Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Đề tài trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước trong lĩnh vực quản lí hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.79 KB, 27 trang )

I.

Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường nhà nước

1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường nhà nước

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại từ hành vi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp
của các tổ chức, cá nhân là trách nhiệm pháp lý được xác định với mọi chủ thể. Vì vậy,
khi Nhà nước thực hiện công quyền gây thiệt hại cho các cá nhân, tổ chức thì cũng phải
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
không chỉ nhằm khôi phục các tổn thất tài sản mà còn phải bù đắp những tổn thất tinh
thần cho các cá nhân, tổ chức bị thiệt hại. Do vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
Nhà nước là trách nhiệm khôi phục những tổn thất về tài sản, bù đắp những tổn thất về
tinh thần trong trường hợp cán bộ, công chức nhà nước có hành vi trái pháp luật trong
khi thi hành công vụ gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của cá nhân,
tài sản, uy tín của tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác.
Trong quan hệ về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước gồm các yếu tố
cơ bản sau: chủ thể; khách thể; các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Về chủ thể, các bên trong quan hệ về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước luôn
luôn bao gồm bên gây thiệt hại - Nhà nước, và bên bị thiệt hại là các cá nhân, tổ chức,
chủ thể khác; trong đó, Nhà nước luôn luôn là một bên trong quan hệ về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại này. Việc quy định trực tiếp trách nhiệm bồi thường thuộc về một cơ
quan đại diện chung hay trách nhiệm thuộc về từng cơ quan cụ thể thuộc về chính sách
pháp lý của mỗi quốc gia, tuy nhiên cần phải khẳng định rằng một bên chủ thể có trách
nhiệm luôn luôn là Nhà nước; cơ quan thực hiện trách nhiệm bồi thường không nhân
danh mình mà nhân danh Nhà nước thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng như
nhân danh Nhà nước khi thực hiện công vụ.

Về khách thể, trong các quan hệ pháp luật, khách thể là lợi ích vật chất hoặc tinh
thần mà các chủ thể pháp luật mong muốn đạt được khi tham gia các quan hệ pháp luật.
Trong quan hệ pháp luật dân sự, khách thể là đối tượng mà các chủ thể quan tâm, hướng


tới, nhằm đạt tới hoặc tác động vào khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự. Trên thực tế,
khi hoạt động công quyền gây ra thiệt hại, thì đó là những thiệt hại vật chất, thiệt hại tinh
thần của các cá nhân, tổ chức; tuy nhiên có một thiệt hại mà không thể đo, đếm được là
lòng tin của người dân vào hiệu quả hoạt động cũng như uy tín của Nhà nước. Chính vì
vậy, khách thể trong trường hợp này là quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và lợi ích
của Nhà nước vì khi xảy ra bất kỳ một vụ oan, sai thì không chỉ có công dân là người duy
nhất bị thiệt hại mà luôn kéo theo những tổn thất của Nhà nước. Một mặt, Nhà nước phải
bồi thường vật chất, tinh thần cho người bị oan. Mặt khác, thiệt hại của Nhà nước tưởng
Trang 1


chừng như vô hình nhưng hậu quả trên thực tế vẫn có thể dễ dàng nhận thấy được. Đó là
sự giảm sút uy tín của Nhà nước, là sự xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước.
Về các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trước hết, điều kiện
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được hiểu là tổng hợp các yếu tố cấu thành nên
trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Quan điểm chính thống hiện nay cho rằng các điều kiện
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm: có thiệt hại xảy ra, có hành vi vi
phạm pháp luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật và thiệt hại đã
xảy ra, người gây thiệt hại phải có lỗi. Trong quan hệ bồi thường thiệt hại của Nhà nước
thì các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm:
(1) Có thiệt hại xảy ra;
(2) Có hành vi trái pháp luật trong quá trình thi hành công vụ;
(3) Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra.
2. Đối tượng được bồi thường

Đối tượng được bồi thường quy định tại Điều 2 Luật TNBTCNN, theo đó, đối
tượng được bồi thường là cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, tổn thất về tinh thần
trong các trường hợp quy định tại Luật. Cụ thể là:
Điều 2. Đối tượng được bồi thường


Cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, tổn thất về tinh thần (sau đây gọi chung là
người bị thiệt hại) trong các trường hợp quy định tại Luật này thì được Nhà nước bồi
thường.
Như vậy, theo quy định của Luật TNBTCNN thì bất kỳ cá nhân, tổ chức nào,
không phân biệt cá nhân, tổ chức của Việt Nam hay cá nhân, tổ chức nước ngoài, cũng
đều có thể trở thành đối tượng được bồi thường miễn là đáp ứng đủ các điều kiện dưới
đây:
Thứ nhất, cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành
công vụ gây ra;
Thứ hai, thiệt hại đó thuộc các trường hợp được bồi thường mà Luật TNBTCNN
quy định tại các điều 13, 26, 28, 38 và 39.
Như vậy, các đối tượng được bồi thường theo Luật TNBTCNN bao gồm:
(1) Công dân Việt Nam, tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật Việt
Nam;
(2) Công dân nước ngoài - bao gồm người mang quốc tịch của quốc gia, vùng lãnh
thổ khác, tổ chức nước ngoài hoạt động tại Việt Nam;
Trang 2


(3) Người không quốc tịch đang sinh sống, làm việc tại Việt Nam.
3. Phân loại và phạm vi bồi thường thiệt hại

Nhà nước thực hiện việc quản lý xã hội trên nhiều lĩnh vực khác nhau, tuy nhiên
xét về mặt tổ chức thực hiện quyền lực, các công việc mà Nhà nước thực hiện được chia
thành các hoạt động: Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật (hoạt động
lập pháp); tổ chức thực hiện pháp luật (hoạt động hành pháp) và bảo vệ pháp luật (hoạt
động tư pháp). Các hoạt động này do các cơ quan tương ứng của Nhà nước thực hiện, cụ
thể bao gồm: cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, với quan
điểm lập pháp cho rằng, việc xác định phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
phải bảo đảm phạm vi trách nhiệm bồi thường nhà nước cần phải được quy định phù hợp

với trình độ phát triển kinh tế, xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Hiến pháp
năm 1992 và BLDS năm 2005 đã ghi nhận một nguyên tắc rất cơ bản, theo đó, Nhà nước
có trách nhiệm bồi thường các thiệt hại do cán bộ, công chức của mình gây ra cho tổ
chức, cá nhân trong khi thi hành công vụ. Do đó, trong điều kiện hiện nay, để đảm bảo
tính khả thi của Luật này thì phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cần được xác
định phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội; khả năng của ngân sách nhà nước;
năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Trên cơ sở đó, Luật
TNBTCNN đã quy định phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trên các lĩnh vực:
- Quản lý hành chính;
- Tố tụng (tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành chính);
- Thi hành án (thi hành án hình sự và thi hành án dân sự).
Với việc xác định rõ lĩnh vực hoạt động mà Nhà nước có trách nhiệm bồi thường,
Luật TNBTCNN, trong từng lĩnh vực cụ thể, còn quy định mang tính liệt kê cụ thể từng
trường hợp mà Nhà nước có trách nhiệm bồi thường. Điều này thể hiện sự rõ ràng trong
chính sách bồi thường nhà nước, giúp cho việc xác quy định trách nhiệm bồi thường
được dễ dàng và cũng bảo đảm được các mục tiêu nêu trên của Luật.
Về các trường hợp không thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

Đối chiếu với các quy định của Luật TNBTCNN về phạm vi trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước thì những trường hợp sau đây không thuộc phạm vi trách nhiệm
bồi thường, cụ thể là:
- Những trường hợp thiệt hại gây ra do hoạt động công vụ nhưng không thuộc
phạm vi trách nhiệm bồi thường theo quy định của Luật TNBTCNN, các đạo luật có liên
quan và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Trang 3


- Những trường hợp thiệt hại gây ra do Nhà nước (cụ thể là thông qua các cơ quan
nhà nước thực hiện) có vi phạm pháp luật trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng

dân sự, hợp đồng kinh tế.
- Những thiệt hại gây ra do tài sản thuộc quyền quản lý, sử dụng, vận hành của
Nhà nước.
- Những trường hợp thiệt hại gây ra do việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
¬- Những trường hợp thiệt hại gây ra không phải trong quá trình thi hành công vụ.
II. Trách nhiệm bồi thường của nhà
1. Xác định thiệt hại được bồi thường

nước trong quản lí hành chính

Theo thông tư liên tịch số 19/2010/TTLT-BTP-BTC-TTCP ngày 26/11/2010
(TTLT số 19/2010) hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt
động quản lý hành chính quy định những thiệt hại được bồi thường:
Điều 5. Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm

1. Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm được xác định theo Điều 45 của Luật. Trong
trường hợp tài sản bị xâm phạm là quyền sử dụng đất, nhà ở, công trình xây dựng và tài
sản khác gắn liền với đất thì thiệt hại được bồi thường được xác định theo quy định tại
Điều 45 của Luật và các quy định của pháp luật có liên quan.
2. Thời gian tính lãi đối với các khoản tiền quy định tại khoản 4 Điều 45 của Luật
được tính từ ngày tiền được nộp vào ngân sách nhà nước; bị tịch thu; thi hành án; được
đặt để bảo đảm tại cơ quan có thẩm quyền đến ngày ban hành quyết định giải quyết bồi
thường của cơ quan có trách nhiệm bồi thường hoặc bản án, quyết định của Toà án.
Điều 6. Thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút

1. Thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của tổ chức
Thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của tổ chức quy định tại Điều
46 của Luật được xác định trên cơ sở thu nhập trung bình của 2 năm liền kề trước thời
điểm xảy ra thiệt hại. Thu nhập của tổ chức được xác định theo báo cáo tài chính hợp
pháp của tổ chức; trường hợp không có báo cáo tài chính, tổ chức có thể chứng minh thu

nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút bằng các tài liệu, chứng cứ hợp pháp khác theo quy
định của pháp luật có liên quan.
Trường hợp tổ chức được thành lập chưa đủ hai năm tính đến thời điểm xảy ra
thiệt hại thì thu nhập thực tế của tổ chức được xác định trên cơ sở thu nhập bình quân
trong thời gian hoạt động thực tế của tổ chức đó.
Trang 4


2. Thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của cá nhân
a) Thu nhập thực tế của cá nhân quy định tại Điều 46 của Luật được xác
định như sau:
Trường hợp trước khi xảy ra thiệt hại mà người bị thiệt hại có thu nhập ổn
định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động thì căn cứ vào
mức lương, tiền công của tháng liền kề của người đó trước khi xảy ra thiệt hại để
xác định khoản thu nhập thực tế.
Trường hợp trước khi xảy ra thiệt hại mà người bị thiệt hại có việc làm và
hàng tháng có thu nhập nhưng không ổn định thì lấy mức thu nhập trung bình của
ba tháng liền kề trước thời điểm thiệt hại xảy ra làm căn cứ để xác định khoản thu
nhập thực tế.
Trường hợp trước khi xảy ra thiệt hại mà người bị thiệt hại là nông dân, ngư
dân, người làm muối, người trồng rừng, người làm thuê, người buôn bán nhỏ, thợ
thủ công, lao động khác có thu nhập nhưng theo mùa vụ hoặc không ổn định thì
lấy mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại tại địa phương; nếu không xác
định được thu nhập trung bình thì lấy mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định
áp dụng cho công chức làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước tại thời
điểm giải quyết bồi thường làm căn cứ để xác định khoản thu nhập thực tế.
b) Người bị thiệt hại (gồm cả trường hợp đã chết) được bồi thường khoản
thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút trong thời gian họ bị tạm giữ hành chính,
bị đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh và trong thời gian
điều trị do sức khoẻ bị xâm phạm. Trong thời gian này, người bị thiệt hại được cơ

quan, người sử dụng lao động trả lương, trả tiền công lao động đầy đủ theo quy
định của pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội thì họ không được nhận khoản tiền
bồi thường tương ứng; nếu người bị thiệt hại được cơ quan, người sử dụng lao
động trả lương, trả tiền công lao động một phần thì phần còn lại được xác định là
thu nhập thực tế bị giảm sút và họ được bồi thường khoản thu nhập bị giảm sút đó.
Ví dụ 1:
Ông A làm nghề bán báo tự do. Do bị đưa vào cơ sở chữa bệnh trái pháp luật nên
trong thời gian này ông A không có thu nhập. Thu nhập của ông A trước khi bị đưa vào
cơ sở chữa bệnh là không ổn định nhưng xác định được thu nhập của ông A trong 3 tháng
trước khi bị thiệt hại lần lượt là 1.200.000 đồng, 1.000.000 đồng và 1.100.000 đồng. Thu
nhập thực tế của ông A được xác định là mức thu nhập trung bình của 3 tháng liền kề
trước khi xảy ra thiệt hại: 1.100.000 đồng. Trường hợp này, thu nhập thực tế của ông A bị
mất và ông A được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất trong thời gian bị đưa vào
cơ sở chữa bệnh mỗi tháng là 1.100.000 đồng.
Trang 5


Ví dụ 2:
Bà B làm cho một công ty tư vấn pháp luật. Thu nhập của bà B trước khi sức khoẻ
bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là 3.000.000 đồng. Do sức khoẻ bị xâm
phạm, bà B phải điều trị và trong thời gian điều trị công ty trả cho bà B 40% tiền lương là
1.200.000 đồng. Trường hợp này, thu nhập thực tế của bà B bị giảm sút mỗi tháng
1.800.000 đồng nên bà B được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị giảm sút trong thời
gian điều trị.
Ví dụ 3:
Ông C là công chức có thu nhập hàng tháng ổn định là 1.700.000 đồng. Do sức
khoẻ bị xâm phạm, ông C phải điều trị và trong thời gian điều trị cơ quan vẫn trả đầy đủ
các khoản thu nhập cho ông C. Trường hợp này, thu nhập thực tế của ông C không bị mất
nên ông C không được bồi thường khoản tiền này.
Điều 7. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần


1. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong thời gian bị tạm giữ hành chính, bị đưa
vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh quy định tại khoản 1 Điều 47
của Luật được xác định như sau:
a) Một ngày lương tối thiểu được xác định bằng việc lấy mức lương tối
thiểu do Nhà nước quy định áp dụng cho công chức làm việc trong các cơ quan
hành chính nhà nước tại thời điểm giải quyết bồi thường chia cho 22 là số ngày
làm việc bình quân của mỗi tháng.
Ví dụ: Tại thời điểm ban hành Thông tư liên tịch này thì mức lương tối thiểu
chung do Nhà nước quy định là 730.000 đồng, do đó một ngày lương tối thiểu sẽ là:
730.000 đồng : 22 = 33.182 đồng.
b) Số ngày bị tạm giữ hành chính, bị đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo
dục, cơ sở chữa bệnh được xác định theo số ngày thực tế mà người được bồi
thường bị tạm giữ hành chính, bị đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ
sở chữa bệnh.
Ví dụ: Ông A bị đưa vào cơ sở chữa bệnh từ ngày 01/12/2010 và đến ngày
01/3/2011 thì được ra khỏi cơ sở chữa bệnh. Ngày 20/3/2011, cơ quan có thẩm quyền xác
định ông A không thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh. Trong
trường hợp này, thiệt hại do tổn thất về tinh thần mà ông A được bồi thường được xác
định như sau:
Số ngày thực tế bị đưa vào cơ sở chữa bệnh là: 31 ngày của tháng 12/2010 + 31
ngày của tháng 01/2011 + 28 ngày của tháng 02/2011 = 90 ngày.
Số ngày lương tính theo mức lương tối thiểu được bồi thường là:
Trang 6


90 ngày x 2 = 180 ngày.
Trong ví dụ này, số tiền mà ông A được Nhà nước bồi thường là:
180 ngày x 33.182 đồng = 5.972.760 đồng.
2. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong trường hợp người bị thiệt hại chết quy

định tại khoản 3 Điều 47 của Luật được xác định như sau:
a) Nếu người bị thiệt hại chết trong thời gian bị tạm giữ hành chính, bị đưa
vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh mà không phải do lỗi của
chính họ hoặc không do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết thì thân nhân của
họ được bồi thường thiệt hại do tổn thất về tinh thần một khoản tiền là ba trăm sáu
mươi tháng lương tính theo mức lương tối thiểu chung do Nhà nước quy định tại
thời điểm giải quyết bồi thường.
b) Nếu người bị tạm giữ hành chính, bị đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở
giáo dục, cơ sở chữa bệnh chết trong thời gian bị tạm giữ hành chính, bị đưa vào
trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh mà do lỗi của chính họ hoặc
do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết thì thân nhân của họ không được bồi
thường thiệt hại do tổn thất về tinh thần theo quy định tại khoản 3 Điều 47 của
Luật.
c) Khoản tiền bồi thường thiệt hại do tổn thất về tinh thần là khoản tiền bồi
thường chung cho thân nhân của người bị thiệt hại (vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha
nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người bị thiệt hại, người trực tiếp nuôi dưỡng
người bị thiệt hại). Những người được bồi thường trong trường hợp này phải còn
sống tại thời điểm người bị thiệt hại chết.
Điều 8. Thiệt hại về vật chất do người bị thiệt hại chết

1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước
khi chết quy định tại khoản 1 Điều 48 của Luật là chi phí thực tế cần thiết, phù hợp với
tính chất, mức độ của thiệt hại, phù hợp với giá trung bình ở từng địa phương tại thời
điểm chi, bao gồm: tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế;
tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế; chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu
âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện phí; tiền tiếp đạm,
tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ; các chi
phí thực tế, cần thiết khác trước khi người bị thiệt hại chết (nếu có).
2. Chi phí cho việc mai táng người bị thiệt hại chết quy định tại khoản 2 Điều 48
của Luật được xác định theo mức trợ cấp mai táng theo quy định của pháp luật bảo hiểm

xã hội.

Trang 7


3. Chỉ bồi thường khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại
đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng quy định tại khoản 3 Điều 48 của Luật nếu trước khi
bị tạm giữ hành chính, bị đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh mà người bị thiệt hại
đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nhưng trong thời gian tạm giữ hành chính, bị đưa vào
cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh bị chết. Những người đang được người bị thiệt hại cấp
dưỡng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng đó.
Điều 9. Thiệt hại về vật chất do bị tổn hại về sức khoẻ

1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng
bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều 49 của Luật bao
gồm: các chi phí được hướng dẫn tại khoản 1 Điều 8 Thông tư này và các chi phí cho
việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ
và các chi phí khác để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị
giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có).
Nếu cơ quan nhà nước đã thanh toán toàn bộ các chi phí này thì người bị thiệt hại
không được bồi thường; trường hợp cơ quan nhà nước đã thanh toán một phần các chi phí
này thì người bị thiệt hại được bồi thường phần chi phí còn lại.
2. Bồi thường chi phí hợp lý và thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người
bị thiệt hại theo quy định tại khoản 3 Điều 49 của Luật.
a) Người bị thiệt hại chỉ được bồi thường chi phí hợp lý và thu nhập thực tế
bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại nếu việc chăm sóc đó là cần thiết
hoặc do cơ sở y tế yêu cầu.
b) Các chi phí hợp lý của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian
điều trị bao gồm tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa
phương nơi thực hiện việc chi phí (nếu có).

c) Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời
gian điều trị được xác định theo quy định tại Điều 46 của Luật và theo hướng dẫn
tại khoản 2 Điều 6 Thông tư này.
3. Người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm
sóc là người không còn khả năng thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Chi
phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại mất khả năng lao động
quy định tại khoản 4 Điều 49 của Luật được tính bằng mức tiền công trung bình trả cho
người chăm sóc người tàn tật ở địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú.
2. Cơ quan có trách nhiệm bồi thường

Theo quy định tại điều 14 Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước thì cơ quan có trách
nhiệm bồi thường:
Trang 8


Điều 14. Cơ quan có trách nhiệm bồi thường

1. Cơ quan hành chính trực tiếp quản lý người thi hành công vụ có hành vi trái
pháp luật gây ra thiệt hại là cơ quan có trách nhiệm bồi thường.
2. Ngoài trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này thì cơ quan có trách nhiệm bồi
thường được xác định như sau:
a) Trường hợp cơ quan quản lý người thi hành công vụ đã được chia tách,
sáp nhập, hợp nhất hoặc bị giải thể thì cơ quan kế thừa chức năng, nhiệm vụ của
cơ quan đó là cơ quan có trách nhiệm bồi thường; trường hợp không có cơ quan
nào kế thừa chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đã bị giải thể thì cơ quan đã ra quyết
định giải thể là cơ quan có trách nhiệm bồi thường;
b) Trường hợp tại thời điểm thụ lý đơn yêu cầu bồi thường mà người thi
hành công vụ gây ra thiệt hại không còn làm việc tại cơ quan quản lý người đó thì
cơ quan có trách nhiệm bồi thường là cơ quan quản lý người thi hành công vụ tại
thời điểm gây ra thiệt hại;

c) Trường hợp có sự uỷ quyền hoặc uỷ thác thực hiện công vụ thì cơ quan
uỷ quyền hoặc cơ quan uỷ thác là cơ quan có trách nhiệm bồi thường; trường hợp
cơ quan được ủy quyền, cơ quan nhận ủy thác thực hiện không đúng nội dung ủy
quyền, ủy thác gây thiệt hại thì cơ quan này là cơ quan có trách nhiệm bồi thường;
d) Trường hợp có nhiều người thi hành công vụ thuộc nhiều cơ quan cùng
gây ra thiệt hại thì cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực chịu trách nhiệm chính trong
vụ việc là cơ quan có trách nhiệm bồi thường;
đ) Trường hợp có nhiều người thi hành công vụ thuộc cơ quan trung ương
và cơ quan địa phương cùng gây ra thiệt hại thì cơ quan trung ương là cơ quan có
trách nhiệm bồi thường
Điều 3 Nghị định 16/2010/NĐ-CP thì Cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong hoạt
động quản lý hành chính như sau:

Cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính quy định
tại khoản 1 Điều 14 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được xác định như sau:
+ Trong trường hợp người thi hành công vụ gây ra thiệt hại là cán bộ, công
chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thì cơ quan có trách
nhiệm bồi thường là Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, trừ trường
hợp quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định 16/2010/NĐ-CP.
+ Trong trường hợp người thi hành công vụ gây ra thiệt hại là công chức
của Tổng cục, Cục, các đơn vị khác có tư cách pháp nhân, có tài khoản riêng trực

Trang 9


thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thì các cơ quan này có
trách nhiệm bồi thường.
+ Trong trường hợp người thi hành công vụ gây ra thiệt hại là thành viên
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan có trách nhiệm
bồi thường, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 3 Nghị định 16/2010/NĐCP.

+ Trong trường hợp người thi hành công vụ gây ra thiệt hại do các cơ quan
chuyên môn trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định tại Nghị định
13/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 02 năm 2008 của Chính phủ quy định tổ chức các
cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương và các cơ quan khác trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trực tiếp quản lý
thì các cơ quan này có trách nhiệm bồi thường.
+ Trong trường hợp người thi hành công vụ gây ra thiệt hại là thành viên
Ủy ban nhân dân cấp huyện và người thi hành công vụ do các cơ quan chuyên
môn trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện trực tiếp quản lý thì cơ quan có trách
nhiệm bồi thường là Ủy ban nhân dân cấp huyện.
+ Trong trường hợp người thi hành công vụ gây ra thiệt hại là thành viên
Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc là cán bộ, công chức cấp xã thì Ủy ban nhân dân cấp
xã là cơ quan có trách nhiệm bồi thường.
+ Cơ quan nhà nước khác theo quyết định của cơ quan quản lý nhà nước về
công tác bồi thường có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định này.

III. Thủ tục giải quyết bồi thường
1. Thủ tục giải quyết bồi thường

Việc giải quyết yêu cầu bồi thường tại tòa án được thực hiện theo quy định tại
điều 15, 16, 17, 18, 19, 20 và điều 21 trong Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước
cụ thể như sau:
Điều 15. Yêu cầu xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ

1. Cá nhân, tổ chức khi cho rằng mình bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây
ra thì có quyền yêu cầu người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại xem xét, kết luận hành
vi trái pháp luật của người thi hành công vụ.

Trang 10



2. Trong thời hạn do pháp luật về khiếu nại, tố cáo quy định, người có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại phải xem xét, kết luận bằng văn bản về hành vi trái pháp luật hoặc
không trái pháp luật của người thi hành công vụ.
3. Thủ tục xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ được áp
dụng theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Trong quyết định giải quyết khiếu
nại phải xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra thiệt hại.
Điều 16. Hồ sơ yêu cầu bồi thường

1. Khi nhận được văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công
vụ thuộc các trường hợp quy định tại Điều 13 của Luật này thì người bị thiệt hại gửi đơn
yêu cầu bồi thường đến cơ quan có trách nhiệm bồi thường quy định tại Điều 14 của Luật
này.
2. Đơn yêu cầu bồi thường có các nội dung chính sau đây:
a) Tên, địa chỉ của người yêu cầu bồi thường;
b) Lý do yêu cầu bồi thường;
c) Thiệt hại và mức yêu cầu bồi thường.
3. Kèm theo đơn yêu cầu bồi thường phải có văn bản của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ và tài liệu, chứng
cứ có liên quan đến việc yêu cầu bồi thường.
Điều 17. Thụ lý đơn yêu cầu bồi thường

1. Khi nhận hồ sơ yêu cầu bồi thường, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải
kiểm tra và xác định tính hợp lệ của đơn và các giấy tờ kèm theo; trường hợp hồ sơ
không đầy đủ thì hướng dẫn người bị thiệt hại bổ sung
2. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn và các giấy tờ hợp
lệ, nếu xác định yêu cầu bồi thường thuộc trách nhiệm giải quyết của mình thì cơ quan đã
nhận hồ sơ phải thụ lý và thông báo bằng văn bản về việc thụ lý đơn cho người bị thiệt
hại; trường hợp yêu cầu bồi thường không thuộc trách nhiệm giải quyết của mình thì cơ
quan đã tiếp nhận hồ sơ phải trả lại hồ sơ và hướng dẫn người bị thiệt hại gửi đơn đến cơ

quan có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết bồi thường.
Điều 18. Xác minh thiệt hại

1. Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu bồi thường, cơ quan có
trách nhiệm bồi thường phải hoàn thành việc xác minh thiệt hại để làm căn cứ xác định
mức bồi thường; trường hợp vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải xác minh tại
nhiều địa điểm thì thời hạn xác minh thiệt hại có thể kéo dài nhưng không quá 40 ngày.

Trang 11


2. Căn cứ vào tính chất, nội dung của vụ việc, cơ quan có trách nhiệm bồi thường
có thể tổ chức việc định giá tài sản, giám định thiệt hại về tài sản, giám định thiệt hại về
sức khoẻ hoặc lấy ý kiến của các cơ quan có liên quan về việc giải quyết bồi thường. Chi
phí định giá, giám định được bảo đảm từ ngân sách nhà nước.
3. Trường hợp người bị thiệt hại không đồng ý với kết quả định giá, giám định mà
yêu cầu định giá, giám định lại và được cơ quan có trách nhiệm bồi thường đồng ý thì chi
phí định giá, giám định lại do người bị thiệt hại chi trả, trừ trường hợp kết quả định giá,
giám định chứng minh yêu cầu định giá, giám định lại là có căn cứ.
Điều 19. Thương lượng việc bồi thường

1. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày kết thúc việc xác minh thiệt hại, cơ quan có
trách nhiệm bồi thường phải tổ chức và chủ trì thương lượng với người bị thiệt hại về
việc giải quyết bồi thường; trường hợp vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp thì thời hạn
thương lượng có thể kéo dài nhưng không quá 45 ngày.
2. Thành phần thương lượng gồm đại diện cơ quan có trách nhiệm bồi thường và
người bị thiệt hại hoặc đại diện hợp pháp của họ. Trong trường hợp cần thiết, người thi
hành công vụ gây ra thiệt hại được mời tham gia vào việc thương lượng.
Đại diện của cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải là người có thẩm quyền để
thỏa thuận việc bồi thường với người bị thiệt hại và chịu trách nhiệm trước cơ quan có

trách nhiệm bồi thường.
3. Địa điểm thương lượng là trụ sở của cơ quan có trách nhiệm bồi thường hoặc
trụ sở của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người bị thiệt hại cư trú, trừ trường
hợp các bên có thỏa thuận khác.
4. Việc thương lượng phải lập thành biên bản. Biên bản thương lượng phải ghi rõ
những nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm tiến hành thương lượng;
b) Địa điểm thương lượng, thành phần tham gia thương lượng;
c) Ý kiến của các bên tham gia thương lượng;
d) Những nội dung thương lượng thành hoặc không thành.
Biên bản thương lượng phải có chữ ký của các bên và được gửi cho người bị thiệt
hại một bản ngay sau khi kết thúc thương lượng.
5. Kết quả thương lượng là cơ sở để quyết định việc bồi thường.
Điều 20. Quyết định giải quyết bồi thường

Trang 12


1. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày kết thúc việc thương lượng, cơ quan có trách
nhiệm bồi thường phải ra quyết định giải quyết bồi thường. Quyết định giải quyết bồi
thường phải có các nội dung chính sau đây:
a) Tên, địa chỉ của người yêu cầu bồi thường;
b) Tóm tắt lý do yêu cầu bồi thường;
c) Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường;
d) Mức bồi thường;
đ) Quyền khởi kiện tại Toà án trong trường hợp không tán thành với quyết
định giải quyết bồi thường;
e) Hiệu lực của quyết định giải quyết bồi thường.
2. Quyết định giải quyết bồi thường phải được gửi cho người bị thiệt hại, cơ quan
cấp trên trực tiếp của cơ quan có trách nhiệm bồi thường và người thi hành công vụ gây

ra thiệt hại.
Điều 21. Hiệu lực của quyết định giải quyết bồi thường

Quyết định giải quyết bồi thường có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày người bị
thiệt hại nhận được quyết định, trừ trường hợp người bị thiệt hại không đồng ý và khởi
kiện ra Toà án.
Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định người bị thiệt hại phải thực
hiện việc yêu cầu cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ có hành vi trái pháp
luật gây thiệt hại giải quyết bồi thường trước khi khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bồi
thường. Thủ tục giải quyết bồi thường gồm các giai đoạn:
Thứ nhất, giai đoạn yêu cầu xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành
công vụ:
Sau khi nhận được văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành
công vụ, người bị thiệt hại lập hồ sơ yêu cầu cơ quan có trách nhiệm bồi thường bồi
thường cho người bị thiệt hại (Điều 15 Luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà
nước năm 2009).
Thứ hai, giai đoạn lập hồ sơ yêu cầu bồi thường:
Đơn yêu cầu bồi thường gồm có các nội dung chính sau đây: tên, địa chỉ của
người yêu cầu bồi thường; lý do yêu cầu bồi thường; thiệt hại và mức yêu cầu bồi
thường. Kèm theo đơn yêu cầu bồi thường phải có văn bản của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ và tài liệu, chứng
cứ có liên quan đến việc yêu cầu bồi thường(Điều 16).
Trang 13


Thứ ba, giai đoạn thụ lý đơn yêu cầu bồi thường:
Khi nhận hồ sơ yêu cầu bồi thường, trong thời hạn 05 ngày cơ quan có trách
nhiệm bồi thường phải kiểm tra và xác định tính hợp lệ của đơn và các giấy tờ kèm theo.
Nếu xác định yêu cầu bồi thường thuộc trách nhiệm giải quyết của mình thì cơ quan đã
nhận hồ sơ phải thụ lý và thông báo bằng văn bản về việc thụ lý đơn cho người bị thiệt

hại. Trường hợp hồ sơ không đầy đủ thì người có trách nhiệm hướng dẫn người bị thiệt
hại bổ sung vào hồ sơ hoặc không thuộc thẩm quyền của mình thìn hướng dẫn người bị
thiệt hại gửi đơn đến cơ qua có thẩm quyền (Điều 17).
Thứ tư, giai đoạn xác minh thiệt hại:
Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu bồi thường, cơ quan có
trách nhiệm bồi thường phải hoàn thành việc xác minh thiệt hại để làm căn cứ xác định
mức bồi thường; trường hợp vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải xác minh tại
nhiều địa điểm thì thời hạn xác minh thiệt hại có thể kéo dài nhưng không quá 40 ngày.
Căn cứ vào tính chất, nội dung của vụ việc, cơ quan có trách nhiệm bồi thường có
thể tổ chức việc định giá tài sản, giám định thiệt hại về tài sản, giám định thiệt hại về sức
khoẻ hoặc lấy ý kiến của các cơ quan có liên quan về việc giải quyết bồi thường. Chi phí
định giá, giám định được bảo đảm từ ngân sách nhà nước.
Trường hợp người bị thiệt hại không đồng ý với kết quả định giá, giám định mà
yêu cầu định giá, giám định lại và được cơ quan có trách nhiệm bồi thường đồng ý thì chi
phí định giá, giám định lại do người bị thiệt hại chi trả, trừ trường hợp kết quả định giá,
giám định chứng minh yêu cầu định giá, giám định lại là có căn cứ (Điều 18).
Thứ năm, giai đoạn thương lượng việc bồi thường:
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày kết thúc việc xác minh thiệt hại, cơ quan có
trách nhiệm bồi thường phải tổ chức và chủ trì thương lượng với người bị thiệt hại về
việc giải quyết bồi thường; trường hợp vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp thì thời hạn
thương lượng có thể kéo dài nhưng không quá 45 ngày.
Thành phần thương lượng gồm đại diện cơ quan có trách nhiệm bồi thường và
người bị thiệt hại hoặc đại diện hợp pháp của họ. Trong trường hợp cần thiết, người thi
hành công vụ gây ra thiệt hại được mời tham gia vào việc thương lượng.
Đại diện của cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải là người có thẩm quyền để
thỏa thuận việc bồi thường với người bị thiệt hại và chịu trách nhiệm trước cơ quan có
trách nhiệm bồi thường.
Địa điểm thương lượng là trụ sở của cơ quan có trách nhiệm bồi thường hoặc trụ
sở của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người bị thiệt hại cư trú, trừ trường hợp
các bên có thỏa thuận khác.

Trang 14


Việc thương lượng phải lập thành biên bản. Biên bản thương lượng phải có chữ ký
của các bên và được gửi cho người bị thiệt hại một bản ngay sau khi kết thúc thương
lượng.
Một điểm cần lưu ý là trong bất cứ trường hợp nào (có thương lượng thành hoặc
không thành) thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường vẫn ra quyết định giải quyết bồi
thường.
Thứ sáu, giai đoạn cơ quan có trách nhiệm bồi thường ra quyết định giải quyết bồi
thường:
Trường hợp người bị thiệt hại đồng ý với quyết định giải quyết bồi thường và
không khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ
ngày kết thúc việc thương lượng, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải ra quyết định
giải quyết bồi thường. Quyết định giải quyết bồi thường phải được gửi cho người bị thiệt
hại, cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan có trách nhiệm bồi thường và người thi hành
công vụ gây ra thiệt hại.
Quyết định giải quyết bồi thường có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày người bị
thiệt hại nhận được quyết định, trừ trường hợp người bị thiệt hại không đồng ý và khởi
kiện ra Toà án.
Trường hợp người bị thiệt hại không đồng ý với quyết định giải quyết bồi thường
thì trong thời hạn 15 ngày trước khi quyết định giải quyết bồi thường có hiệu lực, người
bị thiệt hại có quyền khởi kiện ra Tòa án yêu cầu giải quyết bồi thường.
Lưu ý, trong trường hợp quyết định giải quyết bồi thường đã có hiệu lực pháp luật
thì người bị thiệt hại không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường.

2. Giải quyết yêu cầu bồi thường tại tòa án

Việc giải quyết yêu cầu bồi thường tại tòa án được thực hiện theo quy định tại điều
22, điều 23 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước:

Điều 22. Khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường

1. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày hết thời hạn ra quyết định giải quyết bồi
thường quy định tại Điều 20 của Luật này mà cơ quan có trách nhiệm bồi thường không
ra quyết định hoặc kể từ ngày người bị thiệt hại nhận được quyết định nhưng không đồng
ý thì người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ra Toà án có thẩm quyền theo quy định tại
Điều 23 của Luật này để yêu cầu giải quyết bồi thường.
Trường hợp người bị thiệt hại chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự
kiện bất khả kháng mà không thể khởi kiện đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách
Trang 15


quan hoặc sự kiện bất khả kháng không được tính vào thời hạn khởi kiện quy định tại
khoản này.
2. Người bị thiệt hại không có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết bồi
thường trong trường hợp quyết định giải quyết bồi thường đã có hiệu lực pháp luật.
Điều 23. Thẩm quyền và thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại Tòa án

1. Toà án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu bồi thường là Toà án nhân dân cấp
huyện nơi cá nhân bị thiệt hại cư trú, làm việc, nơi tổ chức bị thiệt hại đặt trụ sở, nơi thiệt
hại xảy ra theo sự lựa chọn của người bị thiệt hại hoặc trường hợp khác theo quy định của
pháp luật về tố tụng dân sự.
2. Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại Toà án được thực hiện theo quy định
của pháp luật về tố tụng dân sự.
3. Giải quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình giải quyết vụ án hành chính

Việc giải quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình giải quyết vụ án hành chính
được thực hiện theo quy định tại điều 24, điều 25 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà
nước:
Điều 24. Yêu cầu bồi thường trong quá trình khởi kiện vụ án hành chính


1. Trong quá trình khởi kiện vụ án hành chính mà người khởi kiện cho rằng, hành
vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra thiệt hại thì có quyền yêu cầu Tòa án
có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính thực hiện việc giải quyết bồi thường. Trong
trường hợp này, đơn khởi kiện còn phải có các nội dung sau đây:
a) Yêu cầu xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ;
b) Nội dung yêu cầu bồi thường;
c) Thiệt hại và mức yêu cầu bồi thường;
d) Tài liệu, chứng cứ có liên quan đến yêu cầu bồi thường.
2. Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình giải quyết vụ án hành
chính được áp dụng theo quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính.
Điều 25. Nội dung giải quyết yêu cầu bồi thường trong bản án, quyết định của Tòa án

1. Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính nếu có yêu cầu bồi thường thì bản
án, quyết định của Tòa án còn phải có các nội dung sau đây:
a) Tóm tắt lý do yêu cầu bồi thường;
b) Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường;
Trang 16


c) Mức bồi thường;
d) Hình thức bồi thường.
2. Việc xác định trách nhiệm bồi thường và mức bồi thường được thực hiện theo
quy định của Luật này.
IV. Trách

nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ

Trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ được thực hiện theo qui định của

Số: 04/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Thông tư liên tịch Hướng dẫn thực hiện trách
nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ cụ thể:
1. Trình tự, thủ tục xem xét trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ

Điều 6. Thành lập Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công
vụ

1. Ngay sau khi thực hiện xong việc chi trả tiền bồi thường, Thủ trưởng cơ quan có
trách nhiệm bồi thường phải ra Quyết định thành lập Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn
trả để xác định trách nhiệm hoàn trả, mức hoàn trả đối với người thi hành công vụ đã gây
ra thiệt hại theo quy định tại Khoản 1 Điều 58 Luật TNBTCNN và Khoản 1 Điều 13 Nghị
định số 16/2010/NĐ-CP.
2. Thành phần Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả bao gồm các cá nhân quy
định tại Khoản 2 Điều 13 Nghị định số 16/2010/NĐ-CP.
Trường hợp cơ quan quản lý người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại không có
cấp quản lý trực tiếp thì cơ quan đó có trách nhiệm cử đại diện lãnh đạo tham gia Hội
đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả.
Trường hợp để đánh giá, xác định mức độ lỗi của người có trách nhiệm hoàn trả
làm căn cứ xác định mức hoàn trả, thì thành phần Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả
phải có thành viên là chuyên gia pháp lý chuyên ngành phù hợp với lĩnh vực công tác liên
quan đến hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại.
3. Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của
mình theo quy định tại Điều 14 Nghị định số 16/2010/NĐ-CP.
4. Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả làm việc theo phương thức quy định tại
Điều 15 Nghị định số 16/2010/NĐ-CP.
Điều 7. Xác định lỗi của người thi hành công vụ làm căn cứ xác định mức hoàn trả

1. Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả xác định lỗi của người thi hành công vụ
trên cơ sở nội dung văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi của
người thi hành công vụ là trái pháp luật hoặc văn bản của cơ quan tiến hành tố tụng có

Trang 17


thẩm quyền xác định người bị thiệt hại thuộc trường hợp được bồi thường theo quy định
tại Điều 26 Luật TNBTCNN.
Trong trường hợp các văn bản quy định tại khoản 1 Điều này chưa xác định lỗi
của người thi hành công vụ thì Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả căn cứ vào các tài
liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp và các tình tiết của vụ việc để xác định lỗi của
người có trách nhiệm hoàn trả trên cơ sở áp dụng quy định của pháp luật dân sự và quy
định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 3 TTLT này.
2. Việc kiến nghị về việc xác định lỗi của người có trách nhiệm hoàn trả được thực
hiện bằng hình thức bỏ phiếu kín và theo nguyên tắc đa số trên tổng số thành viên Hội
đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả có mặt.
Trường hợp số phiếu biểu quyết là ngang nhau thì việc xác định lỗi của người thi
hành công vụ sẽ do Chủ tịch Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả quyết định.
Điều 8. Xác định mức hoàn trả của người thi hành công vụ

1. Nguyên tắc xác định mức hoàn trả
a) Việc xác định mức hoàn trả của người thi hành công vụ được thực hiện theo quy
định tại Điều 16 và Điều 18 Nghị định số 16/2010/NĐ-CP;
b) Mức hoàn trả của người thi hành công vụ được xác định tối đa không vượt quá
số tiền thực tế mà Nhà nước đã chi trả cho người bị thiệt hại.
2. Xác định mức hoàn trả trong trường hợp người thi hành công vụ có lỗi vô ý gây
ra thiệt hại
a) Trường hợp số tiền bồi thường thực tế đã chi trả là dưới ba mươi (30) triệu đồng
thì mức hoàn trả được xác định là tối đa không quá một (01) tháng lương của người đó tại
thời điểm quyết định việc hoàn trả;
b) Trường hợp số tiền bồi thường thực tế đã chi trả từ ba mươi (30) triệu đồng đến
dưới một trăm (100) triệu đồng thì mức hoàn trả được xác định tối thiểu là một (01) tháng
lương và tối đa không quá hai (02) tháng lương của người đó tại thời điểm quyết định

việc hoàn trả;
c) Trường hợp số tiền bồi thường thực tế đã chi trả là trên một trăm (100) triệu
đồng thì mức hoàn trả được xác định tối thiểu là một (01) tháng lương và tối đa không
quá ba (03) tháng lương của người đó tại thời điểm quyết định việc hoàn trả.
3. Xác định mức hoàn trả trong trường hợp người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây
ra thiệt hại nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự

Trang 18


a) Trường hợp số tiền bồi thường thực tế đã chi trả là dưới một trăm (100) triệu
đồng thì mức hoàn trả được xác định tối thiểu là ba (03) tháng lương và tối đa không quá
mười hai (12) tháng lương của người đó tại thời điểm quyết định việc hoàn trả;
b) Trường hợp số tiền bồi thường thực tế đã chi trả là từ một trăm (100) triệu đồng
đến dưới năm trăm (500) triệu đồng thì mức hoàn trả được xác định tối thiểu là mười hai
(12) tháng lương và tối đa không quá hai mươi bốn (24) tháng lương của người đó tại
thời điểm quyết định việc hoàn trả;
c) Trường hợp số tiền bồi thường thực tế đã chi trả là trên năm trăm (500) triệu
đồng thì mức hoàn trả được xác định tối thiểu là hai mươi bốn (24) tháng lương và tối đa
không quá ba mươi sáu (36) tháng lương của người đó tại thời điểm quyết định việc hoàn
trả.
4. Lương của người có trách nhiệm hoàn trả theo quy định tại Khoản 2 và Khoản 3
của Điều này bao gồm lương của người đó ở thời điểm được xác định trong Quyết định
hoàn trả và các loại phụ cấp khác (nếu có) theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã
hội.
Điều 9. Ban hành Quyết định hoàn trả

1. Thời hạn, thẩm quyền ban hành Quyết định hoàn trả và việc gửi Quyết định
hoàn trả được thực hiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 58 Luật TNBTCNN.
Trường hợp cơ quan có trách nhiệm bồi thường là cơ quan thuộc trường hợp quy

định tại Điểm d và Điểm đ Khoản 2 Điều 14 Luật TNBTCNN và người thi hành công vụ
có trách nhiệm hoàn trả không do cơ quan này trực tiếp quản lý thì cơ quan có trách
nhiệm bồi thường phải gửi Quyết định hoàn trả tới cơ quan trực tiếp quản lý người đó và
cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan đó.
2. Thủ tục ban hành và trách nhiệm của người có thẩm quyền ban hành Quyết định
hoàn trả thực hiện theo quy định tại Điều 17 Nghị định số 16/2010/NĐ-CP.
Điều 10. Thực hiện việc hoàn trả

1. Việc hoàn trả được thực hiện theo quy định tại Điều 62 Luật TNBTCNN.
Trường hợp để xác định việc hoàn trả được thực hiện một lần hoặc nhiều lần, Hội
đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả căn cứ vào điều kiện kinh tế, thu nhập thực tế, số
lượng đối tượng thuộc phạm vi giảm trừ gia cảnh theo quy định của pháp luật về thuế thu
nhập cá nhân của người có trách nhiệm hoàn trả đã gây ra thiệt hại để xem xét, quyết
định phương thức hoàn trả.
Trong trường hợp cần thiết, Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả có thể mời
người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại tham dự cuộc họp của Hội đồng xem xét trách
nhiệm hoàn trả.
Trang 19


2. Trường hợp người thi hành công vụ thực hiện hoàn trả một lần thì trong thời
hạn 30 ngày, kể từ ngày Quyết định hoàn trả có hiệu lực pháp luật, người có trách nhiệm
hoàn trả phải trả đủ số tiền đã được xác định trong Quyết định hoàn trả.
3. Trường hợp thực hiện hoàn trả nhiều lần thì người có trách nhiệm hoàn trả số
tiền theo mức và thời hạn đã được xác định trong Quyết định hoàn trả.
Điều 11. Trách nhiệm thông báo về việc thực hiện trách nhiệm hoàn trả

1. Sau khi Quyết định hoàn trả có hiệu lực pháp luật, cơ quan có trách nhiệm bồi
thường có trách nhiệm thông báo việc thực hiện trách nhiệm hoàn trả cho người có trách
nhiệm hoàn trả.

Việc thông báo được thực hiện tối đa không quá ba lần, thời gian giữa các lần
thông báo tối đa không quá 30 ngày.
2. Việc thông báo phải được thực hiện bằng văn bản hoặc trực tiếp thông báo cho
người thi hành công vụ có trách nhiệm hoàn trả.
Trường hợp việc thông báo được thực hiện trực tiếp tới người có trách nhiệm hoàn
trả thì việc thông báo phải được lập thành biên bản có chữ ký của người thi hành công vụ
có trách nhiệm hoàn trả và người thông báo.
Điều 12. Thu, nộp tiền hoàn trả

1. Việc thu, nộp tiền hoàn trả được thực hiện theo quy định tại Điều 63 Luật
TNBTCNN, Điều 19 Nghị định số 16/2010/NĐ-CP và Điều 9 Thông tư liên tịch số
71/2012/TTLT-BTC-BTP ngày 09/5/2012 của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp quy định việc
lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí thực hiện trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước (sau đây viết tắt là Thông tư liên tịch số 71/2012/TTLT-BTC-BTP).
2. Việc thu, nộp có thể được thực hiện bằng các hình thức sau đây:
a) Nộp bằng tiền mặt.
Trường hợp người thi hành công vụ có trách nhiệm hoàn trả nộp tiền hoàn trả bằng
tiền mặt thì nộp tiền cho người phụ trách công tác tài chính - kế toán tại cơ quan có trách
nhiệm bồi thường.
b) Chuyển tiền vào tài khoản tại Kho bạc của cơ quan có trách nhiệm bồi thường.
Trường hợp người có trách nhiệm hoàn trả nộp tiền hoàn trả bằng hình thức
chuyển tiền vào tài khoản tại Kho bạc của cơ quan có trách nhiệm bồi thường thì người
phụ trách công tác tài chính - kế toán của cơ quan có trách nhiệm bồi thường có trách
nhiệm thông báo số tài khoản tại Kho bạc của cơ quan có trách nhiệm bồi thường cho
người có trách nhiệm hoàn trả để thực hiện.
Trang 20


3. Đối với trường hợp việc hoàn trả được thực hiện bằng cách trừ dần vào lương
hàng tháng của người thi hành công vụ có trách nhiệm hoàn trả thì việc thu, nộp tiền hoàn

trả được thực hiện theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 9 Thông tư liên tịch số
71/2012/TTLT-BTC-BTP.
Điều 13. Trách nhiệm báo cáo việc xem xét trách nhiệm hoàn trả

1. Trong quá trình thực hiện việc xem xét trách nhiệm hoàn trả, cơ quan có trách
nhiệm bồi thường phải báo cáo cho cơ quan nhà nước cấp trên trực tiếp về các nội dung
sau đây:
a) Việc thành lập Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả;
b) Mức hoàn trả và phương thức hoàn trả;
c) Thu số tiền hoàn trả vào ngân sách nhà nước;
d) Việc khiếu nại hoặc khởi kiện Quyết định hoàn trả (nếu có).
Kèm theo báo cáo phải có bản sao các tài liệu có liên quan đến việc xem xét trách
nhiệm hoàn trả.
2. Trường hợp cơ quan có trách nhiệm bồi thường là Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau
đây viết tắt là UBND cấp tỉnh) thì báo cáo về việc xem xét trách nhiệm hoàn trả theo quy
định tại Khoản 1 Điều này được gửi cho Bộ Tư pháp.
3. Cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong hoạt động tố tụng phải báo cáo việc
xem xét trách nhiệm hoàn trả tới cơ quan cấp trên trực tiếp và cơ quan tiến hành tố tụng
trung ương.
4. Ngoài các nhiệm vụ quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều này, theo yêu cầu
của cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường có thẩm quyền, cơ quan có trách
nhiệm bồi thường phải kịp thời báo cáo về việc xem xét trách nhiệm hoàn trả để phục vụ
hoạt động quản lý nhà nước về công tác bồi thường.
Điều 14. Thực hiện theo dõi hoạt động xem xét trách nhiệm hoàn trả

1. Bộ Tư pháp theo dõi hoạt động xem xét trách nhiệm hoàn trả trong hoạt động
quản lý hành chính và thi hành án trên phạm vi cả nước.
2. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo dõi hoạt động xem
xét trách nhiệm hoàn trả trong phạm vi ngành mình.

3. Tổ chức pháp chế (đối với các Bộ), Cục Bồi thường nhà nước, Tổng cục Thi
hành án dân sự (đối với Bộ Tư pháp) tham mưu, giúp Bộ theo dõi hoạt động xem xét
trách nhiệm hoàn trả thuộc phạm vi quản lý của Bộ.
Trang 21


4. Sở Tư pháp tham mưu, giúp UBND cấp tỉnh theo dõi hoạt động xem xét trách
nhiệm hoàn trả trong hoạt động quản lý hành chính trong phạm vi của địa phương.
5. Phòng Tư pháp tham mưu, giúp UBND cấp huyện theo dõi hoạt động xem xét
trách nhiệm hoàn trả trong hoạt động quản lý hành chính trong phạm vi của địa phương.
Điều 15. Đôn đốc thực hiện việc xem xét trách nhiệm hoàn trả

1. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ đôn đốc hoạt động xem xét trách nhiệm hoàn trả
thuộc phạm vi do mình quản lý.
Tổ chức pháp chế (đối với các Bộ), Cục Bồi thường nhà nước, Tổng cục Thi hành
án dân sự (đối với Bộ Tư pháp) tham mưu, giúp Bộ thực hiện nhiệm vụ quy định tại
khoản này.
2. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đôn đốc hoạt động xem
xét trách nhiệm hoàn trả thuộc phạm vi do mình quản lý.
3. UBND cấp tỉnh đôn đốc hoạt động xem xét trách nhiệm hoàn trả trong hoạt
động quản lý hành chính thuộc phạm vi do mình quản lý đối với các cơ quan sau đây:
a) Cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh;
b) UBND cấp huyện.
Sở Tư pháp tham mưu, giúp UBND cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ quy định tại
Khoản này.
4. UBND cấp huyện thực hiện đôn đốc hoạt động xem xét trách nhiệm hoàn trả
trong hoạt động quản lý hành chính thuộc trách nhiệm của UBND cấp xã.
Phòng Tư pháp tham mưu, giúp UBND cấp huyện thực hiện nhiệm vụ quy định tại
Khoản này.
2. Trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ trong một số trường hợp


cụ thể
Điều 16. Trách nhiệm hoàn trả trong trường hợp người có trách nhiệm hoàn trả đã
nghỉ hưu

1. Trường hợp người có trách nhiệm hoàn trả là cán bộ, công chức đã nghỉ hưu thì
việc xem xét trách nhiệm hoàn trả của họ được thực hiện theo các quy định từ Điều 6 đến
Điều 11 Thông tư liên tịch này.
2. Trường hợp người có trách nhiệm hoàn trả đã được cơ quan có trách nhiệm bồi
thường thông báo đến lần thứ ba về việc hoàn trả mà cố ý không thực hiện nghĩa vụ hoàn
trả thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường phối hợp với cơ quan bảo hiểm xã hội đang trả
lương hưu cho người có trách nhiệm hoàn trả thu hồi số tiền hoàn trả bằng việc trừ dần
Trang 22


vào lương hưu hàng tháng theo mức từ mười (10) đến ba mươi (30) phần trăm lương hưu
hàng tháng của người có trách nhiệm hoàn trả.
Điều 17. Trách nhiệm hoàn trả trong trường hợp người có trách nhiệm hoàn trả đã
chuyển công tác sang cơ quan khác trong bộ máy nhà nước

1. Trường hợp người có trách nhiệm hoàn trả đã chuyển công tác đến cơ quan
khác trong bộ máy nhà nước thì việc xem xét trách nhiệm hoàn trả của người đó được
thực hiện theo quy định từ các Điều 6 đến Điều 11 Thông tư liên tịch này.
2. Trường hợp người có trách nhiệm hoàn trả đã được cơ quan có trách nhiệm bồi
thường thông báo đến lần thứ ba về việc hoàn trả mà cố ý không thực hiện nghĩa vụ hoàn
trả thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường phối hợp với cơ quan nhà nước đang quản lý
người đó thu hồi số tiền hoàn trả bằng việc trừ dần vào lương hàng tháng theo mức từ
mười (10) đến ba mươi (30) phần trăm lương hàng tháng của người có trách nhiệm hoàn
trả.
Điều 18. Trách nhiệm hoàn trả trong trường hợp người có trách nhiệm hoàn trả

không còn làm việc trong các cơ quan nhà nước

Trường hợp người có trách nhiệm hoàn trả không còn làm việc trong các cơ quan
nhà nước thì việc xem xét trách nhiệm hoàn trả được thực hiện như sau:
1. Trường hợp người có trách nhiệm hoàn trả đang làm việc tại doanh nghiệp hoặc
tổ chức khác
a) Việc xem xét trách nhiệm hoàn trả của người có trách nhiệm hoàn trả
đang làm việc tại doanh nghiệp hoặc tổ chức khác được thực hiện theo quy định từ
Điều 6 đến Điều 11 Thông tư liên tịch này;
b) Ngay sau khi ban hành Quyết định hoàn trả, cơ quan đã ra Quyết định
hoàn trả có trách nhiệm gửi Quyết định này đến người có trách nhiệm hoàn trả.
Người có trách nhiệm hoàn trả có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ hoàn trả theo
mức và phương thức được xác định tại Quyết định hoàn trả trong trường hợp
Quyết định hoàn trả đã có hiệu lực pháp luật theo quy định tại Khoản 1 Điều 61
Luật TNBTCNN;
c) Trường hợp người có trách nhiệm hoàn trả đã được cơ quan có trách
nhiệm bồi thường thông báo đến lần thứ ba về việc hoàn trả mà cố ý không thực
hiện nghĩa vụ hoàn trả thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường phối hợp với doanh
nghiệp hoặc tổ chức nơi người đó đang làm việc thu hồi số tiền hoàn trả bằng việc
trừ dần vào lương hàng tháng theo mức từ mười (10) đến ba mươi (30) phần trăm
lương hàng tháng của người có trách nhiệm hoàn trả.

Trang 23


2. Trường hợp người có trách nhiệm hoàn trả không làm việc cho tổ chức hay
doanh nghiệp
a) Việc xem xét trách nhiệm hoàn trả của người có trách nhiệm hoàn trả
trong trường hợp này được thực hiện theo quy định từ Điều 6 đến Điều 10 Thông
tư liên tịch này;

b) Ngay sau khi ban hành Quyết định hoàn trả, cơ quan đã ra Quyết định
hoàn trả có trách nhiệm gửi Quyết định này đến người thi hành công vụ có trách
nhiệm hoàn trả. Người có trách nhiệm hoàn trả có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ
hoàn trả theo mức và phương thức được xác định tại Quyết định hoàn trả trong
trường hợp Quyết định hoàn trả đã có hiệu lực pháp luật theo quy định tại Khoản 1
Điều 61 Luật TNBTCNN.
Điều 19. Trách nhiệm hoàn trả trong trường hợp người có trách nhiệm hoàn trả chết

1. Trường hợp Quyết định hoàn trả được ban hành trước khi người có trách nhiệm
hoàn trả chết và người có trách nhiệm hoàn trả có tài sản thừa kế và người thừa kế, thì
những người thừa kế di sản của người đó phải thực hiện nghĩa vụ hoàn trả theo quy định
của pháp luật thừa kế.
Trường hợp người có trách nhiệm hoàn trả chết mà không có di sản thì cơ quan có
trách nhiệm bồi thường có trách nhiệm xác minh, lập thành văn bản và có xác nhận của
chính quyền địa phương nơi người đó cư trú khi còn sống về việc người đó không có di
sản.
Ngay sau khi hoàn thành việc xác minh, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải
ra quyết định miễn thực hiện trách nhiệm hoàn trả. Trong thời hạn ba (03) ngày làm việc
kể từ ngày ra quyết định miễn thực hiện trách nhiệm hoàn trả, cơ quan có trách nhiệm bồi
thường phải báo cáo bằng văn bản và gửi kèm theo quyết định miễn thực hiện trách
nhiệm hoàn trả tới cơ quan cấp trên trực tiếp và cơ quan tài chính có thẩm quyền.
2. Trường hợp người có trách nhiệm hoàn trả chết trước khi cơ quan có trách
nhiệm bồi thường ban hành Quyết định hoàn trả thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường
không xem xét trách nhiệm hoàn trả đối với người đó.
Điều 20. Quyền khởi kiện người có trách nhiệm hoàn trả thực hiện nghĩa vụ hoàn trả

Trường hợp cơ quan có trách nhiệm bồi thường đã tiến hành các biện pháp cần
thiết theo quy định của pháp luật mà vẫn không thu hồi được số tiền hoàn trả của người
có trách nhiệm hoàn trả thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường có quyền khởi kiện người
đó yêu cầu thực hiện nghĩa vụ hoàn trả theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự tại

Tòa án.

Trang 24


Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước
2. Nghị định số 16/2010/NĐ-CP Qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số

của điều luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước
3. Thông tư liên tịch số 19/2010/TTLT-BTP-BTC-TTCP ngày 26/11/2010 (TTLT

số 19/2010) hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong
hoạt động quản lý hành chính
4. Thông tư liên tịch số 71/2012/TTLT-BTC-BTP Quy định việc lập dự toán,
quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí
thực hiện trách nhiệm bồi thường của nhà nước
5. Thông tư số 04/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Thông tư liên tịch
Hướng dẫn thực hiện trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ

Trang 25


×