Tải bản đầy đủ (.pdf) (155 trang)

Chiến tranh nhân dân trên tuyến đường hà nội hải phòng dưới sự lãnh đạo của đảng (1946 1954)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.19 MB, 155 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

ĐINH THỊ MAI

ĐẢNG BỘ HUYỆN YÊN MÔ (NINH BÌNH)
THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG ĐẢNG
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

ĐINH THỊ MAI

ĐẢNG BỘ HUYỆN YÊN MÔ (NINH BÌNH)
THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG ĐẢNG
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2015

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15

LUẬN VĂN THẠC SĨ


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trần Hồng Hải

Hà Nội - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi, không sao
chép của ai. Nội dung luận văn dựa trên kiến thức lý luận về xây dựng Đảng và qua
nghiên cứu, khảo sát thực tiễn quá trình xây dựng Đảng của địa phương, dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Trần Hồng Hải. Các số liệu được trình bày có nguồn
gốc rõ ràng, tuân thủ đúng nguyên tắc và kết quả trình bày trong luận văn được thu
thập trong quá trình nghiên cứu là trung thực, chưa từng được ai công bố trước đây.
Tác giả luận văn

Đinh Thị Mai


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới người thầy hướng
dẫn TS.Trần Hồng Hải, người đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo và đóng góp những
ý kiến quý báu trong suốt thời gian tôi tiến hành nghiên cứu, hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu, Phòng Sau đại học, các thầy
cô giáo và đặc biệt là các thầy cô trong bộ môn Lịch sử Đảng, Khoa Lịch sử Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã nhiệt tình giảng dạy, tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho chúng tôi trong suốt quá trình học tập cũng như thực hiện luận
văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ và nhân viên Kho lưu trữ Văn phòng
Tỉnh uỷ tỉnh Ninh Bình, Kho lưu trữ Văn phòng Huyện ủy, Ban tổ chức của huyện
Yên Mô đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình khai thác và tìm kiếm tư liệu.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, người thân, bạn bè đã
luôn động viên, khích lệ để tôi hoàn thành khoá học.


Hà Nội, ngày 24 tháng 9 năm 2016
Tác giả luận văn

Đinh Thị Mai


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ....................................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................5
5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu ................................6
6. Đóng góp của luận văn ..........................................................................................7
7. Kết cấu của luận văn .............................................................................................7
Chƣơng 1. ĐẢNG BỘ HUYỆN YÊN MÔ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY
DỰNG ĐẢNG (2001 - 2005) .....................................................................................8
1.1. Các nhân tố tác động đến công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Yên Mô.8
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ................................................................8
1.1.2.Thực trạng công tác xây dựng Đảng ở Đảng bộ huyện Yên Mô trước năm
2001 ...........................................................................................................................10
1.2. Đảng bộ huyện Yên Mô thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng trong những
năm 2001 - 2005 ......................................................................................................14
1.2.1. Chủ trương của Đảng, của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình và Đảng bộ huyện Yên
Mô về công tác xây dựng Đảng ...............................................................................14
1.2.1.1. Chủ trương của Đảng ..................................................................................14
1.2.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình và Đảng bộ huyện Yên Mô..................16
1.2.2. Đảng bộ huyện Yên Mô chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng ở địa
phương ......................................................................................................................21

Tiểu kết chƣơng 1 ....................................................................................................38
Chƣơng 2. CHỦ TRƢƠNG VÀ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN YÊN MÔ
VỀ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG ĐẢNG (2006 - 2015) .....................39
2.1. Đảng bộ huyện Yên Mô lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng trong
những năm 2006 - 2010 ...........................................................................................39
2.1.1. Đảng bộ huyện Yên Mô vận dụng chủ trương của Đảng và của Đảng bộ
tỉnh Ninh Bình trong hoạch định chủ trương về công tác xây dựng Đảng ..........39
2.1.1.1. Chủ trương của Đảng ..................................................................................39


2.1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình và Đảng bộ huyện Yên Mô ....................40
2.1.2. Quá trình Đảng bộ huyện Yên Mô chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng
Đảng ở địa phương ..................................................................................................43
2.2. Đảng bộ huyện Yên Mô đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng
trong những năm 2011 - 2015 ................................................................................57
2.2.1. Chủ trương của Đảng bộ huyện Yên Mô về công tác xây dựng đảng........57
2.2.1.1. Chủ trương của Đảng .................................................................................57
2.2.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình và Đảng bộ huyện Yên Mô..................59
2.2.2. Đảng bộ huyện Yên Mô đẩy mạnh chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng
Đảng ở địa phương ..................................................................................................62
Tiểu kết chƣơng 2 ....................................................................................................75
Chƣơng 3. NHẬN XÉT CHUNG VÀ CÁC KINH NGHIỆM CHỦ YẾU .........77
3.1. Nhận xét chung .................................................................................................77
3.1.1. Về những thành tựu cơ bản...........................................................................77
3.1.2. Về những hạn chế chủ yếu ............................................................................84
3.2. Một số kinh nghiệm ..........................................................................................87
Tiểu kết chƣơng 3 ....................................................................................................97
KẾT LUẬN ..............................................................................................................98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................100
PHỤ LỤC



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCH

Ban Chấp hành

BTV

Ban Thường vụ

CNH, HĐH

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

HĐND

Hội đồng nhân dân

Nxb

Nhà xuất bản

TCCSĐ


Tổ chức cơ sở Đảng

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

TSVM

Trong sạch vững mạnh

TW

Trung ương

UBKT

Uỷ ban kiểm tra

UBND

Uỷ ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX đã trải qua nhiều bước thăng trầm, và đã
có bước phát triển mang tính cách mạng, đột biến. Đó là sự kiện dân tộc ta đứng lên
làm cách mạng giải phóng dân tộc, lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, giành độc
lập dân tộc, kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ,
thống nhất đất nước. Bước vào công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo đã từng bước đưa đất nước đi lên và đạt được nhiều thành tựu to lớn, hướng tới
mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” hội nhập với cộng
đồng quốc tế. Đó là kết quả của nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó, đặc biệt
phải kể đến tác động tích cực từ những thành quả đạt được trong công cuộc đổi mới,
chỉnh đốn Đảng.
Tổng kết quá trình lãnh đạo, một trong những bài học kinh nghiệm xuyêt
suốt của cách mạng Việt Nam, đó là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng
đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Và để có được đường lối lãnh
đạo đúng đắn đó, vấn đề có ý nghĩa then chốt là Đảng cần phải được xây dựng vững
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Thực tiễn cho thấy càng đi vào đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN trong bối cảnh nước ta mở cửa, hội nhập càng cần có sự lãnh đạo của
Đảng và coi trọng công tác xây dựng Đảng để nắm bắt thời cơ, thuận lợi, khắc phục
khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam XHCN. Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng của nước ta trong
những năm gần đây đang đứng trước nhiều yêu cầu, đòi hỏi mới. Dưới tác động tiêu
cực của mặt trái cơ chế thị trường đã xuất hiện tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Bên cạnh đó là sự chống phá quyết liệt của
các thế lực thù địch, phản động nhằm vào Đảng. Do đó, tăng cường công tác xây
dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay vừa là yêu cầu bức thiết của thực tiễn tiến trình
xây dựng và bảo vệ chế độ, bảo vệ đất nước, đồng thời là đòi hỏi cấp bách đặt ra

trong quá trình phát triển và hội nhập.

1


Huyện Yên Mô thuộc tỉnh Ninh Bình được tái lập năm 1996, vốn là vùng đất
có bề dày lịch sử và văn hóa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, cùng với nhân dân cả
nước, nhân dân Yên Mô đang ngày đêm ra sức lao động, với tinh thần cần cù, đôi
bàn tay khéo léo và óc sáng tạo, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách của
thời đại và lịch sử để xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh. Hòa nhập
trong công cuộc đổi mới đất nước, huyện Yên Mô hơn 10 năm qua đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế, xã hội. Đánh giá về những nỗ lực của Đảng
bộ và nhân dân huyện Yên Mô trong việc thực hiện những mục tiêu phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội những năm qua, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Yên
Mô lần thứ XVII có đoạn viết: “kinh tế liên tục phát triển, cơ cấu kinh tế chuyển
dịch theo hướng tích cực. Văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ, an sinh xã hội được đảm
bảo, đời sống nhân dân ổn định và được cải thiện. An ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội được giữ vững” [6, tr. 12]. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn nhiều khó khăn và
tồn tại cần khắc phục.
Những thành tựu đã đạt được cùng với những tồn tại của Đảng bộ huyện Yên
Mô trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội giai đoạn từ 2001 đến 2015
cũng gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng. Mặt khác, nghiên cứu
quá trình Đảng bộ huyện Yên Mô thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng là đồng thời
đặt nó trong mối quan hệ biện chứng với tình hình thực hiện ở các địa phương khác
trên cả nước, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm trong công tác xây dựng Đảng của
Đảng bộ Yên Mô trong thời gian tới chính là một trong những mục đích quan trọng
mà đề tài hướng đến.
Từ những nhận thức ở trên tôi đã chọn đề tài: “Đảng bộ huyện Yên Mô
(Ninh Bình) thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ năm 2001 đến năm 2015”
làm Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là một nhiệm vụ quan trọng mang tính then chốt
trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta. Chủ trương, đường lối về xây dựng
Đảng của Đảng ta luôn luôn được đề cập đến trong các kì Đại hội. Để thấy được vai
trò quan trọng của công tác xây dựng Đảng, từ trước tới nay đã có không ít công

2


trình nghiên cứu về vấn đề này dưới nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau. Tiêu
biểu là:
Thứ nhất, những công trình nghiên cứu đề cập đến những vấn đề lý luận
chung về công tác xây dựng Đảng theo chủ nghĩa Mac - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đáng chú ý là các tác phẩm: Mấy vấn đề về xây dựng chỉnh đốn Đảng, của
Lê Đức Bình, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002; Những nhiệm vụ cấp
bách của công tác xây dựng Đảng, của Lê Đức Thọ, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội,
1986; Xây dựng Đảng về tổ chức (tập 1), của Ngô Đức Tĩnh (Chủ biên), Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001; Xây dựng Đảng vững mạnh thời kỳ đổi mới
đất nước, của Nguyễn Văn Vinh, Nguyễn Đức Thịnh, Nhà xuất bản Lao động, Hà
Nội, 2000; Một số vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và nâng cao
chất lượng hệ thống chính trị cấp cơ sở, của PGS.TS Phan Xuân Biên (Chủ biên),
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (Chủ biên), 2005; Đổi mới
công tác kiểm tra, kỉ luật nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn
cách mạng mới, của Nguyễn Thị Doan (Chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2006; Xây dựng Đảng rèn luyện đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
của Đại tá, TS. Phạm Gia Đức, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003;
Đảng Cộng sản Việt Nam 70 năm xây dựng và trưởng thành, của Lê Khả Phiêu,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Đảng Cộng sản Việt Nam những vấn đề
cơ bản về xây dựng Đảng, của GS.TS Mạch Quang Thắng, Nhà xuất bản Lao động,
2007; Xây dựng chỉnh đốn Đảng một số vấn đề lý luận và thực tiễn, của GS.TS

Nguyễn Phú Trọng, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005; Đề cương bài
giảng xây dựng Đảng (dành cho hệ cao cấp lý luận chính trị), của Khoa Xây dựng
Đảng, Học viện Chính trị hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính
trị hành chính, Hà Nội, 2011.
Thứ hai, các bài báo, công trình khoa học công bố trên các tạp chí khoa học
như của Nguyễn Vũ Cân: “Ngăn chặn đẩy lùi tệ quan liêu, thạm nhũng - biện pháp
quan trọng tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngang tầm nhiệm vụ”, Tạp chí Cộng
sản, số 1, tr. 60-63, 2006; Dương Trung Ý: “Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở
Đảng và đảng viên dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội X”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số
8, tr. 43-46, 2006; Nguyễn Đức Hạt: “Tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ then chốt tạo

3


chuyển biến cơ bản trong công tác xây dựng Đảng”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 5,
tr. 30-34, 2006; Hiền Lương: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở Đảng trong điều kiện hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 10, tr. 3033, 2006; Lý Thị Bích Hồng: “Quán triệt quan điểm Hồ Chí Minh về công tác tư
tưởng, lý luận trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số
3, tr. 44-46 , 2005; bài “Tổng quan hội thảo về nâng cao năng lực và sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở Đảng ở nông thôn”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 12, tr. 63-66, 2004;
bài “Đổi mới và chỉnh đốn Đảng đồng bộ về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức,
phương thức lãnh đạo”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 2+3, tr. 3-4, 2005.
Thứ ba, một số luận án, luận văn. Đáng chú ý là các luận án, luận văn của
các tác giả: Nguyễn Danh Lợi, Công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ liên khu IV từ
tháng 11-1946 đến tháng 7-1954, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội, 2012; Nguyễn Thị Thu Hương, Đảng lãnh đạo
thực hiện công tác tư tưởng thời kỳ 1986 - 2000, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, chuyên
ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Trường Đại học KHXH và NV, Hà Nội,
2001; Đoàn Thị Khánh Hà, Đảng bộ thành phố Việt Trì thực hiện nhiệm vụ xây
dựng Đảng thời kỳ 1996 - 2000, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử

Đảng Cộng sản Việt Nam, Trường Đại học KHXH và NV, Hà Nội, 2002; Nguyễn
Thị Lan Phương, Quá trình củng cố và phát triển tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ
thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam trong thời kỳ 1991 - 2000, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử,
chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Trường Đại học KHXH và NV,
Hà Nội, 2002; Ngô Thị Lan Hương, Đảng bộ huyện Sóc Sơn thực hiện nhiệm vụ xây
dựng Đảng từ năm 1996 đến năm 2010, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Trường Đại học KHXH và NV, Hà Nội, 2012.
Mặt khác, đề cập đến công tác xây dựng Đảng ở Ninh Bình hiện nay không
thể không kể đến một số cuốn sách như: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Ninh Bình (tập 1) và
Lịch sử Đảng bộ tỉnh Ninh Bình (tập 2) do BCH Đảng bộ tỉnh Ninh Bình biên soạn.
Ở Yên Mô, Ban Tuyên giáo Huyện ủy cũng phối hợp với các địa phương cho ra đời
các cuốn lịch sử Đảng bộ xã và Lịch sử Đảng bộ huyện Yên Mô (giai đoạn 1930 2005). Những công trình nghiên cứu kể trên đã nêu lên một cách tổng quát những
vấn đề cơ bản, cốt cán của công tác xây dựng Đảng của cả nước cũng như của nhiều
tỉnh, nhiều huyện qua những thời kỳ khác nhau, song chưa có một công trình nghiên
4


cứu riêng biệt nào trình bày một cách đầy đủ quá trình Đảng bộ huyện Yên Mô thực
hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng trong giai đoạn 2001 - 2015 mà chủ yếu mới được đề
cập đến trong các báo cáo của Huyện ủy, Ban Tuyên giáo và các ban ngành có liên
quan. Những báo cáo đó là nguồn tài liệu quan trọng cung cấp cơ sở lý luận, tư liệu
để tác giả hoàn thành luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ huyện Yên Mô thực hiện nhiệm vụ
xây dựng Đảng giai đoạn 2001 - 2015, luận văn rút ra một số kinh nghiệm của Đảng
bộ trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng những năm qua để
Đảng bộ huyện vận dụng thực hiện thắng lợi công tác xây dựng Đảng trong thời
gian tới.
3.2. Nhiệm vụ

- Trình bày các yếu tố tác động đến công tác xây dựng Đảng ở Đảng bộ
huyện Yên Mô.
- Trình bày có hệ thống quá trình Đảng bộ huyện thực hiện các nhiệm vụ của
công tác xây dựng Đảng ở địa phương trong những năm 2001 - 2015.
- Rút ra những nhận xét về thành tựu, hạn chế, bài học kinh nghiệm từ quá
trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Yên Mô trong những
năm 2001 - 2015.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu quá trình Đảng bộ huyện Yên Mô (Ninh Bình) thực
hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ năm 2001 đến năm 2015 trên cơ sở những chủ
trương, kế hoạch, giải pháp của Đảng và của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Luận văn tìm hiểu chủ trương về xây dựng Đảng của Đảng, của
Đảng bộ tỉnh Ninh Bình và Đảng bộ huyện Yên Mô qua các kỳ Đại hội. Từ đó tìm hiểu
quá trình Đảng bộ huyện Yên Mô thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng ở địa phương
trên các phương diện: chính trị, tư tưởng và tổ chức. Từ những thành tựu và hạn chế
của công tác xây dựng Đảng ở Yên Mô (giai đoạn (2001 - 2015)) để rút ra những bài

5


học kinh nghiệm có ý nghĩa thực tiễn đối với công tác xây dựng Đảng ở Yên Mô
những năm về sau.
- Thời gian: Từ năm 2001 đến năm 2015.
- Không gian: Trên địa bàn huyện Yên Mô.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản. Những chủ

trương, đường lối về xây dựng Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước
của Đảng Cộng sản Việt Nam
5.2. Nguồn tài liệu
- Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mac - Lênin và Hồ Chí Minh về
công tác xây dựng Đảng.
- Các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam
khóa IX, X, XI, XII; Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ
XIII, XIV, XV, XVI, XVII.
- Các công trình nghiên cứu khoa học, các sách, báo, tạp chí có liên quan do
các cơ sở nghiên cứu khoa học có uy tín công bố.
- Nguồn tư liệu chính của luận văn là các Nghị quyết Đại hội, Hội nghị của
tỉnh Ninh Bình, Huyện ủy Yên Mô, các Chương trình hành động, báo cáo tổng kết
hàng năm của Đảng bộ huyện Yên Mô. Đây là nguồn tài liệu quan trọng nhất giúp
tác giả nắm chắc và trình bày có hệ thống những chủ trương, phương hướng, nhiệm
vụ và quá trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng ở Đảng bộ.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận văn là phương pháp của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và các phương pháp nghiên cứu của
khoa học lịch sử nói chung, các chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
nói riêng. Cụ thể, luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp như: phương pháp
lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, mô tả, so sánh số liệu, đặc biệt là sự kết hợp
chặt chẽ phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic để làm rõ nội dung cần nghiên
cứu.

6


6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần hệ thống hóa những quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Đảng bộ tỉnh Ninh Bình và Đảng bộ huyện Yên Mô về xây dựng Đảng trong

những năm 2001 - 2015. Dựng lại quá trình Đảng bộ huyện Yên Mô thực hiện nhiệm
vụ xây dựng Đảng từ năm 2001 đến năm 2015.
- Nêu lên những nhận xét về thành tựu, hạn chế của công tác xây dựng Đảng ở
huyện Yên Mô từ năm 2001 đến năm 2015.
- Nêu lên một số kinh nghiệm trong quá trình Đảng bộ huyện Yên Mô thực
hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng làm bài học kinh nghiệm quý báu cho quá trình xây
dựng Đảng của Đảng bộ huyện ở những năm tiếp theo.
- Luận văn khi hoàn thành có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ, đảng
viên, giảng viên, học sinh, sinh viên nghiên cứu vấn đề thực hiện nhiệm vụ xây dựng
Đảng của Đảng bộ huyện Yên Mô từ năm 2001 đến năm 2015.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được bố cục làm ba chương:
Chương 1: Đảng bộ huyện Yên Mô thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ
năm 2001 đến năm 2005.
Chương 2: Đảng bộ huyện Yên Mô thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ
năm 2006 đến năm 2015.
Chương 3: Nhận xét chung và các kinh nghiệm chủ yếu

7


Chƣơng 1
ĐẢNG BỘ HUYỆN YÊN MÔ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG ĐẢNG
(2001 – 2005)
1.1. Các nhân tố tác động đến công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ
huyện Yên Mô
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
* Điều kiện tự nhiên
Huyện Yên Mô nằm ở phía Nam tỉnh Ninh Bình. Phía Đông giáp huyện Kim

Sơn. Phía Bắc giáp huyện Hoa Lư và huyện Yên Khánh, được ngăn cách bởi sông
Vạc. Phía Tây giáp thành phố Tam Điệp, phía Nam giáp huyện Nga Sơn và huyện
Hà Trung (tỉnh Thanh Hoá), được ngăn cách bởi dãy núi Tam Điệp.
Hệ thống giao thông đường bộ của huyện có quốc lộ 1A và đường sắt Bắc Nam chạy qua, đường 59 chạy dọc huyện từ Bình Sơn đến Lợi Hoà dài 18km;
đường Mùa Thu nối Yên Mô với thành phố Tam Điệp, thị trấn Phát Diệm (huyện
Kim Sơn) và một số con đường mới được xây dựng tạo thuận lợi cho giao lưu, phát
triển kinh tế, văn hoá và xây dựng quốc phòng phục vụ công cuộc bảo vệ đất nước
khi có chiến tranh xảy ra. Bên cạnh đó là hệ thống sông ngòi nằm rải đều trong
huyện. Sông Vạc, sông Ghềnh, kênh đào nhà Lê chảy dọc huyện từ Bắc xuống Nam
và thông ra biển. Sông Bút cùng sông Trinh Nữ nối liền với sông Tống Giang đi
Thanh Hoá, khu 4. Với hệ thống đường bộ, đường thủy này các phương tiện giao
thông có thể di chuyển đến nhiều nơi trong và ngoài tỉnh một cách dễ dàng.
Địa hình của huyện Yên Mô không bằng phẳng, có vùng đồng mầu mùa, vùng
đồng chiêm trũng và vùng bán sơn địa.
Yên Mô nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa. Do địa hình ngăn cách nên có
những đặc điểm khí hậu riêng. Dãy núi Tam Điệp nằm ở phía Nam chắn gió mùa
Đông Bắc mùa đông tràn về nên nhiệt độ xuống thấp đột ngột, tạo nên hiện tượng
khô hanh kéo dài từ tháng 10 năm trước đến tháng 4 năm sau. Về mùa hè, gió Tây
Nam từ miền trung (khu IV cũ) tràn sang rất nóng, có ngày nhiệt độ lên đến 39-400C.
Vào những tháng cuối mùa hè, đầu mùa thu nhiệt độ giảm, lượng mưa tăng đột biến

8


kèm theo giông bão, nước từ trên rừng núi và nước mưa tại chỗ hợp lại dâng cao gây
lũ lụt.
*Điều kiện kinh tế - xã hội
Tình hình kinh tế - xã hội của huyện Yên Mô trước năm 2001 tác động đến sự
phát triển kinh tế - xã hội và công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn mới.
Theo báo cáo của BCH Đảng bộ huyện Yên Mô tại Đại hội đại biểu Đảng bộ

huyện Yên Mô lần thứ XIV (11/2000), trong nông nghiệp, bình quân lương thực đầu
người đã tăng từ 569kg (năm 1996) lên 628kg (năm 1999); sản xuất công nghiệp và
tiểu thủ công nghiệp tăng trưởng khá, giá trị tiểu thủ công nghiệp bình quân 4 năm
(1996 – 1999) đạt 33,2 tỷ đồng, tăng 8,6%/năm [2, tr. 6]. Dịch vụ có bước phát triển,
chất lượng dịch vụ tăng lên. Giá trị dịch vụ bình quân hàng năm tăng 11,9%. Cơ cấu
kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng công nghiệp tăng từ 11,4%
(năm 1998) lên 12,1% (năm 1999), nông nghiệp giảm từ 77,9% (năm 1998) xuống
còn 76,7% (năm 1999) [2, tr. 7].
Yên Mô là một trong những huyện có mạng lưới cơ sở y tế, giáo dục phát
triển. Về giáo dục, 100% số trẻ em trong độ tuổi vào tiểu học, THPT hàng năm đạt từ
55-65%; 100% số xã, thị trấn hoàn thành phổ cập THCS; có 6 trường được công nhận
đạt chuẩn Quốc gia (Mầm non: 2; Tiểu học: 1; THCS: 3). Về y tế, trên địa bàn huyện
hiện có 1 bệnh viện đa khoa, 11 trạm y tế xã và nhiều cơ sở khám chữa bệnh tư nhân,
đại lý bán thuốc phục vụ chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Hàng năm đã
khám và điều trị cho hàng chục nghìn lượt người, đảm bảo tốt công tác chăm sóc sức
khỏe ban đầu cho nhân dân, không có dịch bệnh lớn xảy ra trên địa bàn. Phong trào
thể dục thể thao, rèn luyện thân thể, thực hiện nếp sống văn minh được đông đảo
quần chúng nhân dân hưởng ứng và thực hiện nghiêm túc. Các chính sách xã hội,
chính sách đối với người có công, thực hiện mục tiêu giảm nghèo được triển khai kịp
thời, đúng đối tượng, có hiệu quả. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 16,2% (năm 1996)
xuống còn 5,4% (năm 2000). Các xã phần lớn đều đã có nhà văn hóa khang trang,
phục vụ cho nhu cầu hội họp, sinh hoạt văn hóa của nhân dân.
Về mặt xã hội: Tính đến năm 2002, dân số trung bình của huyện Yên Mô là
178 256 người, “trong đó có khoảng 20% dân số theo đạo công giáo” [7, tr. 13]. Cư
dân trong huyện sinh sống bằng nghề nông là chủ yếu, tuy nhiên bên cạnh đó Yên
9


Mô còn là quê hương của nhiều làng nghề truyền thống như: nghề mộc ở Côi Trì, nề
ở Bình Hải, dệt vải, làm thảm ở Nộn Khê, đan chài lưới ở Yên Lâm, đan lát mây tre ở

Yên Phú, làm bún ở Khánh Dương, làm gạch ở Yên Phong, Khánh Thịnh… nhiều
sản phẩm của Yên Mô có tiếng trong nước.
Tình hình tôn giáo ở huyện Yên Mô trước năm 2001 về cơ bản là ổn định,
nhìn chung không xảy ra các hiện tượng phức tạp. Trên địa bàn huyện có 2 loại tôn
giáo đang hoạt động là đạo Phật và đạo Thiên chúa. Một bộ phận giáo dân đạo Thiên
chúa đã tham gia vào tổ chức cơ sở Đảng, phát huy được tính tiên phong của đảng
viên trong các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Như vậy, trình độ kinh tế, dân trí và trình độ văn hóa – xã hội của cư dân Yên
Mô có sự phát triển khá. Thu nhập và đời sống của đa số dân cư trước năm 2001 đã
được cải thiện và nâng cao đáng kể. Đặc điểm nổi trội của con người Yên Mô là
truyền thống lao động cần cù, vượt lên mọi khó khăn để phát triển sản xuất, là truyền
thống hiếu học, tinh thần đoàn kết, giàu lòng nhân ái, mến khách và giàu sức sáng tạo
trong phát triển kinh tế, mở mang văn hóa – xã hội. Đây là một nguồn lực đặc biệt
quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
1.1.2. Thực trạng công tác xây dựng Đảng ở Đảng bộ huyện Yên Mô trước
năm 2001
Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ Ninh Bình, ngày 10/8/1948, Đại hội Đảng
bộ huyện Yên Mô lần thứ nhất đã được tổ chức tại đình Đông (Côi Trì - Yên Mỹ).
Tại thời điểm này toàn Đảng bộ có hơn 2000 đảng viên. Đại hội đã bầu BCH Đảng
bộ huyện (khoá I) gồm 9 uỷ viên. Đồng chí Lê Văn Dung được bầu làm Bí thư
Huyện uỷ. Đến tháng 8/1948, ở Yên Mô các xã đều thành lập được chi bộ Đảng.
Trong đó, “xã Đại Đồng 286 đảng viên, xã Thanh Bình 293 đảng viên, xã Yên Mạc
171 đảng viên, xã Hà Trung 214 đảng viên” [7, tr. 58].
Từ cuối năm 1956, cùng với cả nước, thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ
10 BCHTW Đảng (khoá II), Huyện uỷ Yên Mô đã chỉ đạo các cấp các ngành tiến
hành sửa sai trong cải cách ruộng đất. Bên cạnh đó, công tác xây dựng Đảng càng
được Đảng bộ quan tâm. Công tác kiểm tra, giữ gìn kỉ luật trong Đảng được tăng
cường. Cũng trong năm này có 23 đảng viên bị xử lý kỷ luật, 17 đảng viên bị cảnh
cáo, 6 đảng viên bị khai trừ ra khỏi tổ chức Đảng. Trung tuần tháng 10/1961, Đảng


10


bộ huyện Yên Mô họp Đại hội lần thứ VI, đồng chí Lương Văn Nhân được bầu làm
Bí thư Huyện uỷ.
Thực hiện Nghị quyết số 19 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 40 của Ban Bí
thư TW Đảng, từ quý I năm 1963, “Đảng bộ huyện Yên Mô triển khai cuộc vận động
xây dựng “chi bộ 4 tốt”, “đảng viên 4 tốt” [7, tr. 121]. Sau một năm thực hiện cuộc
vận động, chất lượng đảng viên và TCCSĐ tăng lên rõ rệt. Toàn huyện có 16
TCCSĐ, 80% đạt tiêu chuẩn bốn tốt; 85,6% số đảng viên đạt tiêu chuẩn bốn tốt.
Trong 4 năm 1961-1964, toàn Đảng bộ kết nạp 915 đảng viên mới, nâng tổng số đảng
viên của Đảng bộ lên 4 203 đồng chí.
Tháng 6/1967, Đại hội Đảng bộ huyện Yên Mô lần thứ IX được tổ chức
thành công. Năm 1969, thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị về tăng cường năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, Đảng bộ huyện đã tiến hành cuộc vận động
thực hiện Chỉ thị 192 của Ban Bí thư TW nhằm nâng cao nhận thức chính trị, nâng
cao phẩm chất đạo đức cách mạng, làm trong sạch TCCSĐ ngay từ cơ sở. Sau gần
một năm thực hiện đã đạt được kết quả như sau: toàn Đảng bộ có 80% số TCCSĐ;
92% số đảng viên đạt tiêu chuẩn 4 tốt. Đảng bộ đã ngăn chặn, xử lý nghiêm hàng
chục vụ việc sai trái của cán bộ, đảng viên; xử lý kỉ luật một số cấp uỷ, đảng viên bị
vi phạm Điều lệ Đảng. Trong 3 năm 1969 - 1971, toàn Đảng bộ cử hơn 280 đảng
viên đi chiến đấu, phục vụ chiến đấu, đồng thời kết nạp thêm 370 đảng viên mới.
Thời kỳ 1977 – 1994 là thời kỳ hợp nhất giữa huyện Yên Mô và 9 xã phía
Bắc huyện Yên Khánh. Lúc này tên huyện Yên Mô được chuyển gọi là huyện Tam
Điệp. Thời kỳ này Huyện uỷ vẫn tiếp tục đẩy mạnh và tăng cường công tác xây
dựng Đảng, củng cố, kiện toàn các cấp uỷ cơ sở về số lượng, nâng cao về chất
lượng. Đồng thời, các cấp uỷ Đảng cũng từng bước bổ sung, hoàn thiện quy chế
hoạt động, tích cực đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo.
Ngày 9/11/1982, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Tam Điệp lần thứ II đã
được khai mạc. Đại hội đã đánh giá, kiểm điểm công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện

nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội 4 năm (1977 – 1980) và đề ra
phương hướng, nhiệm vụ 5 năm (1981 – 1985). Trước những diễn biến phức tạp
của kinh tế và đời sống trong nước, công tác xây dựng Đảng được tăng cường.
Trong cả nhiệm kỳ, Đảng bộ đã tổ chức nhiều lớp tập huấn để tạo sự chuyển biến
trong nhận thức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên. Phong trào xây dựng chi, Đảng bộ
11


trong sạch vững mạnh được tiếp tục phát triển, đồng thời tập trung của cố các chi bộ
yếu kém. Kết quả là đã “giảm số chi Đảng bộ yếu kém từ 6% xuống còn 4,2% và
tăng số chi, Đảng bộ trong sạch vững mạnh từ 82% (năm 1981) lên 87% (năm
1985) [7, tr. 176]. Công tác cán bộ cũng được kiện toàn từ huyện đến cơ sở. Sức
chiến đấu của Đảng bộ được nâng lên góp phần thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ
chính trị của huyện.
Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Tam Điệp lần thứ III (từ 15 đến 20/1/1986)
với 144 đại biểu, là Đại hội mở đầu thời kỳ đổi mới. Với tinh thần tôn trọng sự thật,
nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội đã tiến hành kiểm điểm nghiêm túc sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Đại hội Đảng bộ khóa II và đề ra phương hướng, mục tiêu,
nhiệm vụ cơ bản của nhiệm kỳ 1986 – 1990.
Thực hiện Chỉ thị 16 của Ban Bí thư TW Đảng, Nghị quyết 14 của Bộ Chính
trị, công tác xây dựng Đảng của huyện Tam Điệp tập trung chủ yếu vào khâu then
chốt nhất là “làm trong sạch Đảng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở Đảng” [7, tr. 193].
Ngày 4/7/1994, Chính phủ ra Nghị định số 59/CP về việc tách 9 xã thuộc
huyện Yên Khánh trước đây hợp nhất với huyện Yên Mô (năm 1977) nay trở về
thành lập lại huyện Yên Khánh và đổi tên huyện Tam Điệp thành huyện Yên Mô.
Ngày 20/7/1994, Tỉnh ủy Ninh Bình ra Quyết định số 125-QĐ/TU thành lập BCH
Đảng bộ (lâm thời) huyện Yên Mô gồm 24 ủy viên. Đồng chí Bùi Văn Phượng
được chỉ định làm Bí thư Huyện ủy.
Sau khi tái lập đến cuối năm 1995, toàn Đảng bộ huyện có “4 682 đảng viên,

bằng 4,68% dân số. Trong đó có 1 792 đảng viên hưu trí, mất sức chiếm 38%; 694
đảng viên nữ bằng 14,8%; 44 đảng viên gốc giáo bằng 0,9% đang sinh hoạt ở 52
TCCSĐ” [1, tr. 10]. Thực hiện Nghị quyết TW3 về đổi mới và chỉnh đốn công tác
xây dựng Đảng, đến cuối năm 1995 chất lượng đảng viên đã thay đổi rõ rệt. Các
đảng viên tham gia sinh hoạt đầy đủ hơn, ý thức chấp hành Nghị quyết, chấp hành
nguyên tắc Đảng tốt hơn, số đông đảng viên xếp loại đủ tư cách. Số đảng viên
không đủ tư cách phải đưa ra khỏi Đảng rất ít. Bản báo cáo về phân loại đảng viên
ngày 27/5/1995 của Huyện uỷ đã cho thấy rõ chất lượng của đội ngũ đảng viên của
Đảng bộ cụ thể như sau: trong tổng số 4 682 đồng chí, đảng viên đủ tư cách chiếm
69,7%; đủ tư cách có mặt còn hạn chế 26,9%; vi phạm tư cách 2,3%; không đủ tư
12


cách phải đưa ra khỏi Đảng 1,1%. Bên cạnh đó, công tác kiểm tra Đảng cũng được
cấp uỷ hết sức coi trọng, tiến hành thường xuyên. Từ năm 1991 đến năm 1995 đã có
5 658 lượt đảng viên được kiểm tra. Trong đó có 63% đảng viên phấn đấu tốt; 23%
đảng viên phấn đấu có mặt còn hạn chế; 14% đảng viên có vi phạm. Qua kiểm tra
đã phát hiện, xử lý các trường hợp vi phạm, làm rõ các trường hợp có đơn thư khiếu
tố (trong nhiệm kỳ đã xử lý kỷ luật bằng các hình thức 712 trường hợp, trong đó
khai trừ ra khỏi Đảng 40 trường hợp) [1, tr. 11].
Thực hiện Chỉ thị của Tỉnh ủy về “Tổ chức Đại hội Đảng bộ các cấp”, ngày
20/3/1996, tại hội trường huyện, Huyện ủy đã tổ chức Đại hội Đảng bộ huyện lần
thứ XIII với sự hiện diện của hơn 150 đại biểu của 53 TCCSĐ, đại diện cho 4 682
đảng viên toàn Đảng bộ. Với tinh thần “Đoàn kết, dân chủ, kỉ cương”, Đại hội đã
nghiêm túc kiểm điểm công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện đường lối đổi
mới của Đảng bộ trong những năm 1991 – 1995, đồng thời đề ra phương hướng,
nhiệm vụ chủ yếu trong nhiệm kỳ 1996 – 2000. Về công tác xây dựng Đảng, Đảng
bộ tập trung mọi cố gắng để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ: “Tiếp tục đổi mới và
tạo tiến bộ về công tác xây dựng Đảng về cả tư tưởng, tổ chức cán bộ, chất lượng
đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng” [7, tr. 237].

Xác định công tác xây dựng Đảng là then chốt, nhằm nâng cao năng lực tổ
chức và lãnh đạo của cán bộ Đảng từ huyện đến cơ sở, huyện Yên Mô đã chú ý mở
các lớp tập huấn và khóa học lý luận sơ cấp cho các Bí thư chi bộ cơ sở, cử cán bộ
đi học lớp lý luận trung cấp, cao cấp và lớp quản lý Nhà nước. Đội ngũ cán bộ chủ
chốt từ huyện đến cơ sở được kiện toàn và sắp xếp lại. Việc củng cố TCCSĐ và
giáo dục, quản lý đảng viên cơ sở đạt kết quả tương đối tốt. Ở nhiệm kỳ này công
tác phát triển Đảng cũng thu được những kết quả tích cực. Nếu như năm 1996 toàn
huyện có 4 772 đảng viên sinh hoạt tại 51 TCCSĐ, năm 1997 có 4 790 đảng viên
thì năm 1998 đã tăng lên tới 4 916 đảng viên sinh hoạt ở 49 TCCSĐ. Số TCCSĐ
xếp loại TSVM hàng năm đều đạt trên 80%. Về cơ bản đã khắc phục được những
cơ sở Đảng yếu kém. Từ năm 1996 đến năm 2000, Đảng bộ huyện Yên Mô liên tục
được BTV Tỉnh uỷ công nhận là Đảng bộ TSVM.
Như vậy, trước năm 2001, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng cùng với những
nỗ lực, quyết tâm của toàn thể đảng viên và nhân dân trong huyện, Đảng bộ huyện
Yên Mô đã đạt được những thành tựu rất đáng ghi nhận trong công tác xây dựng
13


Đảng (số TCCSĐ đạt tiêu chuẩn TSVM luôn chiếm tỷ lệ cao; số lượng đảng viên mới
được kết nạp năm sau cao hơn năm trước; chất lượng đảng viên ngày càng được nâng
lên v.v…). Tuy nhiên, sự thay đổi về địa giới hành chính cũng gây ra không ít khó
khăn cho công tác xây dựng Đảng về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức ở Yên Mô
thời kỳ trước năm 2001. Đó là những khó khăn mà Đảng bộ Yên Mô cần sớm khắc
phục để đưa sự nghiệp cách mạng huyện nhà vững bước tiến lên trong những giai
đoạn tiếp sau.
1.2. Đảng bộ huyện Yên Mô thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng trong
những năm 2001 - 2005
1.2.1. Chủ trương của Đảng, của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình và Đảng bộ
huyện Yên Mô về công tác xây dựng Đảng
1.2.1.1. Chủ trương của Đảng

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã họp từ ngày 19/4 đến
ngày 22/4/2001, vào thời điểm có ý nghĩa trọng đại: Thế kỷ XXI vừa bắt đầu; toàn
Đảng, toàn dân ta đã trải qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của
Đảng, 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991 2000 và 15 năm đổi mới.
Đại hội IX đã nghiêm túc kiểm điểm và đánh giá những thành tựu cũng như
những khuyết điểm trong thời gian qua, từ đó đề ra những quyết sách cho thời kỳ
tới, phấn đấu nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng nhằm
động viên nhân dân phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp CNH HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN vững bước đi vào thế kỷ mới.
Năm năm qua, bên cạnh những thành tựu mà nhân dân Việt Nam đã đạt được
như: kinh tế tăng trưởng khá; văn hóa - xã hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân
tiếp tục được cải thiện; tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng và an
ninh được tăng cường; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng; hệ
thống chính trị được củng cố… Việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII còn có
những yếu kém, khuyết điểm. Đặc biệt là trong công tác xây dựng Đảng khi việc
giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa ngăn chặn và đẩy lùi được sự
suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức lối sống. Một số tổ chức Đảng ở các cấp
chưa được chỉnh đốn, dân chủ bị vi phạm, kỉ luật, kỉ cương lỏng lẻo…

14


Báo cáo chính trị Đại hội IX đã xác định: “Trong những năm tới toàn Đảng
tiếp tục thực hiện cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng với quyết tâm và nỗ lực
cao hơn, tạo chuyển biến cơ bản trên cả 3 mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức” [15,
tr. 163]. Do vậy, Đại hội đã đề ra những nhiệm vụ quan trọng cho công tác xây
dựng Đảng như sau:
Thứ nhất, giáo dục chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa
cá nhân.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới công tác cán bộ.
Thứ ba, xây dựng, củng cố các TCCSĐ.

Thứ tư, kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Để khẳng định hơn nữa vai trò của công tác xây dựng Đảng trong việc thực
hiện thắng lợi những nhiệm vụ chính trị mới, Hội nghị lần thứ 4 BCH TW Đảng
khóa IX đã đưa ra báo cáo số 31/TLHN của Bộ Chính trị về “Tiếp tục thực hiện
Nghị quyết TW 6 (lần 2) khóa VIII, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí”. Trên cơ sở xem xét, đánh giá
tình hình thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng từ sau Đại hội IX, báo
cáo đã đưa ra một số chủ trương, biện pháp nhằm đẩy mạnh cuộc vận động mà
trọng tâm là ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí. Báo cáo có đoạn viết:
Chống tham nhũng, lãng phí vừa là vấn đề nóng bỏng trước mắt, vừa là cuộc đấu
tranh khó khăn, quyết liệt, lâu dài gắn liền với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Sau khi báo cáo 31 của Bộ Chính trị, ngày 19/11/2001, Hội nghị lần thứ 4
BCH TW đã đưa ra Kết luận số 04-KL/TW và khẳng định: “Quán triệt thực hiện
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, sắp tới cần phải đẩy mạnh cuộc vận động xây
dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết TW 6 (lần 2). Trong đó Hội nghị
đặc biệt nhấn mạnh: “cả ba nội dung cơ bản của Nghị quyết đều phải đi sâu thực
hiện có hiệu quả, trong đó chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ trọng tâm trước
mắt” [72, tr. 254].
Nhằm mục đích cụ thể hóa những nhiệm vụ trong công tác xây dựng Đảng,
Hội nghị lần thứ 5 BCH TW Đảng khóa IX (họp ngày 18/3/2002) đã đưa ra Nghị
quyết về “Nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới”.
Đặc biệt là Nghị quyết về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ
15


sở xã, phường, thị trấn”. Đây là Nghị quyết đầu tiên của TW về vấn đề đổi mới nội
dung và phương thức lãnh đạo của tổ chức Đảng ở cơ sở.
Bên cạnh những Nghị quyết quan trọng kể trên, còn có một số Quyết định,
Chỉ thị khác. Chẳng hạn như: Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 7/6/2001 của Bộ Chính trị
về việc “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW 6 (lần 2) khóa VIII”; Quyết định số 19

của Bộ Chính trị ban hành ngày 3/1/2002 về “Những điều đảng viên không được
làm” v.v…
Đại hội IX là Đại hội kết tinh của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới. Các chủ
trương, đường lối, Nghị quyết về công tác xây dựng Đảng được đưa ra tại Đại hội
đã thể hiện sự nỗ lực, ý chí kiên cường và niềm hi vọng lớn lao của toàn Đảng, toàn
dân tộc trong thời điểm lịch sử trọng đại: bước vào thế kỷ mới và thiên niên kỷ mới.
Việc vận dụng các chủ trương một cách linh hoạt để phù hợp với tình hình thực tiễn
của từng địa phương sẽ đảm bảo cho sự thành công của công tác xây dựng Đảng và
sự nghiệp CNH - HĐH đất nước trong những năm tới.
1.2.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình và Đảng bộ huyện Yên Mô
*Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình
Để chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, xuất phát từ tình hình
thực tế và yêu cầu, đòi hỏi cụ thể của Ninh Bình, ngày 2/1/2001, Đại hội đại biểu
Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ XVIII đã được triệu tập.
Đại hội có ý nghĩa quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển của tỉnh Ninh
Bình trong những năm đầu thế kỷ XXI. Đại hội có nhiệm vụ đánh giá 5 năm thực
hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII và xác định phương hướng, nhiệm
vụ cơ bản, đồng thời cũng chỉ ra những vấn đề cấp thiết cần tập trung giải quyết
nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ về kinh tế - xã hội của Ninh Bình trong nhiệm kỳ
2001 - 2005.
Trong Báo cáo chính trị trình Đại hội có đề cập đến những thành tựu mà
Đảng bộ và nhân dân Ninh Bình đã đạt được những năm vừa qua trên tất cả các lĩnh
vực, trong đó có thành tựu trong công tác xây dựng Đảng đó là: “Cuộc vận động
xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết TW 5 và Nghị quyết TW 6
(lần 2) đã tạo được chuyển biến tích cực: “Công tác xây dựng Đảng được triển khai
toàn diện, thường xuyên. Công tác tư tưởng đã bám sát các nhiệm vụ kinh tế - xã
16


hội và các nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ, nâng cao sự thống nhất về tư tưởng và

hành động. Chất lượng sinh hoạt và phương thức hoạt động của nhiều TCCSĐ được
coi trọng, năng lực lãnh đạo của các cấp ủy được nâng lên. Công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ được coi trọng. Công tác kiểm tra được tăng cường” [77; tr. 23-24].
Bên cạnh đó còn có một số tồn tại: “Công tác tư tưởng tính chiến đấu chưa cao,
chưa sắc bén, có một số cán bộ, đảng viên mất cảnh giác trước những thông tin, tài
liệu có nội dung xấu; nội dung chất lượng sinh hoạt chi bộ còn nhiều hạn chế; việc
thực hiện quy trình trong công tác cán bộ có trường hợp chưa chặt chẽ, vẫn còn tình
trạng bị động, chắp vá, hẫng hụt” [77; tr. 97-98].
Từ những thành tựu và hạn chế này, Đại hội đã thảo luận và đề ra phương
hướng: “Tiếp tục chăm lo, xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, đáp
ứng yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ mới”. Những chủ trương và giải pháp xây
dựng Đảng trong 5 năm tới được Đại hội đề ra cụ thể như sau:
Một là, tăng cường xây dựng Đảng về mặt chính trị, tư tưởng, trước hết phải
gắn chặt với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tổ chức quán triệt và xây dựng
Chương trình hành động, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII. “Thường xuyên rèn
luyện, tu dưỡng, năng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, trình độ năng lực
của cán bộ, đảng viên trên cơ sở thấm nhuần chủ nghĩa Mac - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước” [77, tr. 68].
Chủ động phát hiện kịp thời và đấu tranh kiên quyết với những quan điểm, hành vi
sai trái với cương lĩnh, đường lối, quan điểm, Điều lệ của Đảng, giữ vững trận địa
tư tưởng.
Hai là, coi trọng xây dựng Đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh. Tăng
cường gắn bó chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân, đổi mới, chỉnh đốn, nâng cao chất
lượng hoạt động và sinh hoạt của các loại hình chi bộ, các cấp uỷ; thực hiện nghiêm
túc nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện đúng những điều đảng viên không được
làm; tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng; mọi đảng viên phải được phân
công trách nhiệm cụ thể và thực hiện tốt nhiệm vụ được phân công; thường xuyên
tiến hành tự phê bình và phê bình. Tăng cường công tác phát triển Đảng, đảm bảo
tiêu chuẩn, chất lượng [77, tr. 69].

17


Ba là, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, thực hiện quy hoạch cán bộ, hết sức
coi trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cho trước mắt và lâu dài; từng bước trẻ
hoá đội ngũ cán bộ, quan tâm hơn nữa đến đội ngũ cán bộ nữ các cấp; có chính sách
thu hút, đào tạo, sử dụng nhân tài…[77, tr. 70].
Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra và kỉ luật của Đảng. Xây dựng và kiện
toàn UBKT, tiến hành công tác kiểm tra chặt chẽ, rõ ràng, minh bạch, xử lý nghiêm
các trường hợp vi phạm; đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của UBKT các
cấp theo hướng tăng hiệu lực và trách nhiệm của UBKT.
Năm là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác xây dựng chính quyền các cấp. Chú trọng đào tạo, bồi
dưỡng, nâng cao năng lực công tác cho đại biểu HĐND và đội ngũ cán bộ, công chức;
bố trí những cán bộ có phẩm chất và năng lực vào vị trí công tác chính quyền; tăng
cường mối quan hệ giữa Đảng với dân. [77, tr. 71]
* Chủ trương của Đảng bộ huyện Yên Mô
Thi hành Chỉ thị số 54 - CT/TW của Bộ Chính trị và Kế hoạch của BTV Tỉnh
uỷ Ninh Bình về tổ chức Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX của Đảng, từ ngày 16 đến ngày 18/11/2000, Đảng bộ huyện Yên Mô tiến hành
Đại hội lần thứ XIV nhiệm kỳ 2001 - 2005. Có 180 đại biểu được triệu tập đại diện
cho 4 962 đảng viên toàn Đảng bộ. Trên cơ sở bám sát những chủ trương của Đảng
và Tỉnh uỷ Ninh Bình, Đại hội đã thảo luận và xác định nhiệm vụ xuyên suốt của
công tác xây dựng Đảng ở địa phương nhiệm kỳ 2001 - 2005 là: “tiếp tục đổi mới và
chỉnh đốn Đảng, gắn chặt công tác xây dựng Đảng với nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã
hội” với những mục tiêu cơ bản sau: tăng cường công tác chính trị, tư tưởng góp phần
ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường xây dựng Đảng về tổ chức,
mở rộng dân chủ, tăng cường kỉ luật và giữ vững đoàn kết trong Đảng. Các cấp uỷ
phải nắm vững và thực hiện đúng các quan điểm của Đảng về công tác cán bộ; tiếp
tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng” [2, tr. 6].

Đối với nhiệm vụ xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, Đảng bộ đã nêu rõ:
Bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, năng lực lãnh đạo, rèn luyện đạo đức, lối sống cách
mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên tạo ra sự thống nhất cao trong nhận thức về
Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, về con đường đi lên XHCN và
18


×