạt văn bản pháp luật vẫn còn khá chậm chưa được linh động
để áp ứng theo thủ tục rút gọn.Các hình thức cấp, tống đạt văn bản pháp luật
đang được sử dụng phổ biến đó là: Thư tín đối với các đương sự ở xa, thì biện
pháp này lại không phù hợp với thủ tục rút gọn vì cần nhận được sự phản hồi từ
phía đương sự, nên thời gian sẽ rất dài, hơn nữa lại dễ xảy ra tình trạng thất
lạc ... biện pháp tiếp theo đó là thông qua văn phòng thừa phát lại, tuy có thể giải
quyết khó khăn về mặt thời gian nhưng chỉ áp dụng đối với các loại văn bản đơn
giản bởi vì nhân viên của văn phòng thừa phát lại, còn đối với các văn bản mang
tính chất phức tạp, truyền đạt ý chí của thẩm phán thì cần phải có cán bộ tòa án
nắm được nội dung vụ án đi tống đạt trực tiếp biên pháp này thì lại quay lại khó
khăn ban đầu đó là không có đủ nguồn nhân lực. Những điều này làm cho thời
gian giải quyết vụ án bị kéo dài bất hợp lý, khiến cho thẩm phán chịu áp lực về
thời gian giải quyết vụ án nên sợ không nhận giải vụ án theo thủ tục rút gọn.
-
Khó khăn khi cần bổ sung chứng cứ.
Về phần chứng cứ trong thủ tục rút gọn được quy định ngay tại phần điểu
kiện để áp dụng thủ tục rút gọn theo điểm a khoản 1 điều 317 BLTTDS 2015
rằng “tài liệu, chứng cứ,đầy đủ đảm bảo đủ căn cứ để giải quyết vụ án và tòa án
không phải thu thập thêm tài liệu chứng cứ” quy định này khác với việc thẩm
phán vẫn được quyền yêu cầu đương sự giao nộp chứng khi cần để làm rõ thêm
tình tiết vụ án. Tuy nhiên điều này việc yêu cầu giao nộp thêm chứng cứ này
dường như là mâu thuẫn với “tài liệu, chứng cứ,đầy đủ đảm bảo đủ căn cứ để
giải quyết vụ án” rằng nếu như vậy sẽ không đủ điều kiện để áp dụng tủ tục này
ngay từ đầu , vì điều kiện ban đầu là chứng cứ phải đầy đủ để đảm bảo căn cứ
giải quyết vụ án, việc quy định của pháp luật chưa rõ ràng làm cho các thẩm
SVTH: Lương Thị Trang
Trang 23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S Trần Anh Thục Đoan
phán vẫn còn e ngại sợ làm sai luật rằng việc yêu cầu giao nộp thêm chứng cứ sẽ
khiến cho vụ án chưa đáp ứng đủ điều kiện rút rọn mà đã thụ lý theo thủ tục rút
gọn. Cũng vẫn về phần chứng cứ nhưng quy định tại điểm a khoản 3 điều 317
BLTTDS 2015 rằng nếu tòa án thu thập thêm tài liệu chứng cứ thì sẽ khiến cho
vụ án đang giải quyết theo thủ tục rút gọn bị chuyển sang giải quyết theo thủ tục
thông thường. Quy định như vậy là chưa phù hợp với thực tế ở chỗ tòa án có thể
tiến hành nhiều biện pháp đề thu thập tài liệu chứng cứ, tại khoản 2 điều 97
BLTTDS 2015 vậy có nghĩa là khi tòa án tiến hành áp dụng một trong các biện
pháp thu thập tài liệu chứng cứ này thì đều làm chuyển đổi thủ tục giải quyết vụ
án.Nhưng trên thực tế có các thủ tục được sử dụng rất thông thường , mà khi áp
dụng nó chỉ mang tính chất làm rõ tình tiết trong vụ án mà không làm ảnh hướng
đến nội dung của vụ án. Ví dụ có rất nhiều đương sự không biết cách khai, hoặc
làm bản tự khai thì cán bộ tòa án có thể giúp họ lấy lời khai để quá trình giải
quyết vụ án được suôn sẻ hơn, việc lấy lời khai của đương sự như vậy không
những không làm biến đổi nội dung vụ án mà còn giúp cho vụ án được thực hiện
nhanh hơn. Điều này cho thấy ta thấy được rằng những quy định về việc thực
hiện biện pháp thu thập chứng cứ còn cứng nhắc, khiến cho việc các nghiệp vụ
xử lý vụ án của thẩm phán bị động , thiếu linh động.
-
Khó khăn trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Theo điểm c khoản 3 điều 317 BLTTDS 2015 thì khi áp dụng các biện pháp
khẩn cấp tạm thời là những biện pháp ở điều 114 BLTTDS 2015 thì sẽ ngay lập
tức chuyển thủ tục giải quyết vụ án từ rút gọn sang thông thường.Vì các nhà làm
luật cho rằng khi cần áp dụng đến các biện pháp khẩn cấp tạm thời là tình tiết vụ
án đã có những chuyển biến phức tạm, nằm ngoài sự điều chỉnh của những quy
định ở thủ tục rút gọn. Tuy nhiên nhận định này không hoàn toàn đúng trong mọi
trường hợp và mọi biện pháp khẩn cấp tạm thời, khiến cho những quy định này
trở thành vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật của cán bộ tòa án cũng
như nhân dân. Cụ thể là, không phải khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
nào cũng thể hiện rằng tình tiết vụ án trở lên phức tạp, cũng có những biện pháp
mà khi áp dụng nó giúp ngăn chặn vụ án có những diễn biến trở lên phức tạp,
SVTH: Lương Thị Trang
Trang 24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GVHD: Th.S Trần Anh Thục Đoan
kéo theo phía sau là những thủ tục rườm rà. Ví dụ như Công ty A và Công ty B
có ký hợp đồng cung ứng hàng hóa là nguyên vật liệu xây dựng, hiện tại hai bên
đang được tòa giải quyết tranh chấp về số xi măng đã được A giao cho B nhưng
vẫn chưa thanh toán, theo thủ tục rút gọn, tuy nhiên trong thời gian chuẩn bị đưa
vụ án ra phiên tòa xét xử thì công ty B không áp dụng các biện pháp bảo quản
làm giảm chất lượng số xi măng trên . Trong trường hợp này nếu thẩm phán đưa
ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời kê biên tài sản đang tranh
chấp để xác định được giá trị của tài sản tránh trường hợp bị tẩu tán hay hư hỏng,
việc này là để ngăn chặn sự diễn biến phức tạp của vụ án. Qua ví dụ này ta thấy
được rằng việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong nhiều trường hợp sẽ
giúp vụ án được giải quyết nhanh, gọn hơn, không phải biện pháp nào cũng làm
biến đổi vụ án để phải chuyển đổi thủ tục giải quyết từ rút gọn sang thông
thường,và những quy định của pháp luật về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời là còn thiếu sót và chưa bám sát với tình hình thực tế.
3.2.3 Vướng mắc trong giai đoạn quyết định đưa vụ án ra xét
xử theo thủ tục rút gọn.
Điều 319 BLTTDS 2015 có quy định về khiếu nại, kiến nghị và giải quyết
khiếu nại, kiến nghị về quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn, và
trong giai đoạn thẩm phán đưa ra quyết định xét xử vụ án theo thủ tục thì đương
sự , Viện kiểm sát cùng cấp mới được khiếu nại và kiến nghị. Việc cho phép
đương sự, Viện kiểm sát được khiếu nại tại giai đoạn này của luật là bất hợp lý vì
các lẽ sau: thứ nhất để vụ án đi đến giai đoạn ra quyết định xét xử thì thời gian tố
tụng của vụ án đã là một tháng, và chỉ còn một bước nữa là sẽ ra phiên tòa xét
xử, vì vậy hầu như các đương sự không “dại” gì khiếu nại, kiến nghị quyết định
để thời gian giải quyết vụ án bị kéo dài hơn. Thứ hai là quyết định bị khiếu nại,
kiến nghị thì Chánh án tòa án phải ra các quyết định như giữ nguyên thủ tục giải
quyết , hay chuyển vụ án sang xét xử theo thủ tục thông thường. Trong trường
hợp vụ án bị chuyển sang giải quyết theo thủ tục thông thường thì thời gian giải
quyết vụ án lại bị tính lại từ đầu theo khoản 4 điều 317 BLTTDS 2015 điều này
làm cho thời gian giải quyết vụ án bị kéo dài, phức tạp hơn.
SVTH: Lương Thị Trang
Trang 25