A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, công tác hướng nghiệp trong các trường THPT đã được
ngành GD-ĐT chú trọng hơn thông qua việc đưa môn học hướng nghiệp vào
giảng dạy như một môn học bắt buộc. Thế nhưng, trước mỗi mùa thi tuyển
sinh đại học, cao đẳng, THCN, không ít bạn vẫn băn khoăn với câu hỏi:
Chọn ngành nghề gì? Thi trường nào?... Do tâm lý lứa tuổi và cũng do
không nắm bắt được những thông tin về nhu cầu lao động một cách đầy đủ,
mà không ít học sinh đã đăng ký dự thi vào các trường ĐH, CĐ vượt quá
khả năng so với lực học của mình hoặc những trường được coi là “thời
thượng” hiện nay, nhưng khi tốt nghiệp ra trường nhiều người đã không thể
tìm được việc làm, hoặc làm không đúng ngành, nghề đã được đào tạo. Hệ
quả là tỷ lệ trúng tuyển không cao, nguồn nhân lực rơi vào tình trạng “thừa
thầy, thiếu thợ”… Trong khi đó, có rất nhiều doanh nghiệp lại không thể
tuyển được lao động vì không có nguồn.
Nguồn nhân lực vừa thiếu, vừa yếu có nguyên nhân chính là công tác
giáo dục, hướng nghiệp chưa thật sự đáp ứng yêu cầu. Giáo dục hướng
nghiệp ở bậc THCS chỉ chiếm 0,91%, THPT: 1,77%, do vậy, hầu hết học
sinh phổ thông phải bước vào sự chọn lựa nghề hết sức khó khăn. Theo điều
tra của Viện Khoa học giáo dục, hằng năm ở nước ta tuyển vào bậc trung
học phổ thông trên 400 nghìn học sinh. Sau khi tốt nghiệp phổ thông có
khoảng 19,7% học sinh vào học ở các trường Đại học, Cao đẳng, 7,4% vào
các trường Trung học chuyên nghiệp và chỉ có 4,9% đi học nghề. Như vậy,
mỗi năm nước ta có 200 - 300 nghìn học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học
và 50 nghìn học sinh tốt nghiệp THCS bổ sung vào lực lượng lao động xã
hội mà chưa hề được hướng nghiệp và đào tạo sau hướng nghiệp. Tính đến
1
năm 2005, một con số đáng giật mình là 80% lực lượng lao động nước ta
chưa qua đào tạo, chỉ mới 13,4% được đào tạo nghề và 6,6% được đào tạo
trình độ cao. Có thể thấy số lượng lao động qua đào tạo nghề và đào tạo
nghề ở trình độ cao còn thấp so với thế giới. Và để có được một nguồn nhân
lực đáp ứng được sự nghiệp CNH - HĐH đất nước thì giáo dục hướng
nghiệp nói chung và giáo dục lao động hướng nghiệp ở trường THPT nói
riêng là vô cùng quan trọng.
Như vậy hoạt động hướng nghiệp rất cần thiết đối với học sinh THPT,
là bước chuẩn bị hành trang cho các em bước vào đời vào nghề. Do đó nhóm
sinh viên chúng tôi quyết định tiến hành nghiên cứu đề tài “Nhu cầu tiếp cận
thông tin nghề qua các phương tiện thông tin đại chúng của học sinh THPT
huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh hiện nay” để hiểu rõ hơn mong muốn của
các em, từ đó đưa ra những giải pháp giúp các em có thể tìm hiểu, định
hướng nghề nghiệp đúng đắn và chọn cho mình một nghề nghiệp phù hợp
với năng lực, sở trường, điều kiện gia đình và nhu cầu lao động xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề đào tạo hướng nghiệp cho học sinh nói chung và học sinh
trung học phổ thông nói riêng luôn nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước ta. Và đã trở thành đối tượng của nhiều công trình nghiên cứu, như:
“Một số giải pháp tổ chức hoạt động dạy học kỹ thuật ứng dụng cho
học sinh bậc THPT tại các trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp dạy nghề” năm 1996, của tiến sĩ Hà Thế Truyền
Năm 2002 – 2003, tác giả Dương Diệu Hoa cùng với các đồng nghiệp
của khoa Tâm lý - ĐH Sư phạm Hà Nội đã tiến hành nghiên cứu đề
tài:“Giáo dục lao động và hướng nghiệp trong vấn đề lựa chọn nghề nghiệp
của học sinh THPT”.
2
Đề tài khoa học cấp nhà nước KX05-09 “Giáo dục phổ thông và
hướng nghiệp - nền tảng phát triển nguồn nhân lực đi vào CNH – HĐH”
của phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Văn Lê
Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Viết Sự với “Khảo sát thực trạng giáo
dục hướng nghiệp ở một số trường phổ thông và trung tâm giáo dục kỹ thuật
tổng hợp - hướng nghiệp”.
…Ngoài ra, còn có rất nhiều các công trình nghiên cứu lớn của các tác
giả khác quan tâm đến vấn đề đào tạo hướng nghiệp này.
3. Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở làm sáng tỏ cơ sở lý luận, đề tài mô tả thực trạng
tiếp cận thông tin nghề qua các phương tiện thông tin đại chúng và tiến hành
tìm hiểu nhu cầu về thông tin nghề của học sinh THPT huyện Bình Liêu.
Đồng thời đề xuất một số giải pháp góp phần thay đổi thực trạng hướng
nghiệp trong trường phổ thông ở huyện Bình Liêu hiện nay nói chung và
thực trạng thông tin nghề nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Thao tác hoá một số khái niệm liên quan: Nhu cầu, thông tin nghề,
học sinh THPT, nông thôn, hướng nghiệp.
Khảo sát thực trạng tiếp cận thông tin nghề qua các PTTTĐC của học
sinh THPT ở huyện Bình Liêu: Hoạt động thông tin nghề đã được thực hiện
hay chưa, nội dung, mức độ và hình thức hoạt động đang diễn ra hiện nay
nhu cầu thông tin nghề của học sinh.
Trên cơ sở đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát huy và nâng cao
hơn nữa vai trò của các PTTTĐC trong công tác hướng nghiệp cho học sinh
trường trung học phổ thông huyện Bình Liêu.
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu.
3
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Nhu cầu tiếp cận thông tin nghề qua các phương tiện thông tin
đại chúng của học sinh THPT huyện Bình Liêu hiện nay.
4.2. Khách thể nghiên cứu.
Học sinh khối lớp 12.
4.3. Phạm vi nghiên cứu.
Địa bàn khảo sát: Trường trung học phổ thông Bình Liêu, huyện
Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh.
Thời gian khảo sát: Tháng 4/2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
Dựa trên quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về vấn đề này trong giai đoạn hiện nay.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
• Phương pháp thu thập thông tin:
Sử dụng phương pháp khảo sát định lượng bằng bảng Ankét:
Điều tra 150 bảng hỏi đối với các em học sinh khối lớp 12 ở trường
THPT Bình Liêu dựa trên danh sách các lớp.
Sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu đối với 2 học sinh khối
lớp 12: trong đó có 1 học sinh nam và 1 học sinh nữ.
• Phương pháp xử lý thông tin
6. Gỉa thuyết nghiên cứu và khung phân tích
6.1 Gỉa thuyết nghiên cứu
• Học sinh rất cần tiếp cận cả bốn nội dung về thông tin nghề,
nhưng các em muốn được tiếp cận thông tin về cách lựa chọn
nghề nghiệp phù hợp với bản thân nhất.
4
• Học sinh có nhu cầu tiếp cận thông tin về các lớp đào tạo nghề
thấp nhất.
• Nhu cầu tiếp cận thông tin về các trường CĐ, ĐH của học sinh
luôn cao hơn nhu cầu tiếp cận thông tin về các lớp đào tạo
nghề.
• Trong các hình thức của PTTTĐC thì các em mong muốn được
tiếp cận với thông tin nghề nhiều nhất là qua Internet
6.2. Khung phân tích
Thuyết minh các biến số:
• Biến độc lập: Đặc điểm cá nhân (giới tính, học lực), đặc điểm
gia đình (nghề nghiệp của bố mẹ, mức chi tiêu của gia đình).
• Biến trung gian: Thực trạng tiếp cận thông tin nghề qua các
phương tiện thuyền thông đại chúng của học sinh THPT ở
huyện Bình Liêu hiện nay.
• Biến phụ thuộc: Nhu cầu thông tin nghề của học sinh THPT ở
huyện Bình Liêu về:
+ Thông tin về các nghề đang có.
+ Thông tin về các trường Cao đẳng, ĐH
+ Thông tin về các lớp đào tạo nghề.
+ Thông tin về cách lựa chọn nghề phù hợp với bản thân.
• Biến can thiệp: Môi trường kinh tế - xã hội, các nguồn tiếp cận
thông tin nghề khác
• Khung phân tích:
5
Các nguồn tiếp cận thông tin nghề
khác như: nhà trường, gia đình,….
Đặc điểm cá nhân:
giới tính, học lực.
Đặc điểm gia đình:
nghề nghiệp của bố
mẹ, mức chi tiêu
của gia đình.
Các phương tiện
truyền thông đại
chúng
Thực trạng
tiếp cận
thông tin
nghề qua
các
PTTTĐC
của học
sinh THPT
ở huyện
Bình Liêu
hiện nay
Nhu cầu
thông tin
nghề qua
các
PTTTĐC
của học
sinh
THPT ở
huyện
Bình Liêu
hiệnay
Các nghề đang có
Các trường Cao đẳng, ĐH
Các lớp đào tạo nghề
Cách lựa chọn nghề phù
hợp với bản thân
Môi trường kinh tế - xã hội
7. Ý nghĩa của đề tài.
Ý nghĩa lý luận:
Góp phần bổ sung lý luận về nghiên cứu giáo dục hướng nghiệp trong
nhà trường THPT thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng
6
Đề tài được tiến hành nghiên cứu nhằm góp phần nâng cao hiệu quả
của giáo dục hướng nghiệp trong trường học hiện nay bằng những đóng góp,
những khuyến nghị và các giải pháp.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
học tập.
8. Kết cấu đề tài
Đề tài gồm 4 phần chính: phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận
và danh mục tài liệu tham khảo. Trong đó, phần nội dung được chia thành 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề tiếp cận thông tin nghề qua các
phương tiện thông tin đại chúng.
Chương 2: Thực trạng tiếp cận thông tin nghề của học sinh THPT ở
huyện Bình Liêu hiện nay.
Chương 3: Nhu cầu tiếp cận thông tin nghề qua các phương tiện thông
tin đại chúng của học sinh trường THT Bình Liêu.
7
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lý luận của vấn đề tiếp cận thông tin nghề qua các phương
tiện thuyền thông đại chúng
1.Thao tác hóa các khái niệm
1.1. Nhu cầu.
Theo Từ điển xã hội học, Nguyễn Khắc Viện (chủ biên) thì nhu cầu
được quan niệm như sau: “Mọi hành vi của con người đều do sự thúc đẩy
của những nhu cầu nào đó. Nhu cầu thể hiện sự lệ thuộc của một cơ thể sống
vào môi trường bên ngoài, thể hiện thành những ứng xử tìm kiếm khi cơ thể
thiếu những điều kiện để tồn tại và phát triển”. Tuy nhiên nhu cầu không
phải chỉ nảy sinh khi cơ thể thiếu những điều kiện để tồn tại và phát triển mà
“luôn luôn nảy sinh nhu cầu mới theo năng lực (tức là những đòi hỏi) về thể
chất, trí tuệ và tâm hồn ngày càng tăng lên của con người”. Và khi được thoả
mãn nhu cầu, con người cảm thấy thích thú, hài lòng. Không thoả mãn được,
con người bị hẫng hụt và có thể đi tới hành vi chống lại những trở ngại trong
việc tìm kiếm sự thoả mãn nhu cầu.
Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam thì khái niệm nhu cầu được định
nghĩa như sau: “Nhu cầu là sự phản ánh một cách khách quan các đòi hỏi về
vật chất, tinh thần và xã hội của đời sống con người phù hợp với trình độ
8
phát triển kinh tế của từng thời kỳ. Nhu cầu hình thành và phát triển trong
quá trình lịch sử. Mức độ nhu cầu và phương thức thoả mãn nhu cầu về cơ
bản phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội, trước hết là trình độ phát
triển kinh tế. Nhu cầu là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất và toàn xã hội
phát triển. Đặc điểm nhu cầu của các tầng lớp nhân dân được hình thành tuỳ
theo địa vị của họ trong nền sản xuất xã hội, tuỳ thuộc vào đặc trưng nhân
khẩu, chủng tộc, dân tộc… và các điều kiện kinh tế, xã hội, tự nhiên” .
Và “Nhu cầu được phân thành nhiều loại theo các tiêu chí khác nhau.
Cơ cấu nhu cầu biến động khác nhau theo giai cấp, theo các tầng lớp dân cư,
theo các vùng lãnh thổ, tuỳ theo thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội. Xác định
nhu cầu là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hoạch định chính sách
phát triển kinh tế và quản lý kinh tế” . Đây là quan niệm về nhu cầu đầy đủ
và mang tính xã hội học hơn cả.
Vận dụng các quan điểm trên vào trong quá trình nghiên cứu đề tài,
nhu cầu được định nghĩa như sau: Nhu cầu là sự mong muốn được tiếp cận
với thông tin nghề của học sinh nhằm hiểu rõ về các nghề đang tồn tại từ đó
lựa chọn được nghề phù hợp với sức khoẻ, trình độ của bản thân, đáp ứng
nhu cầu lao động xã hội”.
1.2. Thông tin nghề.
Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ được đào
tạo con người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản
phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội.
Như vậy thông tin nghề được hiểu đó là việc giới thiệu cho các em
học sinh về những nghề đang có hiện nay, giới thiệu về hệ thống các trường
CĐ, ĐH và các lớp đào tạo nghề ở trung ương và địa phương, cách lựa chọn
nghề phù hợp với bản thân.
1.3. Học sinh THPT.
9
Học sinh THPT là nhóm đối tượng nằm trong độ tuổi từ 16 – 18, hiện
đang theo học các lớp 10, 11, 12. Ở lứa tuổi này các em đã bắt đầu trưởng
thành và bắt đầu có những suy nghĩ, băn khoăn rằng sau khi học xong phổ
thông mình sẽ đi đâu, làm gì, tiền đồ và triển vọng ra sao. Để cho các em có
thể tìm hiểu và định hướng nghề đúng đắn, từ đó chọn cho mình một nghề
phù hợp với năng lực và sở trường cá nhân, vừa phù hợp với yêu cầu xã hội
thì việc cung cấp thông tin nghề trong nhà trường có một vai trò vô cùng
quan trọng.
1.4. Hướng nghiệp.
Hướng nghiệp trong trường phổ thông là hệ thống các biện pháp tác
động của nhà trường nhằm hướng dẫn và chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn sàng
đi vào lao động ở các ngành nghề tại những nơi xã hội đang cần phát triển,
đồng thời ngành nghề đó lại phù hợp với hứng thú và năng lực các nhân.
1.5 Truyền thông đại chúng
Theo giáo trình Lý thuyết truyền thông và vận động ( Khoa Tuyên
truyền - Học viện Báo chí tuyên truyền) : “Truyền thông đại chúng là kênh
truyền thông sử dụng các phương tiện kỹ thuật như sách, báo, phát thanh,
truyền hình, internet…và các phương tiện trực quan như pano, apphich,
tranh cổ động, tờ rơi…để tác động đến đông đảo đối tượng”
Như vậy, phương tiện truyền thông đại chúng chính là các hình thức
thực hiện hoạt động truyền thông.
3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về hướng nghiệp.
Ngay từ những năm 80, hoạt động hướng nghiệp trong nhà trường đã
được Đảng và Nhà nước chú trọng. Năm 1981 Thủ tướng chính phủ đưa ra
quyết định 126/CP về công tác hướng nghiệp cho học sinh phổ thông và sử
dụng học sinh các cấp THCS và THPT ra trường bao gồm các quy định:
Mục đích của công tác hướng nghiệp, nhiệm vụ của công tác hướng nghiệp,
10
biện pháp thực hiện và giao nhiệm vụ cho các bộ, ngành, địa phương phối
hợp với ngành giáo dục thực hiện.
Văn kiện Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam IX đã nêu “Coi trọng công
tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh trung học, chuẩn bị cho thanh niên,
thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong cả nước và từng địa phương”.
Luật giáo dục cũng khẳng định rằng: “Giáo dục THPT nhằm cung ứng
những kiến thức thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp để học sinh tiếp
tục học Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào
cuộc sống”.
Năm 2001, Thủ tướng chính phủ đã đưa ra chỉ thị số 14/2001/CT –
TTg về việc “Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông để thực hiện Nghị
quyết số 40/2000/GH10 của Quốc hội khoá X”. Trong chỉ thị ghi rõ: Trước
yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, sự phát triển nhanh
và mạnh mẽ của khoa học – công nghệ nói chung và khoa học giáo dục nói
riêng cần phải đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông. Trong chỉ
thị đã đề ra 4 mục tiêu:
Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Đổi mới phương pháp dậy và học, phát huy tư duy sang tạo và năng lực
tự học của học sinh phổ thông.
Tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông các nước trong khu vực và trên thế
giới.
Tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức phân luồng sau THCS và THPT,
chuẩn bị tốt cho học sinh học tiếp ở bậc sau Trung học và tham gia lao
động ngoài xã hội…
Chỉ thị cũng đề ra nguyên tắc cần phải đảm bảo khi đổi mới chương trình
và sách giáo khoa phổ thông, trong đó có nguyên tắc: “Chọn lọc, đưa vào
11
chương trình các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại phù hợp với khả
năng tiếp thu của học sinh, hết sức coi trọng tính thực tiễn, học đi đôi với
hành, giáo dục kết hợp với hoạt động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội”.
Ngày 23 tháng 07 năm 2003, Bộ trưởng bộ giáo dục và đào tạo đã có chỉ
thị về việc tăng cường giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông. Mục
đích là giúp học sinh, đặc biệt là học sinh cuối cấp, tìm hiểu thế giới nghề
nghiệp, thị trường lao động và đánh giá năng lực bản thân, hướng dẫn học
sinh lựa chọn nghề nghiệp hoặc lựa chọn trường học, ngành học phù hợp với
năng lực cá nhân và yêu cầu của xã hội. Chỉ thị nêu rõ: Giáo dục hướng
nghiệp là một bộ phận của giáo dục toàn diện trong nhà trường phổ thông và
đã được xác định trong Luật giáo dục và Chiến lược phát triển giáo dục 2001
– 2010. Tuy nhiên, giáo dục hướng nghiệp chưa được các cấp quản lý giáo
dục và trường học quan tâm đúng mức, học sinh phổ thông cuối cấp học, bậc
học chưa được chuẩn bị chu đáo để lựa chọn nghề, ngành học phù hợp với
bản thân và yêu cầu của xã hội. Bộ giáo dục và đào tạo yêu cầu các trường
phổ thông, các Trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp… cần phải thực
hiện tốt các vấn đề sau:
Nâng cao nhận thức về giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ
thông.
Quán triệt giáo dục hướng nghiệp ở trong xã hội, hoàn thiện chương
trình, biên soạn sách giáo khoa, sách giáo viên và trong giảng dạy, tổ chức
hoạt động ngoại khoá.
Nghiêm túc thực hiện sinh hoạt hướng nghiệp ở các trường THCS,
THPT và Trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp. Ở mỗi trường cần
phân công một lãnh đạo phụ trách công tác giáo dục hướng nghiệp và cử
những giáo viên có năng lực tổ chức biên soạn, phát hành đủ tài liệu hướng
nghiệp trong các nhà trường.
12
Nâng cao chất lượng và mở rộng dậy nghề phổ thông, tổ chức thi
nghề nghiêm túc.
Tăng cường việc chỉ đạo triển khai thực hiện quy chế về tổ chức và
hoạt động của Trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp để các trung tâm
này thực hiện tốt nội dung giáo dục nghề phổ thông trong chương trình
THCS và THPT.
Các cấp quản lý giáo dục cần quán triệt chủ trương xã hội hoá giáo
dục trong chỉ đạo thực hiện giáo dục hướng nghiệp.
Trong phương hướng, nhiệm vụ của năm học 2004 – 2005 và giải
pháp nâng cao chất lượng toàn diện của Bộ giáo dục và đào tạo ghi rõ: “Tiếp
tục thực hiện chỉ thị số 32/2003/CT – BGD & ĐT ngày 23/07/2003 về tăng
cường giáo dục hướng nghiệp và dậy nghề nhằm góp phần thực hiện phân
luồng trong đào tạo”.
Như vậy, qua các văn kiện, chỉ thị của Đảng và Nhà nước, ta có thể
thấy rằng việc hướng nghiệp với nội dung cơ bản là thông tin nghề luôn
nhận được sự quan tâm chỉ đạo sâu sắc của Đảng và nhà nước.
13
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG TIẾP CẬN THÔNG TIN NGHỀ CỦA HỌC SINH THPT
Ở HUYỆN BÌNH LIÊU HIỆN NAY
1. Vài nét về địa bàn và đối tượng nghiên cứu.
1.1. Huyện Bình Liêu.
Bình Liêu là huyện miền núi ở cực Bắc của tỉnh Quảng Ninh, cách
thành phố Hạ Long 130km, cách thị trấn Tiên Yên 40km, phía Bắc có
48,2km đường biên giới giáp Trung Quốc, phía đông giáp huyện Quảng Hà,
phía Tây giáp huyện Đình Lập tỉnh Lạng Sơn, phía nam giáp huyện Tiên
Yên.
Bình Liêu có diện tích tự nhiên 47.138ha, địa hình núi non trùng điệp.
Phía đông có nhiều dãy núi cao, cao nhất là ngọn Cao Xiêm 1330m, núi Cao
Ba Lanh cao 1050m. Bình Liêu có rất nhiều suối, phần lớn suối đổ về sông
Tiên Yên. Đất nông nghiệp rất hẹp, hơn 7000ha, trong đó hơn 4000ha là đồi
cỏ có thể chăn thả đại gia súc, đất cấy lúa trồng hoa màu chỉ có 164ha, chủ
yếu là ruộng bậc thang và những thung lũng chân núi, những bãi bồi ven
song. Đất rừng rất rộng, 28.818ha, trong đó có hơn 8000ha rừng tự nhiên
nhưng lâm sản đã nghèo kiệt.
Bình Liêu có nhiều dân tộc cùng sinh sống. Trong cuộc tổng điều tra
dân số năm 1999 Bình Liêu có gần 26000 người gồm 5 dân tộc chính. Dân
tộc Tày chiếm đông nhất: 58,4% , Dao: 25,6% , Sán Chay: 15,4% , Kinh;
3,7% , Hoa: 0,3%. Điều này rất bất lợi cho việc giao tiếp giữa các dân tộc,
đặc biệt là việc phát triển giáo dục nơi đây.
Về kinh tế: Do điều kiện tự nhiên không thuận lợi cho việc phát triển
nông nghiệp nên huyện đã có những chương trình chỉ đạo phát triển Tiểu thủ
công nghiệp, lâm nghiệp và chăn nuôi. Thời tiết và khí hậu ở Bình Liêu
thuận lợi cho việc trồng cây dong giềng, phát triển sản xuất miến dong với
14
chất lượng đảm bảo và an toàn vệ sinh nên đã tạo được thương hiệu với bên
ngoài. Huyện Bình Liêu tiếp giáp với Trung Quốc nên việc giao lưu trao đổi
hàng hoá diễn ra khá mạnh làm tăng ngân sách Nhà nước.
Về chính trị: Chế độ sẵn sàng chiến đấu, giữ vững chủ quyền an ninh
biên giới được duy trì. Lực lượng quốc phòng, dân quân tự vệ được củng cố.
Giữ vững an ninh chính trị đảm bảo trật tự an toàn xã hội, an ninh nông thôn
vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Có sự kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh
tế với quốc phòng an ninh và hoạt động đối ngoại. Công tác giáo dục và
tuyên truyền pháp luật về phòng chống các loại tội phạm và tệ nạn xã hội
được tăng cường. Đã có các biện pháp tích cực giảm thiểu tai nạn giao
thông, chống buôn lậu, gian lận thương mại… tạo điều kiện ổn định, thuận
lợi thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn của
huyện.
Về văn hoá – giáo dục: Công tác chăm lo đời sống vật chất và tinh
thần cho nhân dân được đẩy mạnh, đặc biệt là hoạt động giáo dục đã được
chú trọng phát triển. Theo báo cáo của UBND huyện Bình Liêu năm 2008
thì lĩnh vực giáo dục đã có những bước chuyển biến mới, số học sinh yếu
kém ở THPT giảm 22,4% , tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp là 69,7% tăng 43%
so với năm trước…Tuy nhiên số học sinh khá giỏi chỉ đạt 29,9%, giảm 9,8%
so với năm học trước, số học sinh bỏ học vẫn diễn ra ở hầu hết các cấp học
và có chiều hướng gia tăng, chất lượng dậy và học đã được nâng lên nhưng
vẫn còn một số tồn tại: Năng lực chuyên môn của giáo viên còn yếu, mối
quan hệ giữa gia đình và nhà trường chưa chặt chẽ, cơ sở vật chất còn nhiều
thiếu thốn và khó khăn… nên hiệu quả giảng dậy còn nhiều hạn chế.
1.2. Trường THPT Bình Liêu.
15
Trường THPT Bình Liêu là trường cấp 3 duy nhất của huyện Bình
Liêu được thành lập năm 1984 tại khu Bình Công II, thị trấn Bình Liêu,
huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh. Trải qua quá trình phát triển hiện nay
trường đã có 6 lớp 10, 5 lớp 11 và 5 lớp 12 với tổng số học sinh cả trường là
635 học sinh. Đội ngũ giáo viên của trường gồm 32 giáo viên.
Cơ sở hạ tầng của trường đã đáp ứng được hoạt động dậy và học của
giáo viên, học sinh. Trường học được xây dựng gồm 3 tầng với 14 phòng
học và 2 phòng máy vi tính (có 50 máy). Các thiết bị phục vụ cho các môn
học cần thực hành như hoá, sinh, lý đã được trang bị khá đầy đủ.
Do trường THPT Bình Liêu là một trường thuộc khu vực miền núi,
điều kiện đi lại còn nhiều khó khăn nên vẫn còn một số học sinh bỏ học giữa
chừng. Tuy nhiên có những học sinh đã cố gắng học tập và thi đỗ vào các
trường Đại học, tỷ lệ này không nhiều nhưng cũng đáng là một niềm tự hào
của trường THPT Bình Liêu.
Tuy là một trường của huyện miền núi nhưng trường THPT Bình Liêu
đã có những hoạt động hướng nghiệp cho học sinh. Cụ thể là trong hai năm
trở lại đây nhà trường đã có giáo viên phụ trách môn học hướng nghiệp giúp
các em tìm hiểu thông tin về các ngành nghề và lựa chọn nghề chọn trường
sau khi tốt nghiệp. Nhà trường cũng tạo điều kiện để các em học sinh được
tiếp cận với thông tin nghề dưới nhiều hình thức khác nhau như: Những buổi
tư vấn nghề của giáo viên trong trường, các buổi nói chuyện của sinh viên
thuộc các trường CĐ, ĐH ở địa phương, hoạt động phát tài liệu hướng
nghiệp cho học sinh của Hội đồng hương sinh viên Bình Liêu tại Hà Nội…
1.3 Đặc điểm của khách thể nghiên cứu
Để tìm hiểu nhu cầu thông tin nghề của học sinh THPT ở nông thôn
tác giả tiến hành nghiên cứu định lượng bằng bảng hỏi Ankét đối với 150
16
học sinh lớp 12 của trường THPT Bình Liêu. Trong đó có 57 học sinh nam
(chiếm 38%) và 93 học sinh nữ (chiếm 62%).
Học lực của học sinh khối lớp 12 không đồng đều, trong 150 học sinh
được khảo sát thì chỉ có 1 học sinh giỏi (chiếm 0,7%) , 22 học sinh khá
(chiếm 14,7%) và 123 học sinh trung bình (chiếm 82%), còn có 4 học sinh
yếu (chiếm 2,6%).
Ngoài ra khách thể nghiên cứu còn có các đặc điểm sau: Nghề nghiệp
của cha, mẹ học sinh chủ yếu là là nông dân, công chức Nhà nước chỉ chiếm
một tỷ lệ nhỏ. Điều kiện kinh tế gia đình của học sinh còn khó khăn, đa số
các gia đình có mức chi tiêu dưới 400 nghìn đồng/người/tháng, tỷ lệ gia đình
có mức chi tiêu hàng tháng trên 800 nghìn đồng/người chỉ chiếm 22%.
Bảng 1 Nghề nghiệp của cha, mẹ học sinh:
Nghề nghiệp
Nông dân
Công nhân
Công chức nhà nước
Kinh doanh buôn bán
Hưu trí
Khác
Tổng
Cha (%)
62,7
2
24,7
6
2
2,6
100
Mẹ (%)
62,7
4
20
10
2
1,3
100
2. Thực trạng tiếp cận thông tin nghề qua các PTTTĐC của học
sinh THPT Bình Liêu
Trong những năm qua, hầu hết học sinh trong trường đã được tiếp cận
với tất cả các nội dung của thông tin nghề.
Trong trường THPT, trong gia đình và qua các PTTTĐC học sinh đều
được tiếp cận với cả 4 nội dung về thông tin nghề mà chúng tôi đã đưa ra.
17
Tuy nhiên, mức độ tiếp cận với các nội dung về thông tin nghề là không
giống nhau. Trong nhà trường, học sinh thường xuyên được tiếp cận thông
tin về các nghề đang có. Trong gia đình, học sinh thường xuyên được tiếp
cận thông tin về cách lựa chọn nghề phù hợp với bản thân và qua các
PTTTĐC thì học sinh lại thường xuyên được tiếp cận thông tin về các
trường CĐ, ĐH.
Trong ba nguồn thông tin là nhà trường, gia đình và các PTTTĐC thì
học sinh thường xuyên được tiếp cận thông tin nghề trong nhà trường, sau
đó là gia đình, cuối cùng là qua các PTTTĐC. Tuy nhiên với đề tài này,
chúng tôi chỉ đi sâu vào khảo sát thực trạng tiếp cận thông tin nghề của học
sinh THPT Bình Liêu qua các TTTĐC
Qua các PTTTĐC học sinh thường xuyên được tiếp cận với thông tin
về cả 4 nội dung như đã nêu, nhưng với mức độ khác nhau, cụ thể:
Biểu 1: Mức độ tiếp cận với các nội dung của thông tin nghề (số lần/tháng)
qua các PTTTĐC của học sinh.
2.1. Thực trạng tiếp cận thông tin về các nghề đang có.
18
Mức độ tiếp cận thông tin về các nghề đang có của học sinh THPT
qua các PTTTĐC từ 4 lần trở lên trong một tháng chiếm tỷ lệ 64,8% , đứng
thứ ba sau mức độ tiếp cận thông tin về các trường CĐ, ĐH và thông tin về
cách lựa chọn nghề phù hợp với bản thân.
Học sinh được tiếp cận thông tin về các nghề đang có chủ yếu là qua
Tivi (chiếm 66%), ngoài ra còn được tiếp cận qua Internet (chiếm 49,3%).
Lý thuyết tiếp nhận đã chỉ ra rằng người xem Tivi nhiều sẽ có hành động và
quan điểm đồng nhất hơn là những người ít xem. Do vậy cần phát huy ưu
điểm này để các em học sinh được tiếp cận với thông tin về các nghề đang
có một cách hiệu quả nhất.
Biểu 2: Học sinh được tiếp cận thông tin về các nghề đang có qua PTTTĐC.
Qua các PTTTĐC, học sinh chủ yếu được tiếp cận với thông tin về
các nghề đang có ở địa phương (chiếm 56%) và các nghề đang có ở Việt
Nam (chiếm 55%), còn thông tin về các nghề đang có trên Thế giới học sinh
hầu như không được tiếp cận. Trong thời kỳ nước ta đang hội nhập kinh tế
quốc tế thì việc học sinh am hiểu về nghề nghiệp là rất cần thiết, do vậy các
19
PTTTĐC cần giúp học sinh tiếp cận với thông tin về các loại nghề đang có
một cách đầy đủ hơn nữa.
Cuộc khảo sát tại trường THPT Bình Liêu cho thấy mức chi tiêu của
gia đình các em học sinh chủ yếu nằm trong khoảng dưới 400 (nghìn
đồng/người/tháng) chiếm hơn 50%. Những gia đình học sinh có mức chi tiêu
trên 800 nghìn/người/tháng chiếm tỷ lệ không nhiều với 22%. Có thể thấy
mức chi tiêu của người dân ở nông thôn vẫn còn thấp, điều này cũng ảnh
hưởng một phần đến việc tiếp cận thông tin nghề của học sinh qua các PTTT
ĐC. Những học sinh sống trong các gia đình có mức chi tiêu dưới 200 nghìn
đồng/người/tháng chủ yếu được tiếp cận thông tin về các nghề đang có qua
Tivi (chiếm 23,2%) một loại phương tiện truyền thông phổ biến ở nông thôn.
Còn những học sinh sống trong các gia đình có mức chi tiêu từ 200 400nghìn đồng/người/tháng chủ yếu được tiếp cận thông tin về các nghề
đang có qua Tivi và Báo. Những học sinh sống trong các gia đình có mức
chi tiêu từ 600 nghìn đồng/người/tháng trở lên được tiếp cận thông tin nghề
qua Internet nhiều nhất. Điều này có thể lý giải do chi phí truy cập Internet ở
nông thôn cao hơn ở các nơi khác nên chỉ những gia đình có điều kiện khá
giả thì học sinh mới được tiếp cận thông tin về các nghề đang có qua
Internet.
Như vậy mức độ học sinh được tiếp cận thông tin về các nghề đang có
qua các PTTTĐC ít hơn các nội dung khác, hầu như chỉ tiếp cận qua Tivi và
Internet. Học sinh chủ yếu được tiếp cận thông tin về các nghề đang có ở địa
phương và ở Việt Nam qua các PTTTĐC. Mức chi tiêu hàng tháng của gia
đình cũng ảnh hưởng tới việc tiếp cận thông tin về các nghề đang có, học
sinh sống trong những gia đình khá giả thường được tiếp cận thông tin nghề
qua Internet, còn học sinh sống trong những gia đình bình thường được tiếp
cận qua Tivi và Đài.
20
2.2. Thực trạng tiếp cận thông tin về các trường CĐ, ĐH.
Tỷ lệ học sinh được tiếp cận với thông tin về các trường CĐ, ĐH từ 4
lần trở lên/tháng là nhiều nhất. Mặc dù Internet chưa phổ biến nhưng học
sinh THPT ở nông thôn đã được tiếp cận với thông tin về các trường CĐ,
ĐH qua loại phương tiện này là nhiều nhất (chiếm 56%). “Hiện nay nhà
trường đã có phòng vi tính nối mạng Internet nên chúng em có thể truy cập
tìm kiếm thông tin nghề một cách dễ dàng hơn” (Một học sinh nữ lớp 12, 19
tuổi). Bên cạnh đó học sinh còn được tiếp cận thông tin về các trường CĐ,
ĐH qua Tivi (chiếm 52%) một loại phương tiện truyền thông rất phổ biến ở
nông thôn, hầu như gia đình nào cũng có. Theo tác giả thì việc truyền tải
thông tin về các trường Cao đẳng, Đại học qua Tivi là phù hợp hơn cả bởi
như vậy các em học sinh dễ dàng tiếp cận hơn.
Biểu 3 : Học sinh tiếp cận thông tin về các trường CĐ, ĐH qua các
PTTTĐC.
21
Mức chi tiêu hàng tháng của gia đình cũng ảnh hưởng tới việc tiếp cận
thông tin về các trường CĐ, ĐH của học sinh. Điều này thể hiện rõ: Những
học sinh sống trong các gia đình có mức chi tiêu dưới 400 nghìn
đồng/người/tháng thường được tiếp cận thông tin này qua Tivi và Đài. Còn
những học sinh sống trong các gia đình có mức sống từ 400 nghìn
đồng/người/tháng trở lên thường được tiếp cận thông tin này qua Internet.
Như vậy, qua các PTTTĐC học sinh được tiếp cận thông tin về các
trường CĐ, ĐH nhiều nhất, chủ yếu tiếp cận từ Tivi và Internet. Học sinh
sống trong những gia đình trung bình thường tiếp cận thông tin về các
trường CĐ, ĐH qua Tivi, còn học sinh sống trong những gia đình khá giả
thường được tiếp cận qua Internet.
2.3.Thực trạng tiếp cận thông tin về các lớp đào tạo nghề.
Học sinh được tiếp cận thông tin về các lớp đàp tạo nghề qua các
PTTTĐC rất hạn chế, đa số học sinh chỉ được tiếp cận 1lần/tháng. So với
các nội dung khác của thông tin nghề thì thông tin về các lớp đào tạo nghề
học sinh được tiếp cận ít nhất. Cần tạo điều kiện để các em tiếp cận với
thông tin này nhiều hơn nữa.
Đối với thông tin về các lớp đào tạo nghề học sinh được tiếp cận rải
rác qua các loại PTTTĐC, trong đó tiếp cận qua Internet là nhiều nhất
(chiếm 39,3%), qua Tivi là 37,3% , qua Báo là 36,7%, qua Đài là 26,7%.
Như vậy thông tin về các lớp đào tạo nghề đã được giới thiệu qua cả 4
PTTTĐC phổ biến hiện nay, điều này giúp học sinh tiếp cận với thông tin về
các lớp đào tạo nghề một cách dễ dàng hơn.
Qua các PTTTĐC học sinh được tiếp cận với thông tin về các lớp đào
tạo nghề ở địa phương và ở các tỉnh lân cận là chủ yếu, còn thông tin về các
lớp đào tạo nghề ở Việt Nam được tiếp cận không nhiều.
22
Bảng 2: Học sinh được tiếp cận thông tin về các lớp đào tạo nghề qua các
PTTTĐC.
Học sinh tiếp cận thông tin về các Tỷ lệ (%)
lớp
đào
tạo
nghề
qua
các
PTTTĐC
Các lớp đào tạo nghề ở địa phương
Các lớp đào tạo nghề ở các tỉnh lân
48
42
cận
Các lớp đào tạo nghề ở Việt Nam
24
Mức chi tiêu hàng tháng của người dân nông thôn còn thấp, do vậy
ảnh hưởng tới việc được tiếp cận thông tin về các lớp đào tạo nghề của học
sinh. Cuộc khảo sát tại trường THPT Bình Liêu cho thấy học sinh sống trong
những gia đình có mức chi tiêu dưới 200 nghìn đồng/người/tháng chủ yếu
được tiếp cận thông tin về các lớp đào tạo nghề qua Tivi, còn những gia đình
có mức chi tiêu từ 200-600 nghìn đồng/người/tháng thì học sinh được tiếp
cận qua Đài và Báo, những học sinh sống trong các gia đình khá giả được
tiếp cận thông tin về các lớp đào tạo nghề qua Internet chiếm đa số so với
những học sinh khác.
Như vậy, học sinh được tiếp cận thông tin về các lớp đào tạo nghề qua
các PTTTĐC còn rất hạn chế. Học sinh được tiếp cận thông tin này rải rác
qua các loại phương tiện truyền thông, chủ yếu là thông tin về các lớp đào
tạo nghề ở địa phương. Điều kiện kinh tế gia đình cũng ảnh hưởng một phần
đến việc tiếp cận thông tin về các lớp đào tạo nghề của học sinh.
2.4. Thực trạng tiếp cận thông tin về cách lựa chọn nghề phù hợp với
bản thân.
23
So với các nội dung khác của thông tin nghề thì tỷ lệ học sinh được
tiếp cận từ 4lần/tháng đối với thông tin về cách lựa chọn nghề phù hợp với
bản thân xếp vị trí thứ hai (chiếm 68,5%).
Tỷ lệ học sinh được tiếp cận thông tin về cách lựa chọn nghề phù hợp
với bản thân và thông tin về các nghề đang có qua Internet là ngang nhau
(đều chiếm 49,3%) . Đây cũng là loại phương tiện truyền tải nhiều thông tin
nghề nhất so với các loại phương tiện truyền thông khác. Cần phát huy ưu
điểm này bởi Internet là loại phương tiện truyền thông truyền tải thông tin
nghề một cách nhanh gọn giúp các em học sinh nắm bắt thông tin nghề kịp
thời và hiệu quả, từ đó có quyết định chọn nghề đúng đắn cho bản thân.
Trong nội dung thông tin về cách lựa chọn nghề phù hợp với bản thân
học sinh được tiếp cận với thông tin về trình độ là nhiều nhất (chiếm đến
80%), tiếp theo là thông tin về kỹ năng (chiếm 43,7%). Thông tin về sức
khoẻ dường như chưa được coi trọng nên chiếm tỷ lệ ít nhất.
Những học sinh sống trong các gia đình có mức chi tiêu dưới 600
nghìn đồng/người/tháng thường được tiếp cận thông tin về cách lựa chọn
nghề phù hợp với bản thân qua Tivi, Đài, Báo. Còn những học sinh sống
trong các gia đình có mức chi tiêu hàng tháng cao hơn được tiếp cận thông
tin nghề qua Internet là chủ yếu.
Như vậy, học sinh được tiếp cận thông tin về cách lựa chọn nghề phù
hợp với bản thân qua các PTTTĐC chiếm tỷ lệ cao nhất so với các nội dung
khác của thông tin nghề, học sinh được tiếp cận chủ yếu qua Internet. Các
em học sinh được tiếp cận với thông tin về trình độ là nhiều nhất.
Tóm lại: Thông qua các PTTTĐC học sinh đã được tiếp cận đầy đủ
với các nội dung của thông tin nghề theo tác giả đưa ra, trong đó học sinh
được tiếp cận thông tin về cách lựa chọn nghề phù hợp với bản thân thường
xuyên nhất. Các em học sinh được tiếp cận thông tin nghề chủ yếu qua Tivi
24
và Internet. Điều kiện kinh tế gia đình cũng ảnh hưởng một phần đến loại
PTTTĐC mà học sinh được tiếp cận thông tin nghề. Chỉ những gia đình có
mức chi tiêu hàng tháng từ 600 nghìn/người/tháng trở lên thì học sinh mới
được tiếp cận thông tin nghề qua Internet, còn những gia đình khác học sinh
chỉ được tiếp cận thông tin nghề qua Tivi là chủ yếu.
Sau khi khảo sát thực trạng tiếp cận các nội dung về thông tin nghề
của học sinh THPT trong nhà trường, trong gia đình và qua các PTTTĐC thì
kết quả cho thấy là:
Trong nhà trường học sinh thường xuyên được tiếp cận thông tin nghề
nhất (chiếm 81,5%),
kế tiếp là trong gia đình (chiếm 80%), qua các
PTTTĐC chiếm tỷ lệ thấp nhất (với 65,8%). Như vậy nhà trường đã chú
trọng đến việc hướng nghề cho học sinh hơn là gia đình và các PTTTĐC.
Biểu 4: Mức độ tiếp cận thường xuyên với thông tin nghề của học sinh trong
nhà trường, trong gia đình và qua các PTTTĐC.
Học sinh được tiếp cận thông tin về cách lựa chọn nghề phù hợp với
bản thân nhiều nhất (chiếm tới 78,3%), còn việc tiếp cận thông tin về các
nghề đang có và thông tin về các trường CĐ, ĐH là gần như tương đương
25