Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Một Số Vấn Đề Về Chính Phủ Điện Tử Và Một Số Kiến Nghị Xây Dựng, Phát Triển Chính Phủ Điện Tử Ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.13 KB, 15 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
ThS. Ngô Lê Quân
Trường Cao đẳng Công nghệ thông tin hữu nghị Việt - Hàn
Điện thoại: 0905.710 048 - Email:
Địa chỉ: 05 Núi thành, TP Đà Nẵng
ThS. Nguyễn Ngọc Huyền Trân
Trường Cao đẳng Công nghệ thông tin hữu nghị Việt – Hàn
Điện thoại: 0905.330487- Email:
ThS. Nguyễn Thị Kim Ánh
Trường Cao đẳng Công nghệ thông tin hữu nghị Việt – Hàn
Điện thoại: 0905.470830- Email:

--------------------------------------------Tóm tắt:
Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) đóng vai trò ngày càng quan
trọng trong cuộc sống hàng ngày của con người, làm biến đổi sâu sắc cách thức
làm việc, giải trí và thay đổi các nguyên tắc tiến hành kinh doanh. Trên bình diện
chính phủ, các ứng dụng ICT hứa hẹn việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ công cho
người dân sẽ trở nên tốt hơn không chỉ thông qua việc cải tiến các thủ tục và cách
thức quản lý của chính phủ mà còn qua việc xác định lại các khái niệm truyền thống
về quyền công dân và dân chủ. Bài viết tập trung nghiên cứu, tìm hiểu mô hình kiến
trúc chính phủ điện tử và thực trạng phát triển chính phủ điện tử ở nước ta. Từ đó đề
xuất một số giải kiến nghị để xây dựng và phát triển kiến trúc chính phủ điện tử ở
Việt Nam
Abstract:
Information and communications technology (ICT) plays an important role
in the daily lives. It changes the way to work, entertainment and the rules of
conducting business. On the governmental perspective, ICT applications help the
supply goods and public services will become better not only through the
improvement of procedures and management practices of the government but also
through redefining the traditional concept of citizenship and democracy. The


paper focuses researching, learning model of e-government and the sitituation of
e-government development in Vietnam. Since, the paper suggest some proposed
solutions to build and develop e-government architecture in Vietnam
Từ khóa: Công nghệ thông tin và truyền thông; Chính phủ điện tử; Kiến trúc
Keywords: Information and Communications Technology; E-Government;
Architecture
----------------------------------------------1. Mở đầu


Chính phủ là chủ thể đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Vai
trò của Chính phủ thể hiện qua việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế, xây dựng các chính sách
đảm bảo cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững trong dài hạn, đảm bảo sự
cạnh tranh công bằng trên thị trường cũng như tạo lập môi trường kinh doanh. Đối với
các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, vai trò của Chính phủ còn đóng một vai
trò quan trọng trong việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường.
Hiện nay, toàn cầu hoá đang kéo các quốc gia trên thế giới xích lại gần nhau,
nhưng cùng với đó tính cạnh tranh cũng cao hơn. Trong bối cảnh quá trình toàn cầu
hoá đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, các chính phủ phải tìm cách giúp đỡ công dân
và doanh nghiệp cạnh tranh trong môi trường toàn cầu hoá. Nếu vẫn tồn tại dưới hình
thức truyền thống, chính phủ sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện vai trò của mình.
Vậy làm thế nào để bộ máy chính phủ giải quyết được vấn đề trên? Câu trả lời được
nhiều người tán thành là phát triển Chính phủ điện tử. Trong bối cảnh chi phí công
đang ngày càng trở thành nỗi ám ảnh thời hậu khủng khoảng, Chính phủ điện tử càng
là bước đi cấp thiết của tất cả nền kinh tế. Chính phủ điện tử ra đời có thể sẽ dễ dàng
đáp ứng yêu cầu của toàn cầu hoá bằng cách áp dụng công nghệ hiện đại, rút ngắn
không gian và tiết kiệm thời gian, tạo khả năng kiểm soát các “rủi ro toàn cầu” một
cách hiệu quả.
2. Nội dung
2.1. Một số nét về Chính phủ điện tử
2.1.1. Chính phủ điện tử là gì?

Thông tin và truyền thông (CNTT&TT) đang làm biến đổi sâu sắc đời sống, kinh
tế, văn hoá xã hội của mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ trên toàn thế giới. Phát triển và
ứng dụng CNTT&TT đang là cơ sở cho việc phát triển nền kinh tế quốc dân, từ cơ sở
này cùng với sự điều hành Nhà nước, khái niệm Chính phủ điện tử (CPĐT) đã ra đời.
Theo định nghĩa của Ngân hàng thế giới (World Bank) “Chính phủ điện tử là
việc các cơ quan của chính phủ sử dụng một cách có hệ thống CNTT&TT để thực hiện
quan hệ với công dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội. Nhờ đó giao dịch của các
cơ quan chính phủ với công dân và các tổ chức sẽ được cải thiện, nâng cao chất lượng.
Lợi ích thu được sẽ là giảm thiểu tham nhũng, tăng cường tính công khai, sự tiện lợi,
góp phần vào sự tăng trưởng và giảm chi phí”[1]
Theo định nghĩa của Liên hiệp quốc (UN) “Chính phủ điện tử được định nghĩa
như là việc sử dụng Internet để truyền tải cũng như cung cấp thông tin và dịch vụ của
chính phủ tới người dân và doanh nghiệp”[2]
Như vậy, hiện có nhiều định nghĩa về CPĐT, có một cách cách hiểu chung phổ
biến về CPĐT: CPĐT là việc ứng dụng CNTT&TT, cung cấp dịch vụ công cho người
dân và doanh nghiệp 24/24, 7 ngày trong tuần, tạo ra sự liên tục, thông tin được trao
đổi một cách công khai minh bạch.
2.1.2. Sự khác nhau giữa Chính phủ truyền thống và Chính phủ điện tử
Với mô hình Chính phủ truyền thống, chính phủ hoạt động theo mô hình lấy các
sở ban ngành làm trọng tâm khiến người dân khó có thể tiếp cận các dịch vụ công một
cách chất lượng. Nhưng đối với mô hình CPĐT thì đây là một mô hình lấy công dân
làm trọng tâm, các sở ban ngành có thể kết nối với nhau để chia sẻ thông tin, cùng
phối hợp giao dịch một cách hiệu quả hơn với công dân, doanh nghiệp. Cách tiếp cận
lúc đó sẽ tập trung hơn vào người dân, bớt sự tập trung vào sở ban ngành.
1

E-Government and E-Governance: Definitions/Domain Framework and Status around the World by C. Jain
Palvia and S. Sharma, 2007.
2
E-Government and E-Governance, sđd.



Theo đó, chính phủ sẽ chủ động cung cấp dịch vụ công cho công dân theo cách
mà công dân thấy cảm thấy thuận lợi nhất khi truy cập vào. Chính phủ chủ động xử lý
phản hồi từ công dân các vấn đề liên quan tới chính sách, lập pháp, hành pháp liên
quan đến các dịch vụ mà công dân cần. Khi đó, mô hình chính phủ lấy công dân làm
trọng tâm thực sự cung cấp được các dịch vụ mà công dân cần, theo cách công dân
muốn, vào thời điểm mà công dân thích. Vì vậy, tính hiệu quả trong vận hành bộ máy
cũng như khả năng nhanh nhạy trong phục vụ người dân, doanh nghiệp chính là động
lực thực sự cho sự chuyển đổi từ môi trường có trọng tâm là sở ban ngành sang môi
trường lấy chính phủ làm trọng tâm và hướng tới môi trường lấy công dân làm trọng
tâm.
2.1.3. Khái niệm dịch vụ công trực tuyến
Dịch vụ công là những dịch vụ liên quan đến hoạt động thực thi pháp luật, không
nhằm mục tiêu lợi nhuận, do cơ quan nhà nước (hoặc tổ chức, doanh nghiệp được ủy
quyền) có thẩm quyền cấp cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức các loại giấy tờ có giá
trị pháp lý trong các lĩnh vực mà cơ quan nhà nước đó quản lý. Dịch vụ công trực
tuyến là khái niệm được hình thành khi Chính phủ ứng dụng CNTT&TT vào hoạt
động của chính quyền nhằm đẩy mạnh hơn tính hiệu quả cũng như chất lượng của dịch
vụ công, trên thực tế có nhiều cách hiểu, định nghĩa về dịch vụ công trực tuyến, dưới
đây là cách hiểu phổ thông:
Dịch vụ công trực tuyến “Dịch vụ hành chính công và các dịch vụ khác của cơ
quan nhà nước được cung cấp cho các tổ chức, cá nhân trên môi trường mạng” [3]. Trên
thực tế, dịch vụ công trực tuyến được chia thành nhiều mức độ áp dụng tùy thuộc vào
trình độ CNTT&TT của chính quyền địa phương, có thể chia thành các mức như sau:
Dịch vụ công trực tuyến mức độ 1: Là dịch vụ đảm bảo cung cấp đầy đủ các
thông tin về quy trình, thủ tục; hồ sơ; thời hạn; phí và lệ phí thực hiện dịch vụ[4].
Dịch vụ công trực tuyến mức độ 2: Là dịch vụ công trực tuyến mức độ 1 và cho
phép người sử dụng tải về các mẫu văn bản và khai báo để hoàn thiện hồ sơ theo yêu
cầu. Hồ sơ sau khi hoàn thiện được gửi trực tiếp hoặc qua đường bưu điện đến cơ

quan, tổ chức cung cấp dịch vụ[5].
Dịch vụ công trực tuyến mức độ 3: Là dịch vụ công trực tuyến mức độ 2 và cho
phép người sử dụng điền và gửi trực tuyến các mẫu văn bản đến cơ quan, tổ chức cung
cấp dịch vụ. Các giao dịch trong quá trình xử lý hồ sơ và cung cấp dịch vụ được thực
hiện trên môi trường mạng. Việc thanh toán lệ phí (nếu có) và nhận kết quả được thực
hiện trực tiếp tại cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ[6].
Dịch vụ công trực tuyến mức độ 4: Là dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và cho
phép người sử dụng thanh toán lệ phí (nếu có) được thực hiện trực tuyến. Việc trả kết
quả có thể được thực hiện trực tuyến, gửi trực tiếp hoặc qua đường bưu điện đến người
sử dụng[7].
Dịch vụ công trực tuyến mức độ 5: Là dịch vụ công trực tuyến đạt đến mức độ
hoàn toàn tự động hóa việc cung cấp dịch vụ, không cần thiết phải chờ cán bộ xử công
văn rồi phản hồi nữa. Nó đẩy mạnh tính hiệu quả của quá trình cung cấp dịch vụ, hoàn

3

E-Government Service Development – A Vital Factor in Business Environment Improvement in Viet Nam by
Nguyen Dang Tuan Minh (MSc Digital Enterprise Management), 2009.
4
E-Government Service Development – A Vital Factor in Business Environment Improvement in Viet Nam by
Nguyen Dang Tuan Minh (MSc Digital Enterprise Management), 2009.
5
E-Government Service Development, sđd.
6
E-Government Service Development, sđd.
7
E-Government Service Development, sđd.


toàn tự động, tốc độ xử lý nhanh và chính xác, người dùng sẽ không mất thời gian chờ

đợi phản hồi nữa[8].
2.2. Vai trò và lợi ích của Chính phủ điện tử
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vừa qua đã khiến các Chính phủ của các nước
trên thế giới nhận thấy nhu cầu bức thiết trong việc phát triển Chính phủ điện tử. Đứng
trước nguy cơ bị phá giá đồng nội tệ hoặc vỡ nợ công, hầu hết Chính phủ ở các nền
kinh tế có thu nhập cao và trung bình đều đã tiến hành một loạt các biện pháp khắc
khổ. Nhưng các biện pháp đó đang đẩy nhanh bất ổn xã hội.
Toàn cầu hoá tuy đang kéo các quốc gia trên thế giới lại gần nhau hơn, nhưng
cùng với đó tính cạnh tranh cũng cao hơn. Trong bối cảnh quá trình toàn cầu hoá đang
diễn ra ngày càng mạnh mẽ, các Chính phủ phải tìm cách giúp đỡ công dân và doanh
nghiệp cạnh tranh trong môi trường toàn cầu hoá. Nếu vẫn tồn tại dưới hình thức
truyền thống, Chính phủ sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện vai trò của mình. Do
vậy mà trong thời gian qua, các nước trên thế giới đều đã và đang cố gắng đầu tư xây
dựng CPĐT.
Xây dựng CPĐT ở các nước nói chung và ở Việt Nam nói riêng đang là một yêu
cầu cấp thiết, nó đóng một vai trò quan trọng trong tiến trình cải cách nền hành chính
quốc gia, hướng tới tăng cường năng lực điều hành Nhà nước của Chính phủ; mang lại
thuận lợi cho người dân; tăng cường sự minh bạch, giảm tham nhũng, giảm chi phí
Chính phủ, làm tăng thu nhập quốc dân, cung cấp tốt hơn các dịch vụ của Chính phủ
đến người dân và điện tử hoá tổ chức bộ máy của chính quyền. Nhất là trong thời kỳ
suy thoái khủng hoảng kinh tế trầm trọng, nợ công của các chính phủ đang gia tăng,
thì vai trò của CPĐT còn thể hiện rõ hơn nữa.
Đối với Chính phủ, giảm “nạn giấy tờ” văn phòng, công sở. Hợp lý hóa việc vận
hành công việc, tiết kiệm được thời gian cũng như tăng hiệu quả làm việc của cán bộ
công chức. Cho phép các cơ quan Chính phủ cung cấp các dịch vụ chất lượng cao hơn
và giảm ngân sách chi tiêu của Chính phủ. Minh bạch hóa hoạt động của Chính phủ,
qua đó giảm thiểu nạn tham nhũng và tăng thu nhập quốc dân. Cải thiện năng lực điều
hành của các cấp lãnh đạo, giúp cho Chính phủ đưa ra các quyết định một cách chính
xác và kịp thời.
Đối với người dân và doanh nghiệp, tiết kiệm thời gian cho người dân và doanh

nghiệp khi truy cập và sử dụng dịch vụ của chính phủ thông qua việc tự động hóa và
đơn gian hóa các thủ tục hành chính và tăng tính hiệu quả của quá trình xử lý công
việc. Cho phép người dân và doanh nghiệp tham gia vào hoạt động của Chính phủ,
làm tăng mối liên kết giữa chính quyền và người dân lẫn doanh nghiệp.
2.3. Các mô hình giao dich trong Chính phủ điện tử
Tham gia CPĐT có 3 thực thể: Chính phủ, người dân và doanh nghiệp. Trên cơ
sở quan hệ giữa các chủ thể trên, ta có thể phân loại CPĐT ra thành 4 loại, tương ứng
với 4 dạng CPĐT bao gồm:
G2C (Government to Citizens). Được hiểu như khả năng giao dịch và cung cấp
dịch vụ của chính phủ trực tiếp cho người dân, sự ứng dụng G2C cho phép người dân
hỏi và nhận được câu trả lời từ các cơ quan Chính phủ. Ví dụ, thông tin về kê khai
thuế, làm bằng lái xe, phí giao thông, làm chứng minh thư, tạm trú… Mặt khác, Chính
phủ cũng có thể phổ biến thông tin trên website, cung cấp các mẫu văn bản có thể tải
về máy[9].
8

E-Government Service Development, sđd.
E-Government and E-Governance: Definitions/Domain Framework and Status around the World by C. Jain
Palvia and S. Sharma, 2007.
9


G2B (Government to Business): Trong ứng dụng G2B, Chính phủ có vai trò như
là nhà cung cấp cho các doanh nghiệp thông qua sử dụng Internet và các hạ tầng kỹ
thuật CNTT khác. Ví dụ, dịch vụ mua sắm, thanh tra, giám sát doanh nghiệp (về đóng
thuế, tuân thủ luật pháp...); thông tin về quy hoạch sử dụng đất, đấu thầu, phát triển đô
thị, cung cấp các mẫu văn bản, quy định hướng dẫn thực thi pháp luật và chính sách
của nhà nước... cho các doanh nghiệp[10].
G2E (Government to Employees): Chỉ các dịch vụ, giao dịch trong mối quan hệ
giữa Chính phủ đối với công chức, viên chức bảo hiểm, dịch vụ việc làm, trợ cấp thất

nghiệp, chăm sóc sức khỏe, nhà ở…[11].
G2G (Government to Government): Được hiểu như khả năng phối hợp, chuyển
giao và cung cấp các dịch vụ một cách có hiệu quả giữa các cấp, ngành, tổ chức, bộ
máy nhà nước trong việc điều hành và quản lý nhà nước, trong đó chính bản thân bộ
máy Chính phủ đóng vai trò vừa là chủ thể, vừa là khách thể trong mối quan hệ này[12].
Toàn bộ hệ thống quan hệ, giao dịch của chính phủ như G2C, G2E, G2B, và
G2G phải được đặt trên một hạ tầng vững chắc của hệ thống: độ tin cậy, khả năng đảm
bảo tính riêng tư, và bảo mật, cuối cùng tất cả đều dựa trên hạ tầng công nghệ và
truyền thông với các quy mô khác nhau: mạng máy tính, mạng Intranet, Extranet,
Internet.
2.4. Các hình thức hoạt động và các dạng dịch vụ cung cấp qua Chính phủ điện
tử.
2.4.1. Các hình thức hoạt động chủ yếu của Chính phủ điện tử
Thư điện tử (Email). Thư điện tử giúp tiết kiệm được chi phí và thời gian. Có thể
sử dụng email để gửi các bản ghi nhớ, thông báo, báo cáo, bản tin. CPĐT yêu cầu mỗi
cán bộ công chức phải có địa chỉ email để trao đổi thông tin qua mạng.
Mua sắm công cộng trong CPĐT. Việc mua sắm công có thể thực hiện được qua
mạng, đảm bảo tiết kiệm thời gian, chi phí. Đây cũng là một hình thức minh bạch các
hoạt động thu chi của Chính phủ, giúp giảm thiểu tham nhũng, biển thủ.
Trao đổi dữ liệu điện tử. Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) là việc trao đổi các dữ
liệu dưới dạng có cấu trúc từ máy tính này sang máy tính điện tử khác trong nội bộ cơ
quan hay giữa các cơ quan. EDI có tính bảo mật cao.
Tra cứu, cập nhật thông tin qua mạng. Chính phủ thông qua mạng Internet có thể
cung cấp thông tin cho người dân và doanh nghiệp các loại thông tin về kinh tế, xã hội,
về chủ trương chính sách và các hướng dẫn thủ tục hành chính v.v.
2.4.2. Các dạng dịch vụ Chính phủ điện tử cung cấp
Trước đây các cơ quan chính phủ cung cấp dịch vụ công cho người dân tại trụ sở
của mình thì nay có thể cung cấp dịch vụ công qua mạng thông qua cổng thông tin
điện tử. Người dân không phải đến trực tiếp, chờ đợi tại các trụ sở cơ quan trên như
trước đây. Một số dịch vụ công có thể được cung cấp qua mạng là: Cung cấp thông tin

văn bản quy phạm pháp luật; Cung cấp thông tin kinh tế, thị trường, xã hội; Cung cấp
dịch vụ cấp phép, xuất khẩu trực tuyến; Cung cấp dịch vụ khai báo thuế trực tuyến;
Cung cấp dịch vụ đăng ký kinh doanh trực tuyến; Cung cấp dịch vụ đăng ký xây dựng,
đấu thầu; Cung cấp dịch vụ chứng nhận kiểm dịch, vệ sinh an toàn thực phẩm; Cung
cấp dịch vụ tra cứu hồ sơ hành chính công; Cung cấp dịch vụ đối thoại trực tuyến;
Cung cấp dịch vụ đóng phí hành chính trực tuyến; Cung cấp dịch vụ hải quan trực
tuyến…
10

E-Government and E-Governance, sđd.
E-Government and E-Governance, sđd.
12
E-Government and E-Governance, sđd.
11


3. Xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử ở Việt Nam
3.1. Tổng quan tình hình Chính phủ điện tử tại Việt Nam
3.1.1. Về hạ tầng công nghệ
Hạ tầng công nghệ giữ một vai trò quan trọng trong việc ứng dụng và phát triển
CPĐT. CPĐT là hệ quả tất yếu của sự phát triển CNTT&TT. Hạ tầng CNTT&TT là
điều kiện tiên quyết để phát triển CPĐT. Tính đến tháng 12/2011, thực trạng hạ tầng
công nghệ cho phát triển CPĐT tại Việt Nam được thể hiện ở bảng dưới đây:
Bảng 2.1: Thực trạng hạ tầng CNTT-TT ở các cơ quan Nhà nước từ năm 2008 - 2011

2008

2009

2010


2011

TỶ LỆ MÁY VI TÍNH TRÊN TỔNG SỐ CÁN BỘ CÔNG CHỨC (%)

Bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ
Các tỉnh, thành phố
trực thuộc TW

77,86

81,41

88,50

90,70

37,36

55,87

63,19

67,50

TỶ LỆ MÁY VI TÍNH CÓ KẾT NỐI INTERNET (%)

Bộ, cơ quan ngang

Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ
Các tỉnh, thành phố
trực thuộc TW

80,33

67,78

88,37

94,29

79,30

71,47

85,53

88,00

TỶ LỆ CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC CÓ TRANG/ CÔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ (%)

Bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ
Các tỉnh, thành phố
trực thuộc TW

26/30


27/30

28/30

29/30

59/63

61/63

62/63

63/63

TỶ LỆ CƠ QUAN NHÀ NƯỚC CÓ ĐƠN VỊ CHUYÊN TRÁCH VỀ CNTT (%)

Bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ
Các tỉnh, thành phố
trực thuộc TW

--

--

100

100


--

--

100

100

TỶ LỆ CƠ QUAN NHÀ NƯỚC CÓ MẠNG NỘI BỘ (LAN, INTRANET, EXTRANET)(%)

Bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ
Các tỉnh, thành phố
trực thuộc TW

--

--

100

100

--

--

100


100

Nguồn: Sách trắng CNTT-TT 2012 của Bộ TT&TT

Về cung cấp thông tin: Website/Portal của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ngày càng cung cấp đầy đủ và kịp
thời những thông tin chủ yếu theo quy định (Luật Công nghệ thông tin, Nghị định
43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công
trực tuyến trên trang thông tin điện tử, cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước và
các thông tư hướng dẫn của Bộ Thông tin và Truyền thông) để phục vụ người dân và
doanh nghiệp. Tuy nhiên, khách quan mà nói chất lượng và tính hiệu quả mà các cổng
thông tin này đem lại vẫn còn yếu, tỉ lệ các đơn vị cung cấp thông tin ở mức được
đánh giá tốt còn rất hạn chế, đặc biệt là tại các địa phương. Chỉ có một số tỉnh mà cổng
thông tin đạt hiệu quả tốt, ví dụ An Giang - Đà Nẵng - Thừa Thiên Huế, còn lại đa


phần vẫn còn mang tính chất hình thức, chỉ thiết kế website rồi đăng lên vài thông tin
rồi để đó, không có hướng dẫn cụ thể quy trình, cách thức sử dụng thông tin, các mẫu
văn bản.
Về cung cấp dịch vụ công trực tuyến: So với năm 2010, các cơ quan nhà nước
tiếp tục duy trì và xây dựng thêm nhiều dịch vụ công trực tuyến ở mức độ 3 và mức độ
4 (năm 2008: có 6 tỉnh, thành phố cung cấp 30 dịch vụ - năm 2009: có 18 tỉnh, thành
phố cung cấp 254 dịch vụ mức độ 3 - năm 2010: có 38 tỉnh, thành phố cung cấp 748
dịch vụ mức độ 2, có 01 thành phố cung cấp 03 dịch vụ mức độ 4; năm 2011: có 38
tỉnh, thành phố cung cấp 829 dịch vụ mức độ 3, có 02 thành phố cung cấp 08 dịch vụ
mức độ 4). Chất lượng dịch vụ công trực tuyến trong vài năm qua nhìn chung đang có
dấu hiệu cải thiện về lượng nhưng về chất thì chưa, chất lượng các dịch vụ công hiện
vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho phát triển CPĐT tại Việt Nam, so với mục tiêu
đến năm 2015, hầu hết 100% các tỉnh có ứng dụng dịch vụ công mức độ 3 mà nhìn

vào thực trạng hiện nay thì vẫn còn rất xa vời, dẫu có đạt được thì chất lượng dịch vụ,
hiệu quả hoạt động có được cải thiện hay không vẫn là câu hỏi cần được đặt ra.

Bảng 2.2: Thực trạng chất lượng dịch vụ công tại các cơ quan nhà nước năm 2011

Tổng số lượng các dịch vụ công trực
tuyến
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ
Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương

Mức độ 1,2

Mức độ 3

Mức độ 4

98,439

860

11

3,437

31

3


95,002

829

8

Nguồn: Sách trắng CNTT-TT 2012 của Bộ TT&TT

Có thể thấy một thực trạng rằng, các chỉ số về hạ tầng công nghệ cho phát triển
CPĐT tại Việt Nam hầu hết vẫn chỉ đạt ngưỡng trên trung bình nếu nói về lượng, còn
về chất nếu không muốn nói là thấp hoặc rất thấp. Tính minh bạch và chất lượng dịch
vụ công vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, lấy một ví dụ đơn giản: cơ quan Nhà nước cung
cấp các mẫu đơn qua mạng nhưng lại thiếu tuyên truyền đến dân, thiếu hướng dẫn, nên
dù có đăng lên dân cũng không biết chỗ nào mà tìm, mà có tìm cũng không biết dùng
như thế nào bởi mẫu đơn đó không có hướng dẫn cụ thể cách thức đầy đủ, chỉ qua loa
nên dân cũng không biết nên điền thông tin sao cho đúng, lại phải mất công gọi điện
hoặc hẹn gặp trực tiếp – điều đó nói lên các dịch vụ công của Việt Nam đa phần mang
tính một chiều, tuy hạ tầng cơ sở đã được củng cố nhưng chưa phát huy được hết tiềm
năng của CPĐT. Từ đó khiến mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp đối với
CPĐT là không cao.
3.1.2. Cơ sở hạ tầng nhân lực
Về cán bộ công nhân viên chức tại các cơ quan nhà nước: Để ứng dụng và triển
khai tốt CPĐT thì lẽ tất yếu Chính phủ cần phải có một nguồn lực cán bộ công nhân
viên chức dồi dào, có hiểu biết về CPĐT cũng như các vấn đề liên quan và trên hết là
phải có đạo đức nghề nghiệp. Là một nước có thế mạnh về dân số, lại đang trong thời


kỳ “dân số vàng”, tuy nhiên thực trạng cơ sở hạ tầng nhân lực cho phát triển CPĐT tại
Việt Nam hiện vẫn còn nhiều bất cập cả về chất lẫn lượng. Yếu kém lớn nhất là chất
lượng của đội ngũ cán bộ, công chức, vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà

nước trong cơ chế mới, tuy rằng nước ta hiện có có hơn 28 triệu cán bộ công chức,
nhưng khoảng hơn 30% tổng lượng cán bộ công chức hầu như có cũng được không có
cũng xong. Mặc dù công tác đào tạo, bồi dưỡng được tăng cường, số lượng cán bộ,
công chức qua các lớp, khoá đào tạo, bồi dưỡng khá lớn, nhưng nhìn chung chất
lượng, nhất là kiến thức quản lý nhà nước mới với kỹ năng nghiệp vụ hành chính phù
hợp thực sự đạt được ở tỷ lệ thấp. Bằng cấp, chứng chỉ tăng, nhưng chất lượng thật sự
của cán bộ, công chức có bằng cấp, chứng chỉ lại đang là vấn đề đáng lo ngại. Nội
dung và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tuy đã có một số đổi mới,
nhưng nhìn chung vẫn chưa có những cải cách cơ bản như chương trình tổng thể mà
Nhà nước đã đặt ra, đa số vẫn chỉ làm cho có và hình thức, chưa đi vào thực chất.
Ngoài ra, còn xuất hiện một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức suy thoái
phẩm chất, đạo đức, tham nhũng, cửa quyền, thiếu ý thức trách nhiệm và tinh thần
phục vụ, vô cảm trước yêu cầu của nhân dân, của xã hội mà việc kiểm tra, thanh tra
công vụ và xử lý cán bộ, công chức có vi phạm pháp luật làm không thường xuyên và
không nghiêm. Tính răn đe, làm gương trong xử lý kỷ luật cán bộ, công chức hầu như
không có. Chính vì vậy, đạo đức công vụ, thái độ phục vụ dân, tổ chức của cán bộ,
công chức không được tăng cường.
Thực trạng yếu kém về nguồn nhân lực cán bộ công chức nhà nước đã khiến cho
việc phát triển CPĐT ở Việt Nam hiện đang gặp nhiều khó khăn. Người dân lẫn doanh
nghiệp không phàn nàn nhiều về mảng hạ tầng kỹ thuật mà chủ yếu về thái độ cũng
như năng lực của đội ngũ cán bộ công nhân viên chức tại các cơ quan nhà nước. Lấy
một ví dụ đơn giản, chính quyền đăng mẫu văn bản đăng ký kinh doanh trên cổng
thông tin điện tử của tỉnh, doanh nghiệp tải về, điền thông tin theo hướng dẫn đính
kèm và gửi về chính quyền qua đường thư điện tử, tuy nhiên doanh nghiệp lại phải chờ
rất lâu mới có phản hồi, mà đôi khi một thời gian mới nhận được email thông báo
“Điền thông tin chưa đầy đủ” – mặc dù đã làm đúng như trong mẫu văn bản có đính
kèm hướng dẫn điền thông tin, như vậy tốn rất nhiều thời gian và chi phí của doanh
nghiệp, lý do đưa ra là nạn nhũng nhiễu, cửa quyền, hạch sách của một bộ phận cán bộ
công nhân viên chức. Có thể kết luận rằng hiện nay nguồn nhân lực cán bộ, công nhân
viên chức cho phát triển CPĐT tại Việt Nam không yếu về lượng nhưng yếu, thậm chí

rất yếu về chất!
Về lực lượng chuyên gia CNTT-TT: Hiện nay, nguồn nhân lực CNTT Việt Nam
đang ở trong tình trạng vừa thừa vừa thiếu, thừa là ở số lượng, nhưng thiếu ở chất
lượng. Tính đến năm 2011, số lượng các trường đào tạo về CNTT-TT đã đạt khoảng
gần 300, cả nước ước đạt 170 nghìn sinh viên nhập học, hơn 40 nghìn đã ra trường chỉ
tính riêng ở hệ đào tạo chính quy. Hiện tại, có hơn 250.000 kỹ sư CNTT bao gồm cả
công nghiệp phần mềm, phần cứng, dịch vụ và nội dung số, tốc độ tăng trưởng trung
bình vẫn từ 25 - 35 %. Mặc dù vậy, nhân lực thiếu, và thiếu nhất vẫn là lĩnh vực phần
mềm, dịch vụ CNTT.
Các chuyên gia có trình độ như các chuyên gia quốc tế thì quá ít. Chỉ có khoảng
13% chuyên gia trong nước có thể cung cấp các giải pháp tổng thể, có thể thiết kế hệ
thống, phần mềm, có các chứng chỉ quốc tế về CNTT. Tín hiệu đáng buồn hơn, sức
hấp dẫn của ngành học CNTT lại đang giảm sút, tỷ lệ sinh viên đăng ký dự thi CNTT
thấp hơn so với nhiều ngành khác, như ngân hàng, tài chính, luật. Thêm vào đó, lương
trong lĩnh vực CNTT Việt Nam chưa hấp dẫn, ví dụ như lương của kỹ sư CNTT Việt


Nam khoảng 4 - 5 triệu đồng còn lương trong lĩnh vực ngân hàng từ 8 - 10 triệu. Sinh
viên tốt nghiệp CNTT khả năng ngoại ngữ còn “non”, trình độ chuyên môn thấp. Hầu
như vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu xã hội.
Về tầng lớp nhân dân: Số lượng người tiêu dùng quyết định sự thành bại của sản
phẩm dịch vụ. Muốn thực hiện và phát triển CPĐT hơn nữa thì người dân phải hiểu
biết và sử dụng được dịch vụ Internet. Trên thực tế, hiện vẫn còn khoảng cách lớn giữa
việc sử dụng máy tính với việc khai thác các ứng dụng của Internet. Những người coi
như là đã biết sử dụng máy tính thì cũng bất quá chỉ biết soạn thảo văn bản ở trình độ
thấp, chưa nói đến việc ứng dụng CNTT vào việc quản lý kinh doanh, còn nếu có biết
sử dụng Internet thì cũng chỉ dùng vào mục đích giải trí, đọc báo, game chứ không biết
cách thậm chí không có nhu cầu sử dụng các dịch vụ công trực tuyến nếu như không
có hướng dẫn cụ thể.
Theo một khảo sát do Cục Ứng dụng CNTT - Bộ TT&TT tiến hành năm 2011 về

mức độ người dân tham gia các hoạt động dịch vụ công trực tuyến, có tới gần 60%
người dân nói rằng chưa từng sử dụng dịch vụ công trực tuyến và một nửa trong số đó
không biết tới dịch vụ công trực tuyến.
Hiện chưa có thống kê mới nhất để cập nhật số lượng người dân sử dụng dịch vụ
công trực tuyến. Tuy nhiên, nhiều cán bộ lãnh đạo phụ trách CNTT trong các cơ quan
Nhà nước vẫn khẳng định rằng không ít dịch vụ công trực tuyến vẫn “vắng” người
dùng (ngoại trừ những trường hợp cá biệt như thủ tục hành chính về thuế, hải quan...).
Tuy nhiên để đầu tư xây dựng một dịch vụ công trực tuyến, đặc biệt là những dịch vụ
mức 3 - 4, các cơ quan Nhà nước phải tốn kém khá nhiều chi phí, thời gian và công
sức. Thế nhưng, vẫn đang có hiện trạng sau khi đưa dịch vụ công vào hoạt động thì
chờ mãi không thấy người dân, doanh nghiệp nào đến “xài”.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới hiện trạng ít người dân sử dụng dịch vụ công trực
tuyến. Dễ thấy nhất là do thiếu thốn trang thiết bị tin học. Số liệu công bố trong Sách
Trắng CNTT-TT Việt Nam năm 2012 cho biết năm 2011, cả nước mới có 16,2% hộ
gia đình có máy vi tính. Rất nhiều người dân chưa từng biết máy vi tính, chưa biết
internet là gì. Một khi không có máy móc, thiết bị thì rất khó nói đến chuyện dùng dịch
vụ công trực tuyến.
Ngoài ra, còn nhiều lý do khác nữa như lo ngại về sự mất an toàn thông tin khi sử
dụng dịch vụ công, hoặc sự chưa rõ ràng về cơ quan có thẩm quyền chứng thực cho
các hồ sơ pháp lý trên mạng.
3.1.3.Cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội
Mức sống của người dân: Mức sống thấp không cho phép đông đảo người dân
tiếp xúc với các phương thức của “kinh tế số hóa”. CPĐT không thể phát triển nếu số
dân có khả năng truy cập Internet thấp, khi mà phí thuê bao Internet, phí truy cập, máy
tính cá nhân … quá lớn so với mức thu nhập bình quân của một người dân. Nhìn
chung, mức sống của người dân Việt Nam hiện nay tương đối ổn định, tuy nhiên vẫn
có sự phân hóa giữa thành thị và nông thôn khi mà ở nhiều tỉnh, tỷ lệ dân có điều kiện
sử dụng Internet còn thấp, một phần vì trình độ người dân, một phần vì điều kiện địa
hình, vùng sâu vùng xa chưa kết nối được Internet cũng như phát triển kinh tế. Lượng
dân có điều kiện sử dụng Internet đa phần tập trung tại các thành phố lớn hoặc tại các

khu công nghiệp. Đây cũng là khó khăn khi triển khai CPĐT tại các tỉnh thành trên cả
nước.
Hệ thống thanh toán tài chính tự động: Ở Việt Nam, việc triển khai thanh toán tự
động được triển khai ở mức thấp. Trong khi CPĐT đòi hòi mạng lưới thanh toán tự
động phải hoàn chỉnh và chính xác, nhưng chúng chỉ được đáp ứng một phần bởi


những nhu cầu tối thiểu như rút tiền, chuyển tiền. Thẻ thanh toán chưa được sử dụng
rộng rãi do người dân có thói quen sử dụng tiền mặt, việc thanh toán hoàn toàn qua
mạng hiện chỉ được sử dụng bởi một lượng ít dân cư có dân trí cao hoặc là dân Ngân
hàng hoặc là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Còn phần đông người dân vẫn
còn chưa quen với phương thức thanh toán tự động, chủ yếu là bị động, miễn cưỡng sử
dụng.
3.1.4.Cơ sở hệ thống chính sách – pháp luật
Tuy CPĐT đã và đang được đẩy mạnh ứng dụng và phát triển tại hầu khắp các
tỉnh thành trên cả nước, tuy nhiên trên thực tế hệ thống pháp luật của chúng ta vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu của CPĐT. Chúng ta đã ban hành một số luật như luật giao
dịch điện tử, luật CNTT, luật sở hữu trí tuệ, hàng loạt nghị định, thông tư hướng dẫn.
Tuy nhiên, các vấn đề bảo hộ quyền sở hữu, tính bảo mật của các thông tin giao dịch
trên internet, chế tài với hành vi gian lận, vi phạm hợp đồng, phương thức tính thuế
đối với giao dịch điện tử… vẫn chưa được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật liên
quan.
Vấn đề pháp lý nhà nước, Chính phủ hiện đã và đang quan tâm đến bản quyền
tác giả và xâm phạm tác quyền phần mềm khi ứng dụng CPĐT, tuy nhiên hoạt động
triển khai vẫn còn dàn trải, chưa thiết thức, chưa đẩy mạnh. Trên thực tế, CPĐT là chủ
đề cần quan tâm đến trên không chỉ phương diện kinh tế, kỹ thuật, luật pháp mà còn có
cả các vấn đề pháp lý, chính sách liên quan đến bản quyền, văn hóa xã hội cũng phải
được xem xét. Cơ sở pháp lý đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ ứng dụng
CPĐT thành công. Với một nước chưa có nhiều kinh nghiệm trong phát triển CPĐT
như Việt Nam thì việc hoàn thiện cơ sở pháp lý tổng thể hiện còn gặp nhiều khó khăn,

thách thức.
3.1.5.Cơ sở an toàn bảo mật
Khi tham gia vào internet, vấn đề đặt ra là phải tăng cường các biện pháp an toàn
bảo mật thông tin người dùng. An toàn luôn được coi là vấn đề chủ yếu trong thực
hiện CPĐT. Hiện nay thực trạng quản lý an toàn bảo mật tại các cơ quan nhà nước của
Việt Nam hiện vẫn còn yếu, trên thực tế nhận thức của các cán bộ, công chức về an
ninh mạng còn khá kém; có không ít các lãnh đạo, cán bộ xem nhẹ những lỗ hổng về
bảo mật trong hệ thống mạng của cơ quan mình.
Theo đại diện Hiệp hội An toàn thông tin (VNISA), đánh giá ngẫu nhiên 100
webstite tên miền cơ quan nhà nước (.gov.vn) cho thấy, 78% số website có thể bị tấn
công “thay đổi nội dung” hoặc có thể bị “đánh sập” bất cứ lúc nào. Ngoài ra, VNISA
phát hiện được 3.697 lỗi trên 100 website .gov.vn, bao gồm 489 điểm yếu (lỗi) ở mức
độ nghiêm trọng (chiếm 13%), 396 điểm yếu ở mức cao (chiếm 11%) và 2.812 điểm
yếu ở mức trung bình/thấp (chiếm 76%). Trong đó, có 2.012 lỗi được phát hiện trên
ứng dụng web và 1.685 lỗi được phát hiện trên ứng dụng hệ thống.
Cũng theo đánh giá của Bộ Thông tin và Truyền thông, hiện thực trạng quản lý
an toàn thông tin, mức độ áp dụng các giải pháp công nghệ đảm bảo an toàn thông tin
cũng như khả năng nhận biết một số loại tấn công cơ bản trong các cơ quan chính phủ
còn rất hạn chế nếu không muốn nói là yếu.


Hình 2.1: Thực trạng quản lý an toàn thông tin trong các cơ quan nhà nước

Nguồn: Sách trắng CNTT-TT 2012 của Bộ TT&TT
Hình 2.2: Mức độ áp dụng các giải pháp công nghệ đảm bảo an toàn thông tin tại các cơ quan nhà nước

Nguồn: Sách trắng CNTT-TT 2012 của Bộ TT&T
Hình 2.3: Tỷ lệ các đơn vị nhận biết được có bị tấn công mạng xét theo một số loại tấn công cơ bản

Nguồn: Sách trắng CNTT-TT 2012 của Bộ TT&TT



Nhìn chung, thực trạng về bảo mật an toàn dữ liệu nói chung và cho phát triển
CPĐT tại Việt Nam nói riêng vẫn còn rất hạn chế. Phát triển CPĐT thì phải đi kèm với
an toàn bảo mật nếu không không chỉ nhà nước mà cả người dân đều sẽ chịu những
tổn thất không nhỏ. Đây là một trong những bài toán hóc búa cho Nhà nước trong
chiến lược phát triển CPĐT trong giai đoạn sắp tới.
3.2. Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện xây dựng Chính phủ điện tử ở Việt
Nam
Theo quy hoạch phát triển CPĐT của Chính phủ Việt Nam thì từ năm 2010,
Chính phủ đã có chương trình ứng dụng CNTT trong các cơ quan quản lý nhà nước
đến năm 2015, trong đó tập trung vào 3 hướng chính: Xây dựng hạ tầng thông tin cho
hoạt động của CPĐT, bao gồm: phần cứng, phần mềm và các cơ sở dữ liệu (CSDL);
Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong cơ quan quản lý nhà nước để tăng năng suất lao
động, nâng cao hiệu quả quản lý; Phục vụ người dân và xã hội. Nghị quyết 13-NQ/TW
đã đề ra một trong ba trọng tâm cải cách cho cả giai đoạn 10 năm (2010 - 2020) là
nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và dịch vụ sự nghiệp công, trong đó CPĐT là
trung tâm. Trọng tâm tiếp theo là đẩy mạnh phát triển hạ tầng CNTT, đảm bảo tính
đồng bộ, kết nối trong nội bộ ngành, liên ngành, liên vùng trên phạm vi cả nước, hoàn
thiện hệ thống thể chế tạo khuôn khổ pháp lý và môi trường thuận lợi cho phát triển
CNTT. Cuối cùng là thực hiện các giải pháp, cơ chế, chính sách để đào tạo, khai thác
và huy động tối đa các nguồn lực cho phát triển CNTT và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực.
Tuy vậy, nhìn nhận một cách khách quan, nước ta trên thực tế vẫn còn là một
nước nghèo, tình trạng “bao cấp”, thiếu tính chủ động đã ăn sâu vào tiềm thức của
không ít cán bộ lãnh đạo, lại thiếu kinh nghiệm về phát triển kinh tế nói chung và
CPĐT nói riêng. Do vậy việc phát triển phải được triển khai theo từng bước chứ không
thể vội vã, cần phải phối hợp chặt chẽ với các ban ngành trong bộ máy nhà nước, các
cấp chính quyền địa phương để có thể xử lý vấn đề một cách đồng bộ và tháo gỡ dần
các khó khăn trước mắt trong thời gian tới.

3.2.1. Một số kiến nghị đối với chính quyền
Trong bối cảnh phát triển hiện nay, xây dựng những chế định pháp lý giúp định
hướng cho các mô hình CPĐT đi vào ứng dụng một cách thực chất là một yêu cầu bức
thiết. Trước mắt cần phải: Xác lập điều kiện để các doanh nghiệp nếu muốn tham gia
đối thoại trực tuyến với chính quyền địa phương, phải đảm bảo về trình độ, năng lực
CNTT tối thiểu để có thể đảm bảo vấn đề an toàn thông tin cũng như có thể sử dụng
tốt các tính năng trên mô hình; Xác lập phạm vi, quyền hạn, trách nhiệm của UBND,
các sở/ban/ngành địa phương trong việc trả lời những câu hỏi đặt ra từ phía các doanh
nghiệp; Xác định quyền hạn, phạm vi cũng như trách nhiệm của các doanh nghiệp khi
tham gia vào mô hình. Cụ thể như quyền khiếu nại, tố cáo khi phát hiện thấy có dấu
hiệu tiêu cực, cửa quyền, tránh né trả lời câu hỏi chính đáng của doanh nghiệp; quyền
ra câu hỏi; quyền chất vấn công khai… Ngoài ra cũng phải xác định phạm vi được đặt
câu hỏi; lượng câu hỏi tối đa mà doanh nghiệp có thể hỏi trong một ngày (vì đảm bảo
không bị quá tải đường truyền), câu hỏi đặt ra phải đảm bảo rõ ràng, dễ hiểu, không
trùng lắp để không gây mất thời gian của chính quyền. Cuối cùng là đảm bảo tính bảo
mật an toàn thông tin về tài khoản, mật khẩu, khóa công khai đã được cấp, không được
để lọt ra bên ngoài vì bất cứ lý do gì; Xác định hình thức kỷ luật, xử lý vi phạm khi
tham gia đối thoại trực tuyến. Cụ thể nếu cán bộ trả lời chậm thời hạn được quy định
thì phải có hình thức kỷ luật gì? sau đó là hình thức kỷ luật đối với các bộ/ban/ngành
vì đã không đảm bảo chất lượng đội ngũ cán bộ. Việc không đảm bảo an toàn thông


tin, để lộ mật khẩu khiến đối tượng xấu lợi dụng phá hoại hệ thống, ăn cắp thông tin,
giả mạo chữ ký phải bị xử lý. Các hình thức kỷ luật phải được quy định cụ thể, ví dụ
như cảnh cáo, phạt tiền, tước bỏ quyền tham gia mô hình, trục xuất, sa thải (với cán bộ
công nhân viên chức mắc sai phạm).
3.2.2. Cải thiện cơ sở hạ tầng CNTT-TT
Muốn phát triển CPĐT, một trong những điều kiện tiên quyết là hạ tầng CNTTTT phải đảm bảo. Chính quyền các tỉnh phải tiếp tục nâng cao chất lượng hạ tầng
CNTT-TT của địa phương mình, phải ban hành những chính sách, quy định về việc
triển khai cũng như hỗ trợ phát triển CNTT-TT nhiều hơn nữa, tập trung thực hiện các

mảng chủ yếu: Mạng truy nhập băng rộng; điểm cung cấp dịch vụ viễn thông công
cộng ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt khó khăn; truyền dẫn đường dài trong nước, quốc
tế; số hóa truyền dẫn truyền hình mặt đất; hạ tầng kỹ thuật dùng chung; mạng viễn
thông dùng riêng và hệ thống thông tin chuyên dùng, hệ thống mạng ngoại bộ, mạng
nội bộ trong các cấp chính quyền địa phương.
3.2.3.Cải thiện cơ sở hạ tầng nhân lực
Nhân lực là vấn đề then chốt nếu muốn ứng dụng và triển khai tốt CPĐT. Nguồn
nhân lực phục vụ cho CPĐT phải có hiểu biết sâu sắc về luật liên quan đến CPĐT, luật
hành chính, luật thương mai, kinh tế, đất đai. Phải có kỹ năng căn bản về CNTT như
biết cách sử dụng thành thạo các phần mềm liên quan, biết cách sử lý những sự cố đơn
giản, biết cách bảo mật an toàn thông tin, và tất nhiên trình độ ngoại ngữ cũng phải
được đảm bảo.
Chính quyền phải có các chính sách hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực tại địa
phương mình một cách đồng bộ và có tính chiến lược lâu dài. Cần có chương trình tập
huấn trung và dài hạn về cả mảng kiến thức cũng như kỹ năng cần thiết cho đội ngũ
cán bộ công nhân viên chức về CPĐT, về hạ tầng khóa công khai, nếu cần có thể kết
hợp cử cán bộ đi tập huấn ở nước, ngoài ra phải có chiến lược thu hút nhân tài về địa
phương mình. Cũng cần phải đảm bảo chính sách đãi ngộ, thưởng, trợ cấp, thăng tiến
đối với những cán bộ có năng lực thực sự. Đảm bảo tạo một môi trường làm việc hiệu
quả cho họ.
Với đội ngũ cán bộ tuổi cao, thì khả năng đào tạo họ về ứng dụng CNTT cũng
như CPĐT rất khó khăn. Tuy vậy, cũng cần phải có chính sách sử dụng nguồn lực tiềm
năng này. Trước mắt, chính quyền các cấp nên cử các cán bộ trẻ mới tuyển về (hoặc có
thể tuyển thêm nếu cần thiết) đi học, vì họ là lứa tuổi còn dễ đào tạo. Tiếp đó khi cử
cán bộ trực tuyến đại diện trả lời các câu hỏi của doanh nghiệp thì sắp xếp một cán bộ
tuổi cao bên cạnh “tư vấn”, giải đáp thay cho những cán bộ trẻ nhưng vấn đề khó. Từ
đó vừa giúp các cán bộ trẻ dần đề cao kinh nghiệm làm việc, vừa tận dụng được vốn
kiến thức đã tích lũy lâu năm của các cán bộ cao tuổi.
3.2.4. Nâng cao nhận thức và chủ động ứng dụng mô hình đối thoại trực tuyến
của

Muốn tham gia và sử dụng hiệu quả các tính năng của mô hình đối thoại trực
tuyến thì yêu cầu về phía các chủ doanh nghiệp là phải có nhận thức đầy đủ về CPĐT,
lợi ích của CPĐT cũng như các hệ thống luật, chính sách liên quan đến CPĐT. Các
doanh nghiệp cần bỏ đi những quan niệm và thói quen theo lối cũ và nên mạnh dạn
tham gia mô hình đối thoại trực tuyến hơn nữa. Có như vậy, doanh nghiệp mới có thể
dần nhận ra lợi ích mà mô hình này mang lại, và từ đó sẽ dần chủ động hơn về các
hoạt động CPĐT nói chung và của mô hình đối thoại trực tuyến nói riêng.
Hiệp hội các doanh nghiệp phải đóng vai trò đáng kể trong việc định hướng cũng
như hướng dẫn các chủ doanh nghiệp trong địa phương mình tích cực tham gia hoạt


động đối thoại trực tuyến, cũng như phải đẩy mạnh việc phổ biến, tuyên truyền các
kiến thức về CPĐT cho chủ các doanh nghiệp.
3.2.5.Đẩy mạnh công tác đào tạo, tuyên truyền về CPĐT cho các doanh nghiệp
và chính quyền địa phương
Then chốt để phát triển và nhân rộng được mô hình thì người sử dụng mô hình
đó (doanh nghiệp và chính quyền) phải có kỹ năng căn bản cần thiết để sử dụng cũng
như thấy rõ được những lợi ích mà mô hình đó mang lại, có như vậy mô hình triển
khai mới có thể mang lại hiệu quả cao, góp phần nâng cao năng lực làm việc chung
của cả chính quyền cũng như các doanh nghiệp. Do đó, cần phải tổ chức các chương
trình đào tạo trung và dài hạn về CPĐT, bảo mật an toàn dữ liệu, chứng thư số, chứng
thực số… cho cán bộ nhà nước và chủ doanh nghiệp, cử thêm cán bộ có kinh nghiệm
và chuyên môn tốt về giảng dạy riêng cho từng địa phương. Chương trình giảng dạy
cần phải có sự bài bản tùy theo mức độ tiếp thu của từng vùng, đi từ tổng quan đến
chuyên sâu, đảm bảo đáp ứng đúng những kiến thức cần có. Việc giảng dạy cần phải
có tính khoa học và có tính tác nghiệp thực tiễn, không thể chỉ dạy suông lý thuyết hay
nóng vội muốn nhanh đạt được mục tiêu mà dạy vượt mức. Vì thay đổi nhận thức,
quan điểm của một cá nhân là rất khó, cần phải có quá trình thích ứng làm quen và
thực tế, có như vậy dần dần họ mới thích ứng được với mô hình đối thoại trực tuyến
của VCCI.

Ngoài ra, cần phải đẩy mạnh phối hợp với các cấp chính quyền từ cấp tỉnh, địa
phương và trung ương nhằm tuyên truyền tính cấp thiết phải ứng dụng CPĐT qua các
phương tiện thông tin đại chúng hơn nữa đến mọi tầng lớp nhân dân cũng như các cán
bộ làm việc trong các đơn vị nhà nước, việc này cần phải được thực hiện bài bản và có
chiến lược dài hạn, nếu làm không đúng mức hoặc phương pháp, cách thức tuyên
truyền không phù hợp với tình hình của từng vùng miền, từng địa phương thì rất dễ
làm cho tính hiệu quả sẽ không cao, sẽ tốn chi phí, tài nguyên quốc gia mà không đạt
được gì đáng kể.
3.2.6. Học tập kinh nghiệm về phát triển CPĐT ở nước ngoài, đẩy mạnh phối
hợp với các tổ chức quốc tế có tiếng trong việc hỗ trợ phát triển CPĐT.
Kinh nghiệm về phát triển CPĐT của Việt Nam còn rất hạn chế, do vậy việc triển
khai các mô hình CPĐT sẽ gặp không ít khó khăn. Do vậy, việc nghiên cứu cũng như
học tập các kinh nghiệm về phát triển CPĐT của các quốc gia trên thế giới là rất hữu
ích. Nghiên cứu về đặc điểm, cách thức cũng như những thất bại mà các quốc gia khác
đã từng trải qua sẽ giúp chúng ta rút ra được nhiều kinh nghiệm, từ đó tham mưu cho
Chính phủ nhằm hoạch định chiến lược tổng thể, đồng bộ hơn cho phát triển CPĐT tại
Việt Nam trong thời gian sắp tới.
Ngoài ra, cũng cần phải đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức có tiếng về phát triển
CPĐT như NIC (tập đoàn công nghệ hỗ trợ phát triển dịch vụ công trực tuyến cho
chính phủ nổi tiếng tại Mỹ), IBM, Cisco… nhằm mục đích hỗ trợ, tư vấn về công
nghệ, bảo mật an toàn thông tin, các giải pháp về ứng dụng kỹ thuật ở mức độ tiên tiến
nhất hiện nay. Tiến tới phát triển một hệ thống CPĐT hiện đại, an toàn, chính xác và
thân thiện hơn trong tương lai tại Việt Nam. Vấn đề an toàn bảo mật hiện chính là một
trong những vấn đề yếu kém nhất của hạ tầng CNTT của Chính phủ Việt Nam, do vậy,
phát triển CPĐT buộc phải đi kèm với đẩy mạnh năng lực an toàn bảo mật. Trước mắt,
do năng lực cũng như nguồn nhân lực về mảng này còn hạn chế, vì vậy có thể sử dụng
phương thức liên kết hợp tác để giải quyết khó khăn một cách tạm thời, còn trong thời
gian tới thì ắt phải có chiến lược phát triển đồng bộ.
4. Kết luận



Việc triển khai CPĐT yêu cầu phải có sự lãnh đạo nhất quán và tầm nhìn vững
vàng. Nó cũng yêu cầu phải có một chiến lược toàn diện, không chỉ chú trọng đến các
phương thức triển khai hiệu quả nhất trên phạm vi toàn cầu mà còn phải rất nhạy bén
với các điều kiện tình hình thực tế hiện nay về chính trị và kinh tế.
Để CPĐT trở thành hiện thực, chính phủ, có tham khảo ý kiến của những người
tham gia, nên phát triển một Khung chiến lược quốc gia, trong đó bao gồm tầm nhìn,
mục tiêu và kế hoạch thực hiện của chính phủ, phương pháp và các tiêu chuẩn kỹ thuật
đối với các hệ thống CPĐT. Một khung cơ sở như vậy cần phải giải quyết các vấn đề
về tính riêng tư, an ninh của thông tin, việc bảo dưỡng và các tiêu chuẩn về giao diện.
Tuy nhiên, cũng cần phải nói ngay từ đầu rằng, một khung chiến lược quốc gia không
phải là điều kiện tiên quyết cho bất kỳ một dự án CPĐT nào. Nói một cách chính xác
hơn, không được dừng các dự án CPĐT quan trọng tại các bộ/ngành hay các cấp chính
quyền địa phương do thiếu khung chiến lược quốc gia. Quá nhiều chính phủ đã mất
nhiều năm và nhiều nguồn lực quí báu trong việc xây dựng chiến lược quốc gia, trong
khi họ có thể chuyển sang triển khai một số dự án trọng điểm. Những gì mà chính phủ
phải thực hiện là đảm bảo khung chiến lược quốc gia là một quá trình vẫn đang được
tiếp tục triển khai thực hiện chứ không chỉ dừng lại trên văn bản giấy tờ.
Có hai phương pháp để triển khai CPĐT. Phương pháp thứ nhất là phương pháp
từ trên xuống. Phương pháp này có đặc điểm là mức độ kiểm soát cao của chính quyền
trung ương và thường bao gồm cả việc phát triển chiến lược. Phương pháp thứ hai là
phương pháp từ dưới lên, trong đó mỗi một đơn vị hay chính quyền địa phương độc
lập phát triển các dự án riêng của mình, các tiêu chuẩn chung thường rất linh hoạt,
chiến lược tổng thể quốc gia không quan trọng lắm. Singapore và Trung Quốc triển
khai phương pháp từ trên xuống, trong khi Mỹ và Philippine lại áp dụng phương pháp
từ dưới lên. Mỗi một phương pháp có những lợi thế và nhược điểm riêng của mình.
Phương pháp từ trên xuống hỗ trợ việc tích hợp. Tuy nhiên, việc phát triển chiến lược
quốc gia, một vấn đề mà phương pháp này rất quan tâm, phải mất nhiều năm và các
quyết định về công nghệ có xu hướng nghèo nàn về mặt nội dung (do đó thường tốn
kém và khó đảo ngược). Phương pháp từ dưới lên thường không theo thứ tự và có

khuynh hướng rườm rà, nhưng nó cũng tạo ra sự cải tiến và đem lại nhiều kết quả là có
nhiều dự án được triển khai.
Cuối cùng, một phương pháp tốt nhất đối với CPĐT phụ thuộc vào từng đất
nước, vào việc hệ thống chính trị của đất nước đó hoạt động như thế nào và mức độ
thành thục công nghệ tại từng cơ quan của chính phủ. Ngoài ra, sự nhận thức và hỗ trợ
của dân chúng đối với CPĐT cũng đặc biệt quan trọng đối với sự thành công và khả
năng duy trì CPĐT. Do vậy, cần phải tham khảo, tư vấn với những người cùng tham
gia triển khai. Những người cùng tham gia bao gồm người dân, các tổ chức phi chính
phủ, doanh nghiệp, các ngành nghề khác nhau và bộ máy công quyền.
Điều đặc biệt quan trọng là cần phải hiểu rõ các xu thế trên toàn cầu nhằm học
tập các phương pháp tốt nhất cho các dự án và chiến lược CPĐT. Chỉ từ việc nghiên
cứu các kinh nghiệm thành công và thất bại của nước khác, đất nước mới có khả năng
xây dựng một cách hiệu quả chiến lược CPĐT của mình và tránh việc lãng phí thời
gian, sức lực và tiền của. Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước khác cũng cho phép
các chính phủ muốn phát triển các chiến lược CPĐT của mình có thể xác định được
các khu vực ưu tiên dựa trên bối cảnh văn hoá riêng biệt của mình.
------------------------------------------------------



×