Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Nhận thức, cảm xúc, hành vi của trẻ em trong gia đình có bạo lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.56 MB, 133 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

NGUYỄN THỊ HẰNG

NHẬN THỨC, CẢM XÖC, HÀNH VI
CỦA TRẺ TRONG GIA ĐÌNH CÓ BẠO LỰC

Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số

60 31 04 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Tâm lí học
hanh Nga
Hƣớng dẫnoa học: PGS.TS. Đặng Thanh Nga

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

NGUYỄN THỊ HẰNG

NHẬN THỨC, CẢM XÖC, HÀNH VI
CỦA TRẺ TRONG GIA ĐÌNH CÓ BẠO LỰC


Chuyên ngành: Tâm lý học60 31 04 01

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Tâm lí học
Mã số: 60 31 04 01
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Văn Thị Kim Cúc
hanh Ngan
Hƣớng dẫnoa học: PGS.TS. Đặng Thanh Nga

Hà Nội - 2016


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành và sâu sắc đến PGS.TS. Văn Thị Kim Cúc, người thầy đã trực tiếp hướng dẫn,
dìu dắt, giúp đỡ tác giả với những chỉ dẫn khoa học quý giá trong suốt quá trình
triển khai, nghiên cứu và hoàn thành đề tài.
Xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy truyền đạt
những kiến thức khoa học chuyên ngành cho bản thân tác giả trong những năm
tháng qua
Xin gửi tới Ban giám hiệu, thầy cô giáo và các bạn học sinh trường THPT
Phước Vĩnh và Trung tâm Giáo dục thường xuyên huyện Phú Giáo tỉnh Bình
Dương lời cảm ơn sâu sắc vì đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp tác giả thu thập số
liệu, tài liệu cần thiết liên quan tới đề tài tốt nghiệp.
Cảm ơn sự quan tâm, khuyến khích, động viên từ gia đình và bạn bè trong
suốt quá trình tác giả thực hiện luận văn.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của

PGS.TS. Văn Thị Kim Cúc. Các trích dẫn và tài liệu sử dụng trong luận văn đều
được dẫn nguồn và có độ chính xác cao trong hiểu biết của tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hằng


MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

4

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

5

MỞ ĐẦU

8

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

13

1.1 Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến luận văn


13

1.1.1 Các nghiên cứu về trẻ trong gia đình có bạo lực

13

1.1.2 Các nghiên cứu về nhận thức, cảm xúc, hành vi của trẻ trong
giađình có bạo lực

18

1.2 Một số khái niệm và lý thuyết cơ bản

22

1.2.1 Khái niệm về nhận thức

22

1.2.2 Khái niệmvề cảm xúc

23

1.2.3 Khái niệmvề hành vi

25

1.2.4 Khái niệm trẻ em

25


1.2.5 Khái niệm gia đình, gia đình có bạo lực và vai trò, chức năng
của gia đình đối với trẻ em.
1.2.6 Khái niệm nhận thức, cảm xúc, hành vi của trẻ trong gia đình

26
31

có bạo lực
1.2.7 Đặc điểm tâm lý của trẻ trong độ tuổi từ 15 – 17 tuổi

32

Chƣơng 2: TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

38

2.1 Tổ chức nghiên cứu

38

2.1.1 Nghiên cứu lý luận

38

1


2.1.2 Nghiên cứu thực tiễn


38

2.1.3 Hoàn thiện luận văn

41

2.2 Các phƣơng pháp nghiên cứu

41

2.2.1 Phương pháp nghiên cứu, phân tích tài liệu

41

2.2.2 Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

42

2.2.3 Phương pháp phỏng vấn sâu

45

2.2.4 Phương pháp thống kê toán học

45

Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

51


3.1 Thực trạng bạo lực gia đình trong các gia đình có trẻ độ tuổi
từ 15 đến 17 tuổi tại huyện Phú Giáo tỉnh Bình Dƣơng

51

3.1.1 Bạo lực thể chất

53

3.1.2 Bạo lực tinh thần

55

3.2 Nhận thức, cảm xúc, hành vi của trẻ sống trong gia đình có
bạo lực đối với gia đình và bản thân trẻ.
3.2.1 Nhận thức, cảm xúc, hành vi của trẻ sống trong gia đình có bạo
lực đối với gia đình.
3.2.2 Nhận thức, cảm xúc, hành vi của trẻ sống trong gia đình có bạo
lực đối với bản thân.
3.3 Sự khác biệt trong nhận thức, cảm xúc, hành vi của trẻ trong
gia đình có bạo lực.
3.3.1 Sự khác biệt trong nhận thức, cảm xúc, hành vi đối với gia
đình của trẻ trong gia đình có bạo lực.
3.3.2 Sự khác biệt trong nhận thức, cảm xúc, hành vi đối với bản

2

58

58


72

86

86
89


thân của trẻ trong gia đình có bạo lực.
3.4 Tƣơng quan giữa ba mặt nhận thức – cảm xúc – hành vi ở
trẻ trong gia đình có bạo lực.
3.4.1 Tương quan giữa ba mặt nhận thức – cảm xúc – hành vi đối
với gia đình ở trẻ trong gia đình có bạo lực.
3.4.2 Tương quan giữa ba mặt nhận thức – cảm xúc – hành vi đối
với bản thân ở trẻ trong gia đình có bạo lực.
3.4.3 tương quan giữa nhận thức về gia đình với nhận thức về bản
thân.
3.5 Ảnh hƣởng của cha mẹ đến nhận thức, cảm xúc, hành vi của
trẻ đối với gia đình và đối với bản thân.

91

91

92

93

96


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

100

TÀI LIỆU THAM KHẢO

103

PHỤ LỤC

108

3


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ

Viết tắt

Bạo lực gia đình

BLGĐ

Gia đình có bạo lực

GĐCBL

Gia đình không có bạo lực


GĐKBL

Điểm trung bình

ĐTB

Độ lệch chuẩn

ĐLC

Trung học phổ thông

THPT

Trung tâm Giáo dục thường xuyên

TTGDTX

Nhận thức, cảm xúc, hành vi

NT - CX - HV

4


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 2.1 Quy ước điểm số cho thang đo bạo lực gia đình


43

Bảng 2.2 Quy ước điểm số cho thang đo nhận thức – cảm xúc – hành vi

43

và ảnh hưởng của cha mẹ
Bảng 2.3 Phân bố khách thể nghiên cứu chính

45

Bảng 2.4 Phân loại gia đình bạo lực

46

Bảng 2.5 Quy đổi điểm cho các item ngược chiều thuộc thang đo NT-

46

CX-HV
Bảng 2.6 Phân loại nhận thức về gia đình

46

Bảng 2.7 Phân loại nhận thức về bản thân

47

Bảng 2.8 Phân loại cảm xúc đối với gia đình


47

Bảng 2.9 Phân loại cảm xúc đối với bản thân

48

Bảng 2.10 Phân loại hành vi đối với gia đình

48

Bảng 2.11 Phân loại hành vi đối với bản thân

49

Bảng 3.1 Thực trạng bạo lực gia đình

51

Bảng 3.2 Lần gần nhất chứng kiến bạo lực gia đình

57

Bảng 3.3 Chia mức nhận thức về gia đình của trẻ trong gia đình có bạo

59

lực
Bảng 3.4 Chia mức cảm xúc đối với gia đình của trẻ trong gia đình có

5


65


bạo lực
Bảng 3.5 Chia mức hành vi đối với gia đình của trẻ trong gia đình có bạo

68

lực
Bảng 3.6 Chia mức nhận thức về bản thân của trẻ trong gia đình có bạo

73

lực
Bảng 3.7 Chia mức cảm xúc đối với bản thân của trẻ trong gia đình có

78

bạo lực
Bảng 3.8 Chia mức hành vi đối với bản thân của trẻ trong gia đình có bạo

81

lực
Bảng 3.9: Mối tương quan giữa ba mặt nhận thức – cảm xúc – hành vi

90

đối với gia đình ở trẻ trong gia đình có bạo lực

Bảng 3.10: Mối tương quan giữa ba mặt nhận thức – cảm xúc – hành vi

91

đối với bản thân ở trẻ trong gia đình có bạo lực
Bảng 3.11: Mối tương quan giữa nhận thức về gia đình với nhận thức về

93

bản thân ở trẻ trong gia đình có bạo lực
Bảng 3.12 Tác động của bạo lực gia đình và nhận thức về gia đình đến

93

nhận thức về bản thân
Biểu đồ 3.1 Thực trạng bạo lực thể chất

53

Biểu đồ 3.2 Thực trạng bạo lực tinh thần

55

Biểu đồ 3.3 Nhận thức về tình yêu thương trong gia đình

60

Biểu đồ 3.4 Nhận thức về sự an toàn trong gia đình

62


Biểu đồ 3.5 Nhận thức về sự chia sẻ trong gia đình

63

Biểu đồ 3.6 Cảm xúc đối với gia đình

67

6


Biểu đồ 3.7 Hành vi đối với gia đình

69

Biểu đồ 3.8 Nhận thức về vị trí trong gia đình

74

Biểu đồ 3.9 Nhận thức về vị trí trong xã hội

76

Biểu đồ 3.10 Cảm xúc đối với bản thân

79

Biểu đồ 3.11 Hành vi đối với bản thân


82

Biểu đồ 3.12 Sự khác biệt trong nhận thức, cảm xúc, hành vi đối với gia

85

đình của trẻ trong gia đình có bạo lực xét theo tuổi
Biểu đồ 3.13 Sự khác biệt trong nhận thức, cảm xúc, hành vi đối với gia

86

đình của trẻ trong gia đình có bạo lực xét theo giới tính
Biểu đồ 3.14 Sự khác biệt trong nhận thức, cảm xúc, hành vi đối với gia

87

đình của trẻ xét theo mức độ bạo lực
Biểu đồ 3.15 Sự khác biệt trong nhận thức, cảm xúc, hành vi đối với bản

88

thân của trẻ trong gia đình có bạo lực xét theo tuổi.
Biểu đồ 3.16 Sự khác biệt trong nhận thức, cảm xúc, hành vi đối với bản

89

thân của trẻ trong gia đình có bạo lực xét theo giới tính.
Biểu đồ 3.17 Sự khác biệt trong nhận thức, cảm xúc, hành vi đối với bản

89


thân của trẻ xét theo mức độ bạo lực.
Biểu đồ 3.18 Ảnh hưởng của cha mẹ đến nhận thức, cảm xúc, hành vi của

95

trẻ đối với gia đình và đối với bản thân
Sơ đồ 3.1 Tương quan giữa bạo lực gia đình với nhận thức, cảm xúc,

58

hành vi đối với gia đình của trẻ trong gia đình có bạo lực
Sơ đồ 3.2 Tương quan giữa bạo lực gia đình với nhận thức, cảm xúc,
hành vi đối với bản thân của trẻ trong gia đình có bạo lực

7

72


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Xã hội ngày càng phát triển kéo theo đó là các vấn đề xã hội cũng diễn ra ngày
càng nhiều và ngày càng phức tạp. Trong đó, bạo lực gia đình là một vấn đề nổi
cộm luôn được xã hội quan tâm bởi những hậu quả về nhiều mặt của nó đối với gia
đình nói riêng và đối với xã hội nói chung.
Từ xưa đến nay, gia đình luôn được xem là tế bào của xã hội, là trường học
đầu tiên của mỗi cá nhân, nơi rèn luyện và đào tạo cá nhân thành những người khỏe
mạnh về thể chất lẫn tinh thần để trở thành những thành viên tài, đức ưu tú cho xã
hội. Nhưng tất cả những điều đó chỉ xảy ra khi gia đình là một tổ ấm, là nơi vun đắp

và trao tặng tình yêu thương, sự quan tâm, chăm sóc giữa các thành viên với nhau,
trong tổ ấm gia đình mỗi cá nhân sẽ tìm thấy niềm vui, niềm hạnh phúc và có điều
kiện để phát triển toàn diện bản thân. Khi BLGĐ xuất hiện, tổ ấm bình yên biến
thành nơi tồn tại của những con người mang đầy tâm trạng hoang mang lo sợ, mỗi
thành viên đều bị ảnh hưởng mạnh mẽ, trong đó phải kể đến đầu tiên là những đứa
trẻ. BLGĐ cướp đi môi trường lành mạnh để các em phát triển, thay vào đó việc
hàng ngày chứng kiến những mâu thuẫn, bất hòa, cãi vã thậm chí là đánh đập nhau
của cha mẹ khiến cho đứa trẻ bị ảnh hưởng nặng nề. Kết quả nghiên cứu thăm dò dư
luận trẻ em được tiến hành năm 1998 do tác giả Đặng Cảnh Khanh và Nguyễn Văn
Buồm thực hiện đã phỏng vấn các em về hình thức xử phạt của cha mẹ với con cái,
trong số những em được hỏi có 72.08% nói rằng đã rất đau buồn khi bị xử phạt và
có 27.92% nói rằng các em rất tức giận bố mẹ [12]. Trong nghiên cứu của Ủy ban
Dân số gia đình và trẻ em cho hay có 50.4% cho rằng BLGĐ có ảnh hưởng xấu đến
tâm lý con cái, 46,1% cho rằng BLGĐ sẽ dẫn đến việc con cái dễ sa vào tệ nạn xã
hội, 58.7% cho rằng có ảnh hưởng đến việc học hành của con cái [27].
Ở Việt Nam, vấn đề BLGĐ đã được nhà nước và xã hội quan tâm một cách sát
sao hơn khi ngày càng có nhiều vụ BLGĐ xảy ra và mang đến những hậu quả lớn,
đặc biệt đối với phụ nữ và trẻ em. Theo ông Trần Ban Hùng, giám đốc chương trình
nghiên cứu về trẻ em của Tổ chức Cứu trợ trẻ em Thụy Điển cho biết: vào năm
8


2005, một nghiên cứu của tổ chức này cho thấy hơn 60% trẻ em nói rằng mình bị
trừng phạt thân thể ở gia đình. Báo cáo của Cục Bảo vệ chăm sóc trẻ em thuộc Bộ
Lao động Thương binh Xã hội cho biết từ năm 2005 đến 2007 số vụ xâm hại, bạo
lực đối với trẻ em trong gia đình tăng gấp ba lần so với trước đó [32].
BLGĐ là một trong những nguyên nhân chính gây ra rất nhiều hậu quả tai hại
đối với trẻ em và xã hội. Theo số liệu thống kê của các cơ quan chuyên theo dõi tình
hình trẻ em cho biết, từ năm 1986 đến 1991 có 1.640 trẻ em từ 14 đến 16 tuổi phạm
tội bị khởi tố. Năm 1994 có 3.056 em, 1995 có 5.005 em. Năm 1997 trong số 43%

thanh niên nghiện hút ma túy có 25% là dưới 18 tuổi. Số trẻ em nghiện hút mà các
ngành chức năng của chính phủ phát hiện ra là 4.000 em. Báo cáo kiểm điểm 5 năm
thi hành Luật Bảo vệ và chăm sóc trẻ em (1991-1996) của 61 tỉnh thành phố cho
biết, có 6.826 trẻ em có nguy cơ làm trái pháp luật, 8.539 em làm trái pháp luật.
Những thống kê gần đây về tình hình trẻ em lang thang cho thấy tỷ lệ trẻ em lang
thang vẫn chưa giảm. Năm 1998 có 19.048 em, năm 1999 có 23.039 em, năm 2000
có 22.423 em. Trẻ nghiện ma túy năm 1998 có 2.755 em, năm 1999 có 1.727 em,
năm 2000 có 2.008 em. Nghiên cứu về nhóm vị thành niên vi phạm pháp luật cho
thấy, việc phải sống trong những gia đình không ổn định, bố mẹ, anh em mâu thuẫn
là một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn các em vào con đường tội lỗi [5].
Bên cạnh sự chịu ảnh hưởng của những biến đối phát triển về mặt kinh tế, văn hóa
xã hội thì việc cha mẹ mâu thuẫn, chửi mắng, đánh đập nhau, thiếu sự quan tâm,
chăm sóc và dạy dỗ con cái là những nguyên nhân khiến trẻ em không còn muốn
gắn bó với gia đình, các em rời bỏ nơi lẽ ra là tổ ấm, để không phải chứng kiến
thêm những điều thất vọng, đau khổ từ gia đình và trở thành những trẻ em lang
thang dễ sa vào các tê nạn xã hội, mà những vấn nạn trên rất dễ tìm thấy trong các
GĐCBL.
Đã có rất nhiều nghiên cứu về BLGĐ, hậu quả của BLGĐ nói chung, cũng như
các nghiên cứu về trẻ sống trong GĐCBL, tuy nhiên đa số các nghiên cứu chỉ xem
xét ảnh hưởng của BLGĐ đối với trẻ em trên một hoặc một vài khía cạnh nào đó
trong đời sống của trẻ mà chưa có một nghiên cứu về tổng thể tâm lý các trẻ em
9


trong GĐCBL. Để có một cái nhìn khái quát về tâm lý của những trẻ em sống trong
GĐCBL, chúng tôi chọn đề tài: “Nhận thức, cảm xúc và hành vi của trẻ trong
gia đình có bạo lực”. Với đề tài này chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu trong môi trường
GĐCBL thì trẻ sẽ có nhận thức, cảm xúc và hành vi như thế nào. Qua đó đưa ra các
kiến nghị đối với gia đình và đối với xã hội nhằm tạo cho trẻ một môi trường phát
triển thuận lợi để có đời sống tâm lý lành mạnh, thể hiện cụ thể ở nhận thức đúng

đắn, cảm xúc lành mạnh và hành vi phù hợp.
Căn cứ vào cách chia giai đoạn vị thành niên theo Erikson là từ 12 – 20 tuổi
[59.2] và khái niệm trẻ em theo Công ước Quốc tế [3], xét thấy giai đoạn 15 – 17
tuổi là giai đoạn các em độc lập về suy nghĩ và hành động nhất so với lứa tuổi vì
vậy chúng tôi chọn khách thể là trẻ trong độ tuổi 15 – 17 sống trong những GĐCBL
để nghiên cứu tìm hiểu nhận thức, cảm xúc và hành vi của các em khi sống trong
môi trường tương đối đặc biệt này.
2. Mục đích nghiên cứu
Chỉ ra mức độ nhận thức, cảm xúc và hành vi của trẻ trong GĐCBL; so sánh
mức độ này với trẻ trong gia đình bình thường. Qua đó đưa ra các kiến nghị để tạo
ra những thay đổi cần thiết trong nhận thức, cảm xúc và hành vi của trẻ.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Nghiên cứu lý luận:
Nghiên cứu tài liệu liên quan đến vấn đề nhận thức, cảm xúc, hành vi của trẻ
trong gia đình có bạo lực để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài, cụ thể là xác định các
khái niệm cơ bản, khung lý thuyết làm nền tảng cho vấn đề nghiên cứu.
3.2 Nghiên cứu thực tiễn:
Khảo sát thực trạng BLGĐ trong các gia đình có trẻ trong độ tuổi từ 15 đến 17
tuổi tại huyện Phú Giáo tỉnh Bình Dương.
Điều tra khảo sát thực tiễn nhận thức, cảm xúc và hành vi của trẻ trong
GĐCBL.
So sánh nhận thức, cảm xúc và hành vi của trẻ trong GĐCBL với nhận thức,
cảm xúc và hành vi của trẻ trong GĐKBL.
10


Đưa ra một số kiến nghị, giải pháp để tạo ra những thay đổi cần thiết trong NT
- CX - HV của trẻ.
4. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
4.1 Đối tƣợng nghiên cứu

Nhận thức, cảm xúc và hành vi của trẻ trong GĐCBL.
4.2 Khách thể nghiên cứu
293 trẻ trong độ tuổi từ 15 đến 17 tuổi thuộc 3 khối lớp 10, 11, 12 của
Trường THPT Phước Vĩnh và TTGDTX huyện Phú Giáo tỉnh Bình Dương.
4.3 Giới hạn nghiên cứu
Giới hạn về nội dung nghiên cứu: Nhận thức, cảm xúc và hành vi là ba phạm trù
rất rộng, tuy nhiên trong luận văn này chúng tôi chỉ nghiên cứu nhận thức, cảm xúc
và hành vi đối với gia đình và đối với bản thân của trẻ trong GĐCBL.
Giới hạn về địa bàn nghiên cứu: Đề tài sẽ được tiến hành nghiên cứu tại
TTGDTX và Trường THPT Phước Vĩnh huyện Phú Giáo tỉnh Bình Dương.
5. Câu hỏi nghiên cứu
Thực trạng BLGĐ trong các gia đình có trẻ trong độ tuổi từ 15 đến 17 tuổi học
tại TTGDTX và Trường THPT Phước Vĩnh huyện Phú Giáo tỉnh Bình Dương như
thế nào?
Trẻ trong GĐCBL có nhận thức, cảm xúc và hành vi đối với gia đình và đối
với bản thân như thế nào? Liệu có sự khác nhau ở các mặt trên giữa trẻ trong
GĐCBL và trẻ trong gia đình bình thường?
6. Giả thuyết nghiên cứu
Trẻ trong GĐCBL có nhận thức và hành vi đối với gia đình và bản thân ít tích
cực hơn trẻ trong GĐKBL.
So với trẻ trong GĐKBL thì trẻ trong GĐCBL có nhiều cảm xúc âm tính đối
với gia đình và bản thân hơn.
Tình trạng BLGĐ; tình thương yêu, sự quan tâm chăm sóc và sự chia sẻ của
cha mẹ dành cho con cái là những yếu tố ảnh hưởng đến NT - CX - HV của trẻ
trong GĐCBL đối với gia đình và đối với bản thân các em.
11


7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1 Phƣơng pháp nghiên cứu, phân tích tài liệu: phân tích các tài liệu văn bản

trong nước và quốc tế liên quan đến BLGĐ và NT - CX - HV của trẻ trong
GĐCBL.
7.2 Phƣơng pháp điều tra bằng bảng hỏi: khảo sát thực trạng BLGĐ và tìm hiểu
nhận thức, cảm xúc và hành vi của trẻ từ 15 đến 17 tuổi trong các GĐCBL.
7.3 Phƣơng pháp phỏng vấn sâu: mục đích của phỏng vấn sâu nhằm hiểu sâu,
hiểu kỹ về BLGĐ cũng như NT - CX - HV của trẻ trong GĐCBL.
7.4 Phƣơng pháp thống kê toán học: sử dụng phần mềm SPSS 16.0 để xử lý các
dữ liệu thu thập được trong quá trình nghiên cứu.
8. Cấu trúc của Luận văn
Phần I: Mở đầu
Phần II: Nội dung nghiên cứu
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Tổ chức nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu
Kết luận và kiến nghị.

12


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến luận văn
1.1.1 Các nghiên cứu về trẻ trong gia đình có bạo lực
1.1.1.1 Các nghiên cứu nước ngoài
Tại nước Mỹ vào năm 2000, các cơ quan công quyền nhận được hơn 3 triệu
báo cáo về lạm dụng hoặc bỏ mặc trẻ em. Điều này có nghĩa là người ta ghi nhận cứ
25 trẻ thì có một vụ xảy ra. Một nghiên cứu đã đưa ra số liệu: ở Mỹ có 10 triệu trẻ
em bị BLGĐ hàng năm [dẫn theo2].
Nghiên cứu của Parsons, Wallon, Bowbly và Lacnan cho rằng: gia đình là môi
trường xã hội đầu tiên mà mỗi đứa trẻ - mỗi con người được tiếp xúc. Trong gia

đình người mẹ là người đem lại cho trẻ cảm giác an toàn, còn người cha là người
đưa ra những nguyên tắc, chuẩn mực, là hình ảnh của sự rắn rỏi, mạnh mẽ. Giáo dục
của cha mẹ như là tác nhân có thể kìm hãm, điều chỉnh những rối nhiễu của trẻ,
nhưng cũng có thể làm tăng thêm rối nhiễu nếu như không có cách giáo dục phù
hợp [28].
Nghiên cứu của nhà Tâm lý học T.A.Gavrinlova (1984) cho rằng mâu thuẫn
trong quan hệ giữa cha mẹ và các em thường nằm trong các vấn đề về quần áo, ăn
mặc, bạn bè, những trò giải trí,… những khác biệt đó khá rõ nét. Chính sự mâu
thuẫn này là một trong những nguyên nhân cơ bản khiến cha mẹ phải dùng những
lời nói làm tổn thương con trẻ, những sự trừng phạt hay sự bao bọc quá mức đối với
trẻ, mà theo các em, tất cả những điều đó đều gây nên ở các em cảm giác không
được tôn trọng và bị kiểm soát [37].
Nghiên cứu mối quan hệ giữa việc bị ngược đãi trong gia đình ở tuổi ấu thơ và
khả năng thích ứng ở tuổi trưởng thành của Higgins và cộng sự (2003) chỉ ra rằng,
chất lượng của những mối quan hệ liên nhân cách ở tuổi trưởng thành bị ảnh hưởng
bởi sự gắn bó, gần gũi giữa cha mẹ và trẻ em ở tuổi ấu thơ, sự gắn kết giữa các
thành viên trong gia đình ở tuổi ấu thơ. Mục tiêu cuộc sống ở tuổi trưởng thành bị
ảnh hưởng tiêu cực bởi sự ngược đãi tinh thần ở tuổi ấu thơ [45]. Higgins cũng nhận
13


thấy, khi trưởng thành nếu cá nhân có khả năng thích ứng tốt với cuộc sống gia đình
sẽ nhìn nhận cuộc sống xã hội một cách tích cực hơn.
Nghiên cứu của Mackenzie – Keating và McDonald (1997) cho thấy, việc áp
dụng hình thức kỷ luật hà khắc, cứng nhắc đối với trẻ em chứng kiến BLGĐ ảnh
hưởng tiêu cực đến sự phát triển tâm lý – nhân cách, đặc biệt, khi hình thức kỷ luật
này được người mẹ thực thi. Kỷ luật hà khắc của cha mẹ tạo ra và duy trì khoảng
cách, trẻ em không có nhiều cơ hội nói về những mong muốn, nhu cầu của bản thân
hoặc thương lượng với cha mẹ; các em không nhận được sự cảm thông, chia sẻ, hỗ
trợ từ cha mẹ, ngược lại cha mẹ không lắng nghe và thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng

của trẻ [52].
Một số tác giả nước ngoài: Fantuzzo và Mohr (1999), Mabanglo (2002),
Dauvergne và Johnson (2002) nhận thấy, có mối tương quan thuận giữa việc trẻ em
chứng kiến BLGĐ và trẻ em bị đối xử một cách ngược đãi [43],[50],[41]. Fantuzzo
và Mohr (1999) dự báo có đến 45 – 70% trẻ em chứng kiến cảnh bạo lực giữa cha
mẹ cũng là nạn nhân của hành vi xâm hại thể chất của cha mẹ. Wolfe và cộng sự
(2003) nhấn mạnh thêm rằng, trong GĐCBL, trẻ em vừa chứng kiến cảnh bạo lực
giữa cha mẹ vừa bị cha mẹ đối xử một cách tồi tệ, các em thường bị cha mẹ xâm hại
cả về mặt thể chất lẫn tinh thần. Hậu quả là các em gặp vấn đề về cảm xúc và hành
vi nghiêm trọng hơn so với các em khác [58]. Lessard và cộng sự (2003),
MacAlister Groves (1999) đã tập trung đánh giá hiệu quả và ý nghĩa của can thiệp
tâm lý cá nhân đối với những trẻ em bị tổn thương tâm lý nghiêm trọng sống trong
GĐCBL [51]. Hình thức can thiệp nhóm đối với những trẻ bị rối nhiễu tâm lý trong
GĐCBL được Wilson và cộng sự (1989) tập trung xem xét tiêu chí lựa chọn trẻ em
tham gia vào nhóm can thiệp [57]. Crockford và cộng sự (1993), Evans và Shaw
(1993) quan tâm đến hình thức tổ chức và thời gian của một đợt can thiệp nhóm.
Campeau và Berteau (2007) xem xét nội dung của mỗi buổi can thiệp nhóm, các
nhân tố tạo nên hiệu quả của can thiệp nhóm [40]. Can thiệp hướng vào gia đình và
cộng đồng, Wolfe và cộng sự (2003) cho rằng, can thiệp tâm lý không chỉ tập trung
vào trẻ em, cần tác động đến cha mẹ và cộng đồng mới có hiệu quả bền vững. Chiến
14


lược phòng ngừa và can thiệp BLGĐ cần được thực hiện từ cấp độ vĩ mô đến cấp
độ vi mô. Các chương trình can thiệp hướng đến nâng cao năng lực nhận thức của
người dân, các cặp vợ chồng về sự ảnh hưởng của BLGĐ đến trẻ em. Bên cạnh đó,
các chương trình can thiệp hướng đến từng gia đình có hành vi bạo lực, giúp họ
kiểm soát hành vi bạo lực và nhận ra những vấn đề tâm lý ở trẻ em do BLGĐ gây ra
[58].
Nhìn chung các tác giả nước ngoài nghiên cứu về ảnh hưởng của BLGĐ đối

với trẻ em đều khẳng định rằng BLGĐ có ảnh hưởng đến tâm lý của trẻ, đặc biệt
một số trẻ em còn gặp các vấn đề tâm lý nghiêm trọng cần được can thiệp. Các tác
giả nước ngoài cũng đưa ra các mô hình can thiệp đối với trẻ em sống trong
GĐCBL. Câu hỏi đặt ra là liệu các kết quả nghiên cứu được nêu trên có đúng với trẻ
em sống trong GĐCBL ở Việt Nam hay không? Tâm lý của trẻ, đặc biệt là các yếu
tố NT – CX – HV của trẻ như thế nào khi sống trong GĐCBL? Đó là những câu hỏi
nghiên cứu vẫn đang cần một câu trả lời xác đáng.
1.1.1.2 Nghiên cứu trong nước
Cục thống kê và các đối tác (2010) đã công bố kết quả nghiên cứu về BLGĐ
đối với phụ nữ ở Việt Nam cho thấy 32% phụ nữ kết hôn đã bị bạo lực thể xác trong
cuộc đời. Kết quả nghiên cứu của hai cơ quan quản lý nhà nước đã đưa ra những
bằng chứng cho thấy BLGĐ đối với phụ nữ và trẻ em diễn ra rất phổ biến trong gia
đình hiện nay.
Nghiên cứu của Tổng cục Thống kê (2010) chỉ ra rằng, hơn một nửa số phụ nữ
từng bị bạo lực thể xác do chồng gây ra cho biết, con cái họ đã chứng kiến cảnh bạo
lực thể xác giữa cha mẹ, 22.3% trong số này nói rằng, con cái họ đã chứng kiến
cảnh bạo lực thể xác giữa cha và mẹ ít nhất một lần; 23% cho biết việc đó xảy ra từ
hai đến năm lần và 8,8% cho biết điều đó xảy ra nhiều hơn năm lần [29]. Các hình
thức bạo lực tình dục và kinh tế giữa cha mẹ trẻ em khó nhận biết hơn và không
được chứng kiến nhiều.
Các nghiên cứu cho thấy gần 1/4 trẻ dưới 15 tuổi phải hứng chịu hành vi bạo
lực từ người cha trong đời, và 1/5 trẻ hứng chịu hành vi này trong vòng 12 tháng
15


tính từ thời điểm điều tra. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, khu vực nông thôn tỷ lệ
trẻ bị cha mẹ trừng phạt cao hơn so với thành thị trong suốt cuộc đời và trong 12
tháng gần nhất tính đến thời điểm phỏng vấn [29]. BLGĐ đối với trẻ em phổ biến
nhất là các hành vi bạo lực tinh thần: chửi, mắng, sỉ nhục, dọa đuổi khỏi nhà, bắt
đứng xó nhà, bỏ đói, bỏ rơi; tiếp đến là các hành vi bạo lực thân thể như đánh bằng

roi, đánh bằng gậy, cốc đầu, véo tai, tát, nhốt, đập đầu vào tường, trói vào cột nhà,
nằm sấp trên nền nhà và bị đánh.
Một số nghiên cứu trên quy mô nhỏ cũng đã cung cấp những bằng chứng cho
thấy trẻ em phải chứng kiến hoặc chịu đựng BLGĐ rất phổ biến, xảy ra ở mọi địa
phương, từ đồng bằng đến thành phố, dưới nhiều hình thức khác nhau. Cha mẹ
trừng phạt trẻ em xảy ra cả trong gia đình hòa thuận lẫn gia đình có mâu thuẫn,
xung đột. Bạo lực giữa cha mẹ tương quan thuận với sự ngược đãi của cha mẹ đối
với trẻ em. Những gia đình thường xuyên xảy ra bạo lực giữa cha mẹ, trẻ em cũng
thường xuyên bị cha mẹ đánh, mắng, chửi. Trẻ em không bị ông bà, anh chị lớn hơn
đánh đòn hay phạt, các em chủ yếu bị cha mẹ đánh, mắng hoặc bị trừng phạt bằng
các hình thức khác nhau [8].Trừng phạt thân thể như đánh vào mông, tát, cốc vào
đầu, đánh bằng roi hoặc một vật khác, túm lấy tóc lắc; trừng phạt tinh thần như
mắng, chửi, bắt trẻ quỳ, áp mặt vào tường, không cho ăn, đuổi ra khỏi nhà,....là
những hình thức trừng phạt được sử dụng phổ biến và thường xuyên. Trừng phạt
thân thể đối với trẻ em gây ra những hậu quả nghiêm trọng, nhiều trẻ sau khi bị cha
mẹ đánh đòn phải đi khám ở bệnh viện [31]. Có sự khác nhau nhất định trong hình
thức trừng phạt của cha mẹ đối với trẻ em nam và trẻ nữ. Trẻ em nam thường bị cha
mẹ sử dụng hình thức trừng phạt thân thể, trẻ em nữ bị cha mẹ trừng phạt tinh thần
[39]. Hình thức trừng phạt trẻ em mỗi khi các em mắc lỗi của cha mẹ được xem như
là một hình thức giáo dục chứ không được nhìn nhận như là hành vi bạo lực đối với
trẻ em. Cha mẹ đánh con, trừng phạt con một cách bạo lực với mong muốn con
ngoan hơn, biết nghe lời cha mẹ. Phương pháp giáo dục này của cha mẹ xuất phát từ
quan niệm cho rằng “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”.

16


Trong một nghiên cứu của Hoàng Cẩm Tú và cộng sự (2001), nhóm tác giả đã
tìm hiểu các hình thức cha mẹ sử dụng để giáo dục con. Nghiên cứu trên mẫu là 100
em trong độ tuổi từ 4 – 18 tuổi (gồm 50 em trai và 50 em gái) và cha mẹ các em

cũng được phỏng vấn. Kết quả cho thấy cha mẹ thường sử dụng các hình thức phạt
thân thể con cái làm biện pháp giáo dục [42]
Năm 2003, UNICEF cùng với Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em, Quỹ Cứu
trợ trẻ em Thụy Điển, Plan International tiến hành một số nghiên cứu đánh giá mức
độ bạo lực trẻ em ở Việt Nam. Nghiên cứu tiến hành trên 2.800 người tham gia (chủ
yếu là trẻ em) ở ba tỉnh An Giang, Lào Cai, Hà Nội cho thấy trừng phạt thân thể
(đánh đập) là hình thức bạo lực phổ biến ở gia đình và trường học, các hình thức
bạo lực khác như lạm dụng từ ngữ, bắt nạt và chứng kiến BLGĐ cũng khá phổ biến.
Có nhiều trường hợp lạm dụng tình dục đã đựợc nêu ra trong báo cáo, đặc biệt là
thói quen người lớn sờ dương vật của trẻ em trai [36]. Một nghiên cứu tại 6 tỉnh
thuộc miền Bắc và miền Trung do Viện nghiên cứu Thanh niên thực hiện năm 2003,
với cỡ mẫu là 1240 học sinh các trường tiểu học và trung học cơ sở cho thấy 46%
các em nói rằng cha mẹ thường xuyên phạt các em bằng cách này hay cách khác
nếu có lỗi. Trong số những em đã bị phạt thì có 26% nói rằng các em bị đánh, 65%
bị mắng chửi và 10% bị phạt với các hình thức khác nhau [16].
Trong “Nghiên cứu sự tổn thương tâm lý ở thiếu niên trong các gia đình có
bạo lực” năm 2009 của tác giả Nguyễn Bá Đạt và cộng sự, kết quả cho thấy bạo lực
đối với trẻ em xảy ra ở tất cả các loại hình gia đình, từ gia đình được xem như hòa
thuận đến GĐCBL. Trong các GĐCBL, 68% cha mẹ có xu hướng sử dụng hình
thức mắng, chửi và đánh khi các em mắc lỗi; 51% cha mẹ có mâu thuẫn nhưng
không có bạo lực sử dụng hình thức này; 33,9% cha mẹ trong gia đình hòa thuận
mắng, chửi hoặc đánh trẻ [8].
Luận văn thạc sỹ Xã hội học “Ảnh hưởng của bạo lực trong gia đình đối với
việc bảo vệ, chăm sóc, và giáo dục trẻ em” của tác giả Hoa Thị Lệ Quyên, năm
2012, nghiên cứu trên ba quận Hoàn Kiếm, Thanh Xuân, Hà Đông của Thành Phố
Hà Nội, đã đưa ra kết quả, trong GĐCBL, việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ bị
17


ảnh hưởng. Cụ thể: việc chăm sóc trẻ thường bị sao nhãng làm tăng nguy cơ trẻ bị

suy dinh dưỡng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển thể chất, trí tuệ của trẻ em.
Trẻ sống trong GĐCBL có nguy cơ bị xâm hại về thể chất và tinh thần cao hơn trẻ
sống trong GĐKBL [26].
Các nghiên cứu của các tác giả trong nước về BLGĐ khá phong phú, tập trung
ở một số khía cạnh như tính phổ biến của sự trừng phạt, các hình thức, quan niệm
của cha mẹ về việc trừng phạt trẻ em mỗi khi các em mắc lỗi. Nghiên cứu của
Enkhtor và cộng sự (2007) về trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em ở Việt Nam
được xem là một nghiên cứu tốt, có sự kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác
nhau nhưng cũng chỉ dừng lại ở việc mô tả những cảm xúc, hành vi, suy nghĩ tiêu
cực của trẻ em khi bị cha mẹ, thầy cô giáo trừng phạt.
1.1.2 Các nghiên cứu về nhận thức, cảm xúc, hành vi của trẻ trong gia đình có
bạo lực
1.1.2.1 Các nghiên cứu nước ngoài
Tại hội thảo đặc biệt về chủ đề bạo lực đối với trẻ em ở trụ sở New York
(Mỹ), UNICEF và OHCHR cho kết quả, việc sử dụng các hình thức kỷ luật quá hà
khắc, thậm chí ngay cả các hình thức nhẹ nhàng cũng để lại những hậu quả có hại
rất lớn đối với trẻ em cũng như đối với xã hội, cản trở năng lực nhận thức của trẻ và
thúc đẩy bản năng sử dụng bạo lực của trẻ trong tương lai [59.1]. Dulamdary
EnKhtor và cộng sự (2007) nghiên cứu về trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em đã
chỉ ra rằng khi bố mẹ trừng phạt trẻ cảm thấy buồn, ân hận, hối lỗi, đau khổ [42].
Peled.E (1998) nhận định rằng, phần lớn trẻ em chứng kiến BLGĐ sử dụng
chiến lược ứng phó tập trung vào cảm xúc [53]. Holzworth – Munroe (1997) nhận
định, những cảm xúc tiêu cực quan sát thấy ở trẻ em sống trong GĐCBL là một
hình thức báo hiệu cho cha mẹ thấy hậu quả tiêu cực của BLGĐ [46]. Allen.N.E
(2003) quan sát thấy, trẻ em sống trong GĐCBL sử dụng chiến lược ứng phó chủ
động tập trung giải quyết vấn đề, bị động tập trung vào cảm xúc [38] chiến lược ứng
phó chủ động, trạng thái tâm lý tích cực của người mẹ, chất lượng mối quan hệ mẹ
con, mạng lưới trợ giúp xã hội là những yếu tố bảo vệ trẻ em trong GĐCBL.
18



Nghiên cứu về hậu quả lâu dài của BLGĐ đối với trẻ em của Rossman (2001)
chỉ ra rằng, việc chứng kiến cảnh bạo lực giữa cha mẹ là điều kiện thuận lợi để hình
thành và phát triển hành vi gây hấn, phạm tội ở tuổi trưởng thành trong các mối
quan hệ liên nhân cách hoặc những vấn đề khác như buồn rầu, tự hủy hoại bản thân
hay hành vi sử dụng chất gây nghiện [54]. Nghiên cứu so sánh, đối chứng của
Fortin và cộng sự (2002) giữa trẻ em sống trong GĐCBL và GĐKBL cho thấy,
nhóm trẻ em sống trong GĐCBL phải chứng kiến cảnh bạo lực giữa cha mẹ có
những hành vi xâm kích, tăng động, phạm pháp nhiều hơn so với nhóm trẻ em sống
trong GĐKBL giữa cha mẹ. Nhóm trẻ em chứng kiến BLGĐ cũng có xu hướng
không vâng lời, nói dối, phá hủy đồ đạc, gian lận, đánh nhau hoặc tỏ ra hung dữ hơn
so với nhóm trẻ em đối chứng. Nhóm trẻ em sống trong GĐCBL còn bị rối nhiễu
cảm xúc: lo âu, trầm cảm, phụ thuộc vào người lớn, lo lắng, buồn rầu và cảm thấy
không hạnh phúc, năng lực xã hội thấp, không cảm thấy tự tin vào bản thân và gặp
khó khăn trong học tập và tập trung chú ý. Những đứa trẻ này còn thường gặp các
vấn đề liên quan đến thính giác và thị giác.
Nghiên cứu của Kilpatrick và Williams (1997) cho thấy, trẻ em sống trong
GĐCBL bị stress sau sang chấn, sau đó dẫn đến rối nhiễu cảm xúc, hành vi và khó
khăn học đường [48].
Wolfe và cộng sự (2003) nhấn mạnh, trong GĐCBL, trẻ em vừa chứng kiến
cảnh bạo lực giữa cha mẹ vừa bị cha mẹ đối xử một cách tồi tệ, các em thường bị
cha mẹ xâm hại cả về mặt thể chất lẫn tinh thần. Hậu quả là các em gặp vấn đề về
cảm xúc và hành vi nghiêm trọng hơn so với các em khác [58].
Nghiên cứu của Grych.J.H và Fincham.F.D (1990) chỉ ra rằng, tần suất và
mức độ nghiêm trọng của BLGĐ có mối quan hệ trực tiếp với cảm giác tuyệt vọng
và những vấn đề liên quan đến hành vi, đặc biệt trong những trường hợp xung đột
giữa cha mẹ kèm theo sự xâm hại thể chất đối với trẻ em [44]. Nghiên cứu của
Kilpatrick và Williams (1997) cho thấy, trẻ em sống trong GĐCBL bị stress sau
sang chấn, sau đó dẫn đến rối nhiễu cảm xúc, hành vi và khó khăn học đường [48].


19


1.1.2.2 Các nghiên cứu trong nước
Tác giả Hoàng Bá Thịnh trong bài viết “Bạo lực gia đình đối với trẻ em và
một số giải pháp phòng ngừa” đã nói rằng cha mẹ thường xuyên phạt con bằng cách
này hay cách khác khi con mắc lỗi, cha mẹ có học vấn thấp thường đánh con cái
nhiều hơn. Bài viết cũng chỉ ra những hậu quả của BLGĐ đối với trẻ em: từ sợ hãi,
mất ngủ, thiếu tự tin, thất vọng đến trẻ bỏ nhà ra đi, trẻ tử vong hoặc tự sát. BLGĐ
còn ảnh hưởng xấu đến kết quả học tập của trẻ, giảm chỉ số thông minh, kỹ năng
giải quyết vấn đề và mức độ thấu cảm kém. BLGĐ còn có thể dẫn đến các hiện
tượng bất ổn tinh thần [27].
Bài viết “Những hành vi BLGĐ – con cái sẽ học theo bố mẹ” của tác giả
Hoàng Bá Thịnh đã chỉ ra rằng BLGĐ có thể tác động xấu đến tâm lý trẻ em.
Những tác động này có thể bao gồm các vấn đề như sợ hãi, mất ngủ, thiếu tự tin và
thất vọng. Tác giả còn đề cập đến việc trẻ em thường xuyên hoặc thỉnh thoảng
chứng kiến cảnh cha đánh chửi mẹ (hoặc ngược lại) thì với bé trai dần dần sẽ hình
thành nhận thức rằng: làm đàn ông có quyền đánh đập phụ nữ và rồi khi trở thành
chồng thì chàng trai cũng có cách cư xử như thế với vợ mình. Không chỉ vậy, chúng
còn nghĩ rằng, trong cuộc sống ai mạnh hơn thì người đó thắng. Còn đối với bé gái,
khi chứng kiến cảnh mẹ bị cha mắng chửi, đánh đập thì có thể em sẽ cam chịu cảnh
bạo lực nếu có, hoặc có ác cảm với nam giới [28].
Luận văn thạc sỹ Xã hội học “Ảnh hưởng của bạo lực giới trong gia đình đối
với việc bảo vệ, chăm sóc, và giáo dục trẻ em” của tác giả Hoa Thị Lệ Quyên, năm
2012, nghiên cứu trên ba quận Hoàn Kiếm, Thanh Xuân, Hà Đông của Thành Phố
Hà Nội. Bạo lực giới trong gia đình làm cho trẻ thường có cảm giác buồn bã, chán
nản, mặc cảm, tự ti, e dè, nhút nhát. Kết quả học tập của hầu hết trẻ trong những gia
đình này đều kém và sa sút. Tỷ lệ trẻ bỏ học trong các GĐCBL cũng cao hơn ở
những gia đình bình thường. Bạo lực giới trong gia đình cũng là nguyên nhân khiến
trẻ em rơi vào các hoàn cảnh khó khăn đặc biệt như trẻ lang thang, mồ côi, phạm tội

[26].

20


Tác giả Lý Thị Minh Hằng trong bài viết “ Bạo lực gia đình và hậu quả tâm lý
đối với nạn nhân của bạo lực gia đình” đã nêu, BLGĐ làm cho các em không có cơ
hội tìm thấy sự bình an trong tâm hồn, khó hòa nhập với cộng đồng, không khắc
phục được tư tưởng trầm uất triền miên trong cuộc sống riêng tư như: sự gây hấn,
sợ hãi, mất ngủ, thiếu tự tin, thất vọng, rối nhiễu tâm lý và trầm cảm. Mặc dù khiếp
sợ và căm ghét thói bạo lực của người cha nhưng khi trưởng thành những đứa con
trai có xu hướng lặp lại cách cư xử như thế với người thân. Còn các bé gái có thể
sau này cũng sẽ cam chịu cảnh bạo lực nếu có hoặc sẽ có ác cảm với đàn ông. Trẻ
sống trong GĐCBL ra xã hội có thể sẽ rụt rè, sợ hãi người khác nhưng cũng có thể
sử dụng bạo lực để giải quyết những mâu thuẫn này sinh trong cuộc sống [12].
Tác giả Nguyễn Thị Minh Nguyệt trong luận văn thạc sỹ Tâm lý “Hành vi bạo
lực gia đình của cha mẹ đối với con cái vị thành niên” năm 2010, tiến hành trên bốn
trường THPT Phủ Lý, Bình Lục, Lý Nhân, Thanh Liêm của tỉnh Hà Nam, đã đưa ra
một số kết luận, bạo lực của cha mẹ đối với con cái để lại những hậu quả nặng nề cả
với cha mẹ và con cái. Đó là những đau đớn về thân thể và tổn thương về tinh thần,
ảnh hưởng trực tiếp đến thế giới quan, nhân sinh quan và quá trình phát triển nhân
cách của trẻ, ảnh hưởng tới mối quan hệ gắn bó giữa cha mẹ và con cái, làm cho trẻ
mất niềm tin vào cha mẹ, buồn bã, chán nản, thu mình và hình thành nên những tính
cách hung hăng, những hành vi lệch chuẩn cho xã hội trong tương lai [24].
Luận án tiến sỹ “Rối nhiễu tâm lý ở trẻ em sống trong gia đình bạo lực” của
tác giả Nguyễn Bá Đạt là một trong số rất ít nghiên cứu có tiến hành can thiệp cho
các đối tượng bị ảnh hưởng bởi BLGĐ. Theo kết quả nghiên cứu này, các trẻ sống
trong GĐCBL có rối nhiễu tâm lý được biểu hiện ra bên ngoài thành những cảm
xúc, hành vi kém thích nghi, nghiêm trọng hơn đó là các dấu hiệu lâm sàng mang
tính bệnh lý cản trở hoạt động của trẻ em trong cuộc sống hàng ngày. Kết quả can

thiệp tâm lý cho trẻ trong nghiên cứu cho thấy, có thể phòng ngừa và chữa trị rối
nhiễu tâm lý cho trẻ em ở trạng thái ranh giới và bị rối nhiễu tâm lý nhẹ bằng cách
tổ chức các lớp tập huấn, giúp các em hiểu rõ về BLGĐ, BLGĐ trong các mối quan

21


×