Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Luận Văn: "Một số vấn đề về đổi mới kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam" pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.64 KB, 46 trang )



1













Luận Văn
"Một số vấn đề về đổi mới kế hoạch 5 năm phát
triển kinh tế xã hội ở Việt Nam"














2

PHẦN MỞ ĐẦU

Ngày nay xu thế hội nhập khu vực, thế giới và sự phát triển không
ngừng của phương thức sản xuất đã chi phối ngày càng mạnh mẽ vào
nền kinh tế xã hội của tất cả các quốc gia trên toàn thế giới, và Việt Nam
cũng không nằm ngoài sự chi phối đó .Nền kinh tế nước ta kể từ khi
công cuộc đổi mới được tiến hành, kinh tế thị trường ngày càng phát
triển mạnh mẽ theo nhiều chiều hướng khác nhau.Điều đó đã đặt ra cho
các cơ quan Nhà nước về quản lý kinh tế phải không ngừng đổi mới và
hoàn thiện các công cụ, chính sách quản lý và điều tiết nền kinh tế , từ
đó tạo ra một mức độ can thiệp hợp lý của Nhà nước vào nền kinh tế.
Thực tế đã chứng minh rằng, bằng công tác kế hoạch hoá Nhà nước ta
đã thực sự có trong tay một công cụ hiệu quả trong việc điều tiết thị
trường qua đó gián tiếp điều tiết nền kinh tế. Do vậy đổi mới và hoàn
thiện công tác kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân trở thành một vấn đề
hết quan trọng trong công cuộc đổi mới nền kinh tế nước ta. Khi công
tác kế hoạch hoá được đổi mới và hoàn thiện phù hợp với trình độ phát
triển của thị trường, sẽ tạo ra một sự hợp lý về mối quan hệ giữa kế
hoạch và thị trường, từ đó phân định rõ ràng “sân chơi” của chúng trong
một nền kinh tế có định hướng như của Việt Nam.


3

Vấn đề đổi mới và hoàn thiện công tác kế hoạch hoá ở nước ta luôn là
vấn đề được quan tâm chú ý ở tất cả các giai đoạn phát triển, vấn đề này
luôn được đề cập ở tất cả các kỳ họp đại hội của Đảng. Thông qua việc

phân tích bản chất của công tác kế hoạch hoá và thực trạng của nền kinh
tế nước ta và những yếu tố tác động khác qua từng thời kỳ nhất định,
chúng ta đã xác định được những công việc phải làm để đổi mới và hoàn
thiện công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam. Và như Đảng và Nhà nước đã
xác định thì đổi mới công tác kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế xã hội là
trọng tâm của công cuộc đổi mới kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội.
Để phục vụ cho bài tập đề án môn học cũng như việc học tập chuyên
ngành Kế hoạch, Em đã chọn đề tài “Một số vấn đề về đổi mới kế hoạch
5 năm phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam











4







5


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KẾ HOẠCH 5 NĂM
PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI 8
I. KẾ HOẠCH 5 NĂM TRONG HỆ THỐNG KẾ HOẠCH HOÁ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI. 8
1. Hệ thống kế hoạch hoá phân theo thời gian trong nền kinh tế
quốc dân 8
1.1. Kế hoạch dài hạn. 10
1.2 Kế hoạch trung hạn. 12
1.3. Kế hoạch ngắn hạn (kế hoạch năm- kế hoạch tác nghiệp). 12
2. Kế hoạch 5 năm trong hệ thông kế hoạch hoá phát triển kinh
tế-xã hội 13
2.1. Khái niệm và nội dung cơ bản của kế hoạch 5 năm 13
2.2. Sự cần thiết lựa chọn kế hoạch 5 năm làm kế hoạch trọng
tâm trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế –xã hội. 15
II. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG VÀ QUẢN LÝ KẾ
HOẠCH 5 NĂM 18
1. Nội dung các bộ phận cấu thành kế hoạch 5 năm. 18
1.1 Đánh giá thực trạng 18
1.2 Đưa ra các đự báo phát triển. 18


6

1.3 Xác định các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh
tế xã hội 19
1.4 Xây dưng hệ thống chỉ tiêu kế hoạch 5 năm. 19
1.5 Xây dựng các cân đối vĩ mô chủ yếu trong nền kinh tế 20
1.6 Xác định các chương trình phát triển kinh tế xã hội chủ

yếu 20
1.7. Xác định các chính sách, giải pháp chủ yếu thực hiện kế
hoạch 20
2. Hệ thống chỉ tiêu kế hoạch 5 năm 20
3. Một số phương pháp xây dựng và quản lý KH 5 năm PTKT-
XH 24
3.1. Phương pháp truyền thống 24
3.2. Phương pháp “cuốn chiếu” 26
PHẦN II: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI KẾ HOẠCH 5 NĂM Ở VIỆT
NAM 29
I. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KH 5 NĂM Ở VIỆT NAM TRONG
THỜI GIAN QUA 29
1. Một số kế hoạch 5 năm ở nước ta 29
2. Những nhận xét chung về tình hình xây dựng và thực hiện kế
hoạch 5 năm ở nước ta. 31
2.1. Những hiệu quả đạt được. 31


7

2.2. Một số vấn đề tồn tại. 34
II. SỰ CẦN THIẾT ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM
Ở VIỆT NAM 36
1. Những nguyên nhân chủ quan của việc đôi mới 36
2. Những nguyên nhân khách quan bên ngoài. 37
PHẦN III : PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI KẾ
HOẠCH 5 NĂM Ở VIỆT NAM 38
I. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI 38
1. Quan điểm đổi mới 38
2. Phương hướng đổi mới 40

II. NỘI DUNG ĐỔI MỚI 40
1. Đổi mới về tư duy và nhận thức về công tác kế hoạch hoá. 40
2. Đổi mới phương thức xây dựng và quản lý kế hoạch 5 năm.41
2.1. Đổi mới trong công đoạn lập kế hoạch 41
2.2 Trong công đoạn tổ chức và thực hiên kế hoạch. 41
2.3 Trong giám sát, đánh giá thực hiện kế hoạch 42
III. CÁC KIẾN NGHỊ 42
KẾT LUẬN……………
…………………………………………………………………27
TÀI LIỆU THAM KHẢO 43



8





PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
KẾ HOẠCH 5 NĂM PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI

I. KẾ HOẠCH 5 NĂM TRONG HỆ THỐNG KẾ HOẠCH HOÁ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI.
1. Hệ thống kế hoạch hoá phân theo thời gian trong nền kinh tế quốc
dân.
Hệ thống kế hoạch hoá là một hệ thống các loại hình thức kế hoạch
phát triển, đó là hệ thống các công cụ điều hành và quản lý vĩ mô nền
kinh tế của Nhà nước. Trong hệ thống kế hoạch hoá, mỗi loại hình kế

hoạch khác nhau có vai trò khác nhau và chúng có thể được phân loại
theo nhiều góc độ khác nhau.
Nếu xem xét hệ thông kế hoạch hoá theo góc độ nội dung thì hệ
thống kế hoạch hoá bao gồm các bộ phận cấu thành như: Chiến lược
phát triển kinh tế xã hội; Quy hoạch phát triển; kế hoạch phát triển và
các chương trình dự án phát triển.


9

Trong đó chiến lược phát triển kinh tế xã hội là hệ thống các phân
tích, đánh giávà lựa chọn về quan điểm mục tiêu tổng quát, định hướng
phát triển các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội và các giải pháp cơ
bản, trong đó bao gồm cácchính sách về cơ cấu, cơ chế vận hành hệ
thống kinh tế xã hội nhằm thực hiện mục tiêu đặt ra trong một khoảng
thời gian dài.
Quy hoạch phát triển là sự thể hiện của chiến lược phát triển trong
thực tiễn phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Quy hoạch phát triển thể
hiện tầm nhìn, sự bố trí chiến lược về thời gian và không gian lãnh thổ,
xây dựng khung vĩ môvề tổ chức không gian để chủ động hướng tới mục
tiêu đạt hiệu quả cao, phát triển bền vững trong tương lai.
Kế hoạch phát triển là một công cụ quản lý và điều hành vĩ mô nền
kinh tế quốc dân, nó là sự cụ thể hoá các mục tiêu định hướng của chiến
lược phát triển kinh tế xã hội theo từng thời kỳ bằng hệ thống các mục
tiêu chỉ tiêuvà chỉ tiêu biện pháp định hướngpt và hệ thống các chính
sách, cơ chế áp dụng trong thời kỳ kế hoạch.
Chương trình và dự án phát triển kinh tế xã hội được xem như là
một công cụ triển khai thực hiện các kế hoạch phát triển nhằm giải quyết
các vấn đề bức xúc về kinh tế và xã hội. Là một phương pháp kế hoạch
hoá được áp dụng nhiều nước trên thế giới, ở Việt Nam cùng với quá

trình đổi mới và mở cửa nền kinh tế phương pháp kế hoạch hoá quản lý


10
theo các chương trình dự án mà trọng tâm là các chương trình quốc gia
cũng được áp dụng rộng rãi từ những năm 1992.
Tóm lại khi xem xét hệ thống kế hoạch hoá dưới góc độ nội dung ta
thấy được rằng kế hoạch hoá là một quá trình liên tiếp nhau, bổ trợ nhau
và thể hiện mối quan hệ định hướng và thực hiện giữa các bộ phận cấu
thành của hệ thống kế hoạch hoá.
Khi chúng ta xem xét hệ thống kế hoạch hoá ở góc độ thời gian thì
hệ thống kế hoạch hoá lại được phân chia thành 3 loại kế hoạch chủ yếu
là: Kế hoạch dài hạn; kế hoạch trung hạn và kế hoạch ngắn hạn.
1.1. Kế hoạch dài hạn.
Khi nói kế hoạch dài hạn ta có thể hiểu đó là những chiến lược phát
triển kinh tế xã hội có khoảng thời gian từ 10 đến 20 năm. Và ngoài
chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm, 20 năm chúng ta còn có thể
có các chiến lược phát triển kinh tế xã hội có thời gian dài từ 20 đến 25
năm và chúng được gọi là “tầm nhìn”. Để tạo thuận lợi cho việc xây
dựng và bố trí các chiến lược phát triển kinh tế xã hội cho10 năm, “tầm
nhìn thường có nội dung tổng quát hơn, linh động hơn hay mềm hơn và
có tính chất định tính hơn so với chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
Điều quan trọng của việc phân định giữa chiến lược phát triển kinh tế xã
hội và tầm nhìn là phải thống nhất về mục tiêu định hướng của chúng


11
sao cho những bước đi trước “thuận” và tạo tiền đề cho bước đi sau đồng
thời có khả năng hiệu chỉnh khi cần thiết.
Một kế hoạch dài hạn thường có nội dung để giải đáp những câu

hỏi: Chúng ta đang đứng ở đâu? Muốn đi đến đâu? Đi bằng cách nào?
Và làm thế nào để biết được chúng ta đã đi đến đó? Để trả lời mỗi một
câu hỏi trên chúng ta phải tiến hành những công việc cụ thể như:
- Nhận dạng thực trạng của nền kinh tế : Quá trình nhận dạng thực
trạng phải được đánh giá toàn diện và trong một khoảng thời gian dài
tương đương với thời kỳ của chiến lược phát triển sẽ xây dựng. Nó là cơ
sở để rút ra kết luận đúng đắn cho câu hỏi: Chúng ta đang đứng ở đâu?.
- Xây dựng các quan điểm phát triển, đó là những tư tưởng chủ đạo
thể hiện tính định hướng của các kế hoạch dài hạn. Việc xác định các
quan điểm chủ dạo có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm ra các bước
ngoặt của con đường phát triển , nó tạo động lực cơ bản xuyên xuốtquá
trình phát triển của đất nước.
- Xây dựng hệ thống mục tiêu, các mục tiêu chủ yếu là mục tiêu
tổng quát, chủ yếu tập trung vào các vấn đề nâng cao đời sống xã hội của
các tầng lớp dân cư, thay đổi bộ mặt đất nước, tạo thế vững chắc cho đất
nước, phản ánh những biến đổi quan trọng của nền kinh tế.
- Xây dựng hệ thống chính sách và biện pháp. Đây là thể hiện sự
hướng dẫn về cách thức thực hiện các mục tiêu đề ra. Nó bao gồm các


12
chính sách và biện pháp về cơ cấu và cơ chế vận hành hwj thống kinh tế
–xã hội, các chính sách về bồi dưỡng , khai thác, huy động, phân bổ và
sử dụng hợp lý cá nguồn lực phát triển.
1.2 Kế hoạch trung hạn.
Kế hoạch trung hạn là những kế hoạch có khoảng thời gian từ 3 đến
10 năm. Ở một số nước trên thế giới như nước Pháp, khi phân chia theo
thời gian thì hình thức duy nhất của kế hoạch là kế hoạch 5 năm, nước
Đức thường xây dựng kế hoạch trung hạn 5 năm, ở Malaysia có kế
hoạch trung hạn 5 năm, kế hoạch trung hạn 3 năm, ở Việt Nam kế hoạch

trung hạn thường là kế hoạch 5 năm.
Kế hoạch trung hạn (kế hoạch 5 năm) là sự cụ thể hoá các chiến
lược phát triển kinh tế xã hội và quy hoạch phát triển trong lộ trình phát
triển dài hạn của đất nước. Kế hoạch trung hạn xác định các mục tiêu chỉ
tiêu tăng trưởng kinh tế, nâng cao phúc lợi xã hội trong thời kỳ kế hoạch
và xác định các cân đối, các chính sách phân bổ nguồn lực, vốn cho các
chương trình phát triển của khu vực kinh tế Nhà nước và khuyến khích
sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
1.3. Kế hoạch ngắn hạn (kế hoạch năm- kế hoạch tác nghiệp).
Trong hệ thống kế hoạch phát triển thì kế hoạch 5 năm là công cụ
chính sách định hướng còn kế hoạch hàng năm là công cụ thực hiện. Đặc
biệt nếu thực hiện kế hoạch 5 năm theo hình thức “cuốn chiếu” thì kế


13
hoạch hàng năm thực chất sẽ là một phần định hướng của kế hoạch 5
năm. Vì vậy, vai trò hay chức năng đầu tiên của kế hoạch năm là cụ thể
hoá kế hoạch 5 năm, phân đoạn kế hoạch 5 năm để từng bước thực hiện
kế hoạch 5 năm. Quy mô và sự cấu thành của kế hoạch năm vì thế chủ
yếu đươc quyết định bởi ngân sách, các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm, các tiến
trình trong nghiên cứu khả thi và những dự án triển khai trong thời kỳ
trước. Bên cạnh đó kế hoạch năm còn là công cụ để điều chỉnh kế hoạch
5 năm có tính đến đặc điểm của từng năm. Ngoài ra, kế hoạch hàng năm
còn đóng vai trò độc lập quan trọng, nó có thể bao hàm các nhiệm vụ,
các chỉ tiêu chưa được dự kiến trong kế hoạch 5 năm, bảo đảm tính linh
hoạt, nhạy bén của kế hoạch hoá nói chung.
2. Kế hoạch 5 năm trong hệ thông kế hoạch hoá phát triển kinh tế-xã
hội.
2.1. Khái niệm và nội dung cơ bản của kế hoạch 5 năm.
Kế hoạch 5 năm là sự cụ thể hoá các chiến lược phát triển kinh tế xã

hội và quy hoạch phát triển trong lộ trình phát triển dài hạn của đất nước.
Kế hoạch 5 năm xác định các mục tiêu chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, nâng
cao phúc lợi xã hội trong thời kỳ kế hoạch và xác định các cân đối, các
chính sách phân bổ nguồn lực, vốn cho các chương trình phát triển của
khu vực kinh tế Nhà nước và khuyến khích sự phát triển của khu vực
kinh tế tư nhân. Nội dung chủ yếu của việc lập kế hoạch 5 năm bao gồm:


14
- Xác định nhiệm vụ tổng quát và các mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu phát
triển kinh tế –xã hội của đất nước trong giai đoạn 5 năm như: Mục
tiêu tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, huy động tiết
kiệm, các chỉ tiêu về phúc lợi xã hội …
- Xác định các chương trình và lĩnh vực phát triển . Các vấn đề được
đưa vào chương trình và lĩnh vực phát triển có sự lựa chọn, nó thực
sự phải là các vấn đề nổi cộm, trọng yếu cho sự phát triển bền vững
của nền kinh tế. Các chương trình phát triển chính là cơ sở hoàn thành
các nhiệm vụ và mục tiêu phát triển của kỳ kế hoạch 5 năm.
- Phần xây dựng các giải pháp lớn của kế hoạch 5 năm sẽ bao gồm 2
nội dung cơ bản: Một là xác định các cân đối vĩ mô chủ yếu: Cân đối
vốn đầu tư, cân đỗi xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán quốc tế, cân
đối sức mua toàn xã hội; xác định các khả năng thu hút vốn cả trong
và ngoài nước,đồng thời xác định những quan hệ lớn về phân bổ đầu
tư giữa các vùng kinh tế, giữa công nghiệp, nông nghiệp và các lĩnh
vực văn hoá, xã hội; xác định các quan hệ cung cầu một số hàng hoá
vật tư chủ yếu. Hai là xây dựng, hoàn thiện những vấn đề cơ chế
quản lý, các chính sách kinh tế, về hiệu lực bộ máy quản lý và các
vấn đề tổ chức thực hiện.
Trong hệ thống kế hoạch hoá kế hoạch 5 năm vừa là sự cụ thể hoá
các chiến lược phát triển kinh tế xã hội và quy hoạch phát triển vừa là



15
công cụ định hướng cho các kế hoạch hàng năm. Dựa vào hệ thống chỉ
tiêu mục tiêu và các cân đối lớn của kế hoạch 5 năm các kế hoạch hàng
năm được xây dựng, từ đó đảm bảo sự thống nhất về mục tiêu của kế
hoạch hàng năm với kế hoạch 5 năm và mục tiêu định hướng của quy
hoạch phát triển và chiến lược phát triển. Từ đó ta có thể thấy được kế
hoạch 5 năm là cầu nối giữa chiến lược phát triển, quy hoạch phát triển
với các kế hoạch hàng năm hay là cầu nối biến các mục tiêu mang tính
định tính cao thành các công việc cụ thể bằng việc theo đuổi mục tiêu
hàng năm mang tính định lượng nhiều hơn.
2.2. Sự cần thiết lựa chọn kế hoạch 5 năm làm kế hoạch trọng
tâm trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế –xã hội.
Nghị quyết Đại hội 9 của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định
“xây dựng kế hoạch 5 năm trở thành công cụ chủ yếu của hệ thống kế
hoạch hoá phát triển”.
Trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội ta thấy kế
hoạch 5 năm (kế hoạch trung hạn) là loại hình kế hoạch có khoảng thời
gian nằm giữa kế hoạch dài hạn (chiến lược phát triển, quy hoạch phát
triển ) và kế hoạch ngắn hạn(kế hoạch hàng năm). Do vậy khi xét về mặt
thời gian thì điều đâu tiên ta thấy kế hoạch 5 năm đã đảm bảo mối quan
hệ giữa kinh tế và chính trị. Do khoảng thời gian 5 năm vừa đúng bằng
một nhiệm kỳ làm việc của cơ quan chính phủ, là thời hạn mà theo đó lợi


16
tức đầu tư bắt đầu có sau 1 năm hoặc một vài năm, do vậy tạo thuận lợi
cho việc tập trung quan điểm lãnh đạo, thuận lợi cho việc đổi mới và
hoàn thiện việc thực hiện các kế hoạch phát triển mới. Khi một nhiệm kỳ

làm việc của chính phủ kết thúc cũng là lúc một kế hoạch 5 năm kết
thúc, do vậy trong quá trình thực hiện kế hoạch phát triển nếu còn tồn tại
những hạn chế hay không đạt được những mục tiêu đã đề ra, việc quy
kết trách nhiệm sẽ dễ dàng hơn. Từ đó buộc mỗi cá nhân có trách nhiệm
thực hiện mục tiêu chung một cách tốt nhất, không để xảy ra tình trạng
thiếu tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao rồi
bắt người đi sau (nhiệm kỳ sau) phải giải quyết hậu quả do chính mình
gây ra.
Kế hoạch 5 năm là khoảng thời gian đủ ngắn để đảm bảo tính chính
xác của các mục tiêu đề ra. Do sự biến động không ngừng của nền kinh
tế, sự phát triển mạnh mẽ không ngừng của nền sản xuất xã hội cũng như
việc hiện đại hoá các công cụ dự báo…dẫn đển rủi ro cao đối với các chỉ
tiêu của các kế hoạch dài hạn.
Đối với kế hoạch 1 năm thì khoảng thời gian 1 năm không đủ để
đánh giá những phát sinh của chương trình dự án. Những chương trình
dự án khi hoàn thành đôi khi chưa bộc lộ hiệu quả hay những phát sinh
ngay mà phải trải qua một thời gian đi vào sử dụng do vậy trong vòng
một năm không thể nhận biết được điều đó. Trong khi đó kế hoạch 5


17
năm đủ dài để đánh giá các chính sách giải pháp, chương trình dự
án…và tiến hành sử lý những phát sinh.
Trong quá trình lập kế hoạch thì công việc thu thập, sử lý thông tin
đòi hỏi một thời gian khá dài do vậy kế hoạch hàng năm sẽ gặp rất nhiều
khó khăn trong vấn đề đó bởi vì quá trình thu thập, sử lý thông tin sẽ làm
ảnh hưởng tới tiến độ thực hiện các hoạt động của kế hoạch đề ra.
Khi nghiên cứu vai trò của kế hoạch 5 năm dưới góc độ nội dung ta
thấy: Trước hết nội dung của kế hoạch 5 năm là sự cụ thể hoá các mục
tiêu định hướng, các “ tầm nhìn” của các chiến lược phát triển kinh tế xã

hội nội dung được đề cập trong kế hoạch 5 năm là các vấn đề được lựa
chọn, nó thực sự là các vấn đề nổi cộm, trọng yếu cho sự phát triển bền
vững cho sự phát triển của nền kinh tế. Trong hệ thống chỉ tiêu của mình
kế hoạch 5 năm xác định rõ các cân đối vĩ mô chủ yếu: Cân đối vốn đầu
tư, cân đỗi xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán quốc tế, cân đối sức mua
toàn xã hội; xác định các khả năng thu hút vốn cả trong và ngoài nước,
đồng thời xác định những quan hệ lớn về phân bổ đầu tư giữa các vùng
kinh tế, giữa công nghiệp, nông nghiệp và các lĩnh vực văn hoá, xã hội;
xác định các quan hệ cung cầu một số hàng hoá vật tư chủ yếu. Ngoài ra
kế hoạch 5 năm còn xây dựng, hoàn thiện những vấn đề cơ chế quản lý,
các chính sách kinh tế, về hiệu lực bộ máy quản lý và các vấn đề tổ chức
thực hiện.


18
Do vậy khi hệ thống chỉ tiêu và các giải pháp của kế hoạch 5 năm
được đảm bảo thì việc xây dựng các kế hoạch hàng năm trở lên dễ dàng
hơn và mục tiêu của các cấp kế hoạch sẽ luôn được thống nhất.
Tóm lại vai trò của kế hoạch 5 năm là rất quan trọng và việc đưa kế
hoạch 5 năm trở thành trọng tâm chủ yếu trong hệ thống kế hoạch hoá
phát triển là hoàn toàn đúng đúng đắn.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG VÀ QUẢN LÝ KẾ HOẠCH 5
NĂM
1. Nội dung các bộ phận cấu thành kế hoạch 5 năm.
Nội dung của một kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế xã hội bao gồm :
1.1 Đánh giá thực trạng.
Đánh giá thực trạng ở đây bao gồm: Đánh giá tình hình thực hiện kế
hoạch 5 năm của thời kỳ trước, mức độ hoàn thành các chỉ tiêu đã đề ra
của kế hoạch từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho kỳ kế hoạch 5
năm sắp tới; Đánh giá tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, cơ sở hạ

tầng… trong nước và ngoài nước cùng các nhân tố ảnh hưởng khác;
Đánh giá các nguồn lực làm cơ sở cho quá trình phát triển tiếp theo.
1.2 Đưa ra các đự báo phát triển.
Bằng các công cụ và phương pháp dự báo, các nhà dự báo đưa ra
những dự báo phát triển kinh tế xã hội. Ví dụ như dự báo về khả năng
vốn đầu tư; dự báo về khả năng ngân sách; khả năng nguồn lao động…


19
1.3 Xác định các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế
xã hội.
Dựa vào các chiến lược phát triển kinh tế xã hội, các quy hoạch phát
triển mà nó đang phục vụ hệ thống quan điểm mục tiêu của kế hoạch 5
năm được xây dựng.
Hệ thống quan điểm mục tiêu của kế hoạch 5 năm có chức năng cụ
thể hoá các mục tiêu định hướng của chiến lược phát triển kinh tế xã hội,
không được xa rời mục tiêu chính của chiến lược đã đề ra.
1.4 Xây dưng hệ thống chỉ tiêu kế hoạch 5 năm.
Hệ thống chi tiêu trong kế hoạch phát triển được hiểu là thước đo
cụ thể nhiệm vụ cần đạt được trong thời kỳ kế hoạch. Các thước đo này
thể hiện cả về số lượng và chất lượng. Nó cho phép xác định nội dung cơ
bản của quá trình phát triển kinh tế, các bộ phận cấu thành cụ thể của nó
và được Nhà nước sử dụng dể thực hiện quá trình điều tiết nền kinh tế.
Hệ thống chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm chủ yếu mang tính định
hướng phát triển như: tốc độ tăng trưởng kỳ kế hoạch, tỉ trong công
nghiệp nông nghiệp và dịch vụ trong GDP; tỷ trọng lao động xã hội làm
việc trong các ngành nói trên; thu nhập bình quân đầu người; tốc độ tăng
trưởng năng suất lao động; kim ngạch xuất khẩu v v



20
1.5 Xây dựng các cân đối vĩ mô chủ yếu trong nền kinh tế.
Đây cũng là một nội dung quan trọng của công tác kế hoạch hoá.
Kế hoạch 5 năm xây dưng và bảo đảm một số cân đối lớn:
- Cân đối vốn đầu tư phát triển.
- Cân đối thanh toán quốc tế.
- Cân đối ngân sách Nhà nước.
- Cân đối lao động-việc làm.
- Cân đối tích luỹ-tiêu dùng.
- Cân đối cung- cầu một số vật tư hàng hoá chủ yếu.
1.6 Xác định các chương trình phát triển kinh tế xã hội chủ yếu.
Các kế hoạch 5 năm có thể được triển khai bằng các kế hoạch hàng
năm, các chương trình phát triển kinh tế. Do vậy trong nội dung của kế
hoạch 5 năm cần xác định những bộ phận triển khai chủ yếu.
1.7. Xác định các chính sách, giải pháp chủ yếu thực hiện kế
hoạch.
Đây là một phần rất quan trọng của bản kế hoạch, nếu không đề ra
các chính sách, giải pháp thì tất cả các công đoạn ở trên không có tác
dụng. Các giải pháp chỉ ra cách thức hoạt động nhằm thực hiện các mục
tiêu đã đề ra.
2. Hệ thống chỉ tiêu kế hoạch 5 năm.


21
Một nội dung quan trọng không thể thiếu của kế hoạch nói chung và
kế hoạch 5 năm nói riêng đó là xây dựng hệ thống chỉ tiêu. Hệ thống chi
tiêu trong kế hoạch phát triển được hiểu là thước đo cụ thể nhiệm vụ cần
đạt được trong thời kỳ kế hoạch. Các thước đo này thể hiện cả về số
lượng và chất lượng. Nó cho phép xác định nội dung cơ bản của quá
trình phát triển kinh tế, các bộ phận cấu thành cụ thể của nó và được Nhà

nước sử dụng dể thực hiện quá trình điều tiết nền kinh tế. Có nhiều cách
phân loại hệ thống chỉ tiêu kế hoạch:
- Đứng trên góc độ phạm vi tính toán, hệ thống chỉ tiêu bao gồm các
chỉ tiêu kế hoạch quốc gia như: Chỉ tiêu phản ánh chương trình phát
triển kinh tế đất nước, các dự báo kinh tế-xã hội, các chỉ tiêu của hệ
thốngài khoản quốc gia, nguồn ngân sách Chính phủ và tài chính Nhà
nước. Các chỉ tiêu kế hoạch của tỉnh, thành phố bao gồm các chỉ tiêu
phản ánh chương trình phát triển của các vùng và ngân sách địa phương.
Hệ thống các chỉ tiêu phát triển của từng ngành, nội bộ ngành như công
nghiệp, nông nghiệp và phát triển nông thôn, giao thông, bưu chính viễn
thông…
- Đứng trên góc độ nội dung, hệ thống chỉ tiêu được chia thành các
chỉ tiêu phát triển kinh tế và các chỉ tiêu phát triển xã hội. Các chỉ tiêu
phát triển kinh tế đặt ra nhiệm vụ về tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và những cân đối nguồn lực chủ yếu. Ví đụ trong kế hoạch 5


22
năm 2001-2005 của nước ta chỉ tiêu kinh tế bao gồm một số chỉ tiêu
như: Đưa GDP năm 2005 bằng 2 lần GDP năm 2001. Tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân mỗi năm là 7,5%/năm trong đó tốc độ tăng
trưởng bình quân của ngành nông nghiệp là 4,3%/năm, ngành công
nghiệp, xây dựng cơ bản là 10,8%/năm và ngành dịch vụ là 6,2%/năm;
Chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất của từng ngành : nông nghiệp
tăng 4,8%/năm,công nghiệp tăng 13%/năm, dịch vụ tăng 7,5%/ năm; Chỉ
tiêu cơ cấu ngành kinh tế theo GDP : Nông nghiệp chiếm 20-21%, công
nghiệp 38-39%, dịch vụ41-42%; Chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng kim ngạch
xuất khẩu bình quân năm là16%/năm và một số chỉ tiêu khác…
Các chỉ tiêu xã hội đưa ra các mục tiêu giải quyết các vấn đề như:
Xoá đói giảm nghèo, công bằng xã hội, phát triển y tế giáo dục, khoa

học-công nghệ và các mục tiêu xã hội khác. Trong KH 5 năm PTKT-XH
2001-2005 một số chỉ tiêu xã hội như: Về giáo dục có chỉ tiêu học sinh
đến trường trong độ tuổi đến năm 2005: Trung học cơ sở là 80%, phổ
thông trung học là 45%; Chỉ tiêu về dân số: Giảm tỉ lệ sinh bình quân
0,05%/năm;Tốc độ tăng dân số tự nhiên là 1,2%/năm;
Tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động trong vòng 5 năm (trung bình
1,5 triệu lao động /năm); Tỉ lệ lao động qua đào tạo đến 2005 là 30%;
Về y tế-chăm sóc sức khoẻ: Đảm bảo nhu cầu thuốc chữa bệnh 40%; Tỉ
lệ trẻ em suy dinh dưỡng 22-5%(2005).


23
Để thực hiện sự gắn bó giữa phát triển kinh tế với phát triển xã
hội, hiện nay người ta thường đặt ra các chỉ tiêu lồng ghép. Các chỉ tiêu
lồng ghép đảm bảo thể hiện được cả hai yêu cầu trong một chỉ tiêu. Ví
dụ chỉ tiêu thu nhập bình quân trên đầu người, nhu cầu việc làm mới
v v
- Đứng trên góc độ quản lý, hệ thống kế hoạch có chỉ tiêu pháp
lệnh, chỉ tiêu hướng dẫn và chỉ tiêu dự báo. Chỉ tiêu pháp lệnh được
Quốc hội và Chính phủ phê duyệt và trở thành bắt buộc phải hoàn thành
trong thờ kỳ kế hoạch. Chỉ tiêu hướng dẫn thường mang tính định hướng
hoạt động của các ngành, dịa phương, các đơn vị kinh tế và dùng để
phân tích, so sánh đánh giá mức độ phát triển của các đối tượng kế
hoạch hoá. Các chỉ tiêu dự báo ở tầm vĩ mô làm cơ sở luận chứng cho
các chỉ tiêu pháp lệnh phê chuẩn và được xem như các số liệu, thông tin
kinh tế cho các đơn vị kinh tế, các ngành, địa phương và các cơ quan có
liên quan tham khảo.
- Theo phạm vi đơn vị đo lường, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch gồm có các
chỉ tiêu hiện vật và chỉ tiêu giá trị. Chỉ tiêu hiện vật xác định mặt vật
chất của sản xuất, được đo lường bằng các đơn vị đo hiện vật như:

Cái, trọng lượng, kích thước, dung tích v v Chỉ tiêu hiện vật có tác
dụng xác định cụ thể quy mô của sản xuất và dịch vụ, nó đưa ra khả
năng thiết lập mối quan hệ trực tiếp giữa mục tiêu sản xuất sản phẩm


24
với khối lượng nhu cầu cung cấp các hàng hoá trung gian. Chỉ tiêu
giá trị đo lường cácnhiệm vụ, mục tiêu và quy mô phát triển của nền
kinh tế dưới hình thái tiền tệ,nó được sử dụng để hình thành các cân
đối vĩ mô, cá con số phản ánh tổng hợp nội dung phát triển kinh tế,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hướng phát triển của các ngành, vùng
v v
- Ngoài các cách phân loại chủ yếu trên, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch còn
được chia thành chỉ tiêu tương đối và chỉ tiêu tuyệt đối; chỉ tiêu phản
ánh chất lượng và số lượng. Tất cả các chỉ tiêu đều góp phần tăng
cường tính định lượng trong kế hoạch hoá phát triển. Tuy vậy, để
thích ứng với các điều kiện thường xuyên biến đổi của kinh tế thị
trường và theo yêu cầu phát triển ngày càng cao của đời sống, xã hội,
các kế hoạch phát triển hiện nay đặt trọng tâm vào các chỉ tiêu xã hội,
các chỉ tiêu giá trị, cá chỉ tiêu mang tính chất hướng dẫn và dự báo.
3. Một số phương pháp xây dựng và quản lý KH 5 năm PTKT-XH.
3.1. Phương pháp truyền thống.
Xây dựng và quản lý các KH 5 năm theo phương pháp truyền thống
đã được áp dụng từ rất lâu trong hệ thông kinh tế xã hội chủ nghĩa, và
ngày nay nền kinh tế nước ta vẫn còn áp dụng dưới những hình thức
khác nhau. Đặc trưng của phương pháp này, như chúng ta đã biết, đó là:
khoảng thời gian của thời kỳ 5 năm là cố định( ví dụ: kế hoạch 5 năm


25

1996-2000; 2001-2005); thích ứng với khoảng thời gian cố định, chỉ tiêu
kế hoạch được xây dựng một lần cho cả thời kỳ 5 năm, các mục tiêu phát
triển thường là con số bình quân hàng năm hoặc tính cho năm cuối của
kỳ kế hoạch. Mô hình trên hoàn toàn phù hợp trong thời kỳ kế hoạch
hoá tập trung với nền kinh tế kế hoạchá ổn định, quá trình phát triển sau
được xem như là “quá trình trước cộng thêm một bước”; kinh tế trong
nước là một tổng thể thống nhất bao gồm thành phần kinh tế XHCN là
chủ yếu, các mối quan hệ kinh tế quốc tế cũng được xác diịnh trước theo
kế hoạch chung của hội đồng tương trợ kinh tế. Tuy vậy, nếu nhìn nhận
ở góc độ chức năng của kế hoạch trong nền kinh tế thị trường là điều tiết
các quan hệ thị trường, kế hoạchắc phục các khuyết tật của thị trường,
bổ sung và hướng thị trường hoạt động theo mục tiêu của xã hội thì
phương pháp truyền thống tỏ ra có nhiều hạn chế. Chỉ tiêu kế hoạch xây
dựng một lần cho cả thời kỳ 5 năm sẽ không cập nhật được các biến
động của thị trường; sự thay đổi môi trường kinh tế trong nước và quốc
tế làm cho các con số kế hoạch trở lên lạc hậu, thiếu tính linh hoạt và
khả năng hiệu chỉnh. Việc quản lý và điều hành vĩ mô nền kinh tế quốc
dân vì thế mà trở nên cứng nhắc, kém hiệu quả, thậm chí sai lẹch. Những
căn bệnh như: chủ quan, duy ý chí hoặc quan liêu sẽ sảy ra. Hơn nữa
không phải chương trình dự án hoặc chính sách nào cũng được sây dựng
và triển khai bó gọn trong một thời kỳ 5 ăm nhất định. Khi các chính

×