Tải bản đầy đủ (.pdf) (199 trang)

Quản lý bồi dưỡng cán bộ quản lý trường mầm non tỉnh hải dương theo chuẩn hiệu trưởng trong bối cảnh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.96 MB, 199 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục Mầm non là một cấp học quan trọng trong hệ thống giáo dục
quốc dân thực hiện nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ bắt đầu từ 3
tháng tuổi đến 6 tuổi nhằm giúp trẻ phát triển về thể chất, nhận thức, ngôn ngữ,
thẩm mĩ và tình cảm, kĩ năng xã hội, hình thành nhân cách đầu tiên, chuẩn bị cho
trẻ 6 tuổi vào lớp 1. Luật giáo dục đã khẳng định: "Giáo dục Mầm non có nhà trẻ
và mẫu giáo là bộ phận trong hệ thống giáo dục quốc dân của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam" (Điều 6); Giáo dục Mầm non thực hiện việc nuôi
dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi" (Điều 18); mục tiêu
của giáo dục mầm non là phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, hình
thành yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 (Điều 19). Bác
Hồ đã khẳng định: "Mẫu giáo tốt là mở đầu cho một nền giáo dục tốt" [28]. Từ
ngàn xưa cha ông ta đã đúc rút kinh nghiệm và nhấn mạnh tầm quan trọng của
vấn đề giáo dục trẻ ở tuổi ấu nhi:
"Giáo phụ sơ lai. Giáo tử anh hài"
(Dạy con từ thủa còn thơ, dạy vợ từ thủa bơ vơ mới về)
Nhà giáo dục nổi tiếng Italia, bà Maria Montessori đã từng nói: "Nếu sự
cứu rỗi con người thì điều đó phải bắt đầu từ đứa trẻ, bởi vì đứa trẻ là kẻ sáng tạo
hương hồn nhân loại [84, tr.40]. Các nghiên cứu về lý luận và thực tiễn cũng đã
khẳng định lứa tuổi mầm non là giai đoạn đầu của cuộc sống, các nhà nghiên cứu
cho rằng: "Phi giáo dục mầm non thì bất thành nhân cách". Những nghiên cứu
gần đây về sinh học, nghiên cứu sự tác động của giáo dục đối với lứa tuổi này lại
càng khẳng định vị trí, vai trò của Giáo dục Mầm non là hết sức quan trọng trong
chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc gia.
Trong bối cảnh hiện nay, Giáo dục Mầm non có nhiều sự đổi thay, bắt đầu
từ Quyết định số 161/2002/QĐ-TTg về chế độ chính sách cho Giáo dục Mầm
non. Quyết định này như một luồng gió mới đưa Giáo dục Mầm non bước sang
một thời kì mới. Tiếp theo, chương trình giáo dục mầm non được ban hành năm
2009 đánh dấu sự thay đổi có chiều sâu về chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ.
1




Năm 2010 đề án phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi được Bộ Giáo dục
và Đào tạo chỉ đạo lại càng khẳng định vị trí vững chắc của Giáo dục Mầm non
trong hệ thống giáo dục quốc dân cũng như sự quan tâm của Đảng và Nhà nước
dành cho cấp học này. Vì vậy, đầu tư cho lĩnh vực dinh dưỡng, sức khoẻ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em chính là đầu tư lâu dài và ngay từ đầu cho sự phát triển
kinh tế, xã hội trong tương lai và lực lượng có vai trò quan trọng, then chốt
không ai khác chính là đội ngũ cán bộ quản lý mầm non. Hay nói cách khác, sự
thành công của Giáo dục Mầm non phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng đội ngũ
giáo viên và đội ngũ cán bộ quản lý mầm non.
Nói về vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ, Bác Hồ đã khẳng định:
“Cán bộ là cái gốc của mọi công việc"; "Vấn đề cán bộ có ý nghĩa quan trọng
quyết định sự thành công của sự nghiệp".
Nghị quyết số 37/2004/QH11 của Quốc hội khoá XI kì họp thứ sáu vào
năm 2004 đã Quyết nghị những vấn đề về giáo dục. Trong đó nội dung thứ 4 ghi
rõ: “Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hoá, đảm
bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao
bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo, thông
qua việc quản lý, phát triển đúng hướng và có hiệu quả sự nghiệp giáo dục để
nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng
cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Nghị quyết Hội nghị
lần thứ tám của Ban chấp hành Trung ương khoá XI về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã
đánh giá: "Quản lý giáo dục và đào tạo yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa
theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi
phạm đạo đức nghề nghiệp". Vì vậy, Đề án Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ
em 5 tuổi cũng đã đề ra nhiệm vụ và giải pháp cụ thể: "Xây dựng, nâng cao chất

lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục mầm non", đồng thời yêu
cầu: "Đổi mới nội dung và phương thức bồi dưỡng thường xuyên cho đội ngũ
cán bộ quản lý và giáo viên..."
2


Đổi mới giáo dục và đào tạo ở Việt Nam là một tất yếu khách quan trong
bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Một trong những giải pháp được coi là khâu
đột phá trong đổi mới giáo dục của nước ta là đổi mới công tác quản lý giáo dục
mà nòng cốt là đối với đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục. Chất lượng đội ngũ cán
bộ quản lý giáo dục nói chung, đội ngũ cán bộ quản lý mầm non nói riêng phụ
thuộc vào công tác đào tạo, bồi dưỡng rất nhiều. Có thể thấy rằng, phát triển đội
ngũ cán bộ quản lý giáo dục dựa vào 3 khâu liên quan chặt chẽ, mật thiết với
nhau, chúng có tác động biện chứng với nhau: phát hiện, lựa chọn - đào tạo, bồi
dưỡng và sử dụng. Đào tạo và bồi dưỡng là một trong những khâu quyết định
chất lượng của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.
Trong những năm qua, giáo dục của tỉnh Hải Dương đã đạt được những thành
tựu nhất định góp phần vào sự nghiệp giáo dục chung, từng bước đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Số lượng trường chuẩn quốc gia ngày càng
tăng, bên cạnh đó, chương trình giáo dục mầm non mới ra đời thay thế chương trình
cũ với mục đích là để phù hợp với sự phát triển của giáo dục Tiểu học và bắt nhịp kịp
thời với xu thế hội nhập của các cấp học cùng với công tác phổ cập trẻ mẫu giáo 5
tuổi và đặc biệt là công tác quản lý được đổi mới theo hướng phân cấp rõ ràng giao
quyền tự chủ cho cán bộ quản lý... đòi hỏi cán bộ quản lý trường mầm non phải có
năng lực quản lý phù hợp mới có thể đáp ứng được sự phát triển của Giáo dục Mầm
non trong giai đoạn hiện nay. Bác Hồ nói “Cán bộ nào phong trào đó” do vậy, chất
lượng của Giáo dục Mầm non có đáp ứng được yêu cầu đổi mới hiện nay phụ thuộc
rất nhiều vào vào vai trò lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý hay nói cách
khác người cán bộ quản lý có vai trò quan trọng trong việc tạo ra chất lượng của Giáo
dục Mầm non. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ then chốt được Sở Giáo dục – Đào

tạo Hải Dương quan tâm đó là công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý của các
nhà trường. Trong thực tế, đội ngũ này đã được bồi dưỡng theo chuẩn hiệu trưởng do
Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, tuy nhiên chất lượng cán bộ quản lý nhà trường
theo chuẩn hiệu trưởng để đáp ứng được yêu cầu đổi mới của Giáo dục Mầm non
trong bối cảnh hiện nay cũng cần có những giải pháp đồng bộ để quản lý chặt chẽ và
đảm bảo chất lượng. Đứng trước yêu cầu đổi mới của giáo dục nói chung, của Giáo
3


dục Mầm non nói riêng và thực tế mạng lưới quy mô trường lớp mầm non ngày càng
phát triển lớn với nhiều loại hình phức tạp trong thời gian gần đây thì công tác bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý lại càng trở thành một nhiệm vụ cấp thiết trong việc
phát triển nguồn nhân lực của tỉnh. Bên cạnh đó chuẩn hiệu trưởng mầm non được
Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành làm căn cứ để cơ quan quản lý giáo dục đánh giá,
xếp loại hiệu trưởng phục vụ công tác sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, đào tạo, bồi
dưỡng và đề xuất, thực hiện chế độ, chính sách đối với đội ngũ này, nhằm thực hiện
mục tiêu phát triển nhân cách toàn diện: thể lực, tình cảm, thái độ, trí tuệ và thẩm mĩ
cho trẻ mầm non và chuẩn bị tốt tâm lý cho trẻ 6 tuổi vào lớp 1.
Làm căn cứ để các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao
năng lực lãnh đạo, quản lý của cán bộ quản lý, do vậy cần có giải pháp quản lý
hoạt động bồi dưỡng thì mới nâng cao chất lượng của đội ngũ này và việc quản
lý chỉ có tính hệ thống khi có những cơ sở khoa học.
Trong thực tế, đề tài về vấn đề quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ quản lý các cấp đã có một số tác giả nghiên cứu nhưng chưa có công trình đối
với quản lý hoạt động bồi dưỡng cán bộ quản lý trường mầm non của cấp học
Mầm non trong một địa phương. Mặt khác, chuẩn hiệu trưởng mầm non được Bộ
Giáo dục và Đào tạo ký và ban hành lần đầu vào ngày 14 tháng 4 năm 2011/TTBGDĐT. Từ những lý do trên chúng tôi lựa chọn đề tài “Quản lý bồi dưỡng cán
bộ quản lý trường mầm non tỉnh Hải Dương theo chuẩn hiệu trưởng trong
bối cảnh hiện nay”

2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp nhằm quản lý có hiệu quả hoạt động bồi dưỡng
cán bộ quản lý trường mầm non theo chuẩn hiệu trưởng đáp ứng yêu cầu đổi mới
Giáo dục Mầm non trong bối cảnh hiện nay.
3. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quản lý hoạt động bồi dưỡng cán bộ quản lý trường mầm non theo chuẩn
do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định trong bối cảnh hiện nay.
4


3.2. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng cán bộ quản lý trường mầm non
tỉnh Hải Dương theo chuẩn hiệu trưởng.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Giới hạn đối tượng nghiên cứu
Một số giải pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng hiệu trưởng, phó hiệu
trưởng trường mầm non tỉnh Hải Dương theo chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo
trong bối cảnh hiện nay.
4.2. Giới hạn về khách thể khảo sát
Cán bộ quản lý cấp Sở, Phòng và hiệu trưởng, phó hiệu trưởng trường
mầm non.
4.3. Giới hạn địa bàn nghiên cứu
Mạng lưới Giáo dục Mầm non tỉnh Hải Dương bao gồm: Sở giáo dục và
Đào tạo; Phòng Giáo dục và Đào tạo và 315 trường mầm non.
4.4. Giới hạn chủ thể
Có rất nhiều chủ thể như Sở Giáo dục và Đào tạo, phòng Giáo dục và Đào
tạo, các nhà trường. Nhưng đây là đề tài nghiên cứu của phòng Giáo dục và Đào
tạo. Nội dung quản lý bồi dưỡng bao gồm cả nội dung, lực lượng, thời gian và
điều kiện bồi dưỡng... nhưng thông qua chức năng quản lý.

5. Giả thuyết khoa học
Hiện nay việc quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý trường
mầm non theo chuẩn hiệu trưởng ở tỉnh Hải Dương còn nhiều hạn chế và bất cập
trước thực tiễn đổi mới căn bản, toàn diện nói chung và Giáo dục Mầm non nói
riêng. Nếu đề xuất và triển khai được một số giải pháp phù hợp và khả thi sát với
thực tiễn của địa phương thì chắc chắn sẽ nâng cao được chất lượng của đội ngũ
cán bộ quản lý theo chuẩn hiệu trưởng được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
góp phần thực hiện tốt hơn các mục tiêu giáo dục mầm non theo yêu cầu phát
triển xã hội.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
5


6.1. Xây dựng cơ sở lý luận quản lý bồi dưỡng cán bộ quản lý trường mầm
non theo chuẩn hiệu trưởng của Bộ giáo dục và Đào tạo.
6.2. Nghiên cứu thực trạng công tác quản lý bồi dưỡng cán bộ quản lý
trường mầm non tỉnh Hải Dương, phân tích nguyên nhân và thực trạng.
6.3. Đề xuất một số giải pháp quản lý bồi dưỡng cán bộ quản lý trường
mầm non tỉnh Hải Dương theo chuẩn hiệu trưởng trong bối cảnh hiện nay.
6.4. Khảo nghiệm và thực nghiệm một số giải pháp quản lý bồi dưỡng cán
bộ quản lý trường mầm non theo chuẩn hiệu trưởng.
7. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi sử dụng phối hợp các nhóm
phương pháp nghiên cứu sau:
7.1. Cách tiếp cận
7.1.1. Tiếp cận hệ thống
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài đề cập đến mối quan hệ bên trong hoạt
động của các thành tố bồi dưỡng, mối quan hệ bên trong của quản lý bồi dưỡng,
mối quan hệ giữa bồi dưỡng với quản lý bồi dưỡng với các yếu tố ảnh hưởng tới
các yếu tố trong quan hệ với chuẩn hiệu trưởng.

Các trường mầm non là một bộ phận trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Những vấn đề về GDMN cũng cần được nghiên cứu, xem xét trong mối quan hệ
tác động qua lại giữa các chủ thể quản lý, giữa GDMN với giáo dục Tiểu học
trong hệ thống giáo dục quốc dân...
Đội ngũ cán bộ quản lý trường mầm non là chủ thể của quá trình quản lý
trường mầm non. Vì vậy việc quản lý bồi dưỡng đội ngũ này cũng nhằm phát triển
đội ngũ cán bộ quản lý trường mầm non. Việc phát triển đội ngũ cán bộ quản lý
trường mầm non phải gắn liền đội ngũ giáo viên, với việc thực hiện mục tiêu nâng
cao chất lượng chăm sóc và giáo dục ở các trường mầm non hiện nay.
7.1.2. Tiếp cận phức hợp
Việc nghiên cứu quản lý bồi dưỡng cán bộ quản lý trường mầm non dựa
trên nhiều lý thuyết khác nhau như khoa học quản lý giáo dục, lý thuyết phát
triển nhân sự, giáo dục học, tâm lý học...trong sự tác động phức hợp giữa chúng
6


với nhau để nghiên cứu thực tiễn, đề xuất các giải pháp quản lý bồi dưỡng đội
ngũ này một cách có hiệu quả.
7.1.3. Tiếp cận phát triển và theo chuẩn
Việc quản lý bồi dưỡng cán bộ quản lý trường mầm non cần được đặt
trong bối cảnh phát triển chung của nền kinh tế - xã hội và của hệ thống giáo dục
cũng như trong quá trình phấn đấu đạt chuẩn và phát triển trên chuẩn hiệu trưởng
trường mầm non trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay.
7.2. Phương pháp nghiên cứu
7.2.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Thực hiện hồi cứu, phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát hoá trong
quá trình nghiên cứu nhiều nguồn tài liệu lý luận, thực tiễn có liên quan đến công
tác bồi dưỡng và quản lý bồi dưỡng cán bộ quản lý nói chung và cán bộ quản lý
trường mầm non trường mầm non nói riêng, bao gồm:
- Các tài liệu, văn kiện của Đảng (Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành

Trung ương) và Nhà nước (Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành) về phát triển giáo
dục trong đó bàn về vấn đề bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý cán bộ quản lý nói
chung và cán bộ quản lý cán bộ quản lý trường mầm non nói riêng.
- Các kết quả nghiên cứu tài liệu trong và ngoài nước về phát triển giáo
dục, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý nhà trường, trong đó có đội ngũ
cán bộ quản lý trường mầm non.
7.2.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Xây dựng các bảng điều tra phù
hợp với các nội dung nghiên cứu của đề tài. Tổ chức điều tra, thống kê, phân tích
các dữ liệu để rút ra những nhận xét, đánh giá chính xác về đội ngũ cán bộ quản
lý trường mầm non tỉnh Hải Dương.
- Phương pháp chuyên gia: Thông qua ý kiến các chuyên gia, các nhà khoa
học, những cán bộ quản lý có nhiều kinh nghiệm. Thông qua các hội thảo, hội
nghị bàn về vấn đề đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý nhà trường và các
giải pháp đề xuất.
7


- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tổng kết những kinh nghiệm của
giáo dục trong và ngoài nước về việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý nhà
trường, tại tỉnh Hải Dương để rút kinh nghiệm bổ ích cho công tác quản lý bồi
dưỡng cán bộ quản lý trường mầm non theo chuẩn trong bối cảnh đổi mới giáo
dục hiện nay.
- Phương pháp khảo nghiệm, thực nghiệm:
+ Xin ý kiến đánh giá của các chuyên gia bằng phiếu hỏi, phỏng vấn về
các kết quả nghiên cứu, các giải pháp đã được đề xuất trong luận án.
+ Áp dụng vào thực nghiệm trong thực tiễn một số giải pháp quản lý cán
bộ quản lý trường mầm non đã đề xuất trong luận án để đánh giá hiệu quả của
giải pháp trên trong thực tiễn.
7.2.3 Nhóm phương pháp bổ trợ

- Nhóm phương pháp toán thống kê là sử dụng công thức toán học thống
kê để định lượng kết quả nghiên cứu.
- Phương pháp này được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài nhằm
thống kê, phân tích và xử lý các số liệu giúp cho việc đánh giá đúng thực trạng
quản lý bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý trường mầm non.
- Dùng biểu đồ, sơ đồ để minh hoạ một số kết quả nghiên cứu.
8. Đóng góp mới của luận án
- Xây dựng cơ sở lý luận về quản lý bồi dưỡng cán bộ quản lý trường mầm
non theo chuẩn hiệu trưởng.
- Phát hiện thực trạng bồi dưỡng và quản lý bồi dưỡng cán bộ quản lý
trường mầm non tỉnh Hải Dương theo chuẩn hiệu trưởng.
- Đề xuất các giải pháp quản lý bồi dưỡng cán bộ quản lý trường mầm non
tỉnh Hải Dương theo chuẩn hiệu trưởng trong bối cảnh hiện nay.
- Xây dựng cơ sở khoa học và thực tiễn cho quản lý bồi dưỡng cán bộ
quản lý trường mầm non của tinh Hải Dương nói riêng và cho các địa phương
khác có điều kiện tương tự.
9. Các luận điểm cần bảo vệ
8


9.1. Đội ngũ cán bộ quản lý trường mầm non là một trong những lực lượng trụ
cột và quyết định sự thành công của đổi mới Giáo dục Mầm non. Do vậy, đội
ngũ này phải có phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực thực hiện tốt nhiệm vụ
được giao đặc biệt trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay.
9.2. Hoạt động bồi dưỡng cho cán bộ quản lý theo chuẩn hiệu trưởng trong bối
cảnh hiện nay phải được quản lý một cách chặt chẽ, bài bản, được tiến hành một
cách có hệ thống, có tổ chức, có kế hoạch. Quản lý bồi dưỡng cán bộ quản lý
trường mầm non theo chuẩn hiệu trưởng theo các chức năng quản lý là cách
thức, là con đường tốt nhất nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý
trường mầm non đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục trong bối cảnh hiện nay.

10. Cấu trúc luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị và danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục, luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý bồi dưỡng cán bộ quản lý trường mầm
non theo chuẩn hiệu trưởng trong bối cảnh hiện nay.
Chương 2: Thực trạng về quản lý bồi dưỡng cán bộ quản lý trường mầm
non tỉnh Hải Dương theo chuẩn hiệu trưởng.
Chương 3: Giải pháp quản lý bồi dưỡng cán bộ quản lý trường mầm non
tỉnh Hải Dương theo chuẩn hiệu trưởng trong bối cảnh hiện nay.

9


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ BỒI DƢỠNG CÁN BỘ QUẢN LÝ
TRƢỜNG MẦM NON THEO CHUẨN HIỆU TRƢỞNG
TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Thông qua kết quả nghiên cứu vấn đề liên quan đến quản lý hoạt động bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục trên thế giới và trong nước, có thể tổng quan
vấn đề nghiên cứu theo 2 hướng sau: Các công trình nghiên cứu quản lý bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ quản lý nhà trường trên thế giới; Các công trình nghiên cứu quản lý
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý nhà trường ở Việt Nam.
1.1.1. Các công trình nghiên quản lý bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý nhà
trường trên thế giới
1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu về bồi dưỡng
Khẳng định vai trò bồi dưỡng nhiều tác giả như Andrew Carnegie, John
C.Maxwell, Hướng Phi (Trung Quốc), Pam Robbins Harvey B.Alvy... cho rằng
cần phải "Bồi dưỡng phát triển các kĩ năng cho nhân sự là con người" [63,

tr.189-190] hay quan điểm "Hiệu trưởng như một học viên suốt đời" và "Nếu
hiệu trưởng muốn giúp giáo viên cải thiện công việc của họ thì hiệu trưởng phải
liên tục học tập để cải thiện những gì mình đang làm". Các tác giả coi trọng việc
bồi dưỡng và tự bồi dưỡng của người cán bộ quản lý đứng đầu nhà trường và cho
rằng đây là "Cách sáng tạo để đưa ra một tầm nhìn mới và tầm quan trọng về
một trường học" [1, tr.35].
Hội thảo khu vực Châu Á Thái Bình Dương của UNESCO (UNESCOPROAP) tổ chức năm 1997, và các tác giả nghiên cứu đến nội dung bồi dưỡng như
tác giả Vương Lạc Phu và Tưởng Nguyệt Thần, Pam Robbins Harvey B.Alvy,
Kentd, Peterson, John C.Maxwell... bàn về chất lượng của lãnh đạo quản lý và
10


quản lý giáo dục. Các tác giả đã đề cập đến các nội dung bồi dưỡng trong bối
cảnh hiện nay như các kĩ năng cụ thể; Nghệ thuật giao tiếp nhân sự; Quản lý
thời gian; Tạo lập thành công bằng hợp tác [1, tr.17-18] hay Tạo ra sự thay đổi
tích cực; Cách giải quyết vấn đề; Thái độ, những phẩm chất quan trọng của nhà
lãnh đạo như: tầm nhìn, tự kỉ luật, phát triển đội ngũ nhân sự [103, tr.10]. Tác giả
David Dean, Mark E Anderson đề xuất nội dung chương trình thiết kế theo
chương trình khung và có công cụ hỗ trợ người dạy. Người học đánh giá quá
trình giảng dạy và học tập của mình [31, tr.87]. Nội dung chương trình cần bám
sát nhu cầu thực tiễn, cần nghiên cứu một cách hệ thống tính chất và vấn đề hoạt
động ở mỗi cấp độ quản lý, mỗi cán bộ lãnh đạo, mỗi chức vụ... [107, tr.65].
Chương trình phải được xây dựng trên kinh nghiệm của người học và dựa vào
kinh nghiệm thực tế của người lãnh đạo [107, tr.67].
Một số tác giả người Anh và Mĩ như Mark E Anderson, Sergiovani, Bulach,
Davi dean, leverme Barret vaf Edgar Yoder, McPherson, Wynne...và một số tác giả
J.Mayar cuar Hungari và E, Ribaraca của Bungari tập trung nghiên cứu vào các lỗi
lầm mà các nhà quản lý giáo dục dễ mắc phải như: kĩ năng quan hệ con người kém,
kĩ năng quan hệ nội bộ kém, thiếu khả năng nhìn nhận, thất bại trong việc lãnh đạo
và ngăn chặn các mâu thuẫn, thiếu các khía cạnh đạo đức trong tính cách, thiếu khả

năng tạo động lực cho đội ngũ [101, tr.122], tìm ra nguyên nhân và xác định chủ
yếu là do các chương trình đào tạo, bồi dưỡng có những khiếm khuyết đã không
đào tạo, bồi dưỡng họ những vấn đề cần thiết của công tác quản lý [101, tr.122].
Phương pháp bồi dưỡng cũng được nhiều tác giả quan tâm như: Harold
Koontz, Mark E Anderson, Barret và Yoder (Mĩ), A.Kisel (Đức), E.Ribaraca
(Bungari), McPherson, Wynne, LT.Ôgôrônhicôp, Iu. K.Babanxki, John
Wlutmorre (Anh)... Mỗi tác giả đứng ở góc độ khác nhau để bàn về phương
pháp bồi dưỡng, tựu chung lại các tác giả đặc biệt nhấn mạnh vấn đề về phát
huy tính tích cực của đối tượng học. Do vậy các phương pháp thảo luận nhóm,
dựng cảnh, tình huống, mô phỏng, thực hành, trò chơi, chia sẻ kinh
nghiệm...được các tác giả nghiên cứu và bàn luận một cách sâu sắc hay tổ
chức cho học viên tham quan, thực tập tại các cơ sở giáo dục, thực hiện các
11


bài tập thực hành, các tình huống trong quản lý trường học. Tác giả Barret vaf
Edgar Yoder, McPherson, Wynne với quan điểm "Hiệu trưởng cần được học
giao tiếp trong hoàn cảnh cụ thể thay vì chỉ được nghe giảng về điều đó. Cần
tạo dựng các hoàn cảnh để người học thực hành những gì họ đang học" [105,
tr.57].
1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu về quản lý bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý.
* Lập kế hoạch: Là chức năng quan trọng nhất của lãnh đạo. Vì lập kế
hoạch tức là soạn thảo và thông qua những quyết định quản lý quan trọng nhất
[54, tr.146].
Bàn về vấn đề lập kế hoạch quản lý bồi dưỡng, nhóm Business edge trong
tác phẩm "Bản chất quản trị nguồn nhân lực xây dựng "Đội quân tinh nhuệ" đã
chỉ ra trong giai đoạn này cần phải: Xác định mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng; Lựa
chọn hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp; Xác định thời gian đào tạo, bồi
dưỡng thích hợp; Đề ra cách thức đánh giá kết quả đào tạo, bồi dưỡng; Ước tính
các nguồn lực cần huy động cho đào tạo, bồi dưỡng. [36, tr. 43].

Theo chúng tôi, đây là một quan điểm hết sức quan trọng không chỉ trong
kinh doanh mới cần tạo nên một đội quân tinh nhuệ mà trong lĩnh vực đào tạo
cũng cần có đội quân tinh nhuệ, đội chuyên gia. Đội quân đó cần phải được quản
lý đào tạo, bồi dưỡng thông qua kế hoạch và phải làm tốt ngay từ khâu lập kế
hoạch để "Không cho phép tạo ra sản phẩm kém chất lượng".
* Kiểm tra, đánh giá: E. Ribaraca (Hunggari) cho rằng một quá trình đào
tạo, bồi dưỡng nên bắt đầu từ xác định mục tiêu và trên cơ sở xác định nội dung
đào tạo, bồi dưỡng và cuối cùng là đánh giá kết quả. Theo bà, xác định hiệu quả
học tập được tiến hành bằng cách so sánh trình độ đầu vào và đầu ra về tri thức
và kĩ năng của người học. G.Gerlarka và K.Shubept (Đức) thì cho rằng, hiệu quả
học tập cần được đánh giá bằng tri thức và kĩ năng của người lãnh đạo biết thực
hiện một cách có nghiệp vụ và những trách nhiệm được giao phó [26, tr.55].
Nhóm Business edge cũng cho rằng xây dựng "Đội quân tinh nhuệ" ngoài bàn về
vấn đề đào tạo, cách lập và thực hiện kế hoạch đào tạo để có đội quân tinh nhuệ,
họ còn bàn về vấn đề đánh giá hiệu quả đào tạo. Trong giai đoạn này, theo họ
12


các nhà quản lý bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý cần đưa ra các câu hỏi: Mục
tiêu đào tạo, bồi dưỡng có đạt được không?; Phản ứng của người học với chương
trình đào tạo, bồi dưỡng như thế nào? Người học tiếp thu được kiến thức, kĩ năng
gì? Người học áp dụng kiến thức và kĩ năng được đào tạo, bồi dưỡng vào công
việc như thế nào? Tổ chức nhận được những kết quả gì từ đào tạo, bồi dưỡng? [36,
tr.43]. Bàn về vấn đề đánh giá kết quả bồi dưỡng giáo viên ở Philippin thường
dùng các hình thức để bổ trợ cho nhau như sau: Trắc nghiệm trước và sau khoá
bồi dưỡng; Học viên bồi dưỡng tự đánh giá xếp hạng; Quan sát hoạt động dạy học
để đánh giá năng lực của học viên bồi dưỡng; Đánh giá của các giảng viên bồi
dưỡng; Quan sát đánh giá năng lực của giảng viên bồi dưỡng; Phỏng vấn.
Những nhà nghiên cứu Bungari, tiêu biểu là ông P.Bohvarop cho rằng:
"Hiệu quả thể hiện ở các biến đổi tích cực của người học". Theo ông hiệu quả

đào tạo thể hiện ở hiệu quả học tập, hiệu quả thực tiễn và kinh tế. Hiệu quả học
tập thể hiện mối tương quan gia tăng về tri thức, kĩ năng với các chi phí cho học
tập [31,tr.86].
Các nhà nghiên cứu Rumani cho rằng chất lượng đào tạo, bồi dưỡng phải
thể hiện ở 3 mức độ: Chất lượng được phản ánh thông qua hoạt động quản lý và
hình thành phong cách lãnh đạo mới, phản ứng nhạy bén trước những biến động
xảy ra; Các nghiên cứu khoa học phải có giá trị ứng dụng thực tiễn; Các nhà lãnh
đạo không chỉ biết hành động như một chuyên gia mà còn là một nhà chính trị có
nhãn quan rộng.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu quản lý bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý
nhà trường trong nước
1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu về bồi dưỡng
Các tác giả như: Bùi Minh Hiền, Vũ Ngọc Hải, Đặng Bá Lãm, Nguyễn
Quang Thái, Phạm Tất Dong, Nguyễn Cảnh Toàn, Mạc Văn Trang, Trần bá
Hoành, Lê Thị Ánh Tuyết, Nguyễn Trí, Nguyễn Văn An, Đặng Quốc,Vũ Lan
Hương, Đặng Thành Hưng, La Hồng Huy, Phạm Đỗ Nhật Tiến, Nguyễn Công
Giáp... khẳng định về vai trò quan trọng của bồi dưỡng đối với các nhà quản lý
trường học. Các tác giả đã phân tích điểm mạnh, điểm yếu của giáo dục Việt
13


Nam trong so sánh với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, phân tích thực trạng
chất lượng đội ngũ giáo viên và đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và yêu cầu phải
có một hệ thống tiêu chuẩn cho đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý trong bối
cảnh hiện nay.
Bàn về nội dung bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục, các tác giả Nguyễn
Văn Đệ, Vũ Lan Hương và nhiều tác giả cho rằng cần xây dựng "mẫu hình"
người cán bộ quản lý giáo dục nói chung với "các tố chất quản lý phù hợp" và
khẳng định đây chính là yếu tố "sống còn của một cơ chế hướng tới hội nhập".
Những tố chất mà tác giả nhắc đến bao gồm tố chất nhân cách và trí tuệ (cụ thể:

nhận thức mẫu mực, tác phong mẫu mực, kiến thức mẫu mực và hiệu quả mẫu
mực); tố chất quản lý; tố chất về năng lực lãnh đạo và tổ chức.
Trong lĩnh vực giáo dục mầm non, năm 1980, lần đầu tiên Bộ Giáo dục
xuất bản cuốn "Sổ tay người hiệu trưởng mẫu giáo" [91, tr.27]. Đến năm 1988
"Chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ chủ nhiệm nhà trẻ" ra đời do Uỷ ban bảo vệ
bà mẹ trẻ em Trung ương xây dựng. Đến năm 1989 cuốn "Tài liệu bồi dưỡng
hiệu trưởng" được xuất bản Năm 1994 một số sách về mầm non được xuất bản
như "Quản lý giáo dục mầm non" của tác giả Phạm Thị Châu; "Tổ chức quản lý
nhóm - lớp" của nhà xuất bản giáo dục; "Một số vấn đề quản lý trường mầm
non" của tác giả Đinh Văn Vang. Năm 1997 Bộ Giáo dục và trường cán bộ quản
lý Giáo dục, năm 2008 Bộ Giáo dục- Đào tạo và Học viện Quản lý Giáo dục Đào tạo đã cho ra đời 2 công trình. Các tác giả đã luận bàn về nguyên tắc,
phương pháp quản lý trường mầm non, cơ cấu, tổ chức, chức năng, quyền hạn
của hiệu trưởng. Các tác giả luận bàn về năng lực, phẩm chất của cán bộ quản lý,
đặc biệt về người hiệu trưởng mầm non. Bàn đến các nội dung chỉ đạo chuyên
đề; Hướng dẫn thanh tra, cách viết báo cáo; quản lý giáo dục và quản lý trường
mầm non và một số vấn đề tâm lý giáo dục học và chuyên đề chuyên biệt cho
giáo dục mầm non [67, tr.34]. Đây cũng chính là nội dung mà các tác giả cho
rằng cần phải bồi dưỡng cho người cán bộ quản lý. Tác giả Hoàng Đức Minh và
Phan Thị Lan Anh đề cập đến nội dung bồi dưỡng cụ thể cho cán bộ quản lý
trường mầm non rất cụ thể như cần phải bồi dưỡng về các văn bản pháp quy, các
14


kĩ năng quản lý cụ thể trong từng mảng nội dung công việc; các vấn đề về dinh
dưỡng cho trẻ em, công tác phổ cập cho trẻ em năm tuổi, đánh giá tổ chức hoạt
động vui chơi, công tác quản lý, chỉ đạo chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc và bảo
vệ sức khoẻ trẻ em tại các cơ sở giáo dục mầm non...vv [2, tr.31]. Tài liệu bồi
dưỡng cho hiệu trưởng trường mầm non do Bộ Giáo dục và Cục nhà giáo và cán
bộ quản lý cơ sở giáo dục do tác giả Phan Thị Lan Anh và Trần Ngọc Giao...phối
hợp đã triển khai và hướng dẫn nội dung bồi dưỡng của từng nội dung Chuẩn

hiệu trưởng trường mầm non [2, tr.31].
Tháng 5 năm 2012, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xuất bản cuốn tài liệu hội
thảo-Tập huấn, trong đó có đề cập đến nội dung bồi dưỡng cho cán bộ quản lý
trường mầm non để lưu hành nội bộ. Và một trong những căn cứ định hướng xây
dựng chương trình bồi dưỡng cho cán bộ quản lý mầm non đó là Quy định
Chuẩn

hiệu trưởng trường mầm non được ban hành theo Thông tư

số17/2011/TT-BGD ĐT ngày 17/4/2011 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Những nội
dung bồi dưỡng mà chương trình đề cập đến theo 5 môđun nhằm "Phát triển
năng lực cho cán bộ quản lý trường mầm non về lãnh đạo và quản lý trường
học, chủ động trong đổi mới lãnh đạo, quản lý để nhà trường trong bối cảnh
đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục, biết gắn tầm nhìn với hành động, phát
huy những giá trị của nhà trường và xã hội cho sự nghiệp phát triển giáo dục và
đào tạo với nhiệm vụ trung tâm là nâng cao chất lượng giáo dục phục vụ công
cuộc đổi mới phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế" [7, tr.14-15].
Bàn về phương pháp đào tạo, bồi dưỡng, các tác giả Nguyễn Duy Hưng,
Trần Thị Bích Liễu, Nguyễn Thị Bích Hạnh, Hoàng Minh Thao, Ngô Quang Sơn,
Phạm Viết Nhụ, Nguyễn Văn Đệ, La Hồng Huy, Nguyễn Duy Hưng, Trần Bá
Hoành... đã đánh giá thực trạng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục
để từ đó đề ra những giải pháp như đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, bồi
dưỡng, đa dạng các hình thức và đối tượng đào tạo. [49, tr.12-15]. Các tác giả nhấn
mạnh đổi mới phương pháp bằng cách kết hợp 2 trọng tâm "Duy trì phương
thức coi trọng vai trò của các chuyên gia trong việc tham gia bồi dưỡng, mặt
15


khác đổi mới phương pháp bồi dưỡng theo hướng Lấy người học làm trung
tâm, coi trọng việc khảo sát nhu cầu bồi dưỡng của cán bộ quản lý và điều

chỉnh chương trình bồi dưỡng phù hợp với thực tiễn. Coi trọng vốn kinh
nghiệm đa dạng và phong phú của người học để tổ chức các phương pháp lôi
cuốn học viên cùng tham gia vào quá trình bồi dưỡng"[49, tr.54]. Các tác giả
cũng quan tâm phương pháp thực hành để hình thành các kĩ năng quản lý
cho cán bộ quản lý trường mầm non. Đem đến cho các nhà quản lý và người học
một phương pháp đào tạo, bồi dưỡng năng lực quản lý của người hiệu trưởng
trường mầm non theo hướng tích cực hoá người học [61, tr.36] hay "Cần hướng
tới nhu cầu thiết thực của người học đó là công tác quản lý nhà trường, gắn với
tình huống sư phạm, gắn với công tác quản lý nhà trường với quản lý xã hội" [49]
và quan điểm "Cần đổi mới phương pháp bồi dưỡng tập trung theo hướng tổ chức
các hoạt động cá nhân/nhóm để học viên được tham gia tích cực vào nội dung lớp
học và được vận dụng tại chỗ".
1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu quản lý bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý
* Lập kế hoạch bồi dưỡng: Bàn về lập kế hoạch, tác giả Trần Kiểm đã chỉ
ra rằng: "Việc lập kế hoạch cho phép lựa chọn phương án tối ưu, tiết kiệm nguồn
lực tạo hiệu quả hoạt động cho toàn bộ tổ chức" và kế hoạch hoá bao gồm:
"việc xây dựng mục tiêu, chương trình hành động, xác định từng bước đi,
những điều kiện, phương tiện cần thiết trong một thời gian nhất định của hệ
thống quản lý và chủ thể quản lý" 55, tr.83]. Tác giả Đinh Văn Vang cho rằng:
"Hiệu quả điều hành công việc phụ thuộc trước hết vào tính hợp lý và khoa học
của kế hoạch đã xây dựng" [96, tr.76]. Tác giả Bùi Văn Quân cũng khẳng định
vai trò quan trọng của lập kế hoạch trong quản lý giáo dục nói chung: "Nhờ có
kế hoạch mà hướng vận động và phát triển của hệ thống giáo dục được xác định
rõ, tạo điều kiện và cơ hội thuận lợi cho việc thực hiện các mục tiêu của hệ thống
giáo dục"[77, tr. 52]. Trong "Giáo trình quản lý giáo dục" của khoa Quản lý giáo
dục, trường Đại học Sư phạm cũng chỉ cho các nhà quản lý thấy rõ các bước lập
kế hoạch. trong lập kế hoạch cần sử dụng các nhóm phương, kĩ thuật như: nhóm
phương pháp thu thập thông tin; nhóm phương pháp và kĩ thuật xử lí thông tin và
16



nhóm phương pháp và kĩ thuật trình bày thông tin. Một trong phương pháp thường
được xử lý thông tin là phương pháp phân tích Swot.
Các tác giả Lê Thị Bạch Tuyết, Phan Thị Châu, Nguyễn Bích Hạnh...vv
cũng đã khẳng định sự cần thiết của việc xây dựng kế hoạch. Tác giả Lê Thị
Bạch Tuyết đã viết: "Bàn về vị trí của kế hoạch về mặt vĩ mô, các nhà kinh điển
đã từng đánh giá "Kế hoạch là cương lĩnh thứ 2 của Đảng" [78, tr.57]. Các tác
giả kể trên đều chỉ ra những kĩ năng lập kế hoạch chung như thu thập, xử lý
thông tin; xác định rõ các nhiệm vụ trọng tâm, cụ thể sắp xếp thứ tự các vấn đề
ưu tiên; xây dựng các mục tiêu, giải pháp thực hiện; phân công, bố trí con người,
thời gian thực hiện; kế hoạch về tài chính...vv.
Tác giả Vương Thanh Hương chỉ ra các thách thức trong phát triển đội
ngũ cán bộ quản lý giáo dục, đó là: "Sự thiếu hụt các chương trình đào tạo chính
quy, các chương trình bồi dưỡng bài bản và thống nhất về quản lý giáo dục để
các nhà quản lý giáo dục biết đương đầu với những nhiệm vụ mà họ đang phải
gánh vác trong giai đoạn hội nhập và phát triển khoa học - công nghệ hiện nay"
[47]. Bên cạnh đó, việc lập kế hoạch giáo dục không thành công cũng được tác
giả chỉ ra nguyên nhân do "Những kì vọng quá lớn về phát triển giáo dục và đào
tạo trong một thời gian nhất định dẫn đến kế hoạch, chiến lược chỉ tồn tại trên
giấy tờ"[34] và tác giả chỉ ra rằng: "Giáo dục không phải là một khoa học chính
xác, trong giáo dục tồn tại nhiều yếu tố quản lý, chính trị và các trở ngại xã hội,
do vậy, lập kế hoạch cần giáo dục phải xem xét trong bối cảnh hài hoà về kinh
tế, chính trị, xã hội" [40].
* Tổ chức bồi dưỡng: Nghiên cứu về cách tổ chức bồi dưỡng, phải kể đến
tác giả Nguyễn Trọng Thuyết đã đề cập đến tổ chức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ quản lý trong nhà trường. Tác giả cho rằng: "Tổ chức đào tạo là quá trình
giáo viên tích cực chủ động xây dựng kế hoạch, chỉ đạo, điều khiển hoạt động
học tạo điều kiện để học viên chủ động tích cực chiếm lĩnh được tri thức mới"
[93, tr.29]; Tác giả Vũ Lan Hương ngoài việc đề cập đến vấn đề nội dung,
chương trình đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục, tác giả còn bàn đến

vấn đề tổ chức lớp học ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động bồi dưỡng
17


"Cùng với việc đổi mới nội dung chương trình là đổi mới phương thức đào tạo.
Cách tổ chức lớp học và phương pháp là những vấn đề quan trọng tạo hiệu quả
trong công tác đào tạo, bồi dưỡng" và tác giả khẳng định rằng trong tổ chức bồi
dưỡng cho cán bộ quản lý: "Cần phải có một đội ngũ giảng viên có đủ năng lực
và tư duy cũng như kiến thức thực tiễn" [47].
Bên cạnh đó tác giả Trương Thị Minh đề cập đến một số giải pháp quản lý
công tác bồi dưỡng như: Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng; đề ra mục tiêu chung;
Tổ chức các hoạt động bồi dưỡng và tác giả nhấn mạnh mối quan hệ hỗ trợ lẫn
nhau của các giải pháp làm cho công tác bồi dưỡng sẽ đạt được kết quả. [10,
tr.20]. Tiếp đến tác giả Đặng Thành Hưng khẳng định chuẩn giúp chúng ta tổ
chức nhân sự trong bồi dưỡng đúng đắn hơn, tránh được rất nhiều sơ suất vì báo
cáo viên hoặc tập huấn kém chất lượng, không đủ trình độ huấn luyện đúng yêu
cầu" [48, tr.64]. Còn tác giả Trần Bá Hoành đề cập đến 3 phương thức: Bồi
dưỡng tập trung theo khoá dài ngày hoặc theo từng đợt ngắn ngày tại cơ sở hoặc
đào tạo hay cơ sở bồi dưỡng; Bồi dưỡng tại chỗ, tức là bồi dưỡng cho người
học tại trường họ đang làm việc; Bồi dưỡng từ xa: bồi dưỡng "tại chỗ" đã mang
yếu tố từ xa vì học viên không thường xuyên giáp mặt giảng viên [44, tr.199] và
tác giả nhấn mạnh rằng muốn công tác bồi dưỡng tại chỗ tốt cần chú ý 2 khâu:
Nâng cao chất lượng tài liệu bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ cốt cán giảng viên.
* Kiểm tra, đánh giá: Vấn đề kiểm tra, đánh giá trong quá trình bồi dưỡng
và quản lý bồi dưỡng cũng được khá nhiều tác giả quan tâm. Tác giả Nguyễn
Trọng Thuyết đã khẳng định mối quan hệ mật thiết của kiểm tra và đánh giá:
"Nếu kiểm tra mà không đánh giá là kiểm tra không có mục đích. Nếu đánh giá
mà không dựa trên kết quả kiểm tra là đánh giá cảm tính, phiến diện, không có
cơ sở khoa học". Do vậy, "muốn đánh giá chất lượng đào tạo phải dựa vào kết
quả kiểm tra" [93, tr. 29-30].

Nghiên cứu về việc áp dụng quản trị theo khung năng lực và nâng cao chất
lượng lãnh đạo khu vực công, tác giả Phùng Xuân Kha và Lê Quân đã nghiên
cứu các khung năng lực lãnh đạo công của Mĩ, Xingapo, Canada, Anh...vv. và
tiếp cận khung năng lực lãnh đạo công của nước ngoài, vận dụng vào để dự thảo
18


khung năng lực cho từng chức danh/vị trí lãnh đạo khu vực công tại Việt Nam,
đồng thời hướng dẫn quy trình sử dụng khung năng lực trong tuyển dụng, đánh
giá và đào tạo đạt chuẩn với lãnh đạo khu vực công tại Việt Nam. Các tác giả
hướng dẫn đánh giá năng lực lãnh đạo theo chuẩn, cụ thể theo thang bậc về các
năng lực cần có với chức năng đảm nhận hoặc được quy hoạch. Việc đánh giá sẽ
nhìn nhận rõ được mỗi cá nhân mạnh chuẩn và yếu trên năng lực nào. Trên cơ sở
đó sẽ xây dựng kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng phục vụ đạt chuẩn [51, tr. 92].
Bàn về đánh giá tác giả La Hồng Huy nhấn mạnh "Phải đặt công tác bồi
dưỡng cán bộ quản lý đúng với vị trí của nó để đầu tư toàn diện cho công tác
này, phải đảm bảo bằng được chất lượng các lớp bồi dưỡng cán bộ quản lý" và
để kiểm tra hiệu quả của công tác này các nhà quản lý cần phải có một quy chế
đánh giá, kiểm định rõ ràng nên tác giả cho rằng: "Không có một quy chế đánh
giá, kiểm định kết quả bồi dưỡng một cách cụ thể, rõ ràng rồi đánh giá kết quả
theo kiểu bồi dưỡng "Có đi học là đạt" như hiện nay" thì có thể "Quy kết những
tiêu cực trong ngành giáo dục, chạy theo thành tích, thiếu trung thực" và tác giả
khẳng định thực trạng bồi dưỡng cán bộ quản lý chưa hiệu quả là do "Trong một
thời gian dài chúng ta không quan tâm, không đầu tư thoả đáng cho việc đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục" [6, tr.35]. Bàn về quản lý chất lượng đào tạo,
bồi dưỡng giáo viên, bà Nguyễn Thị Bình nguyên Phó Chủ tịch nước Việt Nam
cũng đã nhấn mạnh: "Chức năng trong quản lý đào tạo một cơ sở đào tạo giáo
viên. Theo đó, mỗi cơ sở đào tạo giáo viên phải có một tổ chức bảo đảm kiểm
tra, kiểm định chất lượng" và tác giả nhấn mạnh tổ chức này phải là "con mắt
của nhà trường", quản lý, giám sát mọi hoạt động đào tạo" [5, tr.46].

Tác giả Trần Bá Hoành đề xuất cách đánh giá kết quả bồi dưỡng tập trung:
Mở đầu đợt tập huấn cần cho học viên làm một bài trắc nghiệm về nội dung
chính của buổi học và được giảng viên hướng dẫn tự chấm bài của mình để đánh
giá mức độ hiểu biết của học viên và qua đó trong quá trình diễn ra tập huấn học
viên được tiếp cận tích cực với nội dung cần học và đây cũng là căn cứ để đánh
giá két quả khi kết thúc lớp học. Và kết thúc lớp học giảng viên cho học viên làm
một bài trắc nghiệm, sau đó tự chấm bài và đối chiểu với đáp án và so sánh với
19


kết quả ban đầu. Còn đối với với hình thức bồi dưỡng tại chỗ tác giả đề xuất một
số cách đánh giá như: Học viên tự đánh giá; Học viên đánh giá lẫn nhau; Cán bộ
quản lý đánh giá [44, tr. 202-203].
Tóm lại: từ các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước
chúng tôi nhận thấy như sau:
Các công trình nghiên cứu khoa học liên quan bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
quản lý nhà trường trong những thập kỉ gần đây khá phong phú và đa dạng. Các
tác giả đã khẳng định vai trò, tầm quan trọng của công tác bồi dưỡng cán bộ giáo
dục trong quá trình phát triển kinh tế xã hội và giáo dục theo xu hướng hội nhập
trong giai đoạn hiện nay và tương lai tiếp theo. Các công trình tập trung vào
nghiên cứu lý luận quản lý giáo dục, quản lý trường học, khai thác sâu ở từng
khía cạnh quản lý, tập trung vào bồi dưỡng kinh nghiệm tác nghiệp, kĩ năng thực
hành cho cán bộ quản lý trường học nói chung và trường mầm non nói riêng.
Các công trình nghiên cứu đã phân tích nguyên nhân, thực trạng, bối cảnh
đổi mới giáo dục và con người...vv để đề xuất cần phải quản lý và đổi mới mục
tiêu, nội dung, phương thức, lập kế hoạch, kiểm tra, đánh giá trong đào tạo, bồi
dưỡng. Các công trình nghiên cứu đã đề cập đến việc quản lý đào tạo, bồi dưỡng
và cần phải đổi mới mục tiêu, nội dung, phương thức, tổ chức, kiểm tra, đánh giá
bồi dưỡng phù hợp với thực tế của cơ sở giáo dục đang hoạt động. Tuy nhiên,
các công trình nghiên cứu chủ yếu đề cập đến hoạt động quản lý và các nội dung,

phương thức, tổ chức...vv của các trường đào tạo, cơ sở bồi dưỡng cán bộ quản
lý giáo dục, mà ít nghiên cứu về phương thức bồi dưỡng của đơn vị Sở Giáo dục
và Đào tạo và Phòng Giáo dục và Đào tạo.
Các công trình tập trung nghiên cứu về bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý
giáo dục nói chung và cán bộ quản lý tại các nhà trường nói riêng thì nhiều. Các
công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung vào các nội dung, phương pháp bồi
dưỡng cho cán bộ quản lý nhà trường. Còn các công trình bàn đến quản lý bồi
dưỡng cán bộ quản lý giáo dục đã ít nhưng bàn đến quản lý bồi dưỡng cán bộ
quản lý trường mầm non không có.

20


Các công trình nghiên cứu về bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục nói
chung phong phú tuy nhiên để nghiên cứu về quản lý hoạt động bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ quản lý nhà trường nói chung, đặc biệt quản lý hoạt động bồi dưỡng
cán bộ quản lý trường mầm non theo chuẩn hiệu trưởng trường mầm non mới
được ban hành năm 2011 thì vẫn còn là một mảnh đất trống vắng chưa có đề tài
nghiên cứu. Vì vậy, chúng tôi thật sự tâm huyết chọn đề tài "Quản lý bồi dưỡng
cán bộ quản lý trưởng mầm non theo chuẩn hiệu trưởng trong bối cảnh hiện
nay" nhằm tiếp tục khai thác những mặt tích cực của các lý thuyết quản lý chất
lượng, bổ sung và vận dụng trong quá trình quản bồi dưỡng cho cán bộ quản lý
trường mầm non.
1.2. Cán bộ quản lý trƣờng mầm non.
1.2.1. Trường mầm non trong hệ thống giáo dục quốc dân
1.2.1.1. Vị trí của trường mầm non
Trường mầm non là đơn vị cơ sở của bậc giáo dục mầm non trong hệ
thống giáo dục quốc dân. Trường đảm nhận việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ
em nhằm hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp
Một. Trường mầm non có tư cách pháp nhân và có con dấu riêng [22, tr 41].

Theo Luật Giáo dục 2005, chương 1, Điều 4 quy định hệ thống giáo dục
quốc dân bao gồm:
a) Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo;
b) Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông;
c) Giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề;
d) Giáo dục đại học và sau đại học (sau đây gọi chung là giáo dục đại học)
đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ.
Chương II, Điều 21 quy định: "Giáo dục Mầm non thực hiện việc nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng tuổi đến sáu tuổi"
1.2.1.2. Nhiệm vụ và quyền của trường mầm non
Trường mầm non có những quyền hạn và nhiệm vụ sau:
21


- Tổ chức thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba đến
sáu tháng tuổi theo chương trình giáo dục mầm non do Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo ban hành.
- Huy động trẻ em lứa tuổi mầm non đến trường; Tổ chức giáo dục hoà
nhập cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em khuyết tật.
- Quản lý cán bộ, giáo viên, nhân viên để thực hiện nhiệm vụ nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục trẻ.
- Huy động quản lý, sử dụng các nguồn lực theo quy định của pháp luật
- Xây dựng cơ sở vật chất theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá hoặc theo
yếu cầu tối thiểu đối với vùng đặc biệt khó khăn.
- Phối hợp với gia đình trẻ em, tổ chức, cá nhân để thực hiện hoạt động
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em.
- Tổ chức cho cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và trẻ em tham gia các
hoạt động xã hội trong cộng đồng.
- Thực hiện kiểm định chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ
em theo quy định.

- Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Theo Điều lệ trường mầm non ban hành theo Quyết định số 14/2008/QĐBGD-ĐT ngày 7/4/2008, tại chương II Điều 6 quy định:
1. Nhà trường, nhà trẻ có tư cách pháp nhân, có tài khoản và con dấu riêng.
2. Nhà trường, nhà trẻ hỗ trợ các nhóm, lớp mẫu giáo độc lập trên cùng
một địa bàn theo sự phân công của cấp có thẩm quyền và thực hiện các nhiệm vụ
nêu tại Điều 2 của Điều lệ này.
1.2.2. Cán bộ quản lý trường mầm non
1.2.2.1. Khái niệm về cán bộ quản lý
Theo từ điển Tiếng Việt, cán bộ quản lý là: "Người làm công tác có chức
vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người không có chức vụ" [79,
tr.45].
Cán bộ quản lý gồm 2 loại:

22


Loại thứ nhất: Cán bộ quản lý của các cấp quản lý giáo dục (từ cơ quan
ngang Bộ tới phòng Giáo dục và Đào tạo các huyện, thị, thành phố). Đây là đội
ngũ cán bộ quản lý giáo dục tham gia hoạch định các chính sách vĩ mô về giáo
dục và đào tạo hoặc cụ thể hoá và thực thi chính sách giáo dục và đào tạo.
Loại thứ hai: Cán bộ quản lý trường học là đội ngũ cán bộ quản lý điều
hành thực hiện quá trình giáo dục tại các trường học, các cơ sở giáo dục.
Cán bộ quản lý được đề cập trong luận án là cán bộ quản lý trường mầm
non bao gồm: Hiệu trưởng và Phó Hiệu trưởng.
Cán bộ quản lý là chủ thể quản lý gồm những người giữ vai trò tác động,
ra lệnh, kiểm tra đối tượng quản lý. Cán bộ quản lý là người chỉ huy, lãnh đạo, tổ
chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của tổ chức. Người quản lý vừa là người
lãnh đạo, quản lý các cơ quan đó, vừa là người chịu sự lãnh đạo, quản lý của cấp
trên.

Cán bộ quản lý có thể là cấp trưởng hoặc cấp phó của một tổ chức được cơ
quan cấp trên bổ nhiệm bằng quyết định hành chính Nhà nước. Cấp phó giúp
việc cho cấp trưởng, chịu trách nhiệm trước cấp trưởng và chịu trách nhiệm
trước pháp luật về công việc được phân công.
Cán bộ quản lý được chia ra thành nhiều cấp bậc khác nhau: Cán bộ quản
lý cấp Trung ương, cán bộ quản lý cấp địa phương, cán bộ quản lý cấp cơ sở.
Như vậy, cán bộ quản lý là chủ thể quản lý, là người có chức vụ trong tổ chức
được cấp trên ra quyết định bổ nhiệm; người có vai trò, tác động, ra lệnh, kiểm
tra đối tượng quản lý; Người có phẩm chất, năng lực phù hợp theo yêu cầu của
khung năng lực để đủ khả năng sử dụng các nguồn lực nhằm thực hiện đạt các
mục tiêu của tổ chức.
1.2.2.2. Cán bộ quản lý trường mầm non
Như vậy, có thể hiểu: Cán bộ quản lý nhà trường chính là những người
đứng đầu nhà trường hoặc các tổ chức của nhà trường được tập hợp lại thành
một lực lượng". Và cán bộ quản lý trường mầm non chính là những người đứng
đầu trường mầm non được cấp trên ra quyết định bổ nhiệm, bao gồm Hiệu
trưởng và Phó Hiệu trưởng. cán bộ quản lý trường mầm non là người người có
23


vai trò, tác động, ra lệnh, kiểm tra đối tượng quản lý; Người có phẩm chất, năng
lực theo yêu cầu của chuẩn hiệu trưởng trong giai đoạn hiện nay để từ đó đủ khả
năng, năng lực sử dụng các nguồn lực nhằm thực hiện đạt các mục tiêu của nhà
trường.
1.2.2.3. Vị trí, vai trò, quyền hạn và nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ quản lý trường
mầm non.
Cán bộ quản lý trường mầm non được đề cập trong đề tài bao gồm: hiệu
trưởng và Phó hiệu trưởng.
* Hiệu trưởng trường mầm non:
Là người chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động của nhà trường, Hiệu

trưởng các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền bổ nhiệm, công nhận. Hiệu trưởng được đào tạo, bồi dưỡng về
nghiệp vụ quản lý trường học [42, tr.186].
Điều 16 của Điều lệ trường mầm non ban hành theo Quyết định
số14/2008/BGDĐT ra ngày 7 tháng 4 năm 2008 và Thông tư số 44/2010/
TT/BGDĐT ngày 30 tháng 12 năm 2010 và Thông tư số 05/2011/TT/BGDĐT
ngày 10 tháng 2 năm 2011 về việc sửa đổi một số Điều trong Điều lệ trường
mầm non đã quy định rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trưởng
trường mầm non như sau:
1. Hiệu trưởng nhà trường, nhà trẻ là người chịu trách nhiệm tổ chức, quản
lý các hoạt động và chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em của nhà
trường, nhà trẻ.
2. Hiệu trưởng do Trưởng phòng giáo dục và đào tạo bổ nhiệm đối với nhà
trường, nhà trẻ công lập, công nhận đối với nhà trường, nhà trẻ dân lập, tư thục theo
quy trình bổ nhiệm hoặc công nhận Hiệu trưởng của cấp có thẩm quyền.
Nhiệm kỳ của Hiệu trưởng nhà trường, nhà trẻ là 5 năm. Sau 5 năm, Hiệu
trưởng được đánh giá và có thể bổ nhiệm lại hoặc công nhận lại. Đối với nhà
trường, nhà trẻ công lập, mỗi Hiệu trưởng chỉ được giao quản lí một nhà trường
hoặc một nhà trẻ không quá hai nhiệm kì.
Sau mỗi năm học, mỗi nhiệm kì công tác, Hiệu trưởng nhà trường, nhà trẻ
24


được cán bộ, giáo viên trong trường và cấp có thẩm quyền đánh giá về công tác
quản lí các hoạt động và chất lượng giáo dục của nhà trường theo quy định”.
3. Người được bổ nhiệm hoặc công nhận làm Hiệu trưởng nhà trường, nhà
trẻ phải đáp ứng các tiêu chuẩn sau:
a) Có trình độ chuẩn được đào tạo là có bằng trung cấp sư phạm mầm
non, có ít nhất 5 năm công tác liên tục trong giáo dục mầm non. Trường hợp do
yêu cầu đặc biệt của công việc, người được bổ nhiệm hoặc công nhận là Hiệu

trưởng có thể có thời gian công tác trong giáo dục mầm non ít hơn theo quy
định;
b) Đã hoàn thành chương trình bồi dưỡng cán bộ quản lý; có uy tín về
phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, chuyên môn, nghiệp vụ; có năng lực tổ
chức, quản lý nhà trường, nhà trẻ và có sức khoẻ.
4. Nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trưởng
a) Xây dựng quy hoạch phát triển nhà trường; lập kế hoạch và tổ chức
thực hiện kế hoạch giáo dục từng năm học; báo cáo, đánh giá kết quả thực hiện
trước Hội đồng trường và các cấp có thẩm quyền;
b) Thành lập các tổ chuyên môn, tổ văn phòng và các hội đồng tư vấn
trong nhà trường, nhà trẻ; bổ nhiệm tổ trưởng, tổ phó. Đề xuất các thành viên
của Hội đồng trường trình cấp có thẩm quyền quyết định;
c) Phân công, quản lý, đánh giá, xếp loại; tham gia quá trình tuyển dụng,
thuyên chuyển; khen thưởng, thi hành kỷ luật đối với giáo viên, nhân viên theo
quy định;
d) Quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính, tài sản của nhà
trường, nhà trẻ;
đ) Tiếp nhận trẻ em, quản lý trẻ em và các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục trẻ em của nhà trường, nhà trẻ; quyết định khen thưởng, phê duyệt kết quả
đánh giá trẻ theo các nội dung nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em do Bộ Giáo
dục và Đào tạo quy định;
25


×