Tải bản đầy đủ (.docx) (102 trang)

XÂY DỰNG WEBSITE HỖ TRỢ HỌC SINH TỰ ÔN TẬP CỦNG CỐ VÀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KIẾN THỨC CHƯƠNG “DAO ĐỘNG VÀ SÓNG ĐIỆN TỪ” VẬT LÍ 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.5 MB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
========

PHẠM THỊ HẰNG

XÂY DỰNG WEBSITE HỖ TRỢ HỌC SINH TỰ
ÔN TẬP CỦNG CỐ VÀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ
KIẾN THỨC CHƯƠNG “DAO ĐỘNG VÀ SÓNG ĐIỆN TỪ”
- VẬT LÍ 12
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học Vật lý
Mã số
: 60.14.01.11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS PHẠM XUÂN QUẾ


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN, THỰC TIỄN VÀ VAI TRÒ HỖ TRỢ CỦA WEBSITE
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ÔN TẬP CỦNG CỐ VÀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ
CỦA HỌC SINH TRONG CÁC TRƯỜNG THPT
1. Cơ sở lí luận của hoạt động OTCC
1.1.Khái niệm ôn tập và mục đích của ôn tập
Theo từ điển tiếng Việt (2008) của Viện khoa học Việt Nam: Ôn tập là học
để nhớ, để nắm chắc; Ôn tập là hệ thống hóa lại kiến thức đã dạy để HS nắm chắc
chương trình[20].
Theo từ điển tiếng Việt mới của trung tâm từ điển ngôn ngữ Hà Nội
(Hoàng Phê chủ biên) và từ điển tiếng Việt chuyên ngành thì: Ôn tập là học và
luyện lại những điều đã học để nắm chắc, để nhớ lâu.


Như vậy, ôn tập có thể được hiểu là quá trình học lại và luyện lại những
điều đã học để nhớ, để nắm chắc.
Theo các nhà giáo dục học (Nguyễn Ngọc Bảo; Hà Thị Đức; Nguyễn Bá
Kim;…) [1], [9]: Ôn tập là giúp học sinh củng cố tri thức, kĩ năng, kĩ xảo; tạo
điều kiện cho giáo viên sửa chữa những sai lầm lệch lạc trong nhận thức của học
sinh, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, phát huy tính tích cực độc lập tư duy cũng như
phát triển năng lực nhận thức, chú ý cho học sinh. Ôn tập còn giúp học sinh mở
rộng đào sâu, khái quát hóa, hệ thống hóa những tri thức đã học, làm vững chắc
những kĩ năng, kĩ xảo đã được hình thành.
Theo các nhà tâm lí học [8]: Ôn tập không chỉ để nhớ lại mà còn là sự cấu
trúc lại các thông tin đã lĩnh hội, sắp xếp các thông tin đó theo một cấu trúc mới
kết hợp với những mẫu kiến thức cũ để tạo ra sự hiểu biết mới. Khi cần có thể tái
hiện lại những thông tin và sử dụng những thông tin đó có hiệu quả cho nhiều hoạt


động khác nhau.
Ôn tập còn là một quá trình giúp HS xác nhận lại thông tin đã lĩnh hội, tổ
chức lại thông tin đó nếu thấy có chỗ chưa hợp lí hay có chỗ chưa tối ưu, góp phần
củng cố và khắc họa thông tin để có thể sử dụng thông tin có hiệu quả trong các
hoạt động ở nhiều mức độ khác nhau.
Từ những quan niệm trên, chúng tôi cho rằng ôn tập là quá trình người học
xác nhận lại thông tin đã lĩnh hội, bổ sung, chỉnh lí thông tin và tổ chức lại thông
tin theo một cấu trúc khoa học hơn, giúp cho người học vận dụng thông tin đã lĩnh
hội một cách nhanh chóng, dễ dàng và hiệu quả. Thông qua ôn tập, tri thức của
người học được hệ thống hoá, đào sâu và mở rộng, trên cơ sở đó mà từng bước rèn
luyện được các kĩ năng, kĩ xảo, phát triển trí nhớ cũng như tư duy của người học.
1.2. Vai trò và vị trí của ôn tập trong quá trình nhận thức
Tái hiện kiến thức của nhân loại một cách chính xác, khoa học, dễ hiểu, dễ
tiếp thu là một yếu tố cực kỳ quan trọng trong dạy học. Ôn tập được tổ chức tốt
cũng chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong quá trình dạy học ở bất cứ môn học

nào trong nhà trường. Nó là biện pháp cần thiết mà GV phải sử dụng trong việc
dạy học của mình và nó giúp người học trong quá trình hoàn thiện tri thức và rèn
luyện kỹ năng, kỹ xảo. Nhờ ôn tập được tổ chức tốt mà những kiến thức đã được
học không chỉ được ghi lại trong trí nhớ mà còn được cấu trúc lại, khắc sâu một
cách khoa học hơn, cái thứ yếu sẽ được loại bỏ ra ngoài và cái chủ yếu được gắn
lại với nhau và có một chất lượng mới. Kiến thức giữ lại trong trí nhớ nếu thiếu ôn
tập, và nói chung nếu thiếu bất kỳ sự vận dụng nào thì sẽ bị “teo lại” giống như các
cơ trong cơ thể nếu thiếu sự luyện tập.
Ôn tập cần thiết cho việc củng cố tri thức, hiểu sâu tri thức và hoàn thiện tri
thức và sau đó là để làm mới lại chúng trong trí nhớ lúc này hoặc lúc khác. Ôn tập
còn có một ý nghĩa lớn hơn trong việc rèn luyện kỹ năng đặc biệt là kĩ năng vận
dụng kiến thức vào trong các tình huống cụ thể khi ôn tập vật lí. Không có gì tai


hại hơn là khi tiếp thu một kiến thức rời rạc và thiếu ổn định, người thầy nếu cung
cấp một lượng kiến thức rời rạc sẽ gây khó khăn cho việc tri giác kiến thức mới và
củng cố kiến thức cũ. Những kiến thức cũ cần được củng cố, điều chỉnh là để “giải
phóng bộ óc” giúp cho việc lĩnh hội kiến thức mới dễ dàng và nhanh chóng, bởi vì
chỉ có thể cố định kiến thức cũ thì mới dùng nó làm chỗ dựa cho kiến thức mới
được.[17]
Thông qua việc OTCC giúp học sinh hệ thống hoá kiến thức, có một “bức
tranh” tổng thể, hệ thống về những kiến thức, luyện tập và phát triển các kĩ năng đã
được học, giúp học sinh đào sâu, mở rộng, khắc sâu các kiến thức, sửa và tránh
được các quan niệm sai lầm thường mắc phải trong và sau khi học lần đầu.
1.3. Nội dung cần OTCC trong dạy học vật lí
Ôn tập là một khâu trong các hình thức tổ chức dạy học ở trường phổ thông,
vì thế ôn tập không tự đề ra nội dung, chương trình riêng cho nó mà trên cơ sở nội
dung chương trình của môn học quy định cho từng khóa học mà lựa chọn những
vấn đề cơ bản cần ôn tập và sắp xếp có hệ thống những vấn đề đó. Ôn tập cũng
không tự đề ra phương pháp riêng cho mình mà dựa trên phương pháp dạy học của

bộ môn với nội dung cần ôn tập để lựa chọn phương pháp thích hợp nhất trong
khoảng thời gian cho phép được quy định của chương trình.
Đối với môn vật lí, những kiến thức vật lí cơ bản sẽ tạo nên nội dung chính
của môn học. Thông qua việc hình thành những kiến thức cơ bản đó mà thực hiện
các nhiệm vụ khác của dạy học vật lí, trước hết là phát triển năng lực nhận thức,
năng lực sáng tạo, hình thành thế giới quan khoa học. Trong quá trình dạy học vật
lí cần chú ý đến những tác động sư phạm khác nhằm điều hành quá trình dạy học
từ đầu đến cuối, thí dụ như: gợi động cơ, hứng thú, củng cố, ôn tập, điều chỉnh,
kiểm tra, đánh giá…
Trong học tập vật lí, một mặt HS phải quan sát thực tế để cảm nhận được sự
tồn tại của thực tế khách quan và những đặc tính bên ngoài của nó, mặt khác HS


phải thực hiện các phép suy luận, biến đổi để rút ra được các đặc tính bản chất và
những mối quan hệ phổ biến khách quan, nhờ thế mà rút ra chân lí mới. Trình tự
hợp lí của những hoạt động vật chất và tinh thần đảm bảo cho kết luận cuối cùng
rút ra phản ánh đúng thực tế khách quan gọi là phương pháp nhận thức vật lí. Các
phương pháp nhận thức vật lí đều do các nhà bác học đúc kết được thông qua hoạt
động thực tiễn, đã được thực tiễn khẳng định. Muốn cho HS làm quen dần với
phương pháp đi tìm chân lí mới trong quá trình học tập, nhất thiết phải dạy cho họ
các phương pháp nhận thức phổ biến.
Tuy nhiên, việc vận dụng các phương pháp đó để nghiên cứu một hiện
tượng, một tính chất, một định luật vật lí là một việc không dễ dàng. Chính vì thế,
trong nhà trường, cần cố gắng làm cho HS biết được người ta thực hiện những
hành động nào, trải qua những giai đoạn nào trên con đường đi tìm chân lí; đồng
thời tuỳ theo trình độ của HS và các điều kiện cụ thể của nhà trường mà tổ chức
cho HS tham gia trực tiếp một số giai đoạn của các phương pháp nhận thức đó.
Những kiến thức vật lí cơ bản cần hình thành trong quá trình học kiến thức
mới cũng như trong quá trình OTCC trong chương trình vật lí phổ thông gồm các
loại sau [13]:

- Những khái niệm vật lí, đặc biệt là khái niệm về đại lượng vật lí.
- Những định luật vật lí.
- Những thuyết vật lí.
- Những ứng dụng của vật lí trong kĩ thuật.
- Những phương pháp nhận thức vật lí.
Một số kĩ năng HS cần phải có để nâng cao hiệu quả OTCC:
- Kĩ năng thu thập thông tin: Thông qua việc tự làm thí nghiệm hay quan sát
các hiện tượng trong tự nhiên, đời sống hàng ngày; kĩ năng đọc sách, tài liệu; kĩ
năng quan sát, đọc đồ thị, biểu đồ; kĩ năng khai thác thông tin trên mạng Internet,...
Để thu thập được đúng và đủ các thông tin cần thiết, học sinh cần bám sát mục tiêu


hoạt động học tập. Mục tiêu này do học sinh tự xác định dưới sự hướng dẫn của
giáo viên, trong một vài trường hợp có thể giáo viên nêu mục tiêu.
- Kĩ năng xử lí thông tin: Đây là kĩ năng đòi hỏi tư duy cao. Học sinh cần
được hướng dẫn lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch xử lí các thông tin thu thập
được để rút ra các kết luận cần thiết. Hoạt động này thường được tiến hành bởi các
hình thức:
+ Thiết kế một phương án thí nghiệm để kiểm tra dự đoán.
+ Sử dụng biểu bảng, đồ thị, công thức toán để xử lí các số liệu thu được từ
thí nghiệm.
+ Tiến hành các thao tác tư duy: phân tích, tổng hợp, so sánh, qui nạp, suy
diễn… các thông tin thu được để rút ra các kết luận .
- Kĩ năng truyền đạt thông tin: trình bày, viết, báo cáo kết quả, nhận xét ý kiến
cá nhân hay của nhóm, báo cáo kết quả hoạt động của nhóm, nhận xét đánh giá ý
kiến của cá nhân…Hoạt động này không những góp phần phát triển ngôn ngữ ở
học sinh mà con giúp các em rèn luyện các phẩm chất cần thiết để hoà nhập với
cuộc sống cộng đồng.
1.4. Các hình thức ôn tập
Hoạt động học tập ôn tập của học sinh chủ yếu thông qua hoạt động học tập

trên lớp và hoạt động tự học ở nhà. Ôn tập của học sinh ở nhà chính là tạo điều
kiện để học tập trên lớp theo giờ giảng đạt hiệu quả hơn. OTCC có thể thực hiện
dưới nhiều hình thức nhưng chủ yếu là hai hình thức: OTCC ngay trong giờ học
chính khóa trên lớp và OTCC ngoài giờ học chính khóa [17].
1.4.1. OTCC kiến thức ngay trong giờ lên lớp
- Ôn tập ngay trước và trong khi học sinh tìm hiểu, tiếp thu kiến thức mới
dựa trên cơ sở của những kiến thức đã học trước đó. Hình thức này thường được
tiến hành ngay trong mỗi bài học hằng ngày, thực hiện thông qua hệ thống các câu
hỏi được giáo viên chuẩn bị sẵn, đó là các câu hỏi kiểm tra bài cũ đầu giờ, hoặc


những câu hỏi đặt ra trong tiết học nhằm gợi lại kiến thức cũ mà nó là cơ sở để
hình thành kiến thức mới trong bài học.
- Ôn tập được thực hiện ngay sau khi học sinh vừa học bài mới, nhằm củng
cố những kiến thức học sinh vừa mới lĩnh hội, chốt lại những kiến thức cơ bản, cốt
lõi của bài học. Hình thức này có thể tiến hành vào cuối tiết học bằng cách đưa ra
các câu hỏi để học sinh trả lời hoặc làm các bài tập có tính chất hệ thống hóa, tổng
kết những kiến thức cơ bản của bài học.
- Ôn tập sau khi kết thúc một chương hoặc một phần chương trình. Hình
thức ôn tập này thường được thực hiện trong một (hoặc một vài) tiết học riêng biệt.
Mục đích sư phạm của các tiết ôn tập như vậy là chỉnh lí lại, hệ thống lại, tìm ra
mối liên hệ logic giữa các kiến thức mà học sinh đã được lĩnh hội trong một phần
của tài liệu học; tạo cho học sinh có cái nhìn toàn diện về nội dung kiến thức trong
phần đó.
- Ôn tập tổng kết được áp dụng khi chương trình kết thúc vào cuối kỳ, cuối
năm. Ôn tập tổng kết không phải đơn thuần khôi phục lại trong trí nhớ mọi tri thức
đã học. Mục đích của nó là nâng cao tri thức cho học sinh lên một trình độ mới cao
hơn. Trước hết là nó phải đảm bảo hệ thống hóa lại các tri thức đã học, điều đó đạt
được nhờ nội dung của vấn đề cần ôn tập.
1.4.2. OTCC kiến thức ngoài giờ lên lớp

Hình thức này diễn ra sau giờ lên lớp và dưới sự hướng dẫn gián tiếp của
giáo viên thông qua hệ thống câu hỏi và bài tập mang tính định hướng trong các
giờ học tự chọn, bổ trợ kiến thức. Học sinh thực hiện việc ôn tập của mình bằng
cách đọc lại bài học hoặc tái hiện lại nội dung bài học như cấu trúc của các phần,
các mục, nội dung của các đề mục trong bài học. Sau đó trả lời các câu hỏi của
giáo viên hoặc câu hỏi trong sách giáo khoa, hoặc tự đặt ra câu hỏi để trả lời. Đồng
thời cần tìm đọc các tài liệu có liên quan để mở rộng và đào sâu những kiến thức
đã học. Trong quá trình ôn tập học sinh có thể trao đổi với bạn bè về kết quả ôn tập


của mình, sau đó ghi chép lại toàn bộ nội dung ôn tập bằng cách tóm tắt bài học,
xây dựng dàn ý, sơ đồ, bảng biểu; bằng cách xây dựng đáp án trả lời câu hỏi hay
bằng cách vận dụng kiến thức của bài học.
Theo quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm hiện nay, dạy học là dạy
học sinh biết tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức cũng như tự OTCC kiến thức, dạy học
là dạy học sinh biết phối hợp hoạt động trong nhóm dưới sự hướng dẫn của thầy.
Hoạt động tự OTCC cũng như hoạt động OTCC trong nhóm HS trong hiện tại và
tương lai là hết sức quan trọng. Hơn nữa, ngày nay CNTT phát triển, việc tổ chức
cho học sinh tự OTCC và OTCC trong nhóm thông qua việc xây dựng các
Website, các diễn đàn trên mạng dưới sự điều khiển của giáo viên thông qua việc
xây dựng các chương trình ôn tập phân nhánh, thông qua các bài trắc nghiệm có
phản hồi, hướng dẫn, các thí nghiệm ảo, thí nghiệm minh họa khảo sát chưa được
sử dụng trong quá trình học kiến thức mới là có thể làm được để nâng cao chất
lượng OTCC.
1.5. Các phương pháp OTCC ngoài giờ lên lớp
1.5.1. Đọc lại và hoàn thành những bài tập tự luận, trắc nghiệm ở nhà có tác dụng
giúp HS tự OTCC kiến thức.
Học tập ở nhà có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng của
quá trình dạy học. HS học tập ở nhà là sự tiếp tục một cách có lôgic hình thức học
tập trên lớp. Ở nhà, HS phải tự lực đọc lại và hoàn thành các bài tập (dưới dạng tự

luận và trắc nghiệm) do GV đề ra sau các giờ lên lớp. Ngoài những bài tập về nhà
chung cho cả lớp, GV có thể ra những bài tập riêng cho các HS kém và giỏi. Học
tập ở nhà có tác dụng củng cố, đào sâu, mở rộng, khái quát hóa và hệ thống hóa tri
thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo; góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng ở
HS năng lực tự học, năng lực làm việc độc lập. Nó còn cho phép thực hiện được sự
cá biệt hóa việc dạy học, giúp lấp những lỗ hổng trong tri thức của những HS kém
và phát triển năng lực sáng tạo ở HS giỏi.


Ở nhà, HS tự thực hiện những nhiệm vụ học tập do GV giao cho và trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ, HS không có sự hướng dẫn của GV; GV đánh giá kết
quả của hoạt động tự học thông qua mức độ hoàn thành công việc của HS; nội
dung tự học cũng rất đa dạng, tuỳ thuộc nội dung chương trình và đối tượng HS.
1.5.2. Xây dựng lôgic hình thành các kiến thức thông qua xây dựng các sơ đồ
Graph về từng phần hay toàn bộ hệ thống kiến thức cần ôn tập.
Graph trong lí thuyết Graph bắt nguồn từ “Graphic” có nghĩa là tạo ra một
hình ảnh rõ ràng, chi tiết sinh động trong tư duy. Trong toán học, Graph được định
nghĩa: Graph gồm một tập hợp điểm gọi là đỉnh của Graph cùng với một tập hợp
đoạn thẳng (hoặc cong) gọi là các cạnh của Graph, mỗi cạnh nối hai đỉnh khác
nhau và hai đỉnh khác nhau được nối với nhau bằng nhiều nhất một cạnh.[4]
- Nếu với mỗi cạnh của Graph không phân biệt điểm gốc (đầu) với điểm
ngọn (cuối) thì đó là Graph vô hướng.

B

Ví dụ:
A

D
C


- Nếu với mỗi cạnh của Graph, ta phân biệt hai đầu, một đầu là gốc và một
đầu còn lại là ngọn thì đó là Graph có hướng.

B

Ví dụ:
A

D
C

Trong dạy học người ta quan tâm nhiều đến Graph có hướng vì Graph có
hướng cho biết cấu trúc của đối tượng nghiên cứu, đồng thời biểu thị được mối
quan hệ động, mối quan hệ trong sự phát triển của các yếu tố được đưa vào Graph,
trong khi đó Graph vô hướng được sử dụng để biểu thị mối quan hệ tĩnh của các


yếu tố.
* Những ứng dụng của lí thuyết Graph trong dạy học:
Dùng Graph để hệ thống hóa khái niệm trong một tổng thể, giúp mở rộng
những hiểu biết về đối tượng nghiên cứu.
Dùng Graph cấu trúc hóa nội dung tài liệu giáo khoa, tạo nên mối liên hệ
giữa các đơn vị kiến thức trong một hệ thống nhất định (trong một chương trình,
một chương hay một bài).
Dùng Graph hướng dẫn học sinh tự học, hoàn thiện tri thức: giáo viên có thể
để cho học sinh tự thiết kế các Graph hoặc hoàn thiện các Graph do giáo viên gợi
ý. Hệ thống hóa kiến thức giúp học sinh có bức tranh tổng thể, hệ thống về những
kiến thức được học trong một lĩnh vực nhất định. Sử dụng Graph trong khâu này
có các mức độ sau:

- Mức độ thứ nhất: giáo viên đưa ra:
-

các yếu tố có trong Graph đã có chiều mũi tên nối các đỉnh nhưng nội
dung ở các đỉnh còn trống, hoặc

-

các yếu tố có trong Graph chưa có chiều mũi tên nối các đỉnh và các
đỉnh đã điền đủ (hoặc thiếu) các yếu tố nội dung,

-

chưa có các cạnh rồi yêu cầu học sinh điền thông tin vào những chỗ
trống đó, tạo các liên kết giữa các đỉnh theo các chiều từ yếu tố cơ
bản đến yếu tố dẫn xuất..v..v.

- Mức độ thứ hai: học sinh tự xây dựng Graph thể hiện các kiến thức đã học
theo một lôgic mà mỗi học sinh tự xác định, giáo viên chỉ nêu định hướng chung,
những yêu cầu cơ bản của bài ôn tập.
Sử dụng Graph trong khâu hoàn thiện tri thức là sự kết hợp giữa khâu học ở
lớp với khâu tự học ở nhà dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Tuy nhiên, các phương pháp OTCC như: đọc lại và hoàn thành những bài
tập tự luận, trắc nghiệm hay xây dựng lôgic hình thành các kiến thức thông qua xây


dựng các sơ đồ-Graph về từng phần hay toàn bộ hệ thống kiến thức cần ôn tập
cũng có thể được sử dụng trong giờ ôn tập chính khoá.
1.5.3. Hoạt động ngoại khóa góp phần tự OTCC kiến thức.
Hoạt động ngoại khoá vật lí là một trong những hoạt động ngoài giờ lên lớp,

có tổ chức, có kế hoạch, có phương hướng xác định, được HS tiến hành theo
nguyên tắc tự nguyện ở ngoài giờ nội khoá dưới sự hướng dẫn của các GV vật lí
nhằm gây hứng thú, phát triển tư duy, rèn luyện một số kĩ năng, bổ sung và mở
rộng kiến thức vật lí cho HS; nó có tác dụng lớn về mặt giáo dưỡng, giáo dục và
giáo dục kĩ thuật tổng hợp [9].
Hoạt động ngoại khoá vật lí có tác dụng góp phần củng cố, đào sâu, mở
rộng, hệ thống hoá kiến thức vật lí đã học trên lớp; bổ sung những kiến thức về mặt
lí thuyết hoặc khắc phục những sai lầm mà HS thường mắc phải khi học nội khoá.
Hiện nay, hoạt động ngoại khóa đã và đang được thực hiện tại các trường
phổ thông trên toàn quốc, nhiều đề tài khoa học giáo dục nghiên cứu về ngoại khóa
thuộc nhiều bộ môn như vật lí, hóa học, địa lí… đã bổ sung nhiều kĩ năng, kĩ thuật
tổng hợp cho học sinh.
1.6. Phương tiện hỗ trợ việc OTCC
Phương tiện dạy học là các phương tiện sư phạm đối tượng - vật chất do GV
hoặc (và) HS sử dụng dưới sự chỉ đạo của GV trong quá trình dạy học, tạo những
điều kiện cần thiết nhằm đạt được mục đích dạy học. Phương tiện dạy học có thể
được sử dụng một cách đa dạng trong quá trình củng cố (ôn tập, đào sâu, mở rộng,
hệ thống hoá) kiến thức, kĩ năng của HS [6]. Hiện nay, các phương tiện được dùng
trong OTCC thường là các phương tiện sau:
1.6.1. Sách (giáo khoa, bài tập, các tài liệu khác..)
Sách là một công cụ để chứa đựng hệ thống tri thức. Sách là hình thức vật
chất, còn nội dung của nó là tri thức, mà cốt lõi của tri thức là hệ thống khái niệm.
Do đó, khi đọc sách con người dùng năng lực tư duy, năng lực ngôn ngữ và toàn


bộ kinh nghiệm xã hội vốn có của mình để tách khái niệm ra khỏi hệ thống từ ngữ
mà lĩnh hội chúng, đó là một con đường nhận thức, con đường tái tạo lại tri thức,
một phương thức lĩnh hội khái niệm. Khả năng lĩnh hội khái niệm qua con đường
đọc sách phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau [21].
1.6.2. Các tài liệu, bài tập, bài kiểm tra (trắc nghiệm và tự luận) trên mạng

(dưới dạng Web ...)
Các mô hình mô phỏng các hiện tượng vật lí, các đoạn video chưa được sử
dụng khi nghiên cứu kiến thức mới có thể dùng trong giai đoạn vận dụng các kiến
thức đã học để xây dựng Website củng cố (ôn tập, đào sâu, mở rộng, hệ thống hoá)
kiến thức, kĩ năng của HS.
Các bài kiểm tra, bài trắc nghiệm được xem như phương tiện để kiểm tra
kiến thức, kĩ năng trong dạy học. Theo chúng tôi, việc soạn thảo công phu các câu
hỏi trắc nghiệm, các bài trắc nghiệm có phản hồi những sai lầm của HS và hướng
dẫn HS tự đọc tư liệu dựa trên công nghệ thiết kế Web hợp lí thì sẽ tạo ra được một
công cụ, phương tiện hữu hiệu để định hướng hoạt động chiếm lĩnh kiến thức cần
ôn tập, đánh giá mục tiêu và phương pháp dạy học, mà hiện nay chưa có những bài
trắc nghiệm như vậy trên mạng.
Ưu thế của Web thể hiện ở các tính năng tạo lập và quản lí nội dung ôn tập
như: Giao – nộp bài tập; trao đổi trực tuyến giữa GV và học viên, giữa các bạn học
(chat), tạo lập các diễn đàn thảo luận,... Và đặc biệt hơn cả “Quản lí học viên” là
một tính năng đặc biệt quan trọng của công nghệ thiết kế Web bao gồm: Kết nạp
và theo dõi thông tin học viên trong một khóa học, chia học viên thành các nhóm
(lớp học, khóa học), lên lịch các sự kiện của site hoặc khóa học…, quản lí điểm,
theo dõi lần truy cập của học viên và tải lên các file ở ngoài để sử dụng cho khóa
học… GV có thể phân quyền truy cập vào nội dung ôn tập đối với từng nhóm đối
tượng như: ôn tập cho mọi người, ôn tập dành cho học viên,... Với khả năng tính


toán của máy tính, máy tính có thể dễ dàng và nhanh chóng thực hiện kiểm tra trên
Web đồng thời thực hiện chấm điểm trên Web theo thang điểm đã đặt ra.
1.6.3. Phần mềm dạy học hỗ trợ OTCC
Phần mềm dạy học (PMDH) là phương tiện chứa chương trình để ra lệnh
cho máy tính thực hiện các yêu cầu về nội dung và phương pháp dạy học theo các
mục tiêu đã định.
Khác với các phương tiện dạy học khác, PMDH là một dạng vật chất đặc

biệt, là các câu lệnh chứa thông tin, dữ liệu để hướng dẫn máy vi tính thực hiện các
thao tác xử lí theo một thuật toán xác định từ trước. Các PMDH được lưu trữ trong
các thiết bị nhớ ngoài của máy vi tính như trong các đĩa cứng, đĩa mềm, đĩa CD.
PMDH rất gọn nhẹ, rất dễ nhân bản với số lượng lớn, không cồng kềnh, dễ bảo
quản, dễ vận chuyển, dễ sử dụng, sinh động và hấp dẫn. Tuỳ thuộc vào từng môn
học cụ thể mà xây dựng các PMDH tương ứng để phục vụ cho dạy và học môn đó,
do vậy có các PMDH bộ môn. Tuỳ thuộc vào hình thức sử dụng và chức năng sư
phạm mà phần mềm đảm nhận có thể phân chia các PMDH thành các loại khác
nhau. [11]
Trong dạy học vật lí có thể phân chia các PMDH thành các nhóm sau:
- Phần mềm mô phỏng, minh họa: thường gọi là phần mềm mô phỏng.
- Phần mềm thu thập và xử lí các số liệu thực nghiệm dùng hỗ trợ cho các thí
nghiệm vật lí: thường gọi là phần mềm hỗ trợ thí nghiệm vật lí.
- Phần mềm ôn tập, tổng kết, hệ thống hoá kiến thức của từng phần, từng
chương trong sách giáo khoa.
- Phần mềm kiểm tra, đánh giá kiến thức của học sinh.
Như vậy, bên cạnh rất nhiều chức năng thì PMDH cũng có chức năng hỗ trợ
học sinh tự OTCC và KTĐG kiến thức về một nội dung nào đó.


1.7. Mối quan hệ giữa OTCC và kiểm tra, đánh giá
Theo GS. Phạm Hữu Tòng “Kiểm tra là sự theo dõi, tác động của người
kiểm tra đối với người học nhằm thu được những thông tin cần thiết để đánh
giá”[15].
Kiểm tra trong quá trình dạy học là nhằm theo dõi thu thập số liệu, chứng cứ
để đánh giá kết quả học tập, nhằm củng cố, mở rộng, tăng cường việc học tập và
phát triển của học sinh.
Đánh giá kết quả của một hoạt động là nhằm phát hiện và uốn nắn kịp thời
những sai sót, điều chỉnh có hiệu quả hoạt động đó, một cách tổng quát: Đánh giá
có nghĩa là xem xét mức độ phù hợp của một tập hợp các thông tin thu được với

một tập hợp các tiêu chí thích hợp của mục tiêu đã xác định nhằm đưa ra quyết
định theo một mục đích nào đó.
KTĐG là hai công việc có nội dung khác nhau nhưng có liên quan mật thiết
với nhau, kiểm tra là phương tiện để đánh giá còn muốn đánh giá thì phải tiến hành
kiểm tra.
Ôn tập được tiến hành trong mối quan hệ chặt chẽ với việc kiểm tra tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo. Những công việc mà đòi hỏi tính tích cực của HS nhiều hơn là
khi giảng kiến thức mới.
Giữa ôn tập và kiểm tra có mối liên hệ với nhau vô cùng khăng khít. Ôn tập
được tổ chức theo tiết học thông qua kiểm tra (vấn đáp, tự luận, trắc nghiệm…) và
việc đánh giá đúng trình độ nhận thức của HS qua kiểm tra giúp GV lựa chọn đúng
nội dung và đối tượng cần ôn tập. Ôn tập tốt giúp người học thể hiện tốt trình độ
nhận thức của mình trong bài kiểm tra trên lớp.
Như vậy ôn tập được tiến hành trong mối quan hệ chặt chẽ với kiểm tra và
thông qua các hình thức tổ chức dạy học cơ bản. Việc tách riêng ôn tập và kiểm tra
là do mục đích, nhiệm vụ của mỗi công việc và chúng ta không thể tuyệt đối hóa
từng công việc được. Sự phân chia công việc như vậy trong tiết học chỉ mang tính


tương đối.
Có thể biểu diễn quan hệ đó qua sơ đồ:

Thời gian trên lớp
(hoạt động nội khóa)

Ôn tập

9

Kiểm tra


Các hoạt động ngoại khóa

HS tự học ở nhà
(nên có phương tiện hỗ trợ)

9

2. Cơ sở thực tiễn của hoạt động OTCC

9

Để đánh giá khách quan thực trạng của hoạt động ôn tập củng cố và kiểm tra
đánh giá của GV và HS trong các trường phổ thông, chúng tôi tiến hành khảo sát
bằng phương pháp Ăngket (điều tra), phương pháp nghiên cứu sản phẩm (bài kiểm
tra của HS), phương pháp phỏng vấn và đàm thoại với HS và GV của 3 trường phổ
thông. Đó là Trường THPT Trực Ninh A – Nam Định; THPT Trực Ninh B – Nam
Định; THPT Lê Quý Đôn – Nam Định.
Thời điểm khảo sát: học kỳ hai của năm học 2014-2015.
Khách thể: Đối tượng khảo sát là học sinh lớp 12, với số lượng 225 học sinh,
và 22 giáo viên của cả ba trường nói trên.
Mục tiêu khảo sát: đánh giá thực trạng về hoạt động ôn tập củng cố và kiểm
tra đánh giá ở các trường THPT hiện nay về các mặt: nhận thức về vai trò của ôn
tập; nội dung ôn tập; phương pháp ôn tập; các phương tiện hỗ trợ hoạt động ôn
tập…
Kết quả khảo sát cho thấy thực tiễn của vấn đề nghiên cứu như sau:


2.1. Đánh giá vai trò của OTCC từ phía GV và từ phía HS
2.1.1. Nhận thức của GV về tầm quan trọng của việc hướng dẫn HS ôn tập

Để tìm hiểu nhận thức của GV về tầm quan trọng của của việc hướng dẫn
HS ôn tập, chúng tôi đưa ra 9 yếu tố có ảnh hưởng tới kết quả học tập của HS và
yêu cầu họ đánh giá tầm quan trọng của các yếu tố đó theo thứ tự từ 1 đến 9, trong
đó 1 là yếu tố quan trọng nhất, 9 là ít quan trọng nhất. Kết quả khảo sát trên 22 GV
của 3 trường THPT cho kết quả như sau:
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

Các yếu tố

Mức độ

Giáo viên nhiệt tình và có phương pháp giảng
dạy phù hợp với đối tượng học sinh.
Giáo viên thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết
quả học tập của học sinh
Học sinh có phương pháp học tập khoa học, khả
năng tự học tốt.
Giáo viên thường xuyên quan tâm đến việc
hướng dẫn học sinh ôn tập.
Học sinh có thái độ, động cơ học tập đúng đắn.
Giáo viên luôn quan tâm, khích lệ, động viên học

sinh kịp thời.
Học sinh nắm vững kiến thức cũ.
Học sinh có sức khỏe tốt.
Học sinh có gia đình, quan hệ xã hội và môi
trường học tập tốt.

7,1

2,3

1

2,9

2

3,4

3

4,5

4

5,4

5

6,1


6

6,6
6,9

7
8
9

Kết quả khảo sát cho thấy, yếu tố được GV đánh giá quan trọng nhất là GV
có phương pháp giảng dạy phù hợp với các đối tượng HS (2,3), Giáo viên thường
xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh (2,9). Giáo viên thường
xuyên quan tâm đến việc hướng dẫn học sinh ôn tập(4,5)…ngoài ra, qua trao đổi,
phỏng vấn chúng tôi nhận được các ý kiến đều cho rằng việc tổ chức ôn tập kiến


thức cho HS có vai trò rất quan trọng. Theo chúng tôi, nhận thức của GV về các
yếu tố ảnh hưởng tới kết quả học tập của HS như vậy là hợp lí, bởi vì đối với đối
tượng HS phổ thông việc tìm ra phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng và
việc thường xuyên quan tâm đến việc học sinh ôn tập, động viên tạo động cơ học
tập đúng đắn cho học sinh là cần thiết và là điều kiện rất quan trọng để nâng cao
chất lượng học tập của HS.
2.1.2. Nhận thức của HS về vai trò của hoạt động ôn tập củng cố.
Tại 3 trường THPT, chúng tôi tiến hành điều tra bằng phỏng vấn, đàm thoại
và dùng phiếu điều tra, HS khi được hỏi về vai trò của hoạt động OTCC thì thu
được kết quả như sau:
“Em có muốn được Thầy/cô tổ chức hướng dẫn ôn tập kiến thức một cách
thường xuyên không?”
T


Các yếu tố

Tỉ lệ (%)

T
1

Thích

47,1%

2

Bình thường

11,6%

3

Không thích

3,1%

4

Tùy thuộc nội dung kiến thức và cách thức tổ chức ôn tập
38,2%
Như vậy phần lớn các em đều cho rằng ôn tập có vai trò rất quan trọng đối với
hoạt động nhận thức và rất muốn được GV tổ chức hướng dẫn ôn tập kiến thức một
cách thường xuyên.

Khi được hỏi về hứng thú trong giờ ôn tập chúng tối thu được kết quả như
sau:“Trong các giờ học ôn tập kiến thức môn vật lý trên lớp, em có thấy hứng thú
không?”
TT
1 Rất thích
2

Bình thường

Các yếu tố

Tỉ lệ (%)
9,8%
14,6%


3

Không hứng thú.

11,1%

4

Tùy thuộc nội dung kiến thức.

37,8%

5


Tùy thuộc vào phương pháp dạy của thầy/cô

26,7%

Thực tiễn này cho chúng ta thấy hai vấn đề: một là, các tiết học ôn tập hiện nay
được GV tổ chức chưa gây được hứng thú đối với HS; hai là, HS đã nhận thức
được vai trò quan trọng của hoạt động ôn tập củng cố kiến thức và mong muốn
được GV tổ chức hướng dẫn ôn tập thường xuyên, điều này tạo nên một mâu thuẫn
giữa nhu cầu và sự đáp ứng nhu cầu của hoạt động ôn tập kiến thức hiện nay ở các
trường phổ thông.
2.2. Thực trạng việc áp dụng các biện pháp rèn luyện kỹ năng và ôn tập kiến
thức cho HS ở các trường THPT.
Để tìm hiểu các biện pháp rèn luyện kỹ năng và ôn tập kiến thức cho HS mà
GV đã và đang thực hiện, chúng tôi tiến hành khảo sát trên phiếu điều tra, yêu cầu
GV đánh số thứ tự từ 1 đến 9 theo mức độ giảm dần tính thường xuyên (số 1 là
thường xuyên sử dụng nhất, số 9 là ít sử dụng nhất) kết hợp với dự giờ của các GV
và thu được kết quả như sau:
T

Các biện pháp

T

ĐTB

Mức
độ

1


Hướng dẫn học sinh giải bài tập.

2,3

1

2

Hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi.

2,8

2

3,5

3

3,9

4

4,5

5

3
4
5


Hệ thống hóa kiến thức cho học sinh bằng cách
xây dựng sơ đồ, bảng biểu.
Hướng dẫn học sinh xây dựng dàn ý tóm tắt bài
học.
Hướng dẫn học sinh đọc sách giáo khoa và tài liệu
tham khảo.


6

Bổ túc kiến thức cho học sinh.

6,1

6

7

Tổ chức hoạt động nhóm về nội dung cần ôn tập

6,6

7

7,3

8

8,1


9

8
9

Tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động
ngoại khóa.
Động viên, khích lệ học sinh kịp thời, đúng lúc.

Kết quả khảo sát trên cho thấy các biện pháp mà GV ở các trường phổ thông
thường xuyên sử dụng nhất trong các hoạt động tổ chức hướng dẫn HS ôn tập là
hướng dẫn HS giải bài tập (2,3), hướng dẫn HS trả lời các câu hỏi (2,8), hệ thống
hóa kiến thức cho HS bằng sơ đồ kiến thức và lập bảng (3,5),…Các biện pháp tích
cực, hướng dẫn học sinh tự học khác như: ôn tập cho học sinh bằng hoạt động
ngoại khóa, hướng dẫn học sinh tự đọc sách giáo khoa và tài liệu tham khảo,… thì
được ít GV sử dụng.
Qua dự giờ chính khóa và một số giờ hướng dẫn học sinh ôn tập, quan sát
hoạt động của giáo viên và học sinh chúng tôi có một số nhận định: Trong các tiết
học giáo viên cũng đã có chú ý tới việc hướng dẫn học sinh ôn tập như: Ôn lại
những kiến thức cũ có liên quan trực tiếp đến việc tiếp thu kiến thức mới; hướng
dẫn học sinh ôn lại kiến thức vừa học; hướng dẫn học sinh trả lời các câu hỏi và
giải bài tập; kiểm tra việc học bài cũ của học sinh, hướng dẫn HS xây dựng sơ đồ
nội dung bài học, lập dàn ý tóm tắt trong quá trình ôn tập… Tuy nhiên, việc hướng
dẫn học sinh chủ yếu là do GV chuẩn bị sẵn nội dung ôn tập, giảng giải cho HS các
nội dung đó hoặc giảng giải theo bài mẫu, yêu cầu HS thực hiện lại như GV đã
hướng dẫn, việc chỉ ra cách thức thực hiện và yêu cầu HS tự thực hiện ít được GV
quan tâm. Do đó, học sinh rất lúng túng khi được yêu cầu hệ thống hóa kiến thức
theo sơ đồ và lập bảng, tóm tắt những ý cơ bản, bản chất theo tiến trình lôgic của
bài học thì đa phần các em chỉ sao chép lại như trong vở ghi hoặc sách giáo khoa.



Với HS, chúng tôi khảo sát trên phiếu điều tra với câu hỏi: “Nếu được tổ
chức ôn tập một kiến thức nào đó trong chương trình vật lí thì em thích được các
thầy cô giáo tổ chức hoạt động gì?” và kết quả thu được như sau:
T

Cách thức tổ chức

Kết quả

Tỉ lệ %

T
1
2
3
4
5

Hướng dẫn làm các bài tập luyện tập.
Hướng hẫn trả lời các câu hỏi ôn tập.
Hướng dẫn lập sơ đồ nội dung kiến thức.
Hướng dẫn lập dàn ý tóm tắt nội dung kiến thức.
Ôn tập thông qua các bài thực hành thí nghiệm

148/225
57/225
98/225
78/225
52/225


65,8%
25,3%
43,6%
34,6%
23,1%

6
7

ngoại khoá
Tổ chức thảo luận trao đổi nhóm.
Ôn tập có sử dụng các phương tiện hỗ trợ hiện đại

65/225
108/225

28,9%
48%

như máy tính…
Từ kết quả khảo sát, ta thấy ngoài mong muốn được GV hướng dẫn làm bài
tập (65,8%) và hướng dẫn trả lời các câu hỏi ôn tập (25,3%), thì nhiều HS còn có
nhu cầu muốn được GV hướng dẫn lập sơ đồ nội dung kiến thức (43,6%) và lập
dàn ý tóm tắt nội dung kiến thức (34,6%).Một phần lớn học sinh cũng mong muốn
được ôn tập có phương tiện hỗ trợ (48%). Theo chúng tôi, những nhu cầu đó của
HS là hợp lí, và GV cần thay đổi cách thức tổ chức các tiết ôn tập để đáp ứng
những yêu cầu đó, đồng thời tăng cường hướng dẫn HS tự ôn tập ở nhà bằng cách
hướng dẫn HS tự lập dàn ý, sơ đồ tóm tắt bài học.
2.3. Các nội dung mà hiện nay GV và HS thường OTCC

Để tìm hiểu các nội dung mà GV và HS thường ôn tập hiện nay, chúng tôi
khảo sát trên phiếu điều tra đối với GV vật lí ở các trường THPT, yêu cầu họ đánh
số từ 1 đến 6 theo thứ tự giảm dần tính quan trọng (số 1 là nội dung quan trọng
nhất cần được ôn tập, số 6 là ít quan trọng nhất) kết quả như sau:
TT

Nội dung cần ôn tập

ĐT
B

Mức độ


1
2
3

4

Kĩ năng giải bài tập vật lí.
Kiến thức: khái niệm vật lí, định luật vật lí, thuyết
vật lí
Kĩ năng thu thập thông tin: đọc biểu đồ, đồ thị …
Kỹ năng xử lí thông tin: kỹ năng xây dựng bảng,
biểu đồ, đồ thị; rút ra kết luận bằng suy luận quy
nạp, suy luận diễn dịch, khái quát hoá; kỹ năng so

1,8


1

2,6

2

3,0

3

3,8

4

4,7

5

5,1

6

sánh, đánh giá…
Kiến thức: về phương pháp nhận thức vật lí (phương
5

6

pháp nhận thức vật lí theo con đường lí thuyết và
phương pháp nhận thức vật lí theo con đường thực

nghiệm)
Kỹ năng truyền đạt thông tin: trình bày bài, báo cáo
kết quả

Kết quả trên cho thấy hiện nay trong các hoạt động ôn tập các GV chủ yếu
tập chung rèn cho HS các kỹ năng giải bài tập (1,8), các nội dung kiến thức về khái
niệm vật lí, định luật vật lí, thuyết vật lí(2,6)... Ít quan tâm đến việc ôn tập cho HS
các nội dung kiến thức về phương pháp nhận thức vật lí (phương pháp nhận thức
vật lí theo con đường lí thuyết và phương pháp nhận thức vật lí theo con đường
thực nghiệm). Sở dĩ như vậy vì hiện nay GV và HS đầu tư việc dạy và học theo
quan điểm “thi gì thì học nấy”. Trong khi đó, nội dung trong các kì thi chưa chắc là
đã đáp ứng việc đánh giá mục tiêu dạy học vật lí như nêu trong chương trình và
chuẩn kiến thức, kĩ năng.
2.4. Các phương tiện hỗ trợ cho hoạt động OTCC đang được sử dụng
Qua điều tra cho thấy các phương tiện hỗ trợ OTCC chủ yếu của đa số các
GV vẫn là SGK, SBT, tài liệu tham khảo, bài tập trắc nghiệm và tự luận trên giấy.
Tài liệu, bài tập dưới dạng giáo án điện tử Powerpoint, cũng như các phần mềm
máy tính, thí nghiệm mô phỏng thì rất ít GV sử dụng, nếu có thì các tư liệu sử dụng


còn chưa vận dụng đúng lí luận dạy học nên hiệu quả dạy học đạt được chưa cao.
Hầu hết các GV chưa bao giờ sử dụng tư liệu, bài tập trắc nghiệm và tự luận
dưới dạng Web để OTCC mặc dù đã có rất nhiều Website hỗ trợ HS dưới dạng tư
liệu học và ôn tập kiến thức ở trường phổ thông như: ;
; ... Hiện nay, trên Internet chưa có
một Website nào được xây dựng giúp HS tự OTCC về riêng môn vật lí có bài tập
trắc nghiệm có phản hồi, hướng dẫn, gợi ý câu trả lời, để HS có thể đào sâu, mở
rộng, khắc sâu các kiến thức, sửa và tránh được các quan niệm sai lầm thường mắc
phải trong và sau khi học lần đầu.
2.5. Phân tích, đánh giá ưu nhược điểm của việc xác định vai trò, nội dung,

hình thức, phương tiện hiện đang sử dụng trong thực tiễn khi OTCC
2.5.1. Ưu điểm
Các SGK, sách bài tập, tư liệu thao khảo của rất nhiều các tác giả hiện nay
bán trên thị trường đã tạo nên nguồn tư liệu khổng lồ, đủ các loại để HS có thể tiếp
cận dễ dàng, nhanh chóng. Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển của CNTT thì các
thư viện tư liệu vật lí trên mạng Internet liên tục ra đời giúp cho GV cũng như HS
nhanh chóng tìm được các tài liệu tham khảo cần thiết trong quá trình OTCC kiến
thức, kĩ năng của mình; các diễn đàn trao đổi và học tập trên mạng đã góp phần rút
ngắn về thời gian và không gian đem lại hiệu quả OTCC.
2.5.2. Nhược điểm
Bên cạch những ưu điểm đó thì phải kể đến rất nhiều nhược điểm mà các
phương tiện hiện đang sử dụng trong thực tiễn khi OTCC:
Các Wesite học tập lập ra thường chưa chú ý đến lí luận DH hiện đại khi xây
dựng kiến thức, tất cả mới dừng lại ở sự liệt kê kiến thức ở từng chương, phần mà
không hề đề cập đến việc bồi dưỡng cho HS các phương pháp nhận thức vật lí phổ
biến. Nhiều Website dạy học có tính chất “đổ tư liệu giáo khoa, sách tham khảo, ôn
tập lên mạng” dẫn đến không những không phát huy được tính tích cực, tự lực


chiếm lĩnh tri thức của HS mà ngược lại còn làm cho HS ỉ lại vào máy tính, lười tư
duy, chỉ mong tìm kiếm những thông tin có sẵn để đáp ứng yêu cầu tức thời của
GV đề ra.
Các hình ảnh, âm thanh, văn bản được đưa lên Web thường chưa chú ý theo
một cấu trúc sư phạm cao, HS có nguy cơ “nhảy cóc” giữa những đoạn và cắt ngắn
hoặc bỏ qua các trang văn bản có tính tư duy lí thuyết.
Các tư liệu trên mạng, sách thao khảo có quá nhiều, nội dung trùng lặp, và
cũng chỉ dừng lại ở sự liện kê kiến thức ở từng chương, từng phần mà:
+ Không hề đề cập đến việc bồi dưỡng cho HS các phương pháp nhận thức
vật lí phổ biến.
+ Không hướng dẫn HS tự suy nghĩ tìm ra lời giải khi trả lời sai lầm lần đầu.

+ Không chú ý đến các sai lầm cố hữu mà HS gặp phải để xây dựng hệ
thống bài tập qua đó giúp HS sửa các sai lầm trong quá trình OTCC.
+ Chưa chú ý đến logic hình thành và phát triển các kiến thức trong từng bài,
từng phần của chương trình.
Vì vậy, khi đứng trước nguồn tư liệu khổng lồ của nhân loại, đa số HS gặp
không ít khó khăn cũng như mất rất nhiều thời gian khi tự học, tự ôn tập, không
biết chọn kiến thức nào là cơ bản, kiến thức nào là quan trọng để có thể tự OTCC
kiến thức mình đã học một cách khoa học và hiệu quả nhất. Do đó, HS thường
không có “bức tranh” tổng thể, khái quát hóa, hệ thống hóa về hệ thống logic kiến
thức phổ thông.
3. Vai trò của Website trong hoạt động OTCC kiểm tra và đánh giá.
3.1. Một số ưu điểm của Web trong dạy học hiện đại
Từ thuở sơ khai, kinh nghiệm được truyền thụ bắt đầu từ hành động, lời nói
giữa các thế hệ. Sau khi ngôn ngữ, chữ viết xuất hiện, sách và các hình thức lưu trữ
khác ra đời, thế giới sách và các ấn phẩm được in ấn, phổ biến rộng rãi đã tác động


vào sự nghiệp phát triển giáo dục của nhân loại, tham gia vào việc hình thành kiến
thức, kỹ năng và nhân cách con người.
Ngày nay, máy tính điện tử, Internet và Web ra đời, góp phần đào tạo con
người và tăng hiệu quả giáo dục lên một mức độ cao hơn, giúp con người tích cực,
tự lực và chủ động hơn trong học tập. Sách và các ấn phẩm cho phép con người
biểu đạt hiểu biết của mình dưới dạng văn bản, hình ảnh còn máy tính điện tử và
Web cho con người khả năng biến những hiểu biết của mình thành hành động. Sự
phát triển của máy tính điện tử tạo ra cho mỗi quốc gia, mỗi cộng đồng, mỗi cá
nhân những cơ hội sử dụng máy tính như một phương tiện để nâng cao chất lượng
giảng dạy và học tập nhờ các Website giáo dục.
- Dạy học trên mạng tạo điều kiện cho người học vượt qua “rào cản về thời
gian và không gian”
Đối với các lớp học truyền thống, mỗi GV tại một thời điểm chỉ có thể giảng

dạy cho một lớp HS với số lượng ít. Hơn nữa, cả GV và HS phải có mặt tại cùng
một địa điểm và cùng một thời điểm. Những đặc điểm đó sẽ trở nên bất lợi đối với
xu hướng dạy học hiện đại. Dạy học trên mạng là một biện pháp có thể tạo điều
kiện cho người học vượt qua các bất lợi đó.
Đối với dạy học trên mạng, người học không phải có mặt đúng giờ quy định
tại một địa điểm quy định cho tất cả các lớp như ở các lớp học truyền thống khi
nghe giảng lí thuyết, làm bài tập hay thảo luận nhóm…. Tùy điều kiện về thời gian
của mình trong ngày và ở bất kỳ chỗ nào có Internet là họ có thể học lí thuyết, làm
bài tập, thảo luận nhóm, làm bài kiểm tra… Họ có thể đặt các câu hỏi đối với GV
qua email. Họ có thể hỏi đáp trực tuyến, trực tiếp với GV theo các giờ quy định ghi
sẵn trong chương trình, hay đã thỏa thuận trước. Họ có thể trao đổi, thảo luận trong
nhóm học tập qua các hình thức online hoặc offline.
- Dạy học trên mạng giúp cho việc dạy học vượt qua “rào cản liên quan đến
đối tượng học tập”


Đối với các đối tượng học tập có liên quan đến các thí nghiệm thì dạy học
bằng Web có thể hỗ trợ được rất nhiều cho cả GV và HS. Hiện nay, nhờ các công
cụ lập trình hỗ trợ tạo các thí nghiệm trên màn hình có thể tương tác được, người
học có thể tự lắp đặt thí nghiệm, tiến hành thí nghiệm, thu thập số liệu, vẽ đồ thị
thực nghiệm, khớp đồ thị thực nghiệm với các hàm chuẩn… ngay trên mạng. Như
vậy, nếu không có điều kiện đến phòng thí nghiệm, họ có thể thực hiện các thí
nghiệm ngay trên mạng. Hơn nữa, nhiều thí nghiệm không thể thực hiện được
trong phòng thí nghiệm truyền thống (do giá thành quá cao, quý hiếm hay do
không an toàn trong khi thực hiện thí nghiệm) thì nay có thể thực hiện được trong
các “phòng thí nghiệm trên mạng” mà HS cũng như GV đều có thể sử dụng.
- Nhờ dạy học trên mạng người học có thể vượt qua được “rào cản về tư
liệu học tập”
Nội dung các trang Web trên Internet là kho tài nguyên tri thức khổng lồ của
nhân loại liên quan đến tất cả các lĩnh vực trong xã hội và cuộc sống, giúp cho

người học có thể tra cứu đầy đủ các tư liệu cần thiết liên quan đến chuyên môn của
mình. Hơn thế nữa, việc tìm kiếm, tra cứu trên Internet lại rất tiện lợi và nhanh
chóng, nên có thể nói nội dung trên Internet trực sự là một “thư viện số lí tưởng”
của nhân loại, đầy đủ về nội dung, nhanh chóng và tiện lợi về tra cứu.
- Các trang Web còn có các nội dung ôn tập kiến thức cũng như tự kiểm tra,
đánh giá đối với từng bài, từng chương, phần kiến thức đã học. Sau khi tự học,
người học có thể tự ôn tập và kiểm tra đánh giá trình độ lĩnh hội kiến thức của
mình ngay. Khả năng này không thể thực hiện được ở hình thức dạy học truyền
thống đối với tất cả HS trong lớp trong cùng một lúc.[1]
3.2. Các khả năng hỗ trợ của Web đối với OTTC
3.2.1. Sử dụng Website như một công cụ hỗ trợ học tập của HS
Hs có thể tự OTTC lại kiến thức của mình thông qua Web như ôn lại các
khái niệm, định luật vật lí, giải thích các hiện tượng vật lí, làm bài tập luyện tập


×