Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Phân Tích Những Tác Động Của Tình Trạng Đô La Hóa Ở Việt Nam Và Các Biện Pháp Khắc Phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (660.39 KB, 44 trang )

trêng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n
khoa ng©n hµng – tµi chÝnh
------

BµI TËP NHãM
TµI CHÝNH QuèC TÕ
Đề tài: Phân tích những tác động của tình trạng đôla
hóa ở Việt Nam và các biện pháp khắc phục

MỤC LỤC
3.2. Giai đoạn 2001 đến 2006..............................................................................................................................17


LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, cùng
với sự phát triển không ngừng của quan hệ thương mại giữa các quốc gia
dẫn tới sự xâm nhập mạnh mẽ của các ngoại tệ mạnh vào một số nền kinh tế
gây nên hiện tượng đôla hóa. Có thể nói đôla hóa là hiện tượng phổ biến ở
các nước đang phát triển đang trong quá trình chuyển đổi trong đó có Việt
Nam. Ở Việt Nam hiện nay đôla hóa đang là vấn đề nóng bỏng thu hút sự
quan tâm của các nhà nghiên cứu kinh tế đồng thời cũng là mối lo ngại của
các nhà hoạch định chính sách. Việc tìm ra những giải pháp hiệu quả nhằm
hạn chế những tác động tiêu cực của hiện tượng này lên nền kinh tế là một
nhiệm vụ cấp bách. Chính vì vậy đề tài “Phân tích những tác động của
tình trạng đôla hóa ở Việt Nam và các biện pháp khắc phục’’ đã được
chọn.

2


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÔLA HÓA


I. Tổng quan về đôla hóa
1. Khái niệm đôla hóa
Đôla hóa là hiện tượng xảy ra khi ngoại tệ được sử dụng rộng rãi để thay
thế một phần hoặc toàn bộ nội tệ để thực hiện một số chức năng của tiền.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại, tiền có ba chức năng: làm
phương tiện trao đổi, đơn vị đo lường và cất trữ giá trị. Đối với những nền
kinh tế bị đô la hóa ngoại tệ được sử dụng rộng rãi trong việc niêm yết giá
hàng hóa dịch vụ, trong thanh toán và trong cất trữ. Bất kỳ một ngoại tệ nào
(như đôla Mỹ, Euro, Yên Nhật…) đều có khả năng thay thế đồng nội tệ dẫn
đến hiện tượng đôla hóa, tuy nhiên trong một thời gian dài USD được nhìn
nhận là đồng tiền mạnh nhất thế giới, được sử dụng rộng rãi nhất trong các
quan hệ thương mại quốc tế nên trong bài đôla hóa là để chỉ sự thay thế nội
tệ của USD.
Mức độ sử dụng ngoại tệ để thay thế các chức năng của nội tệ thể hiện
dưới hai dạng:
Thứ nhất là sự thay thế tài sản: đó là việc công chúng nắm giữ trái
phiếu nước ngoài; tài khoản tiền gửi tiết kiệm tiền gửi ngoại tệ ở nước ngoài;
tài khoản tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ trong nước với mục đích cất trữ giá trị
hạn chế tác động của việc đồng nội tệ mất giá khi làm phát xảy ra.
Thứ hai là sự thay thế tiền tệ: đó là việc người dân nắm giữ ngoại tệ
tiền mặt, tài khoản tiền gửi thanh toán bằng ngoại tệ trong hệ thống ngân
hàng trong nước để thực hiện chức năng phương tiện thanh toán. Giá hàng
hóa, dịch vụ cũng được niêm yết bằng ngoại tệ và người dân sử dụng ngoại
tệ để thanh toán cho hàng hóa, dịch vụ đó.

3


2. Phân loại đôla hóa
Tùy theo mức độ sử dụng rộng rãi USD trong nền kinh tế và thái độ của

quốc gia đó đối với việc thừa nhận hay không thừa nhận mà Đô la hóa được
chia làm 3 mức độ:
Đôla hóa chính thức là hiện tượng xảy ra khi một quốc gia sử dụng
ngoại tệ là tiền tệ chính thức, hoàn toàn thay thế nội tệ. Trong những nền
kinh tế đôla hóa chính thức nội tệ không còn tồn tại hoặc chỉ tồn tại dưới
dạng tiền xu với mệnh giá nhỏ và không có nhiều ý nghĩa trong việc thực
hiện các chức năng của tiền. Trong khi đó ngoại tệ là tiền tệ chính thức được
sử dụng với cả 3 chức năng: phương tiện thanh toán, đơn vị đo lường và cất
trữ giá trị. NHTW của những quốc gia này chỉ tồn tại trên danh nghĩa không
có vai trò gì trong việc điều hành chính sách tiền tệ, chính sách tiền tệ của
quốc gia phụ thuộc hoàn toàn vào chính sách của Cục dự trữ liên bang Mỹ.
Hầu hết các quốc gia có nền kinh tế đôla hóa chính thức chỉ chọn một ngoại
tệ làm tiền tệ chính thức. Do mọi người đều coi đồng tiền quốc gia là biểu
tượng chủ quyền dân tộc, mất đi đồng tiền có nghĩa là giao quyền điều hành
chính sách tiền tệ cho NHTW nước ngoài vì vậy hiện tượng đôla hóa chính
thức không phổ biến thường chỉ xảy ra ở những nước có nền kinh tế nhỏ.
Một nước chỉ từ bỏ đồng nội tệ chấp nhận ngoại tệ là tiền tệ chính thức khi
chính phủ nước đó không còn cách nào khác để đưa nền kinh tế thoát khỏi
khủng hoảng suy thoái và tình trạng mất ổn định kéo dài.
Đôla hóa không chính thức là hiện tượng xảy ra khi người dân một
nước nắm giữ số lượng lớn tài sản bằng ngoại tệ, tuy nhiên nội tệ vẫn là
đồng tiền chính thứ, hợp pháp của quốc gia đó. Trong những nền kinh tế bị
đôla hóa không chính thức, ngoại tệ được công chúng ưa chuộng nắm giữ
4


dưới dạng tài sản như: ngoại tệ tiền mặt, trái phiếu nước ngoài, tài khoản
tiền gửi ngoại tệ ở nước ngoài, tài khoản tiền gửi ngoại tệ trong nước. Các
nhà kinh tế nhìn chung đồng nhất đôla hóa không chính thức với thay thế tài
sản có nghĩa là ngoại tệ được nắm giữ chủ yếu với chức năng cất trữ giá trị

nhằm giảm tác động của việc đồng nội tệ mất giá trong điều kiện lạm phát.
Tuy nhiên tùy thuộc vào mức độ đôla hóa trong nền kinh tế và tùy thuộc vào
những quy định hạn chế trong hệ thông pháp luật của từng quốc gia về vấn
đề sử dụng ngoại tệ mà có những quốc gia ngoại tệ còn được sử dụng trong
cả thanh toán và niêm yết giá hàng hóa dịch vụ. Thông thường, trong các
quốc gia này, các khoản mục như lương, thuế, những hàng hóa dịch vụ bình
thường vẫn được thanh toán bằng nội tệ còn những hàng hóa, dịch vụ xa xỉ
hay trong hoạt động kinh doanh bất động sản thì được niêm yết và thanh
toán bằng ngoại tệ. Việt Nam là một trong số các nước có nền kinh tế bị đôla
hóa không chính thức.
Đôla hóa bán chính thức là hiện tượng mà trong nền kinh tế có sự lưu
hành chính thức hai đồng tiền. Ở những quốc gia này ngoại tệ là đồng tiền
lưu hành hợp pháp và chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng số tiền gửi ngân
hàng nhưng việc trả lương, nộp thuế và các chi tiêu hàng ngày vẫn đc thực
hiện bằng nội tệ. Các nước này vẫn duy trì NHTW để thực thi chính sách
tiền tệ của họ.

II. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN ĐÔLA HÓA
1. Nguyên nhân chủ quan
Các quốc gia có nền kinh tế đôla hóa chính thức thường là những quốc
gia có nền kinh tế nhỏ quy mô dân số cũng như diện tích nhỏ. Đối với những

5


nước này việc chấp nhận một ngoại tệ mạnh là tiền tệ chính thức góp phần
làm cho nền kinh tế ổn định hơn, lạm phát thấp hơn, tăng trưởng ở mức cao
hơn và họ chấp nhận đánh đổi chủ quyền về tiền tệ để đạt được sự ổn định
này hoặc do sự yếu kém trong việc hoạch định thực thi chính sách tiền tệ của
NHTW và sự hoạt động kém hiệu quả của hệ thống NHTM trong nước,

NHTW không đủ năng lực để điều hành chính sách tiền tệ do đó chấp nhận
giao quyền điều hành cho NHTW nước ngoài. Panama là một ví dụ điển
hình về một nước đôla hóa hoàn toàn mặc dù về kinh tế do sử dụng chính
thức USD đã tạo ra môi trường kinh tế ổn định, trở thành trung tâm tài chính
quan trọng trong vùng, tương phản với các nước láng giềng, nhưng về chính
trị, Panama là nước dễ bị tổn thương trong quan hệ với Mỹ. Điển hình là
năm 1998, Mỹ đã buộc tội và bỏ tù nhà lãnh đạo của nước này, tướng
Manuel Noriega, đồng thời chính phủ Mỹ ra lệnh đóng băng tài sản của
Panama tại các ngân hàng Mỹ, ngừng tất cả việc chuyển nhượng, thanh toán
bằng USD.
2. Nguyên nhân khách quan.
Nguyên nhân thứ nhất là sự sụp đổ của hệ thống Bretton Wood. Sau
khi hệ thống này sụp đổ rất nhiều nước gặp khó khăn trong việc tìm kiếm
một chế độ tỷ giá phù hợp, việc điều hành tỷ giá lại càng khó khăn hơn khi
thị trường vốn và thị trường thương mại tự do hội nhập. Một trong những
cách giải quyết tương đối hiệu quả vấn đề này là từ bỏ đồng tiền chính thống
của mình và chấp nhận một tiền tệ ổn định hơn của quốc gia khác. Cũng
trong giai đoạn này các nước kém phát triển không xuất khẩu dầu mỏ gặp
nhiều khó khăn một mặt do giá dầu tăng cao một mặt do kinh tế các nước
phát triển suy thoái nên xuất khẩu vào những nước này có xu hướng giảm
sút. Kết quả là các nước này chịu thâm hụt cán cân thanh toán với khối

6


lượng khổng lồ và để cân bằng chính phủ các nước tiến hành vay nợ nước
ngoài dẫn đến đôla hóa tài khoản nợ bươc đầu mở đường cho đôla hóa.
Nguyên nhân thứ hai là do nhu cầu phòng chống rủi ro. Khi nền kinh
tế trong nước gặp phải những bất ổn trầm trọng như khủng hoảng tài chính,
lạm phát cao thậm chí siêu lạm phát trong khi lãi suất tiền gửi nội tệ lại

không mấy hấp dẫn so với lãi suất tiền gửi ngoại tệ. Người dân sẽ tìm đến
các công cụ dự trữ giá trị khác, trong đó có các đồng ngoại tệ có uy tín. Với
chức năng ban đầu làm phương tiện cất giữ giá trị, dần dần đồng ngoại tệ sẽ
cạnh tranh với đồng nội tệ trong chức năng làm phương tiện thanh toán hay
làm thước đo giá trị.
Nguyên nhân thứ ba đô la hóa bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới
hiện đại, trong đó tiền tệ của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đô la Mỹ,
được sử dụng trong giao lưu quốc tế làm vai trò của tiền tệ thế giới. Nói cách
khác, đô la Mỹ là một loại tiền mạnh, được tự do chuyển đổi đã được lưu
hành khắp thế giới và từ đầu thế kỷ XX đã dần thay thế vàng, thực hiện vai
trò tiền tệ thế giới. Ngoài đồng đô la Mỹ, còn có một số đồng tiền của các
quốc gia khác cũng được quốc tế hóa như GBP, JYP, EUR..., nhưng vị thế
của các đồng tiền này trong giao lưu quốc tế không lớn; chỉ có đô la Mỹ là
chiếm tỷ trọng cao nhất (khoảng 70% kim ngạch giao dịch thương mại thế
giới).
Trong điều kiện của thế giới ngày nay, hầu hết các nước đều thực thi cơ
chế kinh tế thị trường mở cửa; quá trình quốc tế hóa giao lưu thương mại,
đầu tư và hợp tác kinh tế ngày càng tác động trực tiếp vào nền kinh tế và tiền
tệ của mỗi nước, nên trong từng nước xuất hiện nhu cầu khách quan sử dụng
đơn vị tiền tệ thế giới để thực hiện một số chức năng của tiền tệ.

7


Nguyên nhân thứ tư mức độ đôla hóa của mỗi nước khác nhau còn
phụ thuộc vào trình độ dân trí và tâm lý của người dân, trình độ phát triển
của hệ thống ngân hàng và cơ chế quản lý ngoại hối. Ở những quốc gia trình
độ của người dân về lĩnh vực tài chính tiền tệ còn hạn chế họ có tâm lý thích
nắm giữ ngoại tệ, thích sử dụng hàng ngoại sẽ tiếp tay cho sự thâm nhập
ngoại tệ ngày càng sâu vào nền kinh tế trong nước. Bên cạnh đó trình độ

phát triển của hệ thống ngân hàng trong nước càng thấp, cơ chế quản lý tỷ
giá càng lỏng lẻo thì mức độ đôla hóa nền kinh tế càng cao.

III. TÁC ĐỘNG CỦA TÌNH TRẠNG ĐÔLA HÓA
Có rất nhiều quan điểm đánh giá về vấn đề tác động của đôla hóa lên nền
kinh tế. Có ý kiến cho rằng đôla hóa chỉ mang lại tác động tiêu cực do đó
phải đưa ra giải pháp nhằm xóa bỏ hoàn toàn hiện tượng này. Tuy nhiên
thực tế cho thấy bên cạnh những tác động tiêu cực đôla hóa cũng có những
tác động tích cực.
1. Tác động tích cực
Thứ nhất đối với các quốc gia có nền kinh tế đôla hóa hoàn toàn, ngoại
tệ mạnh được sử dụng thay thế toàn bộ nội tệ trong giao dịch cũng như trong
cất trữ, do đó đôla hóa chính thức góp phần làm giảm chi phí giao dịch như
chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng
tiền khác được xoá bỏ, các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không
cần thiết, các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi
phí kinh doanh. Ngoài ra đôla hóa chính thức còn loại bỏ hoàn toàn rủi ro
tiền tệ xảy ra trong giao dịch giữa các quốc gia cùng sử dụng USD từ đó
thúc đẩy quan hệ thương mại giữa các nước. Những nền kinh tế đôla hóa

8


chính thức thường ổn định hơn và có tỷ lệ lạm phát thấp hơn, chính sự ổn
định này của nền kinh tế đã thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn
vào trong nước từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế .
Thứ hai đô la hóa chính thức góp phần làm tăng kỷ luật ngân sách nhà
nước. Với những quốc gia có chính sách tiền tệ độc lập khi ngân sách nhà
nước bị thâm hụt, chính phủ có thể yêu cầu NHTW phát hành tiền để bù đắp
thâm hụt. Ngược lại với những quốc gia bị đôla hóa hoàn toàn chính phủ

không thể yêu cầu NHTW phát hành tiền để tài trợ cho thâm hụt ngân sách
do đó để khác phục tình trạng thâm hụt chính phủ nước này phải tiết kiệm
chi tiêu đồng thời gia tăng nguồn thu ngân sách.
Thứ ba đô la hóa không chính thức góp phần giảm lạm phát. Đôla hóa
làm tăng cung ngoại tệ dẫn đến sự giảm giá ngoại tệ. Khi đó giá cả hàng hóa
nhập khẩu từ nước ngoài trở nên rẻ hơn dẫn đến mặt bằng giá cả trong nước
giảm xuống.
2. Tác động tiêu cực
Ngoài sự đánh mất chủ quyền về tiền tệ, vị trí độc tôn của đồng nội tệ
bị giảm sút khi ngoại tệ được sử dụng rộng rãi lấn át nội tệ thì đôla hóa còn
gây ra nhiều tác động tiêu cực lên những nền kinh tế bị đôla hóa. Chính vì lý
do này mà chính phủ và NHTW các nước luôn tìm cách hạn chế và đẩy lùi
tình trạng này.
Tác động tiêu cực đầu tiên có thể dễ dàng nhận thấy là việc mất đi thu
nhập từ thuế in tiền. Đó chính là thu nhập từ việc phát hành tiền được tính
bằng chênh lệch giữa chi in tiền, chi phí đưa tiền vào lưu thông so với giá trị
hàng hóa mà tiền mua được.

9


Thứ hai, những quốc gia có nền kinh tế đôla hóa chính thức không có
chính sách tiền tệ độc lập khi đó các quốc gia này không thể chủ động trong
việc thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Đối với những nền kinh tế
không bị đôla hóa, NHTW có thể thông qua cơ chế điều hành tỷ giá tác động
lên xuất nhập khẩu để đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Giả sử
khi các yếu tố khác không đổi muốn kiềm chế lạm phát, NHTW có thể hút
nội tệ trong lưu thông làm cho nôi tệ lên giá so với ngoại tệ (tức làm cho tỷ
giá giảm) ngược lại để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tạo công ăn việc làm,
NHTW có thể sử dụng chính sách nội tệ. Trong khi đó, những nước có nền

kinh tế đô la hóa chính thức không có quyền chủ động trong việc điều hành
chính sách tiền tệ, chính sách tiền tệ của họ phụ thuộc hoàn toàn vào chính
sách tiền tệ của NHTW nước ngoài.
Thứ ba, đô la hóa chính thức tước đi vai trò của NHTW, là người cho
vay cuối cùng của nền kinh tế. Ở những nền kinh tế không bị đô la hóa, khi
NHTM gặp khó khăn về thanh khoản, NHTW sẽ cho vay tiền để giải quyết
vấn đề đó, tránh dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng, nhưng ở những
nền kinh tế bị đôla hóa chính thức, NHTW chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Một
khi đã sử dụng hết dự trữ tiền tệ thì không thể phát hành thêm tiền để giúp
đỡ NHTM. Vì vậy, khả năng dẫn tới sự sụp đổ của hệ thống NHTM trong
nước là hoàn toàn có thể xảy ra.
Thứ tư, đối với những nền kinh tế bị đô la hóa không chính thức,
ngoại tệ được sử dụng rộng rãi trong thanh toán, cất trữ, do đó sẽ có một
lượng ngoại tệ lớn trôi nổi trên thị trường, nằm ngoài tầm kiểm soát của
NHTW. Vì vậy, việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán từ đó
đưa ra các quyết định về tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thông sẽ kém
chính xác và kịp thời.

10


Thứ năm, cung cầu ngoại tệ thường xuyên biến động. Những thay đổi
về lãi suất trong nước từ nước ngoài có thể gây ra sự dịch chuyển lớn từ
đồng tiền này sang đồng tiền khác hay từ nơi này sang nơi khác. Khi lãi suất
có sự thay đổi theo hướng nắm giữ ngoại tệ có lợi hơn, người dân sẽ mang
nội tệ đổi lấy ngoại tệ, làm cho cầu ngoại tệ tăng, ngược lại, khi nắm giữ nội
tệ có lợi hơn, người dân sẽ mang ngoại tệ đổi lấy nội tệ, dẫn tới cầu nội tệ
tăng. Điều này sẽ gây khó khăn cho NHTW trong việc điều hành chính sách
tiền tệ. Ngoài ra, đối với các NHTM có tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ cao, khi
có biến động, người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ đó đã

được ngân hàng cho vay, và NHTW cũng không thể hỗ trợ được do dự trữ
ngoại hối còn mỏng có thể gây ra những bất ổn trong hệ thống NHTM trong
nước.

11


CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ ĐÔLA HÓA TẠI VIỆT NAM

PHẦN THỨ NHẤT: THỰC TRẠNG ĐÔLA HÓA Ở VIỆT NAM

I. TỔNG QUAN VỀ TÌNH TRẠNG ĐÔLA HÓA Ở VIỆT NAM.
Việt Nam là một trong những nền kinh tế bị đôla hóa không chính thức.
Đôla hóa của Việt nam bao gồm: đôla hóa thay thế tài sản, đôla hóa phương
tiện thanh toán, đôla hóa trong niêm yết giá hàng hóa dịch vụ. Tình trạng
đôla hóa ở Việt Nam được đánh giá là khá trầm trọng và do nhiều nguyên
nhân gây nên, nhưng nguyên nhân chính là tâm lý sùng bái ngoại tệ không
chỉ của một bộ phận người dân mà của cả các quan chức Nhà nước, và hiện
tượng tham nhũng nặng nề trong bộ máy quản lý. Từ tâm lý sùng bái ngoại
tệ của giới quan chức thể hiện qua những hành vi sử dụng ngoại tệ, gửi tiền
bằng ngoại tệ… đã lây lan tâm lý này sang bộ phận người dân và gây ảnh
hưởng làm gia tăng đôla hóa trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, vấn nạn tham
nhũng, ăn hối lộ, rút ruột công trình… bằng USD làm tăng lượng USD nắm
giữ trong giới quan chức, từ đó, vì lợi ích cá nhân cũng như lợi ích nhóm,
mà các chính sách góp phần làm giảm đôla hóa được đưa ra là không phù
hợp, việc thực hiện cũng không triệt để. Chính từ bộ máy quản lý thiếu trong
sạch đã dẫn đến sự gia tăng của đôla hóa trong nền kinh tế Việt Nam.
Một trong những công cụ đo lường mức độ đôla hóa là tỷ lệ tiến gửi bằng
ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán FCD/M2. Tuy nhiên tỷ lệ này vẫn
chưa phản ánh được một cách chính xác nhất về tình trạng đôla hóa của Việt

Nam do nó chỉ đo lường được lượng USD gửi trong các ngân hàng mà
không thể thấy được khối lượng lớn USD dân chúng nắm giữ.

12


Bảng 1: Tỷ lệ tiền gửi bằng đồng USD trên tổng phương tiện thanh toán
(FCD/M2)
Thờigian

Tỷ lệ %

1989

28,2

1990

32,4

1991

41,2

1992

30,6

1993


22,9

1994

22,2

1995

21,0

1996

20,3

1997

23,6

1998

24,6

1999

26,1

2000

26,9


2001

31,7

2002

28,4

2003

23,6

2004

24,3

2005

23,0

2006

21,6

6/2007

20,2

(Nguồn : IMF - Vietnam Statistical Appendix 2007)


13


Theo thống kê trên, tỷ lệ đôla hóa của Việt Nam luôn ở mức trên 20%,
con số này cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực như Indonesia,
Malaysia, Thái lan… (chỉ khoảng từ 7-10%).
II. THỰC TRẠNG ĐÔLA HÓA Ở VIỆT NAM QUA CÁC GIAI
ĐOẠN
1. Giai đoạn trước khi mở cửa.
Việt Nam thực hiện cơ chế quản lý tập trung bao cấp. Nhà nước nắm độc
quyền về ngoại thương, ngoại hối. Quy mô nền kinh tế nhỏ, khả năng cạnh
tranh của hàng hoá, dịch vụ rất thấp, kinh tế đối ngoại kém phát triển, hệ
thống ngân hàng còn sơ khai. Điều lệ quản lý ngoại hối ban hành kèm theo
Nghị định số 102/CP ngày 06 tháng 7 năm 1963 của Chính phủ nghiêm cấm
các tổ chức, cá nhân sở hữu, sử dụng ngoại tệ trong nước (kể cả việc cất trữ,
mang theo người), mọi giao dịch trong nước phải thực hiện bằng VND. Việc
chuyển đổi VND sang ngoại tệ được thực hiện theo kế hoạch với cơ chế đa
tỷ giá (tỷ giá mậu dịch, tỷ giá phi mậu dịch) do Nhà nước công bố. Xuất
nhập khẩu và thanh toán quốc tế chủ yếu theo các Hiệp định song biên - đa
biên, đồng tiền sử dụng trong quan hệ thanh toán đối ngoại thường là đồng
Rúp chuyển nhượng và đồng Nhân dân tệ mậu dịch. Vì vậy, khả năng
chuyển đổi của VND rất hạn chế. Về cuối giai đoạn xuất hiện dấu hiệu của
khủng hoảng kinh tế, VND suy yếu mạnh sau thất bại của chính sách giá lương - tiền, lạm phát tới 3 con số và liên tục có các đợt tăng giá vàng.
Trong dân cư xuất hiện việc mua vàng, ngoại tệ để tích trữ, đầu cơ giá và sử
dụng làm phương tiện thanh toán. Tuy nhiên mức độ đôla hóa là không đáng
kể do độ mở của nền kinh tế còn rất nhỏ.

14



2. Giai đoạn bắt đầu mở cửa đến khủng hoảng tài chính khu vực
Hiện tượng nền kinh tế Việt Nam sử dụng rộng rãi đồng đôla Mỹ trong
giao dịch buôn bán..., chỉ bắt đầu được chú ý đến từ cuối những năm 80 đầu
những năm 90, khi mà nền kinh tế nước ta phải đối mặt với lạm phát nặng
nề, tiền đồng trở nên mất giá so với USD dẫn đến tâm lý người dân chuyển
sang tích trữ USD hoặc vàng thay cho nội tệ.
Bảng 2: Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam
Năm
1986
1987
1988
1989
1991
1992
1996
1997
1998
1999

Lạm phát(%)
774,7
223,1
393,8
37,7
64,6
17,36
4,5
3,6
7,8
0,1


Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009

Lạm phát(%)
-0,6
0,8
1,5
3,0
7,71
8,29
7,48
8,3
22,97
6,88

(Nguồn: Tổng cục thống kê, Ngân hàng Nhà nước và IMF)
Mặt khác, do thấy được điểm yếu về giá trị của tiền đồng, nên người dân
chuyển sang gửi ngắn hạn nội tệ thay cho việc gửi dài hạn, điều này đã ảnh
hưởng lớn tới lượng vốn đầu tư cho nền kinh tế đang trong giai đoạn kiến
thiết. Trước hoàn cảnh đó, Chính phủ đã ban hành luật đầu tư năm 1987

hoan nghênh và khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn và
kỹ thuật vào Việt Nam, đồng thời cho phép các ngân hàng được nhận tiền
gửi bằng đồng đôla. Chính sách này đã làm tăng tỉ lệ đôla hóa của nền kinh
tế do đã tác động làm tăng nguồn đôla chảy vào trong nước thông qua các
15


kênh như FDI, viện trợ nước ngoài và lượng kiều hối Đến năm 1991, sau khi
Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và một số quốc gia
khác, cùng với những chính sách mở cửa của Nhà nước đã làm lượng USD
vào Việt Nam tăng mạnh. Bên cạnh đó, tỷ lệ lạm phát lên tới đỉnh điểm
67.5% và tỷ giá USD/VND tăng vọt (từ 5,133 VND/USD lên 9,274
VND/USD). Điều này khiến cho tình trạng đôla hoá tăng lên mạnh với hơn
41% lượng tiền gửi vào các ngân hàng là bằng USD.
Trước tình trạng trên, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cố gắng đảo
ngược quá trình đôla hoá nền kinh tế và đã khá thành công khi giảm mạnh
mức tiền gửi bằng USD vào các ngân hàng xuống còn 20% vào năm 1996.
Mặt khác, thời gian này lạm phát chỉ ở mức trên dưới 10%, tỷ giá biến động
ít, việc nắm giữ VND đã tỏ ra có lợi hơn nên mức độ đôla hóa giảm mạnh, tỷ
lệ FCD/M2 năm 1997 ở mức 23,6%. Đồng thời, Chính phủ cũng bắt đầu hạn
chế việc thanh toán bằng ngoại tệ, xoá bỏ các điểm bán hàng thu ngoại tệ,
tăng cường các bàn đổi ngoại tệ. Tuy nhiên, thị trường ngoại tệ tự do, yết giá
và thanh toán ngoại tệ trong dân cư vẫn chưa kiểm soát được do thói quen và
các hoạt động kinh tế ngầm. Cũng phải nhìn nhận rằng, các hoạt động ngoại
hối trái phép tồn tại chủ yếu là do chưa được xử lý một cách kiên quyết. Cho
đến nay, vấn đề này vẫn là một tồn tại chưa được khắc phục.

3. Giai đoạn từ sau khủng hoảng tài chính khu vực đến nay
3.1. Giai đoạn 1998-2001


16


Sau một thời gian giữ ổn định ở mức tương đối thấp khoảng trên 20%, tỷ lệ
FCD/M2 lại có dấu hiệu tăng lên trong giai đoạn này và đến năm 2000 - 2001
đã tăng cao trở lại đến gần 30%. Nguyên nhân là trong suốt một thời gian dài,
kinh tế Mỹ tăng trưởng cao và ổn định làm cho đồng USD hấp dẫn hơn các
ngoại tệ khác. Mặt khác, các chính sách mới ban hành đã tạo sự tin tưởng của
người dân, thu hút được một lượng lớn ngoại tệ từ thị trường tự do vào hệ
thống ngân hàng. Tâm lý đôla hóa trong giai đoạn này cũng một phần do tác
động của khủng hoảng tài chính khu vực và kỳ vọng của thị trường vào sự phá
giá của VND.
3.2. Giai đoạn 2001 đến 2006.
Tỷ lệ FCD/M2 liên tục giảm, đến năm 2003 còn 23,6%. Thanh toán và
kinh doanh ngoại tệ vẫn tiếp tục phát triển. Theo kết quả khảo sát năm 2002,
hoạt động của thị trường ngoại tệ tự do có quy mô từ 4 - 6 tỷ USD/năm, tương
đương 1/3 kim ngạch nhập khẩu năm đó, số ngoại tệ trôi nổi ngoài thị trường
tự do ước khoảng 5 tỷ USD. Đôla hóa trong niêm yết, định giá bằng ngoại tệ
còn phổ biến. Tuy nhiên đến năm 2004 khi lạm phát ở mức 9,5% và lãi suất
tiền gửi VND không mấy hấp dẫn hơn lãi suất tiền gửi bằng USD khiến cho
người dân có tâm lý đổi VND lấy các đồng tiền khác có tính ổn định cao hơn
như USD, EUR để gửi vào NHTM khiến cho FCD/M2 tăng lên đến mức
24,3%. Với doanh số tiền gửi ngoại tệ không ngừng tăng lên, các NHTM
cũng phải tìm cách để cho vay số ngoại tệ này, tránh tồn đọng vốn. Đây
chính là hiện tượng đôla hóa nguồn vốn huy động và đôla hóa cơ cấu dư nợ
cho vay của hệ thống ngân hàng. Năm 2005 lãi suất cơ bản của Mỹ tiếp tục
tăng lên từ 3.75% lên đến 4.75%, theo hiệu ứng đó, các NHTM trong nước
đồng loạt tăng lãi suất tiền gửi USD, lãi suất tiền gửi VND cũng tăng nhưng
không đáng kể, trong khi lạm phát vẫn ở mức cao, từ đó thu hút lượng tiền
17



gửi ngoại tệ vào các NHTM. Năm 2006, đánh dấu sự tăng trưởng ngoạn mục
của đầu tư trực tiếp vào Việt Nam đạt mức 10.2 tỷ USD mang lại một nguồn
thu ngoại tệ lớn và làm cho tỷ lệ FCD/M2 vẫn duy trì ở mức trên 20%.
3.3. Giai đoạn năm 2007 đến nay
Năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức
Thương mại thế giới WTO và thực hiện cam kết quy chế Thương mại bình
thường vĩnh viễn với Hoa Kỳ (PNTR), đã tạo cơ hội mở rộng thị trường xuất
khẩu và hạn chế các rào cản thương mại. Tuy nhiên, trong năm 2007, biến
động của nền kinh tế Mỹ cũng ảnh hưởng một phần đến nền kinh tế Việt
Nam đã khiến cho tỷ giá USD/VND trong nước bất ổn. Những tác động này
một lần nữa lại làm tăng tỷ lệ đôla hóa trong nền kinh tế.
Năm 2008 được xem là một năm đầy biến động đối với nền kinh tế VN
nói chung và vấn đề tỷ giá USD/VND nói riêng.
Giai đoạn đầu năm 2008, NHNN thông báo phát hành tín phiếu bằng
VND, và thực hiện dưới hình thức bắt buộc đối với các NHTM với tổng giá
trị tín phiếu phát hành là 20.300 tỷ đồng, kỳ hạn 364 ngày, lãi suất
7,8%/năm. Đồng thời NHNN cũng không thực hiện việc mua USD vào
nhằm hạn chế bơm tiền ra lưu thông.
Cùng thời điểm trên thị trường thế giới giá USD vẫn tiếp tục sụt giảm,
Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) vẫn tiếp tục cắt giảm lãi suất cơ bản. Người
dân không còn giữ USD như trước mà chuyển qua nắm giữ vàng hoặc VND
để gửi tiết kiệm hưởng lãi suất cao. Hoạt động của giới đầu tư và đầu cơ
nước ngoài đã đưa vào Việt Nam một lượng ngoại tệ lớn. Số tiền này được
đổi ra VND để hưởng chênh lệch lãi suất thông qua gửi tiết kiệm hoặc đầu
18


tư vào trái phiếu chính phủ. Một lượng kiều hối cũng được chuyển về Việt

Nam nhằm hưởng chênh lệch lãi suất và chuyển cho người thân dịp Tết.
Những nguyên nhân trên đã khiến cho lượng USD đổ vào NHTM tăng lên
không ngừng, làm tăng tỷ lệ FCD/M2 một cách đáng kể.
Tuy nhiên, trong quý 2 năm 2008, khi mà tỷ giá USD/VND tăng mạnh
và việc các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu rút vốn khỏi Việt Nam khi lo ngại
về tình hình kinh tế Việt Nam cũng như tình hình thanh khoản yếu trên thị
trường thế giới đã gây ra tình trạng khan hiếm ngoại tệ cả trên thị trường
chính thức và thị trường tự do, tỷ lệ đôla hóa có xu hướng giảm nhiệt.
Sang đến quý 3 năm 2008, khi tỷ giá đi vào ổn định đồng thời NHNN
công bố tỷ lệ dự trữ USD, thực hiện kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại
tệ (cấm mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do không đăng ký với các
NHTM), cấm mua bán USD thông qua ngoại tệ khác để lách biên độ, cấm
nhập khẩu vàng và cho phép xuất khẩu vàng, bán ngoại tệ can thiệp thị
trường thông qua các NHTM lớn đã khắc phục tình trạng khan hiếm USD,
ổn định thị trường ngoại hối, đồng thời ổn định tỷ lệ FCD/M2 quanh mức
20%.
Những tháng cuối năm 2008, tỷ lệ lạm phát tăng lên đạt mức xấp xỉ 20 %
khiến cho người dân có tâm lý lo ngại về sự mất giá của VND, từ đó tăng
việc nắm giữ USD trong dân. Thời gian này cũng là lúc nhu cầu sử dụng
ngoại tệ để thanh toán của các doanh nghiệp nhập khẩu tăng lên, cũng như
nguồn kiều hối đổ về nước nhiều hơn khiến cho tình trạng đôla hóa trầm
trọng trở lại. Mặt khác, các ngân hàng thương mại tăng lãi suất tiền gửi bằng
USD lên 7,2% cao hơn gần 2% so với mức lãi suất trái phiếu Chính phủ kì
hạn 1 năm của Mỹ là 5,25%. Chênh lệch quá lớn so với thị trường quốc tế đã

19


tạo ra tâm lý coi trọng đồng đôla, tiếp sức cho nạn đầu cơ ngoại tệ, làm tăng
mức độ đôla hóa nền kinh tế.

Sau cú sốc khủng hoảng tài chính năm 2008, kinh tế thế giới đang phục
hồi chậm chạp. Đồng đôla Mỹ ngày càng mất giá, song USD tỷ giá
USD/VND ngày càng cao, vượt mức 20.000 VND/USD. Người dân ngày
càng mất lòng tin vào VND và xu hướng sùng bái đồng đô la càng trở nên
trầm trọng hơn, tỷ lệ đô la hóa ngày càng cao, theo thống kê mới nhất của
ADB tỷ lệ đôla hóa của Việt Nam hiện nay ở mức 20%. Mặc dù Nhà nước
không cho phép, nói một cách khác là bất hợp pháp, nhưng giao dịch ngoại
tệ tại một số trung tâm của các thành phố lớn (như Hà Trung ở Hà Nội) đã
diễn ra khá sôi động, kể cả khi Ngân hàng Nhà nước tăng cường kiểm soát,
vì chừng nào tồn tại tỷ giá thị trường chợ đen cao hơn tỷ giá chính thức thì
người bán ngoại tệ vẫn lựa chọn tỷ giá cao; hơn nữa, hoạt động trao đổi
ngoại tệ trên thị trường chợ đen còn có ưu điểm về tiện ích cho người dân,
chỉ cần gọi điện thoại đến các cơ sở đổi tiền là có người mang đến tận nhà
một lượng tiền lớn.
III. BIỂU HIỆN ĐÔLA HÓA TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Thứ nhất là đô la hóa trong quảng cáo, niêm yết, thông báo giá hàng
hóa, dịch vụ. Hiện nay tình trạng quảng cáo, niêm yết, thông báo giá cả hàng
hóa dịch vụ có giá trị lớn. Những nơi bị kiểm soát gắt gao, chủ hộ kinh
doanh lách bằng cách không ghi giá song vẫn chấp nhận thanh toán bằng
USD. Ở những nơi tập trung nhiều khách du lịch nước ngoài tới thăm quan
mua sắm, những người bán hàng dù không niêm yết giá bằng USD nhưng
khi khách ngoại quốc hỏi họ vẫn phải nói giá bằng USD. Công ty kinh

20


doanh máy tính và linh kiện máy tính cũng là một trong số những “đối
tượng” vi phạm quy định niêm yết giá nhiều nhất.
Thứ hai là đôla hóa nguồn vốn huy động và dư nợ cho vay trong các
NHTM. Mức độ đôla hóa này được đo lường bằng tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên

tổng tiền gửi và tỷ lệ tín dụng bằng ngoại tệ trên tổng tín dụng trong hệ
thống NHTM. Từ năm 1988, khi NHTM cho phép các ngân hàng thương
mại được nhận tiền gửi bằng ngoại tệ, tỷ lệ tiền gửi USD trên tổng tiền gửi
tăng dần, đến năm 1992 đạt mức 41,2%. Tuy nhiên sau đó, tỷ lệ này giảm
xuống mức 20,3% năm 1996. Đầu năm 2000, đồng USD liên tục tăng giá so
với VND, đồng thời lãi suất USD trên thị trường tiền tệ quốc tế tăng rất cao,
giữa năm 2000 lên tới 6,5%/năm dẫn tới sự tăng lãi suất huy động USD của
các NHTM trong nước, điều này thúc đẩy tâm lý muốn nắm giữ USD của
người dân. Do đó tiền gửi bằng USD tăng lên đạt 31,7% năm 2001 trong khi
các khoản cho vay bằng USD lại giảm gây nên hiện tượng đôla hóa nguồn
vốn. Sau đó, tỷ lệ tiền gửi USD trên tổng tiền gửi giảm từ 31,7% năm 2001
xuống 22% năm 2005. Tỷ trọng tín dụng ngoại tệ trên tổng tín dụng trong
các NHTM tăng từ 20,7% năm 2000 lên 24,5% năm 2004 đạt gần 103 tỷ
(theo báo cáo IMF năm 2006). Mặc dù tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng tiền
gửi có giảm xuống song số tuyệt đối vẫn liên tục tăng từ 4,85 tỷ USD năm
2000 lên 8.85 tỷ USD năm 2005. Hiện nay, tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ có xu
hướng giảm và tỷ trọng tín dụng ngoại tệ lại có xu hướng tăng do nhu cầu
găm dữ USD của người dân và nhu cầu vay ngoại tệ cho các hoạt động
thanh toán của doanh nghiệp.
Thứ ba, hoạt động mua bán trao đổi ngoại tệ diễn ra một cách tự do và
công khai trên thị trường ngầm (thị trường phi chính thức, thị trường chợ
đen).
21


Trong thông tư số 33/NH-TT ngày 15/03/1989 về hướng dẫn thi hành
Điều lệ quản lý ngoại hối đã nêu rõ: “Việc lưu thông ngoại tệ trong nước chỉ
được thực hiện thông qua ngân hàng và các tổ chức kinh doanh, dịch vụ
được phép thu ngoại tệ. Nghiêm cấm việc mua bán, trao đổi ngoại tệ trên thị
trường ngầm”. Như vậy thị trường ngầm là thị trường diễn ra hoạt động trao

đổi, mua bán ngoại tệ không được pháp luật công nhận. Sở dĩ tồn tại của thị
trường ngầm làm tăng tình trạng đô la hóa ở Việt Nam là do: NHNN luôn
khuyến khích người dân bán ngoại tệ cho NHTM đồng thời pháp luật Việt
Nam có một số quy định hạn chế đối với đối tượng được mua ngoại tệ tại
các NHTM nhằm hạn chế việc sử dụng rộng rãi việc sử dụng ngoại tệ trên
lãnh thổ Việt Nam nhưng do tỷ giá các NHTM luôn thấp hơn tỷ giá trên thị
trường ngầm nên để có lợi người dân đem ngoại tệ bán trên thị trường ngầm,
bên cạnh đó những đối tượng không đáp ứng được yêu cầu của các NHTM
thì cũng thực hiện việc mua USD trên thị trường ngầm. Ở Việt Nam, thị
trường ngầm tồn tại dưới các hình thức sau: các cửa hàng kinh doanh vàng
bạc đá quý đồng thời kinh doanh mua bán ngoại tệ tiền mặt; chuyển tiền
kiều hối chuyển tiền qua biên giới không thông qua hệ thống ngân hàng dưới
nhiều hình thức khác nhau; các sạp đổi tiền dọc biên giới nơi các hoạt động
buôn lậu; các hoạt động mua bán khác trong dân cư. Phương thức giao dịch
mua bán chủ yếu trên thị trường ngầm là phương thức trao tay. Đồng tiền
giao dịch chủ yếu là USD, ngoài ra còn một số ngoại tệ khác nhưng khối
lượng giao dịch rất nhỏ bé. Sự tồn tại của thị trường ngầm ở các quốc gia là
điều thường thấy vì trên thực tế không có sự ăn khớp hoàn toàn giữa tỷ giá
chính thức và tỷ giá tự do, tuy nhiên ở Việt Nam thị trường ngầm không
những tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ do sự chênh lệch đáng kể giữa tỷ
giá chính thức và tỷ giá chợ đen. Sở dĩ có sự chênh lệch này là do trong thời
gian qua tỷ giá vẫn được xác định một cách chủ quan theo ý chí của NHNN,
22


chưa phải là tỷ giá phản ánh cung cầu trên thị trường. Hiện nay, các NHTM
được phép xác định tỷ giá mua bán đối với USD không được vượt quá biên
độ giao dịch cho phép so với tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên
ngân hàng của ngày giao dịch trước đó. Thời gian gần đây, do có nhiều biến
động trên thị trường ngoại hối, NHNN đã thực hiện 2 lần điều chỉnh nhẹ

biên độ năm 2007, 3 lần điều chỉnh trong năm 2008 và 2 lần vào năm 2009.
Cụ thể, ngày 3/1/2007 biên độ là 0.5%, đến cuối năm 2007 là 0.75%. Ngày
10/3/2008, biên độ tăng thêm 0.25% lên mức 1%, ngày 27/6/2008 biên độ là
2% và tăng lên 3% vào ngày 7/11/2008. Ngày 24/3/2009, biên độ được
NHNN quy định là 5%, sau đó giảm xuống 3% vào ngày 26/11/2009 và giữ
nguyên cho tới nay. Việc mở rộng biên độ này là cần thiết để kéo tỷ giá trên
thị trường chính thức gần với thị trường tự do hơn. Ngoài ra chừng nào các
hoạt động kinh tế ngầm còn phát triển, thì chừng đó nhu cầu ngoại tệ và các
giao dịch về ngoại tệ trên thị trường ngầm còn tồn tại và phát triển.
IV. CÁC NGUỒN CUNG USD CỦA VIỆT NAM
1. Nguồn kiều hối
Kiều hối (không kể lượng kiều hối chuyển lậu, ngoại tệ của người Việt
Nam nhập cảnh không khai báo…) chuyển về Việt Nam nhìn chung mỗi
năm một tăng, với mức tăng bình quân 10% mỗi năm, với số liệu cụ thể ở
bảng 3. Các khoản kiều hối sau khi đi qua hệ thống ngân hàng nếu không
được khuyến khích chuyển thành nội tệ sẽ phát tán trong dân cư dưới hình
thức ngoại tệ và làm tăng khả năng đôla hóa nền kinh tế.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta, với giá trị kiều hối khoảng 4,5 tỷ
USD/năm, thì kiều hối là nguồn cung ngoại tệ đáng kể, có tác động tích cực
trong việc cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, ổn định tỷ giá, là nguồn
ngoại tệ quan trọng cung ứng cho nhu cầu nhập khẩu hàng hóa. Tuy nhiên,
23


bên cạnh luồng kiều hối vào Việt Nam theo con đường chính thức, thì một
bộ phận lớn kiều hối chảy vào Việt Nam theo con đường không chính thức,
gọi là “kiều hối lậu”. Kiều hối lậu chuyển vào Việt Nam chủ yếu bằng tiền
mặt USD do Việt kiều thu gom ở nước ngoài chuyển về nước và được trao
tận tay cho người nhận. Cơ chế quản lý ngọai hối hiện hành ở Việt Nam
không cấm đưa kiều hối vào Việt Nam dười bất kỳ hình thức nào, miễn là

khi nhập cảnh có khai báo đủ với cơ quan hải quan theo quy định. Trên thực
tế người nhận “kiều hối lậu” rất ít khi gửi, bán ngoại tệ cho ngân hàng mà
chủ yếu là nắm giữ ngoại tệ tiền mặt hoặc bán trên thị trường ngầm. Bên
cạnh đó, đối với nguồn kiều hối chính thức, cơ chế quản lý ngoại hối cho
phép việc chi trả bằng ngoại tệ tiền mặt cho người thụ hưởng trong nước
cũng là nguyên nhân tạo nên lượng ngoại tệ trôi nổi trên thị trường ngầm.
Bảng3: Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam trong các năm gần đây

(Nguồn: BVSC)
2. Khách du lịch đến Việt Nam
Số lượng khách quốc tế đến Việt Nam ngày càng tăng. Khách du lịch
nước ngoài mang theo ngoại tệ và chi tiêu bằng ngoại tệ tiền mặt rất lớn tại
các cơ sở kinh doanh tư nhân. Khách du lịch cũng có hoạt động đổi tiền tại
24


các quầy đổi tiền nhưng thông thường chi tiêu đến đâu họ đổi tiền đến đó và
khi việc đổi tiền không mấy thuận lợi do địa bàn, đường xá, họ thỏa thuận
với người bán hàng để thanh toán bằng đôla Mỹ.
Bảng4 : Số lượng khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam
Năm
Số
lượng

(tr

2000

01


02

03

04

05

06

07

08

09

2.1

2.3

2.6

2.4

2.9

3.4

3.6


4.2

4.3

3.8

lượt người)
Nguồn: Tổng cục thống kê
3. Vốn đầu tư nước ngoài
3.1. Vốn đầu tư trực tiếp
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI ngày càng tăng cung cấp một
lượng ngoại tệ lớn cho nền kinh tế. Năm 2006 được coi là mở đầu cho một
thời kì mới, vị thế của nước ta trên thế giới tiếp tục được nâng cao sau khi
Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới
WTO, bên cạnh đó là việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về đầu
tư, kinh doanh tạo trường pháp lý bình đẳng thông thoáng và minh bạch cho
các nhà đầu tư trong và ngoài nước: Luật đầu tư và luật doanh nghiệp cùng
với luật đấu thầu, luật cạnh tranh, luật sở hữu trí tuệ và một số luật khác
được ban hành và có hiệu lực trong năm 2006 đã đánh dấu bước tiến quan
trọng trong việc thể chế hóa kinh tế thị trường và đường lối mở cửa hội nhập
kinh tế quốc tế của nước ta. Chính những yếu tố trên, đã tạo niềm tin cho các
nhà đầu tư nước ngoài từ đó góp phần thúc đẩy làn sóng đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào nước ta.
Bảng5 : Biểu đồ vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam 2006-2009

25


×