Tải bản đầy đủ (.doc) (170 trang)

Về sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong trong thời kỳ đổi mới ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (617.67 KB, 170 trang )

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CNTB

Chủ nghĩa tư bản

LLSX

Lực lượng sản xuất

QHSX

Quan hệ sản xuất

QHSX XHCN

Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

HTX

Hợp tác xã



MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các quy luật xã hội thì quy luật: “quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ của lực lượng sản xuất” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi
vì đây là quy luật cơ bản, xuyên suốt, chi phối quá trình phát triển của xã hội
loài người.
Ở Việt Nam, trước thời kỳ đổi mới quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
đã được xác lập một cách nôn nóng, chúng ta đã xóa bỏ các loại hình quan hệ
sản xuất khác; trong khi trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp, quan hệ sản
xuất mới đi quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất, kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất, đã dẫn đến cuộc khủng hoảng về kinh tế -xã hội.
Trong những năm đổi mới, chúng ta đã có sự nhận thức lại, vận dụng
đúng đắn, sáng tạo quy luật: “quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất”, điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất, bằng cách phát triển đa dạng các loại hình quan hệ sản xuất,
từ đó tạo ra bước ngoặt căn bản của kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh
những thành tựu đã đạt được, vẫn còn yếu kém, bất cập, quan hệ sản xuất còn
có mặt chưa phù hợp, hạn chế trong việc giải phóng lực lượng sản xuất. Do
đó, cần tiếp tục xây dựng, điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp với lực
lượng sản xuất để giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Hiện nay, lực lượng sản xuất ở nước ta có sự phát triển đáng kể so với
thời kỳ trước cùng với xu thế toàn cầu hóa, hợp tác hóa, khu vục hóa đang
diễn ra mạnh mẽ đã tác động mạnh vào nước ta, làm bộc lộ nhiều mâu thuẫn
giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Chính vì vậy, việc nghiên cứu
điều chỉnh quan hệ sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển làm cho
nước ta hòa nhập với xu thế của thời đại là hết sức cần thiết.


1


Trong thời quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, còn tồn tại nhiều loại
hình quan hệ sản xuất khác nhau như: quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa,
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa……trong đó, quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở nước ta luôn được xác định đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân. Cùng với quá trình đổi mới đất nước quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa cũng không ngừng được đổi mới, hoàn thiện. Đảng khẳng định xây
dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường
xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội làm cho nó phù
hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ
ở nước ta rất cần thiết song cũng rất khó khăn, phức tạp, vì đây là con đường
đi chưa có tiền lệ, vừa phải xây dựng, vừa phải khai phá. Do đó, qua mỗi thời
kỳ, mỗi giai đoạn, phải điều chỉnh quan hệ sản xuất để thúc đẩy sản xuất phát
triển và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Muốn thực hiện được điều
này cần phải nghiên cứu sự biến đổi của quan hệ sản xuất từ khi nó được hình
thành đến nay, nhất là thời kỳ đổi mới.
Chính vì những lý do trên tôi đã lựa chọn đề tài: “Về sự biến đổi của
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong trong thời kỳ đổi mới ở Việt
Nam” để nghiên cứu.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu của luận án
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực trạng sự biến đổi của quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta, luận án góp phần đưa ra một số phương
hướng, giải pháp cơ bản nhằm phát huy những biến đổi tích cực, khắc phục
những yếu kém, bất cập của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa để thúc đẩy
sản xuất phát triển trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam hiện nay.


2


2.2. Nhiệm vụ của luận án
- Nghiên cứu một số quan điểm lý luận cơ bản về quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa và các nhân tố ảnh hưởng.
- Phân tích thực trạng sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa trong thời kỳ đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
- Góp phần đưa ra một số phương hướng và giải pháp cơ bản để phát
huy biến đổi tích cực, khắc phục các yếu kém, bất cập của quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước.
Kế thừa có chọn lọc những giá trị khoa học của một số công trình
nghiên cứu đã công bố liên quan đến đề tài.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để luận giải các nội dung đặt ra, trong
đó chú trọng các phương pháp: lịch sử-logich, phân tích, tổng hợp, so sánh…
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài đề cập tới sự vận động, biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở nước ta từ 1986 đến nay được xác định trong hai thành phần là kinh tế
nhà nước và kinh tế tập thể. Trong thành phần kinh tế nhà nước luận án chỉ đi
sâu vào nghiên cứu, khảo sát về các doanh nghiệp nhà nước bộ phận nòng cốt
của kinh tế nhà nước, trong kinh tế tập thể luận án chỉ tập trung khảo sát các

3



hợp tác xã bộ phận trụ cột của kinh tế tập thể, để từ đó góp phần đưa ra một
số giải pháp cơ bản nhằm phát huy biến đổi tích cực, hạn chế những yếu kém,
bất cập của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt
Nam.
Đề tài thuộc chuyên ngành triết học nên chỉ tập trung vào những
phương hướng, quan điểm, giải pháp chung.
5. Những điểm mới của luận án
Luận án góp phần phân tích những vấn đề còn tồn tại của quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Luận án bước đầu đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm phát
huy những biến đổi tích cực, hạn chế những yếu kém, bất cập của quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần nâng cao nhận thức về vai trò của quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu
và những người quan tâm.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm phần mở đầu, bốn chương thuộc nội dung chính, kết luận
và danh mục tài liệu tham khảo.

4


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình liên quan đến những vấn đề lý luận chung về
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam

Trong quá trình nghiên cứu, sưu tầm tài liệu, chúng tôi nhận thấy đã có
nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về QHSX XHCN. Các công trình
này, nghiên cứu QHSX XHCN trên các bình diện khác nhau. Điển hình là
những công trình nghiên cứu dưới đây.
“Một số vấn đề lý luận – thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (2016) của Phùng Hữu Phú, Lê Hữu nghĩa,
Vũ Văn Hiên, Nguyễn Viết Thông (đồng chủ biên). Trong cuốn sách này các
tác giả đã khái quát về lý luận trong 30 năm đổi mới, nhận thức của Đảng về
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ khi đổi mới năm 1986 Đại
hội VI đến năm 2000 chúng ta sử dụng khái niệm: Kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Ơ đây chúng ta đã thừa nhận kinh tế thị trường
nhưng chưa coi đó là nền kinh tế mà chỉ là một cơ chế. Đến đại hội IX năm
2001 chúng ta đã chính thức sử dụng khái niệm: Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và coi đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta
trong thời kỳ quá độ. Tác giả Phùng Hữu phú cho rằng: đây là một bước tiến
về mặt lý luận của Đảng khi khẳng định trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta là: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nội
hàm của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ngày
càng được làm rõ. Điều đó được thể hiện:
Một là, về mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Mục tiêu ở đây là vì con

5


người chứ không phải vì mục tiêu lợi nhuận. Kinh tế thị trường không phải là
mục tiêu, mà chỉ là cộng cụ để đi đến CNXH.
Hai là, về phương hướng phát triển. Phát triển nền kinh tế nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò

chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng của nền
kinh tế quốc dân
Ba là, về phân phối. Gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng
xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Thực hiện
phân phối theo lao động là chủ yếu, ngoài ra có phân phối theo mức đóng góp
vốn các nguồn lực khác và theo phúc lợi xã hội
Bốn là, về quản lý. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý nền
kinh tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, bằng pháp luật, kế hoạch bảo đảm mục
đích định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế……
Có thể nói, đây là cuốn sách phân tích chuyên sâu về lý luận kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta. Các tác giả đã tổng kết,
phân tích tư duy đổi mới lý luận kinh tế thị trường trong 30 năm đổi mới đất
nước, vai trò của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế. Tuy nhiên, các vấn đề
mà tác giả nêu ra còn quá chung chung, khái quát ở tầm vĩ mô, chưa đi sâu
phân tích cụ thể chi tiết về quan hệ sản xuất XHCN ở nước ta. Đây là tài liệu
tham khảo cần thiết có giá trị đối với chúng tôi.
Đề tài: “Nghiên cứu, tổng kết làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận về
mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng
bước QHSX XHCN” (2015) của Viện Triết học thuộc Học Viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh do tác giả Trần Văn Phòng làm chủ nhiệm. Công trình
này đã tổng kết làm sáng tỏ những vấn đề lý luận còn bỏ ngỏ chưa được giải
đáp một cách thỏa đáng trong quá trình phát triển xây dựng đất nước theo

6


định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chẳng hạn như: vấn đề xây dựng lực
lượng sản xuất hiện đại ở nước ta, cùng với đó là xây dựng quan hệ sản xuất
tiến bộ, phù hợp với lực lượng sản xuất đó. Theo các tác giả thì lực lượng sản
xuất hiện đại phải được thể hiện trên 2 tiêu chí; trình độ phát triển cao của

người lao động: người lao động phải có tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, nhiều kinh
nghiệm, có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần hợp tác…..thứ hai là tính hiện
đại của tư liệu sản xuất nó được thể hiện ở tính hiện đại của công cụ lao động
phải là công nghệ, dây chuyền máy móc hiện đại để có năng suất lao động
cao; tính hiện đại của lực lượng sản xuất còn được thể hiện ở tính hiện đại của
đối tượng lao động và phương tiện lao động. Hiện nay, do ứng dụng thành tựu
khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất nên đối tượng lao động trở nên
“nhân tạo “ hơn là tự nhiên. Các phương tiện lao động cũng ngày càng trở nên
hiện đại thuận tiện cho sản xuất và lưu thông. Do vậy, tính hiện đại của lực
lượng sản xuất còn được thể hiện ở tính ứng dụng khoa học công nghệ hiện
đại vào sản xuất, vì khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Khi xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại thì quan hệ sản xuất tương
ứng với nó cũng phải hiện đại. Ở đây đề tài đã phân tích, làm rõ tính hiện đại
của quan hệ sản xuất XHCN ở nước ta mà trong các văn bản trước đây chưa
được làm rõ đó là: Tính hiện đại của quan hệ sản xuất phải được thể hiện trên
cả 3 mặt; quan hệ trong sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quan
lý sản xuất, và quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động.Tiêu chí đánh giá
tính hiện đại thể hiện ở chỗ phù hợp với xu thế phát triển của LLSX của nhân
loại, phù hợp với trình độ phát triển của LLSX và thúc đẩy LLSX phát triển,
tạo ra môi trường lao động lành mạnh thúc đẩy cổ vũ người lao động sáng tạo
cống hiến để đem lại năng suất lao động cao. Biểu hiện của tính hiện đại của
QHSX là năng suất lao động xã hội tăng, đời sống người lao động không
ngừng được nâng cao, điều kiện làm việc được bảo đảm và thường xuyên cải

7


thiện, phương tiện lao động thường xuyên đổi mới hiện đại hóa…Đồng thời
đề tài cũng làm rõ khái niệm tiến bộ, phù hợp của quá trình xây dựng QHSX
XHCN ở nước ta. Sự tiến bộ của quan hệ sản xuất ở nước ta là tiêu chí căn

bản để đánh giá sự khác biệt của QHSX ở ta và QHSX TBCN, theo các tác
giả thì QHSX TBCN có sự phù hợp nhất định với trình độ của LLSX. Nếu
không có sự phù hợp với LLSX thì QHSX TBCN không phát triển được. Tuy
nhiên, QHSX TBCN không có sự tiến bộ vì nó dựa trên cơ sở bóc lột người
lao động và theo nguyên tắc lợi nhuận tối đa cho giới chủ, không vì con người
nói chung, vì người lao động nói riêng. Còn QHSX XHCN ở nước ta xây
dựng tính tiến bộ của nó phải được thể hiện ở mục đích của nền sản xuất xã
hội, phải vì người lao động, phục vụ người lao động chứ không phải lợi nhuận
tối đa.
Tuy nhiên, Đề tài chỉ đi sâu vào tổng kết nhiều về mặt lý luận, không
đi sâu nghiên cứu thực trạng về QHSX XHCN ở nước ta, hơn nữa trong đề tài
thì thành phần kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã còn ít được đề cập nghiên
cứu. Đây là đề tài có giá trị tham khảo rất lớn đối với chúng tôi trong quá
trình nghiên cứu.
“Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay - một số vấn
đề nhận thức về lý luận và thực tiễn” của tác giả Lương Minh Cừ - Vũ Văn
Thưc, xuất bản năm 2011. Trong công trình này các tác giả đặc biệt quan tâm
đến đặc điểm của sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân trong tiến trình phát triển
lịch sử thế giới và Việt Nam; sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân trong nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Có thể khẳng định rằng, công
trình này có giá trị tham khảo rất lớn. Bởi lẽ, các tác giả đã làm rõ được một
số vấn đề lý luận về sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN; quá trình đổi mới tư duy của Đảng ta về sở hữu tư
nhân, kinh tế tư nhân; đặc điểm của sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân và vai trò

8


của nó đối với sự phát triển của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ đổi mới; các
tác giả cũng đưa ra những cơ sở và lập luận lôgic khi nhận định xu hướng xã

hội hóa sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tuy
nhiên, do phạm vi nghiên cứu chỉ giới hạn ở sở hữu tư nhân và kinh tế tư
nhân, cho nên công trình này không thể đem đến cái nhìn toàn diện, đầy đủ
của mối quan hệ giữa quá trình đổi mới, điều chỉnh sở hữu với sự phát triển
của LLSX.
“Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Kế Tuấn (chủ biên), (2010). Công trình này tập
trung vào 3 vấn đề cơ bản sau: những vấn đề lý luận cơ bản về sở hữu trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; thực trạng vấn đề sở hữu, các
thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp trong quá trình đổi mới kinh
tế ở Việt Nam; quan điểm, xu hướng và giải pháp đối với vấn đề sở hữu, các
thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trong quá trình xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Đây là một công trình rất
công phu và có có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Các tác giả đã hệ thống
hóa, khái quát hóa quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và quan điểm của
nhiều nhà nghiên cứu khác về sở hữu, qua đó đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý
luận về sở hữu, chẳng hạn như về các chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu
trong nền kinh tế thị trường; sự phát triển các chế độ sở hữu trong các phương
thức sản xuất xã hội; mối quan hệ giữa sở hữu với các hình thức tổ chức kinh
tế trong nền kinh tế thị trường.
Trong quá trình tìm hiểu công trình này có một số vấn đề cần phải trao
đổi thêm, chẳng hạn như khi bàn về chế độ sở hữu, các tác giả cho rằng “chế
độ sở hữu là khái niệm mang tính tổng quát chỉ sở hữu ở khía cạnh bản chất
nhất” cách hiểu chế độ sở hữu như vậy rất khác so với các giáo trình Kinh tế
chính trị Mác – Lênin hiện nay. Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa sở hữu đối

9


với LLSX được thể hiện rất mờ nhạt, chưa thực sự làm rõ được tính đa dạng

của các hình thức sở hữu là do sự đa dạng về trình độ của LLSX điều quy
định.
“Vấn đề sở hữu và phát triển bền vững ở Việt Nam và Trung Quốc
trong những năm đầu thế kỷ XXI” của tác giả Lương Việt Hải (chủ biên), xuất
bản năm 2008). Công trình này là một tập hợp các bài viết của nhiều tác giả
khác nhau, chẳng hạn như các tác giả: Nguyễn Trọng Chuẩn với “Đổi mới
quan niệm về chế độ sở hữu và ý nghĩa chiến lược của nó đối với sự phát triển
của Việt Nam hiện nay”; Phạm Văn Đức với “Đổi mới về sở hữu ở Việt Nam:
một số cơ sở lý luận”; Vũ Văn Viên với “Cổ phần hóa - một phương tiện quan
trọng để thực hiện đa dạng hóa các hình thức sở hữu”; Đặng Hữu Toàn với
“Sự tồn tại đan xen các hình thức sở hữu - một tất yếu lịch sử, một yêu cầu
bức thiết trong phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN”; Nguyễn Văn
Thức với “Sở hữu nhà nước về tài nguyên đất đai ở Việt Nam”; Cát Lương
Chí với “Khích lệ, cổ vũ và dẫn đường cho sự phát triển các thành phần kinh
tế phi công hữu - chính sách kiên định, không đổi của Trung Quốc”…Các bài
viết này đều tập trung vào việc khái quát và chỉ ra cơ sở khoa học của những
quan điểm, chủ trương mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Cộng sản
Trung Quốc về sở hữu, nhất là là chủ trương đa dạng hóa các hình thức sở
hữu trong những năm thực hiện đường lối đổi mới, cải cách ở 2 nước. Tuy
nhiên, các vấn đề được trình bày trong các tham luận phần nhiều còn dừng lại
ở mức độ chung chung, khái quát, chưa thực sự phân tích một cách chi tiết về
sở hữu ở Việt Nam và Trung Quốc hiện nay.
“Sở hữu tập thể và kinh tế tập thể trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam” của tác giả Chử Văn Lâm (chủ biên), xuất bản
năm 2006). Công trình này gồm có 3 nội dung cơ bản sau: 1) Sở hữu tập thể
và kinh tế hợp tác trong nền kinh tế thị trường - một số vấn đề lý luận và thực

10



tiễn trên thế giới; 2) Một số vấn đề lý luận và thực trạng phát triển sở hữu tập
thể và kinh tế tập thể trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam; 3) Định hướng và các khuyến nghị chính sách phát triển
sở hữu tập thể và kinh tế hợp tác trong thời gian tới. Với việc tập trung nghiên
cứu những nội dung cơ bản trên, các tác giả đã góp phần làm rõ sở hữu tập
thể và kinh tế tập thể theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và theo quan
điểm của nhiều học giả khác, cả trên phương diện lý luận và thực tiễn (thực
tiễn trong nước và thực tiễn một số nước tên thế giới, thực tiễn ở các nước
XHCN, hoặc các nước trước đây là XHCN và thực tiễn ở các nước TBCN).
Chính vì vậy, công trình của tác giả Chử Văn Lâm và các cộng sự đã cung
cấp những cách nhìn đa chiều với nguồn tư liệu rất phong phú, đa dạng về sở
hữu tập thể và kinh tế tập thể. Xuyên suốt công trình này, các tác giả của nó
đã tập trung làm rõ bản chất và các hình thức sở hữu tập thể; sự khác nhau
giữa sở hữu tập thể và và sở hữu hỗn hợp; sự cần thiết của sở hữu tập thể và
kinh tế tập thể cũng như vai trò, vị trí của nó trong điều kiện nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN;…Có thể khẳng định rằng, công trình này đã góp
phần làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về sở hữu tập thể và kinh
tế tập thể; một số quan điểm đột phá về đường lối phát triển sở hữu tập thể và
kinh tế tập thể trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCNở Việt
Nam; thực trạng phát triển sở hữu tập thể và kinh tế tập thể ở nước ta sau khi
Luật Hợp tác xã (năm 1996) ra đời;…Tuy nhiên, một số nội dung quan trọng
chưa thực sự được các tác giả làm rõ, chẳng hạn như mối quan hệ giữa những
chủ trương, chính sách mới về sở hữu tập thể đối với sự phát triển LLSX.
“Xây dựng QHSX định hướng XHCN và thực hiện tiến bộ công bằng
xã hội ở Việt Nam” của tác giả Lương Xuân Quỳ, xuất bản năm 2002. Trong
công trình này, tác giả bàn về các vấn đề cơ bản sau: 1) Nhận thức về QHSX
định hướng XHCN và sự tiến bộ, công bằng xã hội; 2) Những biến đổi của

11



QHSX và tác động của chúng tới sự phát triển của LLSX, thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội trong 15 năm đổi mới (1986 - 2001) ở Việt Nam; 3) Phương
hướng xây dựng QHSX định hướng XHCN và thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội ở Việt Nam.
Đề tài mà tác giả Lương Xuân Quỳ và tập thể tác giả đề cập đến là một
vấn đề rất rộng lớn, phức tạp, còn có những ý kiến khác nhau. Các tác giả đã
làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn. Trong đó, nổi bật là các tác giả
đã góp phần làm rõ nội dung và những đặc trưng cơ bản của QHSX định
hướng XHCN; vai trò của QHSX với phát triển LLSX và tiến bộ, công bằng
xã hội theo học thuyết Mác – Lênin; những mâu thuẫn nảy sinh trong quá
trình phát triển LLSX và hoàn thiện QHSX theo định hướng XHCN; đặc
điểm của LLSX trong thời đại ngày nay và tác động của nó đối với QHSX;
đường lối của Đảng ta về việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần và thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay; thực trạng biến đổi
QHSX và những tác động chủ yếu của QHSX đối với việc tăng trưởng kinh
tế, giải phóng LLSX, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; phương hướng xây
dựng QHSX định hướng XHCN, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Tuy nhiên, trong công trình của tác giả Lương Xuân Quỳ và các cộng
sự còn có một số nội dung chưa thực sự sáng tỏ, đòi hỏi phải tiếp tục nghiên
cứu. Chẳng hạn như ở phần thứ nhất của công trình, nội dung bàn về vai trò
của QHSX với phát triển LLSX và tiến bộ, công bằng xã hội theo học thuyết
Mác – Lênin rất mờ nhạt, chưa rõ; ở phần thứ hai, các tác giả có đề cập đến
một nội dung rất quan trọng là tác động của những biến đổi QHSX đối với
việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải phóng LLSX, tuy nhiên cách trình
bày vấn đề này có phần đơn giản, vắn tắt, do vậy tính thuyết phục không cao;
ở phần thứ ba, những phương hướng xây dựng QHSX định hướng XHCN và

12



thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam mà các tác giả đưa ra còn rất
chung chung, rất khó để có thể vận dụng vào thực tiễn;…
Đối với mặt cơ bản thứ hai của QHSX – quan hệ giữa người với người
trong tổ chức, quản lý sản xuất – cũng là đề tài nghiên cứu của nhiều công
trình nghiên cứu, điển hình là các công trình sau:
“Một số vấn đề về quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam” của tác giả Từ Điển; “Hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng XHCN” của Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung
ương với công trình; “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN trong điều kiện Việt Nam là thành viên của tổ chức thương mại thế
giới” của các tác giả Nguyễn Văn Hậu và Nguyễn Thị Như Hà; “Hoàn thiện
thể chế về môi trường kinh doanh của Việt Nam” của tác giả Lê Danh
Vĩnh;“Thể chế kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường và hội nhập
kinh tế quốc tế ở Việt Nam” của tác giả Lương Xuân Quỳ - Đỗ Đức Bình;...
Nhìn chung, các công trình trên đều quan tâm làm rõ vai trò của Nhà nước
trong việc quản lý nền kinh tế ở nước ta hiện nay, tác động của quá trình hội
nhập quốc tế đối với các hoạt động tổ chức, quản lý sản xuất, điều tiết nền
kinh tế. Các công trình này cũng đã hệ thống hóa quá trình xây dựng, hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường ở nước ta, chỉ ra những thành tựu và hạn chế
của quá trình đó, đồng thời đưa ra các giải pháp khắc phục những hạn chế,
thiếu sót của thể chế kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Các tác giả trên
đều khẳng định sự cần thiết phải nhanh chóng hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN để nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước, tạo
môi trường thuận lợi cho quá trình sản xuất kinh doanh của người dân và
doanh nghiệp.
Quan hệ giữa người với người trong việc phân phối sản phẩm cũng là
là một trong những mặt cơ bản của QHSX. Tuy nhiên, trong quá trình tìm

13



hiểu, sưu tầm tài liệu, chúng tôi nhận thấy không có nhiều công trình nghiên
cứu chuyên sâu về vấn đề này. Dưới đây là một số công trình nghiên cứu mà
chúng tôi đã tiếp cận, tìm hiểu.
“Lý luận chung về phân phối của CNXH” (1999), Lý Bân người Trung
Quốc. Trong công trình của mình, tác giả Lý Bân đã nêu lên những luận điểm
cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về phân phối. Đồng thời, tác giả đã làm
sáng tỏ những điều kiện kinh tế ràng buộc phân phối, trong đó nhấn mạnh đến
sự phát triển của LLSX và tình hình kinh tế - xã hội của đất nước. Khi bàn về
những nhân tố thể chế kiềm chế phân phối, tác giả đã đề cập đến chế độ sở
hữu, thể chế kinh tế hàng hóa có kế hoạch, hệ thống điều hành vĩ mô và
phương thức kinh doanh của xí nghiệp. Theo tác giả, đây là những nhân tố
kiềm chế phân phối mà thực chất đó là những nhân tố quy định, chi phối việc
phân phối sản phẩm, lợi ích. Điều đó cũng có nghĩa là mỗi thay đổi trong các
nhân tố đó đều có những ảnh hưởng đến phân phối. Khi bàn về những đặc
điểm cơ bản của phân phối XHCN, tác giả nhấn mạnh đến tính công bằng
trong phân phối, đồng thời cho rằng cần phải nghiên cứu những đặc điểm này
ở trạng thái động, không nên vì khoảng cách giữa phân phối thực tế và yêu
cầu của đặc trưng cần thể hiện mà phủ nhận tính hợp lý của phân phối XHCN
cũng như triển vọng thực tiễn của nó. Với công trình này, tác giả Lý Bân đã
có công rất lớn trong việc làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận chung về phân
phối của CNXH. Tuy nhiên, khi bàn đến những vấn đề thực tiễn, do sự chi
phối của mục đích và phạm vi nghiên cứu, nên tác giả chỉ đề cập đến thực tiễn
ở Trung Quốc. Vì vậy, khi tìm hiểu công trình này, người đọc không có cơ
hội để biết về thực trạng cũng như những vấn đề đang đặt ra đối với việc phân
phối sản phẩm ở Việt Nam hiện nay.
“Vấn đề phân phối sản phẩm trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta
hiện nay” của tác giả Nguyễn Đức Luận. Đây là một bài báo khoa học, đăng


14


trên Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông (tháng 3 năm 2013). Công trình
này khái quát quá trình đổi mới quan hệ phân phối sản phẩm ở nước ta từ năm
1986 đến nay. Tuy nhiên, do đây chỉ là một bài báo khoa học, vì vậy nội dung
của nó còn khái quát, sơ lược, chưa đi vào những vấn đề cụ thể, chi tiết của
vấn đề phân phối sản phẩm ở nước ta hiện nay.
Tóm lại, Các công trình trên đã bàn nhiều về lý luận quan hệ sản xuất
XHCN, nhưng chưa có công trình nào bàn cụ thể, chi tiết về sự biến đổi của
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới.
1.2. Những công trình đề cập đến thực trạng sự biến đổi của quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình, bài viết nói về thực
trạng biến đổi về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở các góc độ và khía
cạnh khác nhau. Sau đây là những công trình tiêu biểu.
“Kinh tế Việt Nam 30 năm chuyển đổi” (2016) của tác giả Phạm Quý
Thọ, nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông. Tác giả đã đánh giá thực
trạng quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ khi tiến hành đổi mới năm
1986 đến năm 2016 qua 30 năm đổi mới đất nước. Đây là cuốn sách đã đánh
giá quá trình đổi mới nền kinh tế nước ta trên nhiều lĩnh vực như: vấn đề hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực của nền kinh tế những thành tựu và hạn chế,
vấn đề sở hữu trong nền kinh tế, vai trò của thị trường và vai trò của kinh tế
nhà nước…. Các vấn đề được tác giả trình bày thuộc lĩnh vực rộng lớn bao
trùm toàn bộ nền kinh tế, trong đó có đề cập về kinh tế nhà nước.
Tác giả đã trình bày thực trạng quá trình chuyển biến nền kinh tế nước
ta qua các giai đoạn khác nhau chẳng hạn như: giai đoạn 1986-1990 đây là
giai đoạn chuyển đổi về tư duy kinh tế chuyển từ mô hình kế hoạch hóa tập
trung, quan liêu, bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành


15


phần. Giai đoạn 1991-2001 chúng ta tiếp tục sự nghiệp đổi mới đất nước
như thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và khẳng định kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế. Giai đoạn từ 2001-2016 chuyển sang phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, trong quá trình đổi mới đất nước ta giành được
nhiều thành tựu nhưng còn có những hạn chế như: kinh tế phát triển chưa
vững chắc, chất lượng tăng trưởng chưa cao…
Về vai trò của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế tác giả cho rằng: kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo tiếp tục được khẳng định trong hiến pháp sửa
đổi năm 2013.Vai trò của kinh tế nhà nước là cần thiết nhằm khắc phục các
khuyết điểm của kinh tế thị trường, song cũng cần khắc phục các yếu kém
của các doanh nghiệp nhà nước. Đây là cuốn sách đã đánh giá thực trạng đổi
mới về tư duy lý luận của Đảng ta về chuyển đổi nền kinh tế ở Việt Nam và
là tài liệu tham khảo cần thiết cho chúng tôi. Tuy nhiên, tác giả chỉ chú trọng
khái quát thực trạng về quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng các số
liệu thực tế chưa nhiều, hơn nữa trong quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thì
quan hệ quản lý, quan hệ phân phối còn ít được bàn đến.
“Nợ của các doanh nghiệp nhà nước: mối đe dọa nợ công của Việt
Nam” (2016) Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số (453) của tác giả Phạm Thế
Anh. Đây là một bài báo khoa học tác giả đã phân tích thực trạng nợ của các
doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.Theo tác giả bài báo tính đến ngày 3212-2013 quy mô nợ của các doanh nghiệp nhà nước lên tới 1.654.271 tỷ
đồng, tăng 16,4% so với năm 2012 và tương đương với 46,2% GDP.Trong
đó tập trung vào một số tập đoàn và tổng công ty như: Tập đoàn Dầu khí
163,1 nghìn tỷ đồng,Tập đoàn Điện lực 78,6 nghìn tỷ đồng, Tập đoàn Than
và Khoáng sản 49,6 nghìn tỷ đồng, Tổng công ty Hàng Hải 47,6 nghìn tỷ
đồng, Tổng công ty Sông Đà 20,4 nghìn tỷ đồng…từ sự phân tích thực trạng


16


nợ của các doanh nghiệp nhà nước tác giả đi đến kết luận: Khu vực doanh
nghiệp nhà nước tuy chiếm số lượng nhỏ về doanh nghiệp nhưng đang có số
nợ rất lớn. Để giảm thiểu tiêu cực của nợ doanh nghiệp ảnh hưởng đến nợ
công ở Việt Nam cần phải có kế hoạch trả nợ và cơ cấu lại khu vực doanh
nghiệp nhà nước. Theo chúng tôi, hiệu quả của doanh nghiệp còn phụ thuộc
vào nhiều yếu tố như: khả năng sinh lời của các doanh nghiệp, kế hoạch trả
nợ, quy mô doanh nghiệp….chứ không chỉ một chỉ tiêu là nợ của doanh
nghiệp. Mặc dù vậy, đây là bài báo có giá trị cho chúng tôi tham khảo khi
đánh giá thực trạng doanh nghiệp nhà nước.
“Một số thách thức trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đức Độ đăng trên Tạp chí Tài chính
tháng 10/2016. Đây là một bài báo khoa học tác giả đã chỉ ra thực trạng quá
trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta còn nhiều bất cập:
Thứ nhất, số lượng các doanh nghiệp được cổ phần hóa còn ít trong
giai đoạn 2011-2015, cả nước sắp xếp được 558 doanh nghiệp, trong đó cổ
phần hóa được 478 doanh nghiệp chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ hai, mức độ cổ phần hóa thấp. Tại hầu hết các doanh nghiệp đã cổ
phần hóa tỉ lệ vốn nhà nước vẫn ở mức trên 50%, trong giai đoạn 3013-2015
quy mô thoái vốn đạt 17 000 tỉ đồng còn nhỏ so với vốn chủ sở hữu 1,3 triệu
tỉ đồng.
Thứ ba, nhiều doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa chưa lên sàn chứng
khoán.
Đây là một bài báo đã nói lên thực trạng quá trình cổ phần hóa các
doanh nghiệp nhà nước ở nước ta và là nguồn tham khảo có giá trị với chúng
tôi khi viết luận án. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất không chỉ có cổ phần hóa

17



còn có các mặt khác như quan hệ tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân
phối sản phẩm. Các quan hệ này còn chưa được đề cập trong bài báo.
“Đổi mới mô hình tăng trưởng cơ cấu lại nền kinh tế” (2015) của Ban
kinh tế Trung ương do đồng chí Vương Đình Huệ chỉ đạo biên soạn nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia. Thực chất của việc cơ cấu lại nền kinh tế là nhằm
chuyển từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu, từ phát
triển dựa trên số lượng sang phát triển trên cơ sở chất lượng. Trong cuốn
sách các tác giả đã chỉ ra thực trạng việc triển khai chỉ thị của Thủ tướng
chính phủ trong cơ cấu lại nền kinh tế với các nội dung là: cơ cấu lại đầu tư,
trọng tâm là đầu tư công, cơ cấu lại thị trường tài chính trọng tâm là các
ngân hàng thương mại, cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là
các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước.
Các tác giả đã đánh giá thực trạng quá trình triển khai giai đoạn 20112015 về việc thực hiện đề án cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước với các nội
dung: sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước đầu tư ngoài ngành, lĩnh vực
kinh doanh chính. Tính đến cuối năm 2015 đã có 88/108 tập đoàn kinh tế,
tổng công ty nhà nước đã được phê duyệt đề án. Nhìn chung cổ phần hóa là
để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, bảo đảm lợi
ích của người lao động. Kết quả của đề án tính đến ngày 30-9-2014, cả nước
đã thực hiện sắp xếp được 6.875 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa được
4132 doanh nghiệp,việc thoái vốn thực hiện với kết quả năm 2013 đã thoái
vốn 965,5 tỷ đồng, đến năm 2014 là 2975 tỷ đồng. Tuy nhiên, việc tái cơ cấu
còn chậm so với yêu cầu đạt ra. Đây là cuốn sách đánh giá toàn diện về việc
tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và là tài liệu tham khảo quý giá với chung
tôi trong quá trình viết luận án.
“Đổi mới quản lý của chủ sở hữu nhà nước đối với tập đoàn kinh tế
nhà nước ở Việt Nam” (2015) của tác giả Phùng Thế Hùng. Đây là một Luận

18



án Tiến sĩ kinh tế. Tác giả của luận án đã phân tích thực trạng sự biến đổi của
các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam và thực trạng quản lý nhà nước
trên phương diện là chủ sở hữu của các tập đoàn kinh tế nhà nước. Quá trình
hình thành các tập đoàn kinh tế nhà nước; đó là quá trình tổ chức sắp xếp lại
các doanh nghiệp nhà nước theo hướng liên kết, sát nhập lại thành các tập
đoàn có quy mô lớn. Các tập đoàn kinh tế nhà nước ở nước ta có quy mô lớn,
chiếm nguồn lực lớn của xã hội do vậy, hoạt động của các tập đoàn ảnh
hưởng lớn tới xã hội. Các tập đoàn kinh tế nhà nước ở nước ta hoạt động
trong các nghành nghề mũi nhọn của nền kinh tế, ngoài mục tiêu sản xuất
kinh doanh còn có mục tiêu xã hội chẳng hạn như: phục vụ cho công bằng xã
hội, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, vấn đề quốc phòng, an ninh, xây dựng kết
cấu hạ tầng….
Hiện nay, theo tác giả đa số các tập đoàn làm ăn tốt có lãi, thực hiện
được các mục tiêu về kinh tế- xã hội do Đảng, Nhà nước đề ra. Tuy nhiên,
hiệu quả sản xuất kinh doanh của các tập đoàn không đồng đều, trong số các
tập đoàn kinh tế nhà nước thì doanh thu đến chủ yếu từ Tập đoàn Dầu khi,
Tập đoàn Viễn thông quân đội, Tập đoàn Than và Khoáng sản. Trong những
năm gần đây các tập đoàn kinh tế nhà nước có nhiều biến đổi; một số tập
đoàn còn làm ăn kém hơn các thành phần kinh tế khác. Đặc biệt tập đoàn
Công nghiệp tàu thủy Việt Nam Vinaship và Tổng công ty Hàng hải Vinalies
đã thua lỗ nặng gây thất thoát, lãng phí vốn của nhà nước và gây ra búc xúc
cho nhân dân. Điều này đã dẫn đến mô hình tập đòan này bị tan rã cơ cấu lại
thành tổng công ty nhà nước.
Về mặt quản lý của nhà nước với các tập đoàn kinh tế nhà nước còn
nhiều lỗ hổng như; chủ sở hữu đối với các tập đoàn còn chồng chéo, nhiều
đầu mối, phức tạp dẫn đến hiệu lực quản lý không cao, cơ chế kiểm soát còn
nhiều bất cập chủ yếu theo báo cáo của Hội đồng quản trị của các tập đoàn


19


thiếu thẩm định, đánh giá, thông tin chưa kịp thời, dẫn đến sai phạm khó bị
phát hiện…….Tuy nhiên, Luận án còn có chỗ phải trao đổi thêm chẳng hạn
về vấn đề thực trạng độc quyền của doanh nghiệp nhà nước, vấn đề thực trạng
phân phối sản phẩm trong các tập đoàn kinh tế nhà nước…… Tuy vậy, công
trình này là nguồn tham khảo rất có giá trị đối với chúng tôi trong quá trình
viết luận án sau này.
“Doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa” của tập thể các tác giả của Hội đồng Khoa học các Cơ quan
Đảng trung ương do tác gải Nguyễn Duy Hùng làm chủ biên, Nhà xuất bản,
Chính trị Quốc gia năm 2013. Các tác giả đã đánh giá thực trạng việc tái cấu
trúc các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trên các mặt: Tái đầu tư công, cổ
phần hóa, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước……
Vấn đề tái cơ cấu đầu tư công và trách nhiệm vai trò của doanh nghiệp
nhà nước. Tác giả Cao Viết Sinh thứ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư chỉ rõ:
Đầu tư công thuộc vốn ngân sách nhà nước và thuộc kinh tế nhà nước thực
trạng là đầu tư phát triển theo chiều rộng hiệu quả đầu tư thấp, cơ cấu đầu tư
giữa các ngành, lĩnh vực, các vùng địa phương…còn nhiều bất hợp lý, chính
sách đầu tư chưa khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước đổi mới công
nghệ, nâng cao năng suất.
Về hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước trong cuốn sách tác giả Trần
Thị Minh Châu đã đánh giá khái quát thực trạng hiệu quả của doanh nghiệp
nhà nước như: số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm xuống từ 12000 doanh
nghiệp trước đổi mới chỉ còn 3283 năm 2010 doanh nghiệp nhà nước. Hiệu
quả của doanh nghiệp nhà nước hoạt động chưa cao được thể hiện: tình trạng
tài chính nhiều doanh nghiệp nhà nước chưa lành mạnh, hiệu quả sản xuất
kinh doanh thấp hơn các thành phần kinh tế khác…


20


Thực trạng sử dụng lao động trong doanh nghiệp nhà nước đa số các
doanh nghiệp nhà nước có số lượng lao động lớn, hầu hết các tập đoàn các
tổng công ty đều có chiến lược phát triển nguồn nhân lực, tuy nhiên theo các
tác giả còn một số vấn đề về nguồn nhân lực đặt ra như: tính toàn dụng lao
động thấp, một bộ phân lao động có tinh thần làm việc chưa tốt, lao động
quản lý còn có phẩm chất kém làm thất thoát tài sản, lãng phí tham ô….
Đây là một cuốn sách đã đánh giá thực trạng của doanh nghiệp nhà
nước ở nước ta hiện nay trên một số mặt, một số lĩnh vực và là tài liệu tham
khảo có giá trị cho chúng tôi sau này.
Quan hệ giữa người với người trong việc sở hữu về tư liệu sản xuất là
mặt căn bản của quan hệ sản xuất, vì vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu
về vấn đề này tiêu biểu như:
“Quản lý nhà nước với tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam” của tác
giả Nguyễn Thị Hà Đông. Đây là Luận án Tiến sĩ kinh tế được bảo vệ năm
2012. Tác giả đã phân tích và đánh giá thực trạng các tập đoàn kinh tế nhà
nước ở nước từ khi tiến hành đổi mới đến năm 2012. Theo tác giả các tập
đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam có đặc trưng là: được hình thành từ quá
trình chuyển đổi, sắp xếp lại các tổng công ty nhà nước ở nước ta, hoạt động
trong các ngành nghề mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân, hoạt động theo
mô hình công ty mẹ - con, chủ sở hữu là nhà nước bao gồm: Chính phủ, các
Bộ, các Ban, ngành..
Thực trạng các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam, theo tác giả đa
số các tập đoàn đều làm ăn có lãi đóng góp cho sự tăng trưởng và phát triển
của nền kinh tế. Các tập đoàn nhà nước như: Tập đoàn Điện lực, Tập đoàn
Than và khoáng sản, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông, Tập đoàn Cao su, Tập
đoàn Xăng dầu, Tập đoàn Viễn thông quân đội…. ngoài mục tiêu tiến hành
các hoạt động sản xuất kinh doanh còn thực hiện mục tiêu khác của Đảng,


21


Nhà nước như là: ổn định kinh tế vĩ mô, là công cụ để nhà nước điều tiết nền
kinh tế, kìm chế lạm phát…
Các tập đoàn kinh tế nhà nước nắm giữ các ngành nghề mũi nhọn trong
nền kinh tế và chi phối phần lớn thị trường như: Điện chiếm 94%, Than 97%,
Thuốc lá 63%, Giấy 50%, Ximăng 59%, Dầu khí và Bưu chính viễn thông
chiếm thị phần trên cả nước….đây là yếu tố quan trọng để nhà nước thực hiện
điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Tuy nhiên, theo tác giả bên cạnh các Tập đoàn làm
ăn có lãi thì vẫn có Tập đoàn làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ nặng gây bức xúc
cho xã hội như: Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam Vinaship và Tổng
công ty Hàng hải Vinalies đã thua lỗ hàng nghìn tỷ đồng. Nguyên nhân là do
quản lý nhà nước đối với các tập đoàn kinh tế nhà nước chưa tốt.
Bên cạnh những phân tích thực trạng trên, tác giả chưa đánh giá bao
quát các mặt của Tập đoàn kinh tế nhà nước trên các phương diện khác, chẳng
hạn vấn đề chủ sở hữu của các tập đoàn, vấn đề phân phối sản phẩm mà chỉ
bàn nhiều về quan hệ tổ chức, quản lý của các tập đoàn kinh tế nhà nước.
Quan hệ trong tổ chức, quản lý sản xuất chỉ là một mặt của quan hệ sản xuất,
mặt khác tác giả chỉ nghiên cứu về các Tập đoàn kinh tế nhà nước, một lực
lượng nòng cốt của doanh nghiệp nhà nước, chứ chưa bao quát hết toàn bộ
doanh nghiệp nhà nước và quan hệ sản xuất XHCN ở nước ta. Đây là luận án
gợi mở cho chúng tôi nhiều điều và làm tài liệu tham khảo cần thiết của
chúng tôi.
“Bản chất của sở hữu trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam”
(2006) của tác giả Trương Giang Long nhà xuất bản Công an nhân dân. Tác
giả đã phân tích thực trạng biến đổi sở hữu ở nước ta trong thời kỳ đổi mới đó
là: nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế, có sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp.

tương ứng với các hình thức sở hữu đó hình thành nhiều thành phần kinh tế

22


là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước ở thời kỳ này và
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế đều có vị trí, vai trò
nhất định trong nền kinh tế nước ta, đều bình đẳng trước pháp luật, được luật
pháp thừa nhận và tạo điều kiện phát triển.Theo tác giả các thành phần kinh tế
vừa thống nhất vừa mâu thuẫn, thống nhất vì: đều hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau, dưới sự điều hành chung
của nhà nước thông qua các chủ trương, chính sách, theo định hướng chung,
kinh tế nhà nước có thể liên doanh liên kết với các thành phần kinh tế
khác..Mâu thuẫn được thể hiện: Kinh tế nhà nước phát triển theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế khác đặt mục tiêu lợi nhuận, lợi ích
lên trên hết, kinh tế nhà nước ngoài mục tiêu lợi nhuận còn có mục tiêu về
kinh tế - xã hội. Về việc Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo tác giả đặt câu
hỏi: Hầu hết các nước trên thế giới đều có kinh tế nhà nước, tại sao chỉ có
Việt Nam xác định kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo? Tác giả đã đưa ra
câu trả lời; Điều đó là hoàn toàn đúng đắn. Bởi lẽ, không củng cố tăng cường
kinh tế nhà nước thì không thể nói tới định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này
không phải tư duy chủ quan mà xuất phát từ thực tiễn khách quan của Việt
Nam.
Tuy nhiên, tác giả chỉ mới nói tới thực trạng sự biến đổi nền kinh tế
nhiều thành phần và vai trò của các thành phần kinh tế trên phương diện nhận
thức thông qua các văn kiện của Đảng chưa có nhiều số liệu thực tế. Mặc dù
vậy đây là cuốn sách tham khảo đánh giá thực trạng về phương diện nhận
thức vai trò, vị trí các thành phần kinh tế có giá trị cho chúng tôi tham khảo.
Về thành phần kinh tế hợp tác xã cũng có các công trình nghiên cứu
tiêu biểu như:

“Luồng gió mới cho kinh tế hợp tác” của tác giả Thu Hường đăng trên
tạp chí Thời báo kinh doanh số 245 tháng 12/2016. Tác giả đã phân tích thực

23


×