Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Cẩm Nang Viết Khảo Luận, Luận Văn, Luận Án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (834.19 KB, 107 trang )

THÍCH NHẬT TỪ

1


Mục lục
LỜI GIỚI THIỆU...............................................................................................................................3
II. PHÂN LOẠI NGHIÊN CỨU....................................................................................................7
V. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..................................................................................10
.........................................................................................................................................................17
I. DẪN NHẬP..............................................................................................................................27
II. VỀ PHẦN DẪN NHẬP...........................................................................................................27
IV. VỀ PHẦN THAM KHẢO.....................................................................................................34
I. ĐỊNH NGHĨA CƯỚC CHÚ VÀ HẬU CHÚ...........................................................................49
II. CHỨC NĂNG CỦA CƯỚC CHÚ VÀ HẬU CHÚ.................................................................50
III. ƯU ĐIỂM VÀ KHUYẾT ĐIỂM CỦA CƯỚC CHÚ VÀ HẬU CHÚ..................................50
IV. CÁCH ĐÁNH SỐ VÀ TRÌNH BÀY CƯỚC CHÚ VÀ HẬU CHÚ.....................................50
V. CÁC QUI ĐỊNH VỀ CƯỚC CHÚ VÀ HẬU CHÚ................................................................52
VI) PHONG CÁCH TRÌNH BÀY CƯỚC CHÚ, HẬU CHÚ CHI TIẾT[1]...............................53
VII) PHONG CÁCH TRÌNH BÀY CƯỚC CHÚ / HẬU CHÚ VẮN TẮT................................55
VIII. CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT THƯỜNG ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG CƯỚC CHÚ VÀ
HẬU CHÚ....................................................................................................................................57
I. ĐỊNH NGHĨA THƯ MỤC THAM KHẢO..............................................................................72

2


LỜI TRI ÂN
Quyển Cẩm Nang Viết Khảo Luận, Luận Văn và Luận Án này ra đời lần đầu tiên vào cuối
năm 1997 và chủ yếu được truyền tay trong giới thân hữu đang học tập và nghiên cứu tại đại
học Delhi, Ấn Độ. Vào năm 1999 ấn bản lần thứ hai ra đời với những sửa chữa nhỏ về lỗi


chính.
Nay được quý thân hữu yêu cầu tái bản, chúng tôi đã xem lại và sửa chữa thêm các lỗi
chính tả và bổ sung vài điều cần thiết khác. Trong lần ấn bản thứ ba nầy, chúng tôi nhận được
sự giúp đỡ của quý pháp hữu. Nhân dịp này chúng tôi chân thành cảm ơn quý Đại đức Thích
Thiện Hữu, Thích Thiện Mỹ, Thích Lệ Thọ và Thích Giác Hoàng đã đóng góp nhiều ý kiến
quý báu, nhất là cho biết nhiều lỗi chính tả mà chúng tôi đã không phát hiện trong hai ấn bản
đầu.
Chúng tôi ý thức rõ rằng tác phẩm này không sao tránh khỏi các sơ sót và hạn chế. Kính
mong đón nhận được sự chỉ giáo và đóng góp ý kiến của các bậc thức giả, để lần tái bản sau
được hoàn thiện hơn.
Trong lúc biên tập lại ấn bản này, chúng tôi được tin buồn Ni sư Như Phước, người đã hỗ
trợ cho sự tu học của chúng tôi, đã về cõi Phật vào ngày 23-8-2000 (nhằm 24-7-AL). Thành
kính xin hồi hướng công đức của tác phẩm này về Ni sư.
Panjab University
Chandigarh, Ấn Độ

Thích Nhật Từ
Kính cẩn

LỜI GIỚI THIỆU
Bước vào lãnh vực nghiên cứu, dù là học đường hay ngoài học đường, người nghiên cứu
thường mong mỏi tác phẩm hay công trình nghiên cứu của mình đạt tầm cỡ, có giá trị và thực
sự được học giới và người đọc đón nhận một cách khách quan, vô tư và nghiêm túc. Trong
nghiên cứu, người nghiên cứu thường bị hạn chế về thời tính, và do đó, lắm lúc trở nên vội
vàng, lúng túng khi thời gian ấn định đã hết mà công trình hay luận án chưa dứt điểm. Chính
vì vậy, tính chiến lược, khoa học và phương pháp trong nghiên cứu trở nên quan trọng hơn bao
giờ hết. Do đó, khi dấn thân vào công trình nghiên cứu, người nghiên cứu cần phải nắm vững
cách hình thành tác phẩm, cấu trúc của công trình, phương pháp sử dụng tài liệu, phương
pháp trích dẫn, cách trình bày sách tham khảo, bảng viết tắt, cách chú thích, biên tập vaø
đánh giá bản thảo, để cho công trình nghiên cứu đạt được chất lượng tiêu chuẩn cao trong thời

gian và công sức ít nhất.
Hiện nay, trước sự phát triển gia tốc của mọi mặt trên thế giới, vấn đề giáo dục, học tập và
nghiên cứu đang được đầu tư và phát triển mạnh ở Việt Nam. Số lượng sinh viên và nghiên cứu
sinh Việt Nam ngày càng gia tăng không chỉ ở phạm vi trong nước mà còn vượt biên giới sang
nước ngoài. Số lượng sách giáo khoa và tham khảo cho mọi lãnh vực ngày càng tăng trong khi
đó, các sách hướng dẫn về phương pháp nghiên cứu lại quá hiếm hoi, có thể đếm trên đầu ngón
tay. Quyển “Cẩm nang viết khảo luận, luận văn và luận án” này ra đời thật đúng lúc, cập nhật
với trào lưu giao thoa học thuật quốc tế. Nó không những là tài liệu tham khảo cho các giáo viên
hướng dẫn bộ môn phương pháp nghiên cứu mà còn là tấm bản đồ hướng dẫn từng bước đi ban
đầu cho các sinh viên và nghiên cứu sinh trong lãnh vực nghiên cứu và sáng tác. Thiết nghĩ,
quyển sách không chỉ ngừng lại ở chỗ cung cấp cho giới sinh viên những điều cần thiết để gặt
hái những tinh hoa kiến thức trong biển rừng sách vở mà còn là kim chỉ nam, là tấm bản đồ ngắn
gọn, dễ nhớ và dễ áp dụng, nhằm đáp ứng một cách thỏa mãn nhu cầu học hỏi của học giới.
3


Qua quyển sách này, tác giả đã cho chúng ta thấy kiến thức về phương cách sử dụng (the
knowledge of how) đóng vai trò quan trọng và quyết định kiến thức về sự kiện (the knowledge of
what). Nhờ có kiến thức về phương pháp nghiên cứu, công trình nghiên cứu sẽ trở nên độc lập,
nguyên thủy, sáng tạo, chóng thành công, và do đó có thể đóng góp nhiều giá trị mới cho học giới.
Vì hoài bảo muốn đóng góp khả năng cho sự nghiệp phát triển nghiên cứu và giáo dục của
tác giả, tôi xin chân thành giới thiệu tác phẩm đến quý bạn đọc. Mong sao quý bạn đọc đón
nhận tác phẩm này như một công cụ không thể thiếu trong nghiên cứu của mình.
International Students’ House
University of Delhi
Tháng 7 năm 1997

THÍCH THIỆN HỮU
Trân trọng


LỜI NÓI ĐẦU ^
Phương pháp nghiên cứu, ngày nay hơn bao giờ hết, đã trở thành một trong những vấn đề
trọng tâm không chỉ của các hoạt động mang tính học đường mà còn của tất cả mọi lãnh vực
khác. Làm việc thiếu phương pháp thì thời gian, công sức, năng lực có thể hao tốn rất nhiều
nhưng thành quả đạt được chẳng là bao nhiêu.
Về phương diện kết quả, sự thành công của con người có thể nhờ vào sự nỗ lực, phấn đấu
trong kiên trì và không gián đoạn. Về phương diện hiệu quả, sự phấn đấu và kiên trì vẫn chưa
gọi là đủ. Mức độ thành công tùy thuộc rất nhiều vào phương pháp hay kỹ năng làm việc. Có
nỗ lực, kiên trì, bền bỉ theo đuổi mục đích nhưng lại thiếu phương pháp thì hiệu suất công việc
khó có thể hay không thể đạt được như mong muốn. Vì vậy, phương pháp đóng vai trò vô
song trong việc nâng cao hiệu suất của công việc nói chung, công tác khảo cứu nói riêng.
Nhờ biết phương pháp khảo cứu, nhà nghiên cứu có thể đầu tư thời gian làm việc ít nhưng
lại thâu hoạch được thành quả công việc cao. Nhanh- hiệu quả-chất lượng là ba đặc tính của
một khảo cứu có phương pháp.
Tại các nước tiên tiến, nhất là các nước chịu ảnh hưởng của hệ thống giáo dục Mỹ, phương
pháp nghiên cứu là một trong những bộ môn được đưa vào giảng dạy ở cấp cử nhân. Tại các
nước chịu ảnh hưởng của nền giáo dục Anh, phương pháp nghiên cứu chỉ được giới thiệu ở
cấp phó tiến sĩ.[1] Nhờ được đào luyện về phương pháp nghiên cứu từ cấp cử nhân, sinh viên
ngoại quốc đã bắt đầu dấn thân vào con đường nghiên cứu đúng nghĩa, ở nhóm tuổi trẻ trung
đầy sức lực và sáng tạo, để cho ra đời những tác phẩm vô song và bất hủ. Lúc này, sinh viên
không còn nghe và tin vào những gì thầy cô giáo giảng dạy trên lớp một cách thụ động và
không đặt vấn đề như ở cấp trung học trở xuống nữa. Đối với sinh viên nắm vững về phương
pháp nghiên cứu, kiến thức hay thông tin của thầy cô giáo cũng chỉ là một trong những nguồn
tài liệu tham khảo như bao nhiêu nguồn tài liệu tham khảo khác. Kiến thức của sinh viên được
phát triển và lớn dần do biết cách tham khảo tài liệu, có phương pháp tư duy và viết một cách
độc lập và sáng tạo. Trong khi đó, hệ thống giáo dục Anh làm cho sinh viên chậm phát triển
hơn về phương diện dấn thân vào con đường sáng tác độc lập, so với hệ thống Mỹ, chỉ vì do
phương pháp nghiên cứu được giới thiệu quá trễ!
Tại Việt Nam ta, do thiếu tài liệu tham khảo, bộ môn phương pháp nghiên cứu hiếm khi
được triển khai ở các cấp học cử nhân và cao học một cách chính thức. Thỉnh thoảng có một

số trường đưa nó vào giảng dạy ở cấp cao học hoặc phó tiến sĩ. Có lẽ chính vì thế, có quá ít
các sáng tác của ta đạt được tiêu chuẩn quốc tế về ba phương diện: phương pháp nghiên cứu,
phong cách trình bày và chất lượng nghiên cứu. Trong khi, phần lớn tác phẩm còn lại, dù đạt
yêu cầu về chất lượng, nhưng không đạt tiêu chuẩn về phương pháp nghiên cứu và cách thức
trình bày. Một tác phẩm có nhiều giá trị về phương diện khám phá nhiều vấn đề mới mẻ trong
một lãnh vực nghiên cứu nào đó nhưng để xuất hiện quá nhiều lỗi về chính tả, văn phạm, về
4


cách trình bày cước chú và thư mục không đúng cách v.v… sẽ có thể làm cho độc giả khó tánh
nghi ngờ về chất lượng nghiên cứu vốn có của nó. Một tác giả chu đáo rõ ràng không thể để
cho các thiếu xót này, dù nhỏ nhặt, làm phiền và giảm uy tín chất lượng sáng tác của mình.
Trong chiều hướng đó, quyển sách nhỏ này ra đời với một hy vọng khiêm tốn rằng nó sẽ
góp phần nào đó trong việc san bằng các khoảng cách thiếu hụt về phương pháp nghiên cứu tại
Việt Nam. Tập sách này nhằm cung cấp cho các bạn sinh viên mới bắt đầu dấn thân vào sự
nghiệp nghiên cứu hay cho những người ham thích sáng tác nói chung, những chỉ dẫn cần
thiết về các mặc ước mang tính quốc tế về viết tắt, về phép chấm câu, về phép viết hoa và
nghiêng, về các bộ phận của một bài khảo luận hay luận án, về cách trình bày các bộ phận đó,
về cách đọc và ghi chép tài liệu, về cách soạn thảo và viết bản thảo, về cách ghi cước chú, về
cách trình bày thư mục tham khảo, phần phụ lục, bảng giải thích thuật ngữ, bảng chú dẫn mục
từ, và về cách biên tập và đánh giá bản thảo trước khi xuất bản. Tác giả mong rằng nó sẽ là
người “đầy tớ” trung thành của các bạn sinh viên và nghiên cứu sinh.
Để cho các vấn đề trình bày được dễ hiểu và dễ sử dụng, tác giả đã chọn cách viết và trình
bày “phân chia thành đề mục,” không đặt nặng vấn đề triết lý hay phân tích các nội dung. Tác
giả cũng đã ý thức và hạn chế một cách tối đa việc sử dụng các thuật ngữ của khoa học này,
ngoại trừ những trường hợp không thể tìm được các từ thông thường khác có ý nghĩa tương
đương với chúng.
Tập sách này, thực ra, chỉ là một nỗ lực khiêm tốn trong việc đáp ứng những kiến thức
mang tính cẩm nang về cách viết và soạn thảo bài khảo luận, luận văn và luận án cho các sinh
viên mới bắt đầu dấn thân vào nghiên cứu và những người bắt đầu chưa có kinh nghiệm. Cho

nên, mặc dù tác giả đã có nhiều cố gắng, tập sách vẫn không sao tránh khỏi những hạn chế
nhất định. Tác giả mong đón nhận được những lời chỉ giáo và góp ý chân tình của các bậc
thức giả cũng như người sử dụng sách, để cho các tái bản về sau, nó thật sự xứng đáng đón
nhận được niềm tin cậy của quý bạn.
GWYER HALL
University of Delhi
Rằm tháng 7 năm 1997

THÍCH NHẬT TỪ
Cẩn chí

[1] Dịch ý của M. Phil. Course (Master of Philosophy Course). Về ý nghĩa và bản
chất của khóa học này, xem cước chú 2 của chương “Đề cương luận án và bản tóm
tắt luận án.”
-oOo-

CHƯƠNG I : TỔNG LUẬN VỀ NGHIÊN CỨU
5


(INTRODUCTION TO RESEARCH)

I. KHÁI NIỆM NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Khái Niệm Nghiên Cứu
Về phương diện nghĩa đen, nghiên cứu, theo chữ Hán, là suy xét (cứu) và nghiền ngẫm
(nghiên) một vấn đề cho thấu đáo. Trong tiếng Anh, từ “nghiên cứu” là “research.” Bắt
nguồn từ tiếng pháp “recerche(r), từ ‘research’ được kết hợp bằng hai thành tố “re” có
nghĩa là lập đi lập lại nhiều lần, và “search” có nghĩa là tìm kiếm để phát hiện hay khám phá.
Như vậy, ghép hai thành tố lại, từ “reseach” có nghĩa là tìm kiếm nhiều lần để khám phá hay
phát hiện ra những điều chưa biết hay những thông tin mới.

Về phương diện của khoa học nghiên cứu, nghiên cứu không chỉ đơn thuần là “hành vi tìm
kiếm để phát hiện ra những sự kiện mới hay thêm vào mảng thông tin những điều chưa
biết.”[1] Bởi lẽ, theo giáo sư Phillips và Pugh, nghiên cứu được hiểu như sự phát hiện ra
những sự kiện mới và thêm những thông tin chưa biết là định nghĩa của người thường,
không phải của khoa học nghiên cứu. Và hơn hết, định nghĩa như vậy có phạm vi vừa quá
rộng và quá hẹp.[2] Quá rộng vì nó bao gồm nhiều hoạt động, chẳng hạn như tìm thời giờ
cho chuyến xe lửa kế đến Luân-đôn, hay cũng như làm giảm nhiệt độ của hồ bơi, cái mà
chúng ta không thể xem là nghiên cứu... Dù là quá rộng, định nghĩa như vậy lại trở nên quá
hẹp, bởi lẽ, có rất nhiều nghiên cứu không liên hệ gì đến “phát hiện ra những gì bạn chưa
biết,” nhưng lại liên hệ đến “sự phát hiện ra cái mà bạn chưa biết về vấn đề nào đó.”[3]
Thực ra, nghiên cứu là quá trình khảo sát hay thẩm tra một vấn đề, là công trình thí
nghiệm đặc biệt, nhằm mục đích khám phá những kiến thức mới hoặc giải thích lại những sự
kiện cũ bằng các học thuyết mới hoặc hiệu đính, tu chính những học thuyết, định luật đã có
hoặc dựa theo những sự kiện mới tìm được để hình thành nên học thuyết hoàn hảo hơn. Nói
đơn giản, nghiên cứu là công trình khảo sát, là nỗ lực tìm kiếm hay khám phá những sự kiện
hay thông tin hay kiến thức mới bằng các phương pháp có hệ thống và khoa học về một lãnh
vực nghiên cứu nào đó, với mục đích mở rộng hay đào sâu hơn kiến thức về một chủ đề
trong lãnh vực đã chọn đó. Nó liên hệ đến việc xử lý tài liệu, khái niệm, biểu tượng với mục
đích phổ quát hóa vấn đề đến một tầm mức nào đó, hiệu đính hay kiểm chứng kiến thức.
Ngoài ra, theo giáo sư C. C. Crawford,[4] một nghiên cứu theo đúng nghĩa phải bao gồm
chín đặc điểm sau đây:
• Xoay quanh hay đào sâu một vấn đề.
• Liên hệ đến tác phẩm nguyên thủy.
• Nội dung phong phú do thái độ đam mê của người viết.
• Đòi hỏi một khối óc rộng mở.
• Nó dựa trên giả định rằng mọi sự vật đều có qui luật và trật tự của nó.
• Đối tượng của nó là nhằm khám phá các qui luật và tiến đến phổ quát hóa.
• Nó là sự khảo sát về nhân và quả của vấn đề.
• Nó dựa trên các phương pháp đo lường.
• Nó gắn liền với kỹ thuật ý thức.

2. Khái Niệm "Phương Pháp Nghiên Cứu"
Phương pháp nghiên cứu, tiếng Anh gọi là “method of research” hay “research
methodology” hay còn được viết gọn bằng một chữ “methodology.” Trước hết, chúng ta cần
phân biệt hai phương diện của nghiên cứu, đó là, nội dung và phương pháp.
6


Nội dung là những gì chúng ta sẽ phải trình bày cho độc giả trí thức. Nó là trọng tâm hay
chủ đề chính của công việc nghiên cứu. Phương pháp là cách thức chúng ta giải quyết chủ đề
trọng tâm đó. Giữa hai cái, nội dung thuộc về phần chủ não và quan trọng, vì đó là những gì
chúng ta sẽ đóng góp kiến thức cho học giới. Phương pháp chỉ là công cụ nên tầm quan
trọng của nó chỉ thuộc cấp độ hai, vì nó cũng cần thiết cho việc hỗ trợ nhà nghiên cứu hoàn
thành công việc nghiên cứu đúng thời hạn, đạt tiêu chuẩn. Phương pháp phải được lựa chọn
ngay sau khi và phải thích hợp với bản chất của nội dung.
Phương pháp bao giờ cũng là phương pháp của một công việc hay cho một vấn đề nào đó.
Do vậy, phương pháp sử dụng cho lãnh vực này không thể ứng dụng cho lãnh vực khác.
Chẳng hạn như, phương pháp của vật lý, loại phương pháp thực nghiệm trong phòng thí
nghiệm, không thể áp dụng cho lãnh vực thuộc khoa học xã hội, như kinh tế học, bộ môn
cần dựa vào sự quan sát số lớn các sự kiện khác nhau hoặc thống kê v.v... Như vậy, tiêu chí
cho sự toàn hảo về một phương pháp là nhằm đáp ứng các yêu cầu của nội dung. Trong một
mức độ nào đó, phương pháp chọn lựa thích hợp sẽ có thể kéo theo chất lượng và giá trị của
tác phẩm nghiên cứu, và ngược lại. Chính vì lý do này, nhà nghiên cứu không chỉ lưu ý về
những gì được nghiên cứu mà còn về phương pháp hay cách thức giải quyết chúng. Vì thế,
tìm hiểu về phương pháp nghiên cứu trở nên cần thiết đối với nhà nghiên cứu.
Trở lại vấn đề, thuật ngữ “methodology” có nghĩa là khoa học phương pháp (the science of
method) hay học thuyết nghiên cứu (the theory of research) hay phương pháp nghiên cứu có
hệ thống và có khoa học (scientific and systematic method of study). Phương pháp luận
nghiên cứu là sự nghiên cứu đặc biệt về các phương pháp được áp dụng trong nghiên cứu.
Mục đích của phương pháp luận nghiên cứu một mặt là nhằm nhận dạng các đặc điểm chung
và riêng của phương pháp nghiên cứu và mặt khác nhằm xác định phương cách các đặc điểm

của phương pháp khác nhau tùy theo bản chất của các ngành, lãnh vực mà chúng trực thuộc.
Nền tảng của sự nghiên cứu, tìm tòi này nằm trong các trường hợp cụ thể của các nghiên
cứu đã được thực hiện. Các nghiên cứu đó sẽ cho chúng ta biết được các điểm mạnh cũng
như điểm nhược, thành công cũng như thất bại tong việc ứng dụng các phương pháp của
những người làm công tác khảo cứu.
Nói tóm lại, trên căn bản, phương pháp nghiên cứu đóng vai trò quan trọng trong việc giúp
chúng ta, từ việc đúc kết các kinh nghiệm xương máu của các nhà nghiên cứu trước, tránh
được các thao tác dư thừa trong khi tiến hành và không vấp phải những sai suất trong khi
thực hiện.
II. PHÂN LOẠI NGHIÊN CỨU
Dù phương pháp nghiên cứu là đa dạng và các vấn đề hay chủ đề nghiên cứu đã, đang và
sẽ được thực hiện là nhiều đến độ không thể tính đếm, loạïi hình nghiên cứu trên bản chất là
có giới hạn và có thể được phân thành ba phần chính sau đây:
1. Nghiên Cứu Phân theo Số Người Tham Dự: gồm có
Nghiên cứu của cá nhân.
Nghiên cứu của tập thể gồm từ hai người trở lên.
2. Nghiên Cứu Phân theo Địa Điểm Thực Hiện: gồm có
Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm.
Nghiên cứu ngoài phòng thí nghiệm.
3. Nghiên Cứu Phân theo Bản Chất hay Mục Đích: gồm có
Nghiên cứu thuần túy.
Nghiên cứu ứng dụng.
7


Trong ba phân loại trên, nghiên cứu phân theo bản chất hay mục đích là quan trọng nhất. Về
mối tương quan giữa chúng, bất kỳ một công trình nghiên cứu nào cũng liên hệ đến ba phân
loại trên. Một nghiên cứu nào cũng có người thực hiện. Người thực hiện có thể một mình hay
có sự cộng tác của một hay nhiều người đồng nghiệp. Kế đến, nghiên cứu đó sẽ thuộc vào một
trong hai loại sau đây, ứng dụng hay thuần túy. Và, nếu nó là nghiên cứu ứng dụng thì thường

nó sẽ được tiến hành trong phòng thí nghiệm. Nếu nó là nghiên cứu thuần túy thì nó có thể
được tiến hành trong hoặc ngoài phòng thí nghiệm tùy theo lãnh vực nghiên cứu. Do đó, ta có
thể phân loại tất cả các nghiên cứu thành hai loại hình chính, đó là, nghiên cứu thuần túy và
thực dụng.
a) Nghiên cứu thuần túy (pure research): Là các công trình tìm tòi và khám phá kiến
thức mới cho một lãnh vực nào đó một cách không vụ lợi, không bị vẩn đục bởi các tính toán
liên hệ đến các hình thái sử dụng xã hội, theo đó, các khám phá có thể được đưa vào.[5] Nói
cách khác, nghiên cứu thuần túy mang tính cách bất vụ lợi, chỉ nhằm mục đích khám phá và
làm cho vấn đề trở nên chân thiện mỹ mà thôi.
b) Nghiên cứu ứng dụng (practical or applied research): Là công trình nghiên cứu của
một cá nhân hay tập thể hay của các viện, ban, ngành, công ty kỹ nghệ v.v.. . thực hiện với
mục đích nhằm phát minh các sản phẩm mới hay cải tiến các sản phẩm đã có, để phục vụ
cho các mục đích xã hội, nhất là kinh tế. Nói cách khác, nghiên cứu ứng dụng là các công
trình tìm kiếm và khám phá ra những cái mới, nhắm đến mục đích phục vụ cho các nhu cầu
xã hội, để gặt hái các hiệu suất kinh tế.
c) Mối liện hệ giữa chúng: Các nghiên cứu thuần túy, trên thực tế, có thể liên hệ đến các
nghiên cứu khoa học thuộc thực dụng hay ứng dụng. Các nghiên cứu thuần túy của ngày hôm
qua trở thành các nghiên cứu ứng dụng ngày hôm nay, và rồi chúng có thể trở thành các máy
móc, vật dụng hay tiến trình của ngày mai.[6]
III. TIÊU CHUẨN CHUNG VÀ CHUYÊN MÔN CỦA NHÀ NGHIÊN CỨU
Đam mê thuần túy vẫn chưa đủ để trở thành nhà nghiên cứu giỏi. Đam mê có thể giúp bạn
thâu thập được kiến thức cần thiết. Để trở thành nhà nghiên cứu giỏi, ngoài kiến thức như
điều kiện cần thiết, tức ngoài đam mê, và thông thạo phương pháp làm việc, bạn còn phải hội
đủ các tiêu chuẩn chung và riêng sau đây:
1. Các Tiêu Chuẩn Chung cho Việc Nghiên Cứu
a) Thông thạo về lãnh vực nghiên cứu
Vì nghiên cứu nhằm hướng đến kiến thức chuyên sâu về một lãnh vực quen thuộc, nó đòi
hỏi nhà nghiên cứu cần phải có các kiến thức nền tảng về lãnh vực đó. Chỉ khi nào bạn có
được các kiến thức nền tảng về một lãnh vực nào đó, bạn mới có thể dễ dàng tiến xa và sâu
vào lãnh vực, phát hiện ra những thông tin mới và đóng góp chúng cho học giới. Bằng

không, bạn chỉ mãi là người thừa kế hay thừa hưởng thành quả nghiên cứu của các học giả
khác mà thôi.
b) Động cơ phát minh
Nhà nghiên cứu phải có thái độ đam mê trong khám phá những thông tin chưa được biết
đến. Đam mê khám phá là thái độ, là niềm khao khát nâng cao kiến thức của bản thân. Càng
có nhiều đam mê, nhà nghiên cứu càng có nhiều cơ hội phát hiện và đóng góp những kiến
thức mới cho một lãnh vực theo đuổi nào đó. Đức tính này cần đượïc phát triển ngay khi bạn
bắt đầu vào nghiên cứu và cần được duy trì và phát huy trong suốt thời gian bạn dấn thân
vào công tác nghiên cứu.
c) Khả năng tư duy
Để có thể đạt được niềm khát khao của mình, nhà nghiên cứu cần phải có khả năng tư duy
và phản ánh một cách logic, có hệ thống và biện chứng. Thường con người có bản năng tư
8


duy và phản ánh. Nhưng bản năng này chỉ được phát triển ở một mức độ nhất định trong
những trường hợp tình cờ hay ngẫu nhiên mà chưa được đào luyện để trở thành một phản xạ
có điều kiện. Nhà nghiên cứu phải đào luyện chính mình phản xạ phản ánh và tư duy có hệ
thống về các vấn đề, nhất là vấn đề đang theo đuổi nghiên cứu.
2. Các Tiêu Chuẩn Chuyên Môn cho Việc Nghiên Cứu
a) Kiến thức về ngôn ngữ nguồn tài liệu
Đây là điều kiện tiên quyết giúp bạn đi sâu vào lãnh vực chuyên ngành. Không có kiến
thức về ngôn ngữ chuyên ngành, dù có động cơ tốt, có khả năng tư duy bén nhạy, có kiến
thức nhiều, bạn cũng khó có thể bước chân vào con đường phát hiện ra những kiến thức mới.
Muốn trở thành chuyên gia về triết học Aán Độ, điều kiện tiên quyết là bạn phải rành ngôn
ngữ triết học Aán như Sanskrit gốc (Pure Sanskrit), Sanskrit Phật giáo (Buddhist Hybrid
Sanskrit) và Pali. Tương tự, muốn trở thành chuyên gia về triết học phương Tây, bạn phải
rành về tiếng Hy-lạp, tiếng La-tinh, tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Anh. Kiến thức chuyên môn
về ngôn ngữ nguồn tài liệu gốc là chìa khóa đưa bạn đến tiếp cận văn bản gốc, tư duy về văn
bản gốc và khám phá chúng. Bằng không, bạn chỉ có thể dựa vào bản dịch hay sử dụng các

tài liệu hai về chủ đề mà thôi.
b) Thông thạo về ngôn ngữ báo cáo
Ngôn ngữ báo cáo là ngôn ngữ bạn sử dụng viết công trình nghiên cứu của bạn. Nhà
nghiên cứu cần phải thông thạo ngôn ngữ mà mình sẽ phản ánh hay phúc trình công trình
nghiên cứu. Không có khả năng diễn đạt chuyên môn và lão luyện về ngôn ngữ báo cáo, nhà
nghiên cứu khó có thể thành công trong việc thông tin cho độc giả những khám phá mới của
mình. Nhu cầu thông thạo về ngôn ngữ viết không có nghĩa buộc nhà nghiên cứu phải trở
thành nhà văn lão luyện, mà chỉ yêu cầu nhà nghiên cứu có khả năng diễn đạt một cách
chính xác, rõ ràng ý tưởng của mình. Chỉ có diễn đạt chính xác mới có thể dẫn đến sự đọc
hiểu chính xác ở người đọc.
c) Khả năng phân tích
Vì luận án là một trong những hoạt động nghiên cứu cao cấp, ngôn ngữ diễn đạt của nó
nên nặng về phân tích hơn là mô tả. Mô tả chỉ dành cho sách giáo khoa và sách thông
thường. Ngôn ngữ của luận án phải là ngôn ngữ phân tích. Nhờ phân tích, luận án của bạn
mới có sức thuyết phục người đọc về những luận điểm và luận chứng của bạn về một kết
luận nào đó. Nói cách khác, “nghiên cứu vượt khỏi mô tả và cần đến phân tích. Nó tìm kiếm
sự giải thích, các mối quan hệ, các so sánh đối chiếu, các dự đoán, khả năng phổ quát hoá và
tạo dựng học thuyết.”[7]
IV. CÁC LOẠI ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Mặc dù có vô số đề tài nghiên cứu, chúng có thể được phân thành năm loại chính, đó là, @
đề tài dựa vào tác phẩm hay tác giả, @ đề tài dựa vào khái niệm, @ đề tài so sánh, @ đề tài
siêu-triết học, và @ đề tài liên ngành.
1. Đề Tài Dựa vào Tác Phẩm hay Tác Giả
(Thinker or Text-Based Topics)
a) Chọn tác phẩm hay tác giả nổi tiếng
Trong trường hợp này, bạn phải tìm ra những vấn đề và góc cạnh còn bỏ dỡ, chưa được
khám phá, để làm đề tài nghiên cứu của bạn.
b) Chọn tác phẩm hay tác giả ít được biết đến
Trong trường hợp này, bạn có vô số vấn đề và góc độ để viết và khám phá, do đó, cơ hội
đóng góp của bạn cho học giới cũng nhiều hơn.

2. Đề Tài Dựa vào Khái Niệm (Concept-Based Topics)
9


Đây là đề tài xoay xung quanh một hay vài khái niệm hoặc thậm chí một hệ thống các khái
niệm quan trọng, trình bày một hệ thống tư tưởng hay học thuyết. Các khái niệm càng ít
được người biết đến sẽ là những khái niệm có nhiều tiềm năng cung cấp học giới các kiến
thức mới về lãnh vực đó. Nếu bạn chọn những khái niệm quen thuộc thì phương pháp và nội
dung phân tích của các bạn phải khác hơn các nghiên cứu trước đây về cùng một hay nhiều
khái niệm.
3. Đề Tài So Sánh (Comparative Topics)
Trong hai loại đề tài trên, loại đầu liên hệ đến văn bản hay tác giả, loại thứ hai liên hệ đến
khái niệm (tư tưởng) của một tác giả (nhà tư tưởng) hay của tác phẩm. Cả hai loại này trên
thực tế là nền tảng cho các đề tài so sánh. Sự so sánh có thể diễn ra với hai tác giả, hai tác
phẩm, hai khái niệm của hai truyền thống khác nhau, và ngay cả của cùng một truyền thống.
Có nghĩa là nhà tư tưởng trong truyền thống này có thể được so sánh với nhà tư tưởng thuộc
truyền thống khác. Hay hai nhà tư tưởng cùng một truyền thống nhưng có hai học thuyết
khác nhau cũng có thể được so sánh trong nghiên cứu. Tương tự, hai hay nhiều văn bản hoặc
khái niệm có thể được so sánh với nhau.
Các chủ đề so sánh thường hấp dẫn người đọc nhưng cũng khó hơn các chủ đề không
thuộc so sánh. Nhà nghiên cứu phải nắm vững cả hai hệ thống tư tưởng trước khi tiến hành
so sánh những điểm giống cũng như khác nhau của chúng. Khi so sánh, nhà nghiên cứu phải
thật vô tư và khoa học. Thái độ lấy một ý thức hệ A để làm trọng tâm trong khi đánh giá một
ý thức hệ khác hơn mình hay xem hệ tư tưởng A là chân lý và lấy nó làm tiêu chuẩn đánh giá
các hệ tư tưởng còn lại, là điều thường dẫn đến các thành kiến và giải thích sai trong nghiên
cứu.
4. Đề Tài Siêu-Triết Học (Meta-Philosophical Topics)[8]
Triết học thường khảo cứu hay thảo luận về thực tại, nhận thức và giá trị. Các thảo luận về
bản thân triết học được xem là siêu-triết học. Các chủ đề siêu-triết học thường khảo sát về
nguồn gốc, tiền giả định, mục đích, phương pháp, kết quả và giới hạn của triết học bằng cách

so sánh những thành tựu của các triết gia hay nhà tư tưởng khác nhau.
5. Đề Tài Liên Ngành (Inter-disciplinary Topic)
Là đề tài liên hệ đến ít nhất hai ngành học hay lãnh vực nghiên cứu khác nhau. Ngày
nay, nhờ sự phát triển của ngành phương pháp nghiên cứu, chúng ta có thể khảo cứu một
đề tài dưới góc độ của các ngành học khác liên hệ. Sự liên hệ chủ đề nghiên cứu đến các
lãnh vực khác nhau làm cho nội dung cũng như phương pháp tiếp cận trở nên phong phú
và hấp dẫn hơn. Chẳng hạn, giới luật trong đạo Phật có thể được tiếp cận qua nhiều góc độ
khác nhau, như tôn giáo học (bằng cách so sánh với các điều răn của các tôn giáo khác),
đạo đức học (thuộc triết học) và môi trường học (qua giới không sát sanh, vì không sát
sanh bao gồm không phá hủy sinh thái của con người và các loại động vật).
V. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong nghiên cứu có vô số vấn đề cần phải khảo sát. Để giải quyết các vấn đề khác nhau
này, nhà nghiên cứu cần vận dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau. Chỉ khi nào,
phương pháp nghiên cứu được chọn lựa một cách thích hợp với đề tài thì công trình nghiên
cứu mới có thể đem lại những thành quả như mong đợi. Trong phần này, chúng tôi xin giới
thiệu sơ lược về các phương pháp thông dụng trong các nghiên cứu thuộc khoa học xã hội.
1. Phương Pháp Chất Lượng (Qualitative Method)
Trong phương pháp này, trước nhất nhà nghiên cứu thu thập dữ liệu rồi sau đó tiến hành
phân tích chúng. Trên nền tảng này, nhà nghiên cứu công bố các thông tin sự kiện cho xã
hội. Nói khác hơn, trong phương pháp này, trước nhất nhà nghiên cứu chọn lựa các cá thể rồi
10


nghiên cứu triệt để các cá thể đó. Sự quan sát được tiến hành từ các sự kiện, rồi kế đến là tiến
hành phỏng vấn quần chúng, sau cùng trên nền tảng này, nhà nghiên cứu rút ra kết luận.
2. Phương Pháp Số Lượng (Quantitative Method)
Phương pháp này còn được biết đến với tên gọi phương pháp thống kê. Trong phương
pháp này, các dữ liệu được đo lường, và chỉ có các đơn vị được chọn lọc là được đo lường
mà thôi. Phương pháp này giúp nhà nghiên cứu loại trừ được yếu tố chủ quan ra khỏi phạm
vi nghiên cứu. Hạn chế của phương pháp này là bỏ lơ việc cân nhắc chất lượng của các đơn

vị được tiến hành, và chỉ đề cập đến số liệu chứ không đến nguyên nhân.
3. Phương Pháp Nghiên Cứu Hiện Trường (Field Study Method)
Đây là phương pháp nghiên cứu đòi hỏi sự dấn thân của nhà nghiên cứu ở hiện trường.
Nghĩa là, nhà nghiên cứu phải đích thân tham gia hay tham quan từng hiện trường một để
quan sát và đúc kết dữ liệu. Phương pháp này rất thích hợp cho những nghiên cứu có chủ đề
liên hệ đến tài liệu nguyên thủy. Khó khăn của phương pháp này là thời gian, tài chánh và
khí hậu, những trở ngại đôi lúc làm nhà nghiên cứu phải bỏ cuộc nửa đường.
4. Phương Pháp Thực Nghiệm (Experimental Method)
Phương pháp này được tiến hành bằng những thực nghiệm trong những tình huống có thể
kiểm soát được (controlled situations) và thường chỉ ứng dụng cho các ngành khoa học tự
nhiên. Trong nghiên cứu xã hội, phương pháp này có phạm vi rất hạn chế, bởi vì các cá
nhân, tánh khí và hành vi ứng xử của họ, phương pháp tiếp cận vấn đề và thái độ đối với
người khác dễ dàng thay đổi nhanh chóng. Phương pháp này có tên khác là phương pháp thí
nghiệm (laboratory method).
5. Phương Pháp Khảo Sát (Survey Method)
Khác với phương pháp thực nghiệm, phương pháp này không cần đến tình huống có thể
kiểm soát được. Trong phương pháp này, nhà nghiên cứu phải đến từng hiện trường để tiến
hành khảo sát. Phạm vi khảo sát của phương phướng này là không hạn định. Nhà nghiên cứu
phải chịu trách nhiệm về việc hình thành giả thuyết và đúc kết kết luận trên nền tảng những
gì được khảo sát. Cái khó của phương pháp này không phải là khảo cứu các hiện tượng hay
vấn đề xã hội mà là con người.
6. Phương Pháp So Sánh (Comparative Method)
Trong nghiên cứu xã hội, phương pháp này đóng vai trò khá quan trọng. Phương pháp này
nhằm tiến hành việc so sánh sự hình thành, phát triển cũng như những điểm tương đồng và
dị biệt của các cá thể hay phổ quát trong cùng một bối cảnh hay khác bối cảnh của cùng một
hay khác xã hội. Phương pháp này giúp xác định các vấn đề của các xã hội khác nhau, để
nhằm khắc phục và hỗ trợ cho sự phát triển của cộng đồng.
7. Phương Pháp Phỏng Vấn (Interview Method)
Đây là phương pháp cung cấp nhiều dữ liệu sống đáng tin cậy nhất. Dữ liệu được đúc kết
của phương pháp này thường bắt nguồn từ những tình huống trao đổi với từng hay nhiều nhân

vật khác nhau để đi đến một kết luận. Khó khăn của phương pháp này là nhà nghiên cứu
không dễ gì có được nhiều cơ hội cần thiết để tiếp xúc và phỏng vấn nhiều đối tượng, đảng
phái khác nhau. Kế đến nữa là các thông tin truyền miệng như vậy đôi lúc khó chính xác và
khó đạt được mức độ thấu đáo của vấn đề.
8. Phương Pháp Bảng Câu Hỏi (Questionnaire Method)
Phương pháp này đưa ra nhiều câu hỏi và nhằm đạt được các câu trả lời thuận hay nghịch,
tích cực hay tiêu cực, có hay không (Positive or negative). Người khảo cứu phải liệt kê tất cả
những câu hỏi cần thiết cho từng vấn đề, rồi tiến hành phân phối cho nhiều đối tượng và cá
thể khác nhau. Dựa trên nền tảng của những dữ liệu trả lời, nhà nghiên cứu đúc kết kết luận
cho một vấn đề nghiên cứu. Phương pháp này có điểm nhược là chưa chắc người trả lời đã
11


nghiêm túc trình bày ý kiến của mình. Kế đến, chưa hẳn người tiến hành hỏi và đúc kết cũng
có được thái độ giải thích khách quan cần thiết.
9. Phương Pháp Nghiên Cứu Tiêu Biểu (Case Study Method)
Đây là phương pháp nghiên cứu chuyên về một nhân vật, một gia đình, một cộng đồng,
một quốc gia, một xã hội được xem như là trường hợp tiêu biểu nhất. Phương pháp này giúp
tổ chức các dữ liệu xã hội và duy trì tính hợp nhất của chủ thể được nghiên cứu. Lỗ hỏng
của phương pháp này là nếu trường hợp điển hình không được nghiên cứu thấu đáo thì việc
loại suy hay ứng dụng cho các trường hợp còn lại sẽ rơi vào sai lầm nghiêm trọng.
10. Phương Pháp Phân Tích (Analytical Method)
Theo phương pháp này, nhà nghiên cứu giả định các mẫu lý tưởng nhất định đang hiện
hữu trong xã hội rồi tiến hành hoặc phủ định hay xác chứng các giả định đó. Khó khăn của
phương pháp này là cái gọi là “mẫu lý tưởng xã hội” không thống nhất trong một xã hội, và
hơn nữa, nó khác nhau từ xã hội này sang xã hội khác. Kế đến là, cùng chung một tình
huống lý tưởng, thường hai nhà nghiên cứu khác nhau có thể đúc kết thành hai kết luận khác
nhau.
11. Phương Pháp Liên Ngành (Inter-Disciplinary Method)
Dưới lăng kính nghiên cứu, các vấn đề liên hệ mật thiết với nhau. Chính vì thế, một

nghiên cứu có ý nghĩa chỉ có thể được tiến hành khi có nhiều đối tượng tác giả thuộc các
lãnh vực khác nhau hợp tác để tìm giải pháp của một vấn đề. Phương pháp này đưa ra tất cả
các nguyên nhân hay giả thuyết có thể có từ một vấn đề rồi suy nghiệm nên ứng dụng cách
thức nào để giải quyết vấn đề có hiệu quả nhất. Phương pháp này hay nhưng khó thực hiện
vì nó đòi hỏi sự tập hợp nhiều chuyên gia của nhiều lãnh vực hay một kiến thức bao quát để
tìm giải pháp hiệu quả nhất cho một vấn đề.
Nói tóm lại, mỗi phương pháp có những ưu khuyết điểm của nó. Tùy theo đối tượng, loại
hình, tính chất của vấn đề và mục đích phục vụ, bạn nên chọn phương pháp nghiên cứu thích
hợp nhất cho đề tài của riêng mình, để tránh những khuyết điểm có thể có và đạt được thành
quả nghiên cứu như mong đợi.
VI. NGUỒN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1. Dẫn Nhập
Tài liệu là công cụ duy nhất giúp nhà nghiên cứu tiến hành công việc nghiên cứu của
mình. Không có tài liệu thì dù có đầu óc vĩ đại cỡ nào đi nữa, nhà nghiên cứu cũng khó có
thể cho ra đời các sáng tác tầm vóc và có giá trị siêu thời gian.
Nguồn tài liệu nghiên cứu có thể bao gồm các loại ấn phẩm, sách vở, báo chí, tự điển các
loại (song ngữ, thuật ngữ, đối chiếu, chuyên ngành, bách khoa), ấn phẩm của chính phủ, các
bài giảng thuyết, phỏng vấn, băng từ, phim ảnh, bảng biểu đồ, dữ liệu vi tính (đĩa CD hoặc
đĩa floppy) và ngay cả các tư liệu chưa xuất bản hay chỉ lưu hành nội bộ.
2. Tầm Quan Trọng của Tài Liệu
Nhà nghiên cứu có thể học hỏi kinh nghiệm phát hiện thông tin, cách sử lý thông tin đó
của các tác giả trước.
Nhà nghiên cứu có thể tiết kiệm thời giờ trong việc tìm kiếm tài liệu đã được phát hiện.
Nhà nghiên cứu có thể phát kiến nhiều tư tưởng mới mẻ và nguyên thủy do sử dụng tài
liệu hay.
Giúp tác giả có cơ sở đặt giả thuyết, tiến xa các luận điểm và xác định các bằng chứng.
3. Phân Loại Nguồn Tài Liệu
Toàn bộ các tài liệu dù dưới hình thức đã xuất bản hay chưa xuất bản được chia thành ba
nguồn chính sau đây.
12



a) Nguồn Tài Liệu Gốc (Primary Sources)[9]
Định nghĩa
Nguồn tài liệu gốc là tất cả sáng tác thuộc nguyên thủy (first-hand accounts) của một tác
giả nào đó.
Phân loại
Nguồn tài liệu gốc có thể bao gồm các sáng tác nguyên thủy sau đây:
• Sách nguyên thủy (books).
• Luận án (theses and dissertations).
• Chuyên khảo (monographs).
• Bài nghiên cứu trong tạp chí (articles in journals and magazines).
• Thư từ (letters), nhật ký (diaries), hồi ký (memoirs), bút ký nhân chứng
(eyewitness accounts).
• Kịch (plays), thơ ca (poems), tiểu thuyết (novels), tự truyện (autobiographies).
• Tài liệu phỏng vấn (interviews) và bảng câu hỏi (questionnaires), khảo cứu thống
kê (statistical investigations).
• Cáo loại báo cáo và phúc trình (personal reports, reports of government agencies,
annual reports).
• Các loại biên bản (minutes or proceedings).
• Lời khai hay bản chứng nhận (court testimonies).
• Công báo (informations and notices), văn kiện (documents), diễn văn (lectures)
thông điệp của các cơ quan và tổ chức (messages).
Chức năng và yêu cầu
• Về phương diện tham khảo, nguồn tài liệu gốc là đáng tin cậy nhất. Càng tiếp xúc
và sử dụng nguồn tài liệu gốc nhiều, nhà nghiên cứu càng có cơ hội đóng góp nhiều
khám phá mới cho học giới về lãnh vực nghiên cứu đã chọn.
• Để có thể sử dụng nhiều tài liệu gốc, nhà nghiên cứu cần có kiến thức rộng về ngôn
ngữ gốc của loại tài liệu này. Nghĩa là, nhà nghiên cứu phải thông thạo nhiều cổ
ngữ liên hệ đến lãnh vực nguyên cứu nguyên thủy của mình.

b) Nguồn tài liệu hai (Secondary sources)
Định nghĩa
Nguồn tài liệu hai bao gồm các sáng tác dựa trên tài liệu gốc, viết về tài liệu gốc hoặc các
bản dịch khác nhau về tài liệu gốc.
Phân loại
• Nguồn tài liệu hai bao gồm tất cả các sáng tác không thuộc nguyên thủy như sau
đây:
• Các bản dịch (translations).
• Các bản sớ giải hay chú thích (commentaries).
• Các bản tóm tắt (summaries).
• Các mục hay tạp chí điểm sách (reviews of books or researches).
• Từ điển bách khoa (encyclopedias).
• Các tạp chí hay sách tóm tắt tác phẩm (abstracts).
• Các đánh giá (evaluations).
13


• Các sách hướng dẫn (guide books).
• Các ấn bản chứa các thông tin về sự kiện (factual informations).
Chức năng
• Về phương diện tham khảo, nguồn tài liệu hai không đáng tin cậy lắm vì có nhiều
khả năng sai lầm về cách tiếp cận, cách hiểu và cách giải thích.
• Do vì nó là nguồn tài liệu không hoàn hảo lắm, nhà nghiên cứu nên sử dụng càng ít
càng tốt, và nhất là chỉ sử dụng khi không thể tìm ra nguồn tài liệu gốc, hoặc chỉ để
tham khảo tư tưởng thuần túy.
c) Nguồn tài liệu ba (Tertiary sources)
Định nghĩa
Nguồn tài liệu ba bao gồm tất cả các sáng tác dựa trên nguồn tài liệu hai.
Phân loại
• Các loại sách giáo khoa.

• Các loại sách tương tự.
• Các loại xã luận trên báo, đài.
Chức năng
• Các tài liệu có thể cung cấp cho người đọc cái nhìn tổng quát hay bản tóm lược
chính xác về một chủ đề nào đó.
• Có một số sách giáo khoa có tiêu chuẩn của một sách nghiên cứu tầm vóc, cho nên
nó vẫn được xem là các tác phẩm tham khảo thẩm quyền trong trường hợp này.
• Tuy nhiên, bạn nên hạn chế tối đa việc sử dụng các tài liệu này trong các trích dẫn
của bạn. Ngoại trừ, trong trường hợp nguồn tài liệu gốc đã mất hoàn toàn hoặc
không thể tham khảo được, bạn phải dựa chính yếu nghiên cứu của bạn vào nguồn
tài liệu hai, lúc ấy bạn phải chấp nhận sử dụng đến nguồn tài liệu thứ ba này.
VII. TIẾN TRÌNH NGHIÊN CỨU[10]
Tiến trình nghiên cứu, còn được gọi là các giai đoạn quản trị của một công trình nghiên
cứu, có thể được chia thành ba giai đoạn chính, đó là, giai đoạn chọn lựa và sưu tầm, giai
đoạn tổ chức và giai đoạn trình bày.
Chọn lựa và sưu tầm bao gồm trước nhất là chọn lựa đề tài nghiên cứu thích hợp và tiến
hành thu thập các dữ liệu làm nền tảng cho bài khảo cứu hay luận án. Tổ chức là công việc
đặt tất cả tài liệu trong mối tương quan có ý nghĩa. Trình bày là việc chuyển các tài liệu đã
được tổ chức thành một tác phẩm hoàn chỉnh.
Ba giai đoạn này tương quan mật thiết với nhau, và do đó, nếu thiếu một trong ba, công tác
khảo cứu không thể mang lại kết quả như mong đợi.
1. Chọn Lựa và Sưu Tầm
Đề tài chọn lựa phải được cân nhắc kỹ lưỡng dưới các tiêu chí sau đây: chủ đề mới mẻ và
có giới hạn, có người hướng dẫn, thuộc về sở thích và sở trường, đủ khả năng xử lý, có đủ tài
liệu và phương tiện nghiên cứu, có tiềm năng đóng góp cho học giới và nhà nghiên cứu có
thể hoàn thành trong thời gian ấn định.
Các nguồn tài liệu gốc và hai phải tương đối đầy đủ. Người nghiên cứu phải xác định được
xuất xứ của nguồn tài liệu và hiện chúng được tàng trữ ở thư viện nào, và nếu muốn mua để
làm tài liệu riêng thì có thể mua ở đâu.
Người nghiên cứu không chỉ tư duy về đề tài của mình mà còn phải nghĩ đến đáp án giả

định (provitional solution) hay các giả thuyết (hypothesis). Giả thuyết, như tên gọi của nó
14


trong tiếng Anh, là cái ít hơn (hypo-) một kết luận đã hình thành (thesis). như vậy, giả thuyết
cũng là kết luận hay giải pháp giả định cho vấn đề của luận án. Giả thuyết mặc dù chỉ là các
giải pháp giả định nhưng lại là tiêu chí chuẩn mực cho việc sưu tầm tài liệu thích hợp.
Các sự kiện hay dữ liệu được thu thập cần xác chứng giả thuyết đưa ra. Nếu không, nhà
nghiên cứu phải thay thế giả thuyết đó bằng một giả thuyết hoàn chỉnh và khả thi hơn.
2. Tổ Chức Tài Liệu
Sau khi đã thoả mãn về số lượng tài liệu sưu tập, nhà nghiên cứu cần chuyển hướng đầu tư
từ chọn lọc và sưu tầm sang mối tương quan đa phương của chúng. Các tài liệu cần thêm thì
phải tìm cho ra để bổ sung cho thích đáng với cấu trúc của nhu cầu tổ chức.
Người nghiên cứu tiến hành phân bổ thời giờ cho các phương diện chính của vấn đề bằng
cách đọc tất cả các tài liệu liên hệ đến chúng rồi tiến hành xử lý chúng trong một cấu trúc ghi
chép có logic, phê bình và phân tích.
Các vấn đề của bài khảo luận hay luận án được trình bày trước nhất bằng các phán đoán
(statements and judgements) về những sự kiện chưa được biết tới trong văn học của lãnh
vực, hơn là chỉ mô tả chúng (description). Các phán đoán này phải được trình bày bằng
phong cách phê bình có logic (logically critical) và được hỗ trợ bằng nhiều luận điểm
(arguments) thích hợp.
Các giả thuyết và luận điểm phải thống nhất, không mâu thuẫn nhau để đi đến một kết
luận, được xem như kết quả giả định của luận án. Để kết quả giả định này vững vàng và
thuyết phục người đọc, nhà nghiên cứu phải liên hệ chặt chẽ kết cấu của các chương trong
một tổng thể không thể phân cách và nhằm cùng một mục đích cung ứng những luận chứng
cho giải pháp nêu ở kết luận đó.
3. Trình Bày
a. Phần dẫn nhập
Bao gồm trang bìa (cover-page), trang để trống (blank page), trang tựa đề (title-page),
trang xác nhận của giáo sư hướng dẫn và giáo sư trưởng bộ môn (certificate), trang tuyên bố

của nghiên cứu sinh (declaration), lời đầu sách (preface), lời cảm ơn (acknowledgements),
mục lục (table of contents), bảng liệt kê các bảng biểu, hình ảnh minh họa, nếu có (list of
tables, figures and illustrations or plates) và bảng viết tắt (abbreviations).
b. Phần văn bản (Texts)
Bao gồm chương dẫn nhập (introduction), các chương nội dung và chương kết luận hay
tóm tắt (conclusion or summary).
c. Phần tham khảo (References)
Bao gồm phụ chú (appendixes), bảng chú giải thuật ngữ hay thuật ngữ đối chiếu
(glossaries), thư mục tham khảo (bibliography) và bảng chú dẫn mục từ (indexes).
Lưu ý: Phần trình bày nêu trên ứng dụng cho công trình nghiên cứu thuộc luận văn hay
luận án. Đối với bài khảo luận thông thường, các chi tiết nêu trên không cần thiết lắm, mà
chỉ cần bao gồm bốn phần, đó là, phần dẫn nhập, phần thân bài, phần kết luận và tài liệu
tham khảo.
VIII. CÁC THÀNH PHẨM NGHIÊN CỨU
Nếu nghiên cứu là một công trình thì thành quả của nó được xem là thành phẩm nghiên
cứu. Thành phẩm nghiên cứu thường được trình bày dưới hình thức các tập phúc trình. Tùy
theo bản chất, loại hình cũng như chiều dài hay số trang của các tập phúc trình này, mà các
thành phẩm nghiên cứu đó được phân biệt và gọi bằng các tên gọi khác nhau, như biên khảo,
tiểu luận, bài khảo luận, chuyên khảo, luận văn và luận án.
1. Biên Khảo (Writings)
15


Là thuật ngữ chỉ chung cho các thành phẩm nghiên cứu không mang tính chất học đường,
không mang tính cách thi cử hay đệ trình để được cấp văn bằng hay chứng chỉ. Biên khảo là
bài nghiên cứu hay biên khảo nói chung nhằm công bố, cung cấp hay phổ biến kiến thức về
một vấn đề nào đó.
Vì không mang tính cách học đường và là dạng khảo cứu nói chung, biên khảo không có
giới hạn về số trang và phạm vi nghiên cứu. Nó có thể là một bài viết về một vấn đề trong
vài trang và cũng có thể là một quyển sách gồm nhiều vấn đề và lãnh vực khác nhau, dày

đến vài ngàn trang.
2. Bài Luận Văn (Essays)
Là các bài viết ngắn (essays) của các sinh viên ở cấp cử nhân và cao học. Nó chỉ là bài
viết ngắn trong một học phần của một cấp học nào đó. Số trang của bài luận văn thường có
giới hạn trong vòng 20 trang trở lại. Bài luận văn là thành phẩm nghiên cứu nhỏ nhất trong
các thành phẩm nghiên cứu mang tính học đường.
3. Bài Khảo Luận (Writen Assignments)
Là thuật ngữ chỉ cho các thành phẩm nghiên cứu mang tính học đường. Nó có thể là một
bài nghiên cứu bắt buộc trong một học phần của một cấp học nào đó như essay hoặc cũng có
thể là các bài nghiên cứu thuần túy (research paper) hoặc là bài nghiên cứu bắt buộc giữa
hay cuối một học kỳ (term paper) của một khóa học nhất định. Số trang của bài khảo luận
thường nằm trong giới hạn 50 trang trở lại.
4. Chuyên Khảo (Monograph)
Chuyên khảo là khảo cứu chuyên về một chủ đề hay một lãnh vực nào đó. Đây là bài
nghiên cứu chuyên ngành không giới hạn số trang. Nó có thể là bài khảo cứu chuyên ngành
cho mục đích học đường nhưng cũng có thể cho các mục đích nghiên cứu thuần túy.
5. Luận Văn Cử Nhân (Graduation Treatise)
Còn được gọi bằng các tên khác nhau như luận văn tốt nghiệp, luận văn tốt nghiệp cử nhân
hay tiểu luận tốt nghiệp. Luận văn cử nhân là một tập luận án nhỏ về phạm vi và chiều sâu
của vấn đề và nhỏ về lượng (tức trong vòng 100 trang trở lại). Thời gian tiến hành cho luận
văn cử nhân thường từ một tháng đến ba tháng, tùy theo trường đại học. Luận văn cử nhân
thường được tiến hành vài tháng trước khi kết thúc năm học cuối. Đề tài luận văn tốt nghiệp
thường do sinh viên tự chọn với sự cố vấn của giáo sư hướng dẫn. Vì số trang và thời gian
có giới hạn, sinh viên nên chọn những đề tài hẹp về phạm vi để có dịp chuyên sâu vào một
vấn đề hơn là chọn các đề tài rộng.
6. Luận Án (Dissertation / Thesis)
Luận án là thành phẩm nghiên cứu cao cấp của các cấp học từ cao học trở lên. Luận án có
ba loại, đó là, luận án cao học, luận án phó tiến sĩ và luận án tiến sĩ. Luận án phó tiến sĩ chỉ
có ở những nước chịu ảnh hưởng hệ thống giáo dục Anh và Liên-xô.
Trên căn bản, luận án cũng là tập phúc trình kết quả của một công trình nghiên cứu

nguyên thủy về một chủ đề nào đó. Đề tài của luận án thường phải mới và có tiềm năng đóng
góp những thông tin hay kiến thức mới mẻ cho lãnh vực nó trực thuộc, hay ít nhất trình bày
những học thuyết mới từ những vấn đề cũ.
Từ luận án của tiếng Việt được sử dụng đồng nghĩa vói hai từ ‘dissertation’ và ‘thesis’
trong tiếng Anh. Thesis và dissertation được sử dụng đồng nghĩa trong hệ thống giáo dục
Mỹ,[11] để chỉ cho luận án cao học và tiến sĩ, và ngược lại. Trong hệ thống giáo dục Anh,
thesis thường được sử dụng cho luận án tiến sĩ, trong khi dissertation được sử dụng cho luận
án cao học (đối với một số bộ môn)[12] hay luận án phó tiến sĩ mà thôi.
Về thời hạn qui định, thời gian tối thiểu hay sớm nhất cho một luận án cao học hay phó
tiến sĩ được nộp để được xét duyệt và cấp văn bằng là ba tháng hay sáu tháng tùy theo
16


trường; trong khi đối với luận án tiến sĩ là hai năm. Thời hạn trễ nhất phải nộp luận án tiến sĩ
là năm năm theo hệ thống Anh, là mười năm theo hệ thống Mỹ,[13] mặc dù có một số
trường ấn định tối đa là ba năm, và một số trường khác lại cho gia hạn thêm một hai năm
nữa, sau khi đã hết thời hạn ấn định.
Về hình thức, luận án có số trang nhiều hơn các bài khảo cứu, khảo luận, tiểu luận và luận
văn cử nhân. Mặc dù không có qui định bắt buộc về số trang tối thiểu của luận án, các luận
án thường có số trang tối thiểu là 150 trang hay nhiều hơn. Có nhiều luận án dày hơn 500
trang khổ A-4. Tốt nhất, bạn nên theo qui định mặc ước hay truyền thống của trường mà bạn
đăng ký học, để tránh những trường hợp phải cắt ngắn hay viết thêm sau khi luận án đã hoàn
tất.
[1] The Oxford Advanced Learner’s Dictionary of Current English. (London:
Oxford University Press, 1980), p. 855.
[2] Estelle M. Phillips and D. S. Pugh., How to Get a Ph. D., a Handbook for
Students and Their Supervisors. (Delhi: UBSPD, 1996), p. 41.
[3] Ibid.
[4] Xem chi tiết của phần luận chứng này ở C. C. Crawford., The Technique of
Research in Education. (Boston: Houghton Mifflin Company, 1928), chs. 1-2.

[5] S. K. Das., An Introduction to Rersearch. (Calcutta, Delhi: A. Mukherjee &
Co. Pvt. Ltd., 1986), p. 3.
[6] Xem chi tiết luận điểm này ở tác phẩm của Roger Burlingame., Inventors
Behind the Inventor. (New York: 1947), chs. 3-5.
[7] E. M. Phillips and D. S. Pugh., op. cit., p. 42.
[8] T. P. Ramachadra., The Method of Research in Philosophy. (Madrass:
Radhakrishnan Institute for Advanced Study in Philosophy, University of Madrass,
1984), pp. 12-3.
[9] Xem thêm phần VI. A. của chương “Thư mục tham khảo.”
[10] Chi tiết của phần này được trình bày ở chương “Tiến trình soạn thảo bài
khảo luận, luận văn và luận án.”
[11] Xem Janathan Anderson., Thesis and Assignment Writing. (Delhi: Wiley
Eastern Pvt. Ltd., 1971), pp. 4-5; tương tự xem S. K. Das., An Introduction to
Rersearch. (Calcutta, Delhi: A. Mukherjee & Co. Pvt. Ltd., 1986), p. 4.
[12] Theo hệ thống giáo dục Anh, từ cấp cao học trở xuống, thông thường sinh
viên không phải làm luận án cuối khóa mà chỉ thi viết thôi. Trong một số trường
theo hệ thống này, luận án cuối khóa được áp dụng cho một số bộ môn như ngôn
ngữ học, luật học, giáo dục học, y khoa v.v…
[13] E. M. Phillips and D. S. Pugh., Op. Cit., p. 122.
-oOoCHƯƠNG II: TIẾN TRÌNH SOẠN THẢO KHẢO LUẬN, LUẬN VĂN VÀ LUẬN ÁN
(PLANNING THE ASSIGNMENT AND THE THESIS)
I. DẪN NHẬP
Ở năm thứ nhất và thứ hai của cấp cử nhân, bài khảo luận thường được chọn trong số các
chủ đề do thầy giáo gợi ý. Vào những năm cuối của cử nhân và ở cấp cao học và tiến sĩ, chủ
đề nghiên cứu của bài khảo luận, luận văn tốt nghiệp và luận án thường do chính sinh viên hay
17


nghiên cứu sinh chọn mặc dù có tham khảo với giáo sư hướng dẫn hay cố vấn. Dù là được gợi
ý hay tự lựa chọn, các chi tiết sau đây cần phải ghi nhớ khi tiến hành viết khảo luận hay luận

án.
1. Định nghĩa vấn đề.
2. Chọn đề tài.
3. Giới hạn đề tài.
4. Lập chương trình làm việc.
5. Tham khảo tài liệu.
6. Phác thảo dàn bài sơ bộ.
7. Phác thảo thư mục làm việc.
8. Đọc văn bản và ghi chú tài liệu.
9. Phân tích tài liệu ghi chép.
10. Phác thảo dàn bài chi tiết.
11. Viết bản thảo.
II. ĐỊNH NGHĨA VẤN ĐỀ
“Định nghĩa vấn đề” liên hệ đến việc xác định đâu là vấn đề bài khảo luận hay luận án cần
thực hiện. Sách mà bạn cần tham khảo trước nhất thường là quyển tự điển hay, để giúp bạn
biết một cách chính xác nội dung và ý nghĩa của các từ quan trọng. Sau đây là ý nghĩa của một
số từ mô tả phương pháp của vấn đề được nghiên cứu mà bạn nên nắm vững.
a)
Phân tích: khảo sát các yếu tố khác nhau của một tổng thể đề tài và mô tả tính tương
quan của chúng.
b)
So sánh: khảo sát các đặc điểm của các đối tượng khảo cứu với mục đích đưa ra các
điểm giống và khác nhau của chúng.
c)
Đối chiếu: khảo sát các đặc điểm của các đối tượng khảo cứu với mục đích nhằm đưa
ra các điểm khác nhau mà thôi.
d)
Định nghĩa: nêu ra ý nghĩa và nội dung của một sự vật hay sự việc hay trình bày nội
dung của các thuật từ tham khảo.
e) Mô tả: giải thích về một vấn đề nào đó.

f)
Thảo luận: trình bày các phương diện khác nhau của vấn đề.
g)
Dẫn chứng: đưa ra một danh sách các vấn đề có cùng nội dung hay ý tưởng để minh
họa hay chứng minh một luận điểm nào đó.
h) Đánh giá: khảo sát các mặt khác nhau của vấn đề rồi tiến hành phán đoán.
i)
Phê bình: phán đoán, tán thưởng những điểm hay hoặc chỉ trích những điểm yếu.
j)
Minh họa: đưa ví dụ, giải thích, vẽ hình minh chứng.
k)
Chứng minh: trình bày kết luận về một vấn đề bằng các luận điểm logic và biện
chứng.
l)
Tóm tắt: khảo sát các điểm trọng tâm một cách vắn tắt.
Bất cứ chủ đề nào cũng có các từ điển chuyên nghành hay tự điển thuật ngữ của chúng.
Nếu bạn muốn nghiên cứu chuyên sâu về một đề tài nào đó, bạn sẽ nhận thấy được tầm
quan trọng của việc sử dụng các từ điển như vậy. Tra khảo tự điển để định nghĩa các thuật
từ được sử dụng trong bài khảo luận hay luận án là điều không thể thiếu đối với khảo cứu.
III. CHỌN ĐỀ TÀI
1. Dẫn Nhập
Kiến thức thì có giới hạn trong khi đề tài cần được nghiên cứu thì không bờ bến. Do đó,
18


chọn được đề tài có giá trị và thích hợp với trình độ, khả năng, sở trường của nhà khảo cứu
là một việc không phải dễ dàng. Kiến thức toàn diện hay bao quát về một chủ đề là điều
cần thiết cho một đề tài có thể thực hiện được trong một bối cảnh và điều kiện cho phép.
Càng biết rộng và sâu về đề tài càng giúp cho nhà khảo cứu nhận dạng dễ dàng các góc
cạnh và lãnh vực của vấn đề để tiến hành khảo cứu một cách có hiệu quả.

Điều quan trọng kế là nhà khảo cứu phải tự hỏi rằng chủ đề mà mình sẽ tiến hành khảo cứu
thực sự có giá trị hay không, ít nhất về phương diện đóng góp những kiến thức mới cho lãnh
vực đang nghiên cứu, và bài khảo cứu hay luận án của mình có thể làm được chức năng hay
mục đích đó hay không? Nếu câu trả lời là ‘không’ thì bạn nên chọn đề tài khác dễ hơn, thích
hợp hơn và có thể thực hiện được trong tiêu chuẩn vừa nêu.
Chính vì có khoảng cách rất lớn giữa những điều mong ước, hy vọng, nỗ lực và thực tế, các nhà
nghiên cứu kinh nghiệm thường khuyên những ai mới bắt đầu công việc khảo cứu không nên chọn
các đề tài mang tính cách chuyên sâu, thuộc kỹ thuật, thiếu tài liệu cần thiết, quá rộng hay quá hạn
chế hay những đề tài gây nhiều tranh luận.
2. Nguồn Tài Liệu của Đề Tài Khảo Cứu
Một trong những nguồn tài liệu tốt nhất cho các đề tài khảo cứu có giá trị và thích hơp là các
nhà nghiên cứu, các chuyên gia về lãnh vực mà bạn đang nghiên cứu. Các chuyên gia và các
nhà nghiên cứu này là kho tàng về các chủ đề nghiên cứu về một lãnh vực hay bất cứ góc cạnh
nào thuộc lãnh vực đó. Tham vấn họ, bạn sẽ biết được những gì cần tiến hành nghiên cứu và
nghiên cứu bằng cách nào, với công cụ nghiên cứu gì?
Nguồn tài liệu kế đến là các sáng tác mới nhất và gần đây nhất trong các tạp chí chuyên
nghành liên hệ đế lãnh vực của chủ đề nghiên cứu của bạn. Sự nghiên cứu về văn học hiện
hành của đề tài hay lãnh vực bạn chọn không những giúp cho bạn biết được đâu là vấn đề hay
phương diện cần được nghiên cứu mà còn đề nghị cho bạn các vấn đề cần những nghiên cứu
chuyên sâu hơn.
3. Tiêu Chí Chọn Đề Tài
Sau khi bạn đã giới hạn phạm vi sở thích của nghiên cứu và đã xác định được lãnh vực hay
vấn đề cho các nghiên cứu mang tính khả thi, bạn cần cân nhắc một số câu hỏi sau đây:
a) Chủ đề có mới mẻ không?
Mặc dù không thể có khái niệm “hoàn toàn mới” theo nghĩa chưa từng có trước đây bao giờ,
bạn cũng nên cân nhắc xem chủ đề mà bạn sẽ tiến hành nghiên cứu có mới mẽ không. Thật là
vô ích nếu như bạn bỏ ra vài tháng hay vài năm để đầu tư vào một chủ đề không có gì đóng
góp cho học giới, hay ít nhất có những điểm khác biệt với những nghiên cứu trước đó. Do đó,
nếu đề tài bạn chọn không mới thì ít nhất nó phải có những đóng góp mới hay đặt lại những
vấn đề về những nghiên cứu trước và đưa ra giả thuyết mới hay giải pháp mới cho vấn đề cũ.

b) Coù giáo sư hướng dẫn thích hợp hay không?
Câu hỏi dường như phản ánh thái độ hoài nghi về khả năng chuyên môn của các thầy cô
giáo nhưng lại là câu hỏi vô cùng cần thiết. Vì không phải lãnh vực nào cũng có những giáo sư
thích hợp về phương diện kiến thức chuyên sâu, và hơn nữa, không phải giáo sư chuyên ngành
nào cũng thích đề tài bạn chọn để sẵn sàng hướng dẫn bạn. Nếu không có người hướng dẫn
thích hợp thì bạn nên chọn đề khác hoặc bạn nên tìm người hướng dẫn ở các học viện, viện
nghiên cứu khác làm giáo sư hướng dẫn cho bạn.
c) Bạn có thật sự thích chủ đề đó không?
Chỉ có sở thích mới có thể giúp bạn vượt qua tất cả những khó khăn trong khi tiến hành
nghiên cứu đề tài đã chọn. Do đó, bạn phải cân nhắc kỹ lưỡng. Nếu câu trả lời là ‘không’ thì
tốt nhất bạn nên chọn đề tài khác.
d) Bạn có đủ khả năng khảo cứu chủ đề đó không?
19


Không phải bất kỳ những gì bạn thích bạn đều có thể thực hiện được chúng trong đời. Trong
nghiên cứu cũng vậy. Có nhiều đề tài bạn thích nhưng bạn sẽ không đủ sức để thực hiện chúng
một cách tuyệt hảo do những những hạn chế về kiến thức chuyên môn, kiến thức liên ngành,
kiến thức ngoại ngữ và cổ ngữ. Do đó, bạn nên chọn đề tài nào thích hợp với sở thích và khả
năng của bạn mà thôi.
e) Chủ đề đó có thể hoàn tất trong một thời gian ấn định không?
Có nhiều chủ đề đòi hỏi nhiều thời giờ, do những khó khăn về việc tìm tài liệu, kiến thức
chuyên môn và các công cụ nghiên cứu cần thiết. Do đó, bạn nên giới hạn đề tài để công trình
nghiên cứu của bạn có thể hoàn thành đúng thời gian dự định hay cho phép.
f) Các công cụ cần thiết có đủ hay không?
Các công cụ chuyên môn và đắc tiền thường cần thiết cho nhiều nghiên cứu, nhất là lãnh
vực khoa học. Ngoại trừ bạn có được đảm bảo về sự có đủ các thiết bị cần thiết cho công trình
nghiên cứu khi cần đến thì bạn hãy nghĩ đến việc thực hiện bằng không hãy chọn đề tài khác.
g) Các phương tiện thư viện có đầy đủ không?
Các phương tiện thư viện không chỉ cần thiết cho các nghiên cứu thuộc văn học hay phân

tích mà còn cần thiết cho tất cả các loại hình nghiên cứu. Một đề tài có thể được xem là không
thích ứng nếu nó không có đủ các tài liệu nghiên cứu thích ứng, và do đó không nên tiến hành
các đề tài như vậy.
h) Đề tài nghiên cứu có thật sự có ý nghiã không?
Đây là câu hỏi khó trả lời bởi vì, trong ý nghĩa rộng nhất, không có gì được gọi là ‘tiêu chuẩn’
để đánh giá và không có cái gọi là ‘giá trị cố định.’ Điều không quan trọng có thể trở nên quan
trọng và có ý nghĩa, nếu nhà nghiên cứu biết cách tận dụng, khai thác, triển khai.
Ngoài ra, bạn cũng nên cân nhắc các yếu tố thời gian, nỗ lực và tài chánh trong khi tiến hành
chọn và viết về một đề tài.
IV. GIỚI HẠN VỀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Lỗi thông thường mà các bài khảo luận cấp cử nhân cũng như các luận văn tốt nghiệp và
luận án hay vấp phải là quá tham vọng và chọn đề tài với phạm vi quá rộng. Đề tài rộng không
những không làm cho chủ đề nghiên cứu được nổi bật hay trở nên chuyên sâu mà còn làm cho
nghiên cứu sinh khó có thể hoàn tất trong thời gian cho phép. Do đó, tốt nhất trước khi tiến
hành nghiên cứu, sinh viên và nghiên cứu sinh nên bỏ ra một vài giờ để suy nghĩ và cân nhắc
kỹ lưỡng trong việc giới hạn phạm vi nghiên cứu của mình.
Giới hạn đề tài không có nghĩa là tỉnh lược các thông tin quan trọng, bỏ lửng các chi tiết hay
chỉ trình bày vài phần nào đó của luận điểm. Một chủ đề hay đề tài chỉ có thể được giới hạn
bằng cách giảm bớt đi phạm vi nghiên cứu của nó. Chẳng hạn, bạn hãy xem xét các chủ đề sau
đây:
1. Triết học tâm trong kinh Lăng-già Tâm Aán.
2. Triết học tâm trong các kinh ( thuộc hệ) Phương Quảng.
3. Triết học tâm trong kinh điển Đại Thừa.
Chủ đề thứ nhất có phạm vi nghiên cứu tương đối vừa phải cho một bài khảo luận hay luận án.
Chủ đề thứ hai quá rộng cho bài khảo luận. Chủ đề thứ ba không chỉ rộng cho bài khảo luận,
luận văn tốt nghiệp mà còn cho cả luận án tiến sĩ.
Thất bại trong việc giới hạn phạm vi nghiên cứu sẽ có thể dẫn đến các thất bại về thời
gian, nội dung trình bày và chất lượng của nghiên cứu. Việc xác định rõ ràng giới hạn
nghiên cứu không chỉ có giá trị ngược lại mà còn cho thấy được tính tiêu chuẩn của một
công trình mang tính học giả.

V. LẬP CHƯƠNG TRÌNH LÀM VIỆC
20


Phác thảo thời khóa biểu cho chương trình làm việc là việc cần thiết, giúp nhà nghiên cứu
hoàn thành công trình trong thời gian dự kiến. Sự phân bố thời hạn làm việc cho từng tiến
trình của tác phẩm cần phải thích hợp. Chỉ có sự phân bố thời gian làm việc thích hợp mới
đem lại kết quả nghiên cứu như mong đợi. Thông thường bảng thời gian cho công việc nghiên
cứu có thể chia theo tỷ lệ sau đây:
1. Định nghĩa và giới hạn vấn đề, tham khảo nguồn tài liệu và góp nhặt tài liệu ..... 30%
2. Đọc và ghi chú tài liệu ……………………………………………………… 30%
3. Viết bản thảo lần thứ nhất ……………………………………………..…… 20%
4. Hiệu đính, ghi chú thích, tham khảo và viết bản thảo cuối cùng, dò bản in
thử…………………………..………………………………………...……..... 20%
Lưu ý, thời khóa biểu làm việc không nhất thiết cố định như bảng gợi ý trên. Nếu bạn
đã có sẵn tài liệu thích ứng thì thời gian đầu tư cho việc tham khảo, chọn lọc có thể
giảm đi và thay vào đó bạn có thể đầu tư thời gian cho các phần khác.
VI. THAM KHẢO TÀI LIỆU SƠ KHỞI
Sách tham khảo thường cung cấp cho bạn những thông tin cần thiết về đề tài. Để có được
một dàn bài lý tưởng, thích ứng, bạn nên đến các thư viện tìm đọc mục lục hoặc bảng chú dẫn
các mục từ của các sách vở (cùng đề tài bạn đang nghiên cứu) từ các danh mục hoặc tìm thẳng
trên các kệ sách, nếu thư viện sắp xếp đúng phân loại và có ngăn nắp. Nghĩa là bạn nên nhớ hệ
thống phân loại sách của Dewey[1] để bạn dễ dàng tìm sách có chung số phân loại. Ví dụ, nếu
chủ đề nghiên cứu của bạn thuộc lãnh vực đạo đức học đông phương thì bạn chỉ việc đến số
phân loại từ 180 đến 190 rồi tìm thẳng trên kệ sách.
Ngoài ra, các từ điển, bách khoa, sổ tay, sách hàng năm, các bảng chú dẫn, các sách tóm tắt
luận án và sách, tạp chí và báo chí…cũng có thể cung cấp các nguồn thông tin thích ứng cho
chủ đề nghiên cứu của các bạn.
VII. PHÁC THẢO DÀN BÀI SƠ BỘ
Sau khi tìm và tham khảo các nguồn tài liệu liên hệ đến đề tài từ thư viện hoặc các tư liệu cá

nhân, bạn có thể dễ dàng phác thảo dàn bài tạm cho nghiên cứu của bạn. Có một số sinh viên
và nghiên cứu sinh phác thảo dàn bài trước sau đó tìm đọc sách ở thư viện sau. Theo kinh
nghiệm cá nhân của chúng tôi, tham khảo thư viện trước rồi phác thảo dàn bài sau thường chu
đáo hơn và toàn diện hơn. Bởi lẽ lúc đó bạn sẽ có thể quyết định giới hạn đề tài và chọn hướng
nghiên cứu nào, sau khi đã nắm vững có bao nhiêu tài liệu thích ứng, có bao nhiêu hướng
nghiên cứu trước đây về cùng một chủ đề, và nghiên cứu của bạn có gì mới, đóng góp cho thế
giới học thuật.
Trong dàn bài sơ thảo, bạn phải nêu bật được đâu là vấn đề chính và phụ cũng như các chi tiết
cần có của các vấn đề chính và phụ đó. Tùy theo loại hình văn bản, chủ đích nghiên cứu và mục
đích phục vụ, bạn có thể phác thảo thành nhiều hay ít chương mục.
Thông thường, đối với bài khảo luận, các yếu tố cần có để phác thảo dàn bài là chương ⇒
mục ⇒ tiết ⇒ đoạn. Đối với luận văn hay luận án, các yếu tố trên lại được chia thành nhiều
chi tiết hơn, như quyển ⇒ tập ⇒ phần ⇒ chương ⇒ mục ⇒ tiết ⇒ đoạn ⇒ tiểu đoạn...
Đánh số la-mã (I, II, III...) cho “Phần và Chương.” Đánh số á-rập (1, 2, 3...) cho các “mục của
chương.” Đánh các mẫu tự nhỏ (a, b, c...) cho các “tiết, đoạn và tiểu đoạn.” Tuy nhiên, bạn
cũng có thể đánh số á-rập cho các “tiết, đoạn và tiểu đoạn.”[2]
VIII. PHÁC THẢO THƯ MỤC LÀM VIỆC
1. Mô Tả: Thư mục làm việc là thư mục cá nhân do chính các bạn ghi chú bằng các thẻ giấy
dày. Mỗi loại hình sách vở có một phong cách trình bày thư mục riêng.[3]
21


2. Chi Tiết của Thư Mục Làm Việc: Ngoài các chi tiết tên tác giả, tựa đề tác phẩm, nơi ấn
bản, nhà xuất bản và năm xuất hay tái bản, thư mục làm việc của các bạn còn ghi thêm 4 chi
tiết sau đây: số thư tịch (call number) + tên thư viện hay nơi có sách này + ghi chú về nội
dung của tác phẩm + số chương/mục/trang cần + số thứ tự của thẻ thư mục.
a) Số thư tịch: Đây là số phân loại sách của thư viện, thông thường theo hệ thống phân loại
của Dewey. Số này được ghi ở trên góc trái của thẻ thư mục.
b) Họ tác giả viết tắt: Đối với các tác giả Âu Mỹ, họ tác giả được viết tắt bằng chữ cái đầu
hay vần đầu của họ tác giả. Đối với các tác giả người Việt Nam và Trung Quốc, vì họ tác giả

luôn là đơn âm nên nó phải được ghi đầy đủ. Vị trí của ‘họ viết tắt’ này được ghi ngay bên
dưới số thư tịch.
c) Họ tên + tựa đề tác phẩm: Nên viết đủ họ và viết tắt tên và chữ lót bằng chữ in hoa. Tựa đề
tác phẩm được gạch dưới để dễ nhận dạng.
d) Nơi, nhà và năm xuất bản: Được viết thành một hàng riêng.
e) Ghi chú: Bao gồm tên cơ quan có tài liệu, nội dung quan trọng của tác phẩm, chương/
mục/phần/trang cần tham khảo.
f) Số thứ tự của thẻ thư mục: Đây là số thứ tự của các thẻ thư mục của chính tác giả (ở đây
là các bạn) cho một đề tài nào đó. Số thứ tự này được ghi ở góc phải của thẻ. Mục đích của thẻ
nhằm giúp cho người nghiên cứu biết được số lượng của tác phẩm tham khảo có được, và về
sau khi ghi chú, tác giả chỉ cần viết tắt số thứ tự của thẻ cho các nội dung cần ghi chú mà
không phải ghi chép lại toàn bộ các chi tiết từ a đến e của phần này.
3. Giấy, Khổ và Cách Trình Bày: Giấy cho thẻ thư mục tốt nhất là giấy dày. Khổ của
thẻ thư mục của bạn nên theo khổ thông dụng là 7x12 cm. Khổ này gọn và do đó rất tiện
cho bạn mang theo bất cứ nơi nào và dễ dàng cất chứa hay bổ sung về sau. Trong mỗi thẻ
thư mục, bạn chỉ nên ghi một tài liệu tham khảo mà thôi.
4. Mẫu Trình Bày

IX. ĐỌC VÀ GHI CHÚ TÀI LIỆU
1. Đọc Tài Liệu
a) Hai Cách Đọc
Sau khi phác thảo thẻ thư mục hay thư mục làm việc, công việc kế đến của nhà nghiên cứu
là đọc các tài liệu và ghi chú tài liệu. Tài liệu có thể được đọc cho từng chương, từng vấn
đề hay một lượt cho tất cả các vấn đề nội dung nghiên cứu của tác phẩm.
Thường cách đọc tài liệu cho từng chương hay từng vấn đề giúp tác giả tập trung và dễ dàng
ghi chú cũng như viết cho từng chương hơn.
Cách đọc và ghi chép tài liệu một lượt cho tất cả các vấn đề nội dung nghiên cứu đòi hỏi nhà
nghiên cứu phải có kiến thức bao quát và khả năng phân tâm để phân loại chủ đề và tư tưởng
của tài liệu trong khi đọc.
22



Tùy theo sở thích và sở trường, bạn có thể chọn một trong hai cách trên. Một điều lưu ý
quan trọng là đừng bao giờ “tham lam” trong khi đọc. Nghĩa là đừng bao giờ đọc hết một
tác phẩm trong một mạch. Đọc như vậy, bạn sẽ không nhớ được gì, và do đó, cũng không
thể ghi chú được cái gì. Hãy đọc có suy tư, phản ánh văn bản và ghi chú khi thấy cần.
b) Ba thái độ đọc: Có ba thái độ của người đọc phản ánh những gì được tác giả viết,
đó là, đọc với thái độ tin toàn bộ những gì tác giả viết như chân lý, đọc với thái độ thành
kiến phủ nhận toàn bộ những gì tác giả viết, dù đúng hay sai, và đọc với thái độ vô tư,
không thành kiến, cái gì đúng thì cho là đúng và ngược lại.
• Thái độ đọc đầu tiên là thái độ đọc với niềm tin dựa trên uy tín của tác giả, mà không
bao giờ đặt vấn đề. Thái độ đọc này thường xuất hiện đối với những người đọc nặng
đầu óc tôn giáo. Cách đọc này có thể rất có lợi cho việc ứng dụng, nếu những điều
được viết là đúng và mang tính giáo dục cao. Và ngược lại, nó trở nên vô cùng tai hại,
nếu nội dung của văn bản mang tính phi xã hội, đạo đức, gây bạo động, phân chia, tạo
hận thù . . . Độc giả nên tránh thái độ đọc cực đoan này.
• Thái độ đọc thứ hai là thái độ đọc đầy thành kiến, biên kiến, tư kiến hay nặng mặc cảm
với tác giả, do đó, khó có thể tiếp nhận ý tưởng văn bản một cách chính xác. Trong
cuộc sống đời thường, người đọc có thể có những va chạm, mâu thuẫn với tác giả do
khác nhau về ý thức hệ tôn giáo, ý thức hệ chính trị, quan niệm, cách sống hay đời sống
riêng tư v.v…nhưng không vì thế mà người đọc lại cho phép mình có quyền phủ nhận
giá trị của tác phẩm của tác giả mình không thích. Bất lợi cho hạng độc giả này là họ
không thể tiếp thu được những điều hay của tác giả chỉ vì không thích đời sống riêng tư
của tác giả hay do khác ý thức hệ. Độc giả nên tránh thái độ đọc cực đoan này.
• Cách đọc thứ ba là cách đọc thích hợp nhất. Ở đây, độc giả không bị thành kiến, tư
kiến, đức tin mù quáng chi phối. Độc giả đọc một tác phẩm với một tâm hồn và khói óc
rộng mở, vô tư, không thiên vị và có khoa học. Những điều dở hay sai lầm thì ghi nhận
để rút kinh nghiệm hay góp ý xây dựng tác giả. Những điều nào hay thì ghi nhận học
hỏi, trích dẫn minh họa khi cần thiết. Đọc như vậy mới thật sự có giá trị nghiên cứu.
c) Đọc cái gì? Sách và tài liệu thì vô số. Nếu không biết chọn lọc trong lúc đọc, bạn sẽ dễ

dàng bị lạc vào trong thế giới mông lung, vô định của những kiến thức và ý tưởng. Do đó,
bạn chỉ nên đọc những gì cần thiết cho đề tài chứ không phải đọc hết những gì đã có:
• Các tài liệu gốc về đề tài.
• Các tài liệu hai thật hay về đề tài.
• Dù là tài liệu gốc hay tài liệu hai, bạn cũng chỉ nên đọc các phần liên hệ đến các vấn đề
trong đề tài.
Đọc mục lục và bảng chú dẫn mục từ của các tài liệu gốc và tài liệu hai có thẩm quyền để chọn
phần cần đọc và tham khảo.
2. Ghi Chú Những Gì?
• Những kiến thức hay thông tin cần thiết nhất, phổ quát nhất và cần có cho lãnh lực
nghiên cứu của bạn, để hệ thống kiến thức của bạn.
• Những kiến thức hay thông tin sáng tạo, khám phá hay đóng góp riêng của các tác
giả nổi tiếng, để học hỏi và trích dẫn về sau.
• Những nhận định, đánh giá thật sự mới mẻ, đặc biệt và có sáng tạo của các tác giả
khác, để học hỏi và trích dẫn về sau.
23


• Những nhận định, đánh giá, phê bình sai lầm hay mang tính định kiến về bất kỳ góc độ
nào của lãnh vực nghiên cứu nào đó, để phê bình hay góp ý khi cần thiết về sau.
3. Cách Ghi Chú Tài Liệu
a) Về thẻ ghi chú:
Tốt nhất người nghiên cứu nên ghi chú tất cả tài liệu bằng các thẻ riêng biệt. Nên làm thẻ
bằng loại giấy cứng để có thể bảo quản lâu dài. Cở của thẻ ghi chú tùy thích, miễn sao tiện
dụng là được. Có hai khổ thường được sử dụng nhiều nhất là khổ 4x6 và 5x8 inch.
b) Tiêu chí ghi chú
Sử dụng mỗi thẻ cho mỗi ý tưởng, sự kiện hay khái niệm độc lập để dễ dàng tham khảo sau
này. Cách này giúp cho nhà nghiên cứu dễ dàng phân loại, sắp xếp và sử dụng.
Tên chủ đề được đặt ở phần trên hết của thẻ. Mỗi chủ đề thường bao gồm các từ chìa khóa để
giúp nhà nghiên cứu nhận dạng chúng dễ dàng mà không cần phải đọc lại nội dung ghi chú.

Ghi chép đầy đủ thông tin để nhận dạng các ghi chú dễ dàng khi sử dụng. Vì trong thẻ thư
mục, bạn đã ghi chú đầy đủ các chi tiết số thư mục, tên tác giả, tên tác phẩm, các chi tiết về ấn
bản, nội dung chính của tác phẩm, chương/mục/trang cần tham khảo và số thứ tự của thẻ, cho
nên bạn chỉ cần ghi số thứ tự của thẻ và số trang là đủ để nhận dạng chúng. Nếu trong thẻ thư
mục của bạn không có ghi số thứ tự thì bạn phải ghi thêm các chi tiết: họ + năm xuất bản +
số trang để nhận dạng thẻ ghi chú.
Nếu phần ghi chú vượt quá khổ hiện hành của thẻ ghi chú thì bạn có thể ghi tiếp ở các thẻ tiếp
theo bằng các ký hiệu a, b, c.
Đối với những câu, đoạn nguyên tác mà bạn sẽ dẫn chứng sau này, bạn nên ghi chú theo
phong cách trích dẫn, nghĩa là chép lại nguyên văn, không thêm thắt và đặt phần ghi chép
này trong ngoặc kép, để dễ dàng kiểm tra chính tả về sau.
Đối với các ghi chú chỉ để tham khảo tư tưởng, bạn chỉ cần tóm tắt đại ý của văn bản nguyên
tác bằng ngôn ngữ và văn phong của riêng bạn, và không phải bỏ chúng trong ngoặc kép.
c) Vị trí các chi tiết của ghi chú
Tên chủ đề ghi chú nằm ở góc trái của thẻ.
Số thứ tự của thẻ nằm ở góc phải. Số thứ tự này cũng chính là số thứ tự của thẻ thư mục làm
việc.
Phần ghi chép là phần còn lại của thẻ, thường được viết theo cách ‘bằng đầu thả lỏng đuôi’
(align left).
d) Mẫu thẻ ghi chú (trích dẫn trực tiếp)

e) Mẫu thẻ ghi chú (trích dẫn gián tiếp)
24


X. PHÂN TÍCH TÀI LIỆU GHI CHÉP
Trước khi tiến hành phác thảo một cách chi tiết dàn bài thực thụ của bài khảo luận hay luận
án, nhà nghiên cứu nên đọc kỹ lại các tài liệu đã ghi chép trên các thẻ ghi chép của riêng mình.
Nhờ sự đọc lại, nhà nghiên cứu có thể phân loại tài liệu, bổ sung, sửa chữa, nhận định và ghi
chú một cách chi tiết những gì cần thiết cho công việc chấp bút. Thường trong khi đọc lại và

phân tích tài liệu, sẽ có nhiều ý tưởng rất mới lạ, sáng tạo xuất hiện trong tâm trí tác giả. Lúc
ấy, bạn phải ghi chép liền, bằng không các ý tưởng ấy rất dễ dàng tan biến và mất đi.
XI. PHÁC THẢO DÀN BÀI CHI TIẾT
Để việc chấp bút trở nên dễ dàng và suông sẻ, bạn nên phác thảo lại lần cuối dàn bài nghiên
cứu của bạn.
1. Chức Năng của Dàn Bài Chi Tiết
a) Giúp bạn có cái nhìn bao quát và liên tục về ý tưởng về tất cả những gì sẽ viết và phải
viết.
b) Nhờ đó, bạn sẽ cân nhắc kỹ lưỡng về tính cân đối giữa các phần và các luận điểm minh
họa chúng.
c) Tránh được lỗi viết lạc đề.
d) Dù có bị gián đoạn trong khi viết do bận công việc, bạn cũng có thể tiếp nối lại ý tưởng
đang viết dở dang một cách dễ dàng.
2. Các Phần Chính của Dàn Bài
a) Phần dẫn nhập
Xác định vấn đề.
Tầm quan trọng của nghiên cứu về đề tài.
Định nghĩa các thuật từ.
Điểm lược văn học về đề tài.
Xác định phạm vi nghiên cứu.
Đặt vấn đề trong bối cảnh có ý nghĩa.
Giới thiệu các thông tin sẽ có trong phần chính của bài khảo luận hay luận án.
b) Phần thân bài khảo luận hay luận án
Triển khai một cách logic các luận điểm nêu ra trong phần dẫn nhập.
Giải pháp tiệm tiến cho các vấn đề nêu ra trong phần dẫn nhập.
Phát triển các tiêu đề nêu trong thẻ ghi chú thành các tiêu đề của các phần chính của bài
khảo luận hay các chương của luận văn hay luận án.
Các phần chính của bài khảo luận hay các chương của luận văn, luận án phải liên đới ý
tưởng với nhau để cùng làm nổi bật nội dung chủ đề chính.
c) Phần kết luận

Tóm lược nội dung của phần thân bài.
25


×