Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tiểu luận nông dân chuyên nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.69 KB, 15 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Hiện nay, quá trình hội nhập của Việt Nam đang bước vào giai đoạn mới theo
chiều sâu. Trước đây, chúng ta tiến hành tự do hoá thương mại ở Đông Nam Á, sau
đó rộng hơn nữa chúng ta có làm một loạt các hợp tác song phương như Việt Nam
– EU, Việt Nam- Hoa Kỳ…và sâu hơn là khu vực mậu dịch tự do của thế giới
WTO và hàng loạt các FTA như ASEA – Hàn Quốc, ASEAN - Nhật Bản… Những
lần hội nhập đó, hàng hoá Việt nam đi ra thế giới chiếm lĩnh thị trường giá rẻ,
tương đối dễ tính, và tiêu chuẩn chất lượng cũng đòi hỏi không cao. Do đó, chúng
ta hoặc là bán nông sản thô hoặc là chỉ qua sơ chế để nước ngoài chế biến lại, đóng
nhãn mác, bao bì. Mặc dù, chúng ta đã nâng mức xuất khẩu nông lâm thủy sản lên
rất cao, với kim ngạch xuất khẩu năm 2014 đạt hơn 30 tỷ USD, Việt Nam cũng
đứng thứ hạng cao về số lượng của nhiều mặt hàng xuất khẩu trên thế giới như lúa
gạo, cà phê, cao su... từ thực tiễn và yêu cầu phát triển của đất nước, nhận thức của
Đảng và Nhà nước là ngày càng quan tâm chú ý tới phát triển nông nghiệp, nông
dân, nông thôn trong tổng thể sự phát triển chung của đất nước. Vì sao vậy? điều
đó không chỉ bởi nông dân là một lực lượng quan trọng của cách mạng và hiện còn
đang chiếm tỷ lệ lớn trong dân số, mà chính nông nghiệp, nông dân Việt Nam luôn
khẳng định vai trò đóng góp hết sức to lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế của
đất nước. Nông nghiệp đã mở đường trong quá trình đổi mới, tạo nền tảng, động
lực cho tăng trưởng kinh tế và là nhân tố quan trọng bảo đảm sự ổn định kinh tế,
chính trị, xã hội của đất nước. Đến nay mặc dù sau 25 đổi mới, kinh tế nước ta đã
phát triển khá toàn diện, song sản phẩm nông nghiệp vẫn là những sản phẩm chủ
yếu thể hiện sự hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với thế giới.
Gần đây, thuật ngữ "nông dân chuyên nghiệp" xuất hiện thường xuyên trong
phát biểu của các nhà lãnh đạo, trên các phương tiện truyền thông, và các Đề án tái
cơ cấu ngành Nông nghiệp cả nước. Muốn có "nông dân chuyên nghiệp" thì phải
có một "bộ máy ngành nông nghiệp chuyên nghiệp". Khi nhấn mạnh đến khía cạnh
sản xuất kinh doanh và khả năng tiếp thu, ứng dụng khoa học - kỹ thuật trong sản
xuất nông nghiệp, gần đây người ta nói nhiều đến khái niệm nông dân chuyên
nghiệp. Đó là những nông dân biết sử dụng máy tính truy cập trên mạng internet để
thu thập các kiến thức khoa học, kinh nghiệm về trồng trọt, chăn nuôi, tìm hiểu giá


cả thị trường tiêu thụ nông sản... Áp dụng khoa học công nghệ cao vào sản xuất
không chỉ là “chìa khóa” mà là giải pháp “then chốt” để tạo đột phá tái cơ cấu nông
nghiệp vì chỉ có như vậy mới tạo được sản phẩm có chất lượng cao, cạnh tranh
được trong thị trường, nhất là khi hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và nâng cao
được giá trị gia tăng và phát triển bền vững”.

PHẦN NỘI DUNG


I, Khái quát về nông dân chuyên nghiệp
1.

Khái niệm về nông dân chuyên nghiệp

Nông dân chuyên nghiệp không gắn với khái niệm cần cù, chịu khó, chân lấm
tay bùn; nông dân chuyên nghiệp chính là hình ảnh của tái cơ cấu một nền nông
nghiệp bền vững. Người nông dân chuyên nghiệp là người nông dân phải có quy
mô sản xuất tương đối lớn phải có sự gắn kết với nhau, phải có khả năng tiếp thu
thông tin và xử lý thông tin, hiểu biết máy móc, hiểu biết kiến thức; vì thế vị thế
của họ khi giao dịch với các đối tượng như doanh nghiệp sẽ tốt hơn ( vị thế của họ
cao hơn, năng lực của họ mạnh hơn và họ có thể ngang hàng, có thể đàm phán một
cách bài bản , công bằng với các đối tác khác trong xã hội, trong cả các chuỗi giá
trị) và uy tín của họ khi liên kết với các nông dân với nhau sẽ mạnh hơn đó là hình
ảnh nông dân rất là mới hiện nay và trong tương lai.
Tái cơ cấu là một quá trình phức tạp, khó khăn và lâu dài cần được thường
xuyên đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm để điều chỉnh phù hợp với thực tế trên
cơ sở xây dựng một hệ thống giám sát, đánh giá và tham vấn thông tin phản hồi từ
các bên liên quan. Tái cơ cấu ngành nông nghiệp là một hợp phần của tái cơ cấu
tổng thể nền kinh tế quốc dân, phù hợp với chiến lược và kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội của cả nước; gắn với phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường.

Yêu cầu mới đối với người nông dân như: khoa học – công nghệ, hiểu biết về
môi trường về biến đổi khí hậu, nắm bắt về thị trường, xử lý thông tin, tất cả những
yêu cầu như vậy với việc sử dụng máy móc thiết bị, với việc hiểu biết về chính
sách chủ trương thì rõ rang người nông dân vừa có năng lực vừa có kiến thức, độ
tuổi trẻ và phải hiểu biết về xã hội; đó là từng mảng một từng góc một của hình
ảnh người nông dân chuyên nghiệp trong tương lai. Muốn có người nông dân
chuyên nghiệp thì quá trình tái cơ cấu trong đó: áp dụng khoa học công nghệ, thay
đổi tổ chức thể chế, mở rộng thị trường; nhưng mặt khác, muốn tái cơ cấu được thì
người nông dân chưa chuyên nghiệp ngay thì từng bước đi đến chuyên nghiệp để
thay đổi về tư duy, thay đổi về năng lực và có đủ năng lực để mà xây dựng nền
nông nghiệp trong tương lai.
Chuyên nghiệp hóa nông dân bản chất của nó là làm cho nông dân sống
bằng nghề của họ, nếu nông dân làm lúa thì phải sống bằng lúa, nông dân nuôi
trồng thủy sản thì sống bằng nghề nuôi trồng thủy sản… Đào tạo nông dân chuyên


nghiệp, để làm được điều này Nhà nước hỗ trợ các lớp học, trên cơ sở các nông
dân có nguyện vọng để phát triển chăn nuôi tốt và các chủ trang trại, các chủ doanh
nghiệp, thay đổi nội dung và cách làm theo hướng tiếp cận thực tiễn, tiếp cận khoa
học kỹ thuật mới. Cánh cửa mở ra chính sách và thể chể chế để cho nông dân bước
vào một bước tiến mới, muốn nông dân có chuyên nghiệp thì nông dân phải sản
xuất lớn, phải là nông dân liên kết lại với nhau, phải là nông dân có trình độ và
được hỗ trợ để sử dụng, áp dụng kỹ thuật, máy móc cơ giới bước vào thị trường;
tất cả những việc này đều không nhanh cả nhưng chúng ta phải bắt đầu ngay từ bây
giờ; quá trình biến thành nông dân chuyên nghiệp không phải là quá trình nhanh
nhất mà nó phải là tiến trình biến đổi từ từ, từng bước, nó là nhu cầu cuộc sống
hiện nay.
Tái cơ cấu nông nghiệp thì phải tính thực hiện thực tế. Chẳng hạn, đầu tư cho
ngư nghiệp nhưng đến nay chưa xây dựng được các trung tâm nghề cá, các đội tàu
hậu cần hiện đại. Biến đổi khí hậu gay gắt khiến phải đặt ra việc tái cơ cấu nông

nghiệp, thay đổi cây trồng. Luật doanh nghiệp vừa và nhỏ, vấn đề khởi nghiệp phải
được làm mạnh, thể hiện dưới những đạo luật của Quốc hội. Hội nhập quốc tế phải
tính để tránh bẫy tự do thương mại, không tận dụng được cơ hội lại bị xâm nhập thị
trường, chúng ta phải tính từng đối tượng doanh nghiệp cụ thể, Nhà nước phải là
bà đỡ thực sự, không thể khoán trắng cho doanh nghiệp được. Muốn doanh nghiệp
cạnh tranh thành công thì đầu tiên phải cạnh tranh quốc gia và đó là vấn đề của
Nhà nước. Cùng với đó, giải bài toán cải cách các ngân hàng hiệu quả nếu không
chúng ta sẽ tiếp tục tích tụ khó khăn. Đại biểu Đỗ Văn Đương (TP. HCM) cho
rằng, nếu không có tầm nhìn dài hạn với vựa lúa ĐBSCL thì nguy cơ mất là điều
hoàn toàn có thể bởi khu vực này đang phải đối mặt với biến đổi khí hậu, nước
biển dâng gây ra xâm nhập mặn, hạn hán; các nước xây đập ở đầu nguồn gây cạn
kiệt nguồn nước... Phải tính toán các giải pháp đối với khu vực này một cách dài
hạn, không thể chỉ là tình thế như hiện nay. Rất nhiều đất đai quá lãng phí, rất
nhiều dự án để hoang hóa, lãng phí kéo dài, cần kiên quyết thu hồi những dự án
theo kiểu lấy đất rồi để đó”. “Báo cáo của Chính phủ cần đề cập lại quan điểm
xuyên suốt của Đảng đó là mục tiêu giảm nghèo, nhưng phải song song với đảm
bảo chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng miền, thành phần trong xã hội. Điều này
cần tiếp tục được đặt ra và có chỉ tiêu phấn đấu để trong 5 năm tới, khoảng cách
này như thế nào thể hiện được chính sách giảm nghèo của Việt Nam, đảm bảo sự
công bằng. Ngoài ra, cần lưu ý phát triển kinh tế biển. Bên cạnh hạn hán, biến đổi
khí hậu, chúng ta cần nhìn nhận nguy cơ bị xâm phạm chủ quyền để ứng xử trong
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, để đảm bảo yếu tố bền vững hơn”
2. Tái cơ cấu nền nông nghiệp
Ngày 10 tháng 6 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
899/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng


cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”. Một trong những quan điểm của Đề án
là tăng cường sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế, xã hội từ trung ương
đến địa phương trong quá trình tái cơ cấu ngành; đẩy mạnh phát triển đối tác công

tư (PPP) và cơ chế đồng quản lý, phát huy vai trò của các tổ chức cộng đồng. Nông
dân và doanh nghiệp trực tiếp đầu tư đổi mới quy trình sản xuất, công nghệ và thiết
bị để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn.
Đề án đưa ra định hướng chung trên ba khía cạnh kinh tế, xã hội, môi
trường trong thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Trong từng lĩnh vực cụ thể,
Đề án xác định:
Trồng trọt: Tái cơ cấu trồng trọt theo hướng phát triển sản xuất quy mô lớn,
tập trung gắn với bảo quản, chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị trên cơ sở phát
huy lợi thế sản phẩm và lợi thế vùng, miền; Cơ cấu lại hệ thống tổ chức sản xuất,
thu mua, chế biến, tiêu thụ sản phẩm; khuyến khích doanh nghiệp liên kết, ký kết
hợp đồng sản xuất, tiêu thụ nông sản với nông dân; phát triển các nhóm nông dân
hợp tác tự nguyện, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị; Hỗ trợ tập huấn, khuyến
nông và các dịch vụ tư vấn nhằm nâng cao kỹ thuật trồng, chăm sóc và thu hoạch
cho nông dân v.v...
Chăn nuôi: Phát triển chăn nuôi tập trung, trang trại, gia trại; hình thành các
vùng chăn nuôi xa thành phố, khu dân cư; khuyến khích áp dụng công nghệ cao, tổ
chức sản xuất khép kín hoặc liên kết giữa các khâu trong chuỗi giá trị từ sản xuất
giống, thức ăn, đến chế biến để nâng cao năng suất, cắt giảm chi phí, tăng hiệu quả
và giá trị gia tăng; v.v...
Thủy sản: Tập trung sản xuất thâm canh các đối tượng nuôi chủ lực (tôm sú,
tôm thẻ chân trắng, cá tra, rô phi, nhuyễn thể); tiếp tục đa dạng hóa đối tượng và
phương pháp nuôi để khai thác cơ hội thị trường; khuyến khích nuôi công nghiệp,
áp dụng công nghệ cao, quy trình thực hành nuôi tốt (GAP) phù hợp quy chuẩn
quốc tế; Đầu tư thiết bị, công nghệ hiện đại trong chế biến nâng cao giá trị sản
phẩm; cơ cấu lại sản phẩm chế biến đông lạnh theo hướng giảm tỷ trọng các sản
phẩm sơ chế, tăng tỷ trọng các sản phẩm ăn liền, giá trị gia tăng cao; mở rộng áp
dụng hệ thống quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm (theo ISO, HACCP, GMP,
SSOP); nghiên cứu và đầu tư ứng dụng công nghệ bảo quản trong và sau thu hoạch
để giảm tỉ lệ thất thoát và xuất khẩu thủy sản sống có giá trị cao.
Lâm nghiệp: Phấn đấu năm 2020 đạt cơ cấu kinh tế ngành là: 25% giá trị

dịch vụ môi trường rừng, 25% giá trị sản xuất lâm sinh và 50% giá trị công nghiệp
chế biến đồ gỗ và lâm sản khác; chuyển đổi cơ cấu sản phẩm từ khai thác gỗ non
xuất khẩu dăm gỗ sang khai thác gỗ lớn nhằm tạo vùng nguyên liệu tập trung, cung
cấp gỗ cho công nghiệp chế biến đồ gỗ xuất khẩu, giảm dần nhập khẩu gỗ nguyên
liệu.


Sản xuất muối: Đến năm 2020, sản lượng muối cả nước đạt khoảng 1,35
triệu tấn, trong đó muối công nghiệp chiếm 70%, muối thủ công chiếm 30%.
Phát triển công nghiệp chế biến và ngành nghề nông thôn: Ưu tiên đầu tư
phát triển công nghiệp chế biến tinh, chế biến sâu, đổi mới công nghệ, thiết bị kết
hợp với các biện pháp về tổ chức sản xuất, tiêu thụ hàng hóa nhằm nâng cao giá trị
gia tăng nông, lâm, thủy sản; phấn đấu mỗi ngành hàng có mức tăng ít nhất 20%
giá trị gia tăng trong vòng 10 năm; gắn hoạt động kinh tế của các làng nghề với
hoạt động dịch vụ du lịch và bảo tồn phát triển văn hóa truyền thống; yêu cầu các
thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực chế biến nông lâm thủy sản và ngành nghề
nông thôn phải đầu tư đồng bộ hệ thống xử lý nước thải, chất thải, khí thải, bảo vệ
môi trường.
Về giải pháp, Đề án tập trung: Nâng cao chất lượng quy hoạch, rà soát,
gắn chiến lược với xây dựng quy hoạch, kế hoạch, quản lý giám sát nâng cao hiệu
lực quản lý nhà nước đối với quy hoạch; Khuyến khích, thu hút đầu tư tư nhân;
Nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đầu tư công; Cải cách thể chế; Tiếp tục sửa
đổi, hoàn thiện hệ thống chính sách.
Về giải pháp khuyến khích, thu hút đầu tư tư nhân: Nhà nước hỗ trợ các
thành phần kinh tế đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; chuyển dần việc cung cấp
một số dịch vụ công sang cho tư nhân và các tổ chức xã hội thực hiện; tăng tỷ lệ
vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế ngoài nhà nước trong tổng vốn đầu tư vào
nông nghiệp. Phát triển các hình thức đầu tư có sự tham gia giữa nhà nước và tư
nhân (đối tác công tư, hợp tác công tư,...) để huy động nguồn lực xã hội cho phát
triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công. Nhà

nước chịu trách nhiệm quy hoạch sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất.
Về giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đầu tư công: Thực hiện
sự thay đổi trong ưu tiên đầu tư công tại các lĩnh vực thủy sản, thủy lợi, nông
nghiệp, lâm nghiệp,khoa học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực và phát triển thị
trường.
Về giải pháp cải cách thể chế: tiếp tục sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà
nước thuộc ngành; thực thi các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế hợp tác
(hợp tác xã, tổ hợp tác) các nhóm kinh tế tự nguyện tham gia vào sản xuất, kinh
doanh nông nghiệp; chuyển giao một số chức năng dịch vụ công của nhà nước cho
các hiệp hội (xúc tiến thương mại, khuyến nông, dự báo thị trường, tiêu chuẩn chất
lượng, xử lý tranh chấp...); đẩy mạnh mối quan hệ liên kết giữa nhà nước, nhà
nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp. Thực hiện việc Nhà nước tham gia đầu tư
cùng các doanh nghiệp trong: xây dựng, quản lý và vận hành các công trình kết cấu
hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, sản xuất nông nghiệp thông qua cung cấp các dịch
vụ công (khuyến nông, nghiên cứu và chuyển giao khoa học, công nghệ, đào tạo
nhân lực, thú y, bảo vệ thực vật,...), chủ yếu liên quan đến phát triển “chuỗi giá trị


ngành hàng” theo hình thức Nhà nước hướng dẫn và hỗ trợ các phương pháp thực
hành an toàn và quản lý môi trường tốt hơn, áp dụng công nghệ mới; các doanh
nghiệp tư nhân tham gia cùng nhà nước tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nhằm
nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng của sản phẩm.
II, Tính cấp thiết phải có nông dân chuyên nghiệp
Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm tới, Chính phủ phấn đấu trong
nhiệm kỳ tới: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5-7%/năm. Đến
năm 2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200-3.500 USD. Tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ trong GDP khoảng 85%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân
5 năm bằng khoảng 32-34% GDP. Bội chi ngân sách nhà nước còn khoảng 4%
GDP. Năng suất các nhân tố tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng khoảng 30-35%.

Năng suất lao động xã hội bình quân tăng khoảng 5%/năm. Tiêu hao năng lượng
tính trên GDP bình quân giảm 1-1,5%/năm. Tỷ lệ đô thị hoá đến năm 2020 đạt 3840%. Về xã hội, Chính phủ xác định, đến năm 2020, tỷ lệ lao động nông nghiệp
trong tổng lao động xã hội khoảng 40%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 6570%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành
thị dưới 4%. Có 9-10 bác sỹ và trên 26,5 giường bệnh trên 1 vạn dân. Tỷ lệ bao
phủ bảo hiểm y tế đạt trên 80% dân số. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,01,5%/năm.
Về mặt chính sách, thủ tục, nếu tới đây chúng ta tiến hành thực hiện truy
xuất nguồn gốc, dán mã vạch, thậm chí kiểm tra trực tiếp nơi sản xuất... thì người
nông dân phải chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm với người tiêu dùng ở cả
những thị trường xa xôi. Như vậy, họ phải biết cả chính sách về quản lý, về pháp
luật của các nước khác để tham gia liên kết, đồng thời đối chọi lại với đối thủ cạnh
tranh ở các nước khác; vượt qua các hàng rào kỹ thuật, bảo vệ mình khỏi những sai
sót không đáng có khi xâm nhập vào thị trường mới.Kiến thức về thị trường, về
sản xuất, về pháp lý, chính sách, trong điều kiện biến đổi khí hậu, cần có thêm cả
kiến thức tưới tiết kiệm nước, chuyển đổi cơ cấu cây trồng… trong quá trình này,
khoa học công nghệ sẽ áp dụng rất mạnh, kiến thức về sử dụng máy móc, sử dụng
giống mới, quy trình công nghệ mới, tiêu chuẩn kỹ thuật mới… cần được đào tạo
tốt. Bao trùm lên là kiến thức quản lý nông trại, hợp tác xã, quản lý ngành hàng,
biết cách điều chỉnh quy mô sản xuất, thay đổi ngành hàng theo tín hiệu của thị
trường. Người nông dân trong tương lai là người nông dân chuyên nghiệp, có kiến
thức, có năng lực sáng tạo, không còn là “cha chuyền con nối” như trước nữa,
không áp dụng kỹ thuật kiểu “con trâu đi trước cái cày theo sau nữa”.
Đã là nông dân chuyên nghiệp thì phải trẻ, khoẻ, có kiến thức... Tất nhiên
phải có khả năng tích luỹ vốn, quản lý vốn, sử dụng máy móc, có khả năng liên kết


với nhau. Xem ra, nông dân thời hội nhập còn hơn cả doanh nhân thời khép cửa.
Tới đây, là thế giới cạnh tranh, bước vào thị trường toàn cầu.
Trong các thỏa thuận hội nhập sâu thì phần lớn dòng thuế về không, các nước khác
thì có trợ cấp ở đằng sau, hàng rào kỹ thuật ở đằng trước, có cơ sở hạ tầng, khoa
học công nghệ, dịch vụ và chính sách rất tốt. Còn người nông dân của Việt Nam

hầu như không có các điều kiện đó.
Đối thủ cạnh tranh của nông dân Việt Nam là những chủ nông trại quản lý
vài ha ở châu Á, vài chục ha ở châu Âu, vài trăm ha ở châu Mỹ, vài nghìn ha ở
châu Úc…họ sử dụng máy tính, vệ tinh hướng dẫn, có viện nghiên cứu, trường đại
học đứng bên cạnh. Mô hình của họ mạnh như vậy, đòi hỏi chúng ta cũng phải có
được đội ngũ nông dân đủ mạnh để cạnh tranh.
Không chỉ đào tạo, hay từ khuyến nông có được đội ngũ này mà sau khi nhận diện
được “hình hài” của nông dân thế hệ hội nhập chúng ta phải chọn lựa. Muốn chọn
lựa, phải rút một lực lượng lao động không say mê, không đủ năng lực ra khỏi
nông nghiệp, để dành lại tài nguyên, đất, nước… cho những người có năng lực và
đam mê. Việc này, không còn là việc của nông dân hay riêng ngành nông nghiệp
mà cả nhà nước và xã hội cần vào cuộc để tạo ra làn sóng đưa lao động ra khỏi
nông nghiệp.
Tất nhiên, là ra đi phải vững bền, không làm đổ vỡ mối quan hệ giữa nông
thôn và thành thị. Người ở lại phải được chọn lọc, đào tạo và cấp bằng, trên cơ sở
đó mới được tích tụ đất đai, được vay vốn, giúp họ tổ chức lại thành hiệp hội,
nghiệp đoàn, hợp tác xã… để có được người nông dân chuyên nghiệp. Khi đó,
nông dân mới trở thành nông dân hiện đại, được hoạt động trong môi trường tốt,
khung pháp lý rõ ràng, được hỗ trợ về kiến thức, vốn, về năng lực quản lý… thì
những người nông dân mới trở thành nông dân chuyên nghiệp, có đủ sức chèo lái
được con tàu nông nghiệp Việt Nam đi ra biển lớn. Đấy là mơ ước mà cũng có thể
là hiện thực.
III, Thực trạng về nông dân chuyên nghiệp
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI rõ ràng chúng ta còn phải
làm rất nhiều việc. Cụ thể: Trước hết, cần phải có biện pháp, chính sách để bảo vệ
đất nông nghiệp, trong đó đặc biệt bảo vệ đất lúa. Cần tạo điều kiện để điều tiết
việc sử dụng đất đạt hiệu quả cao theo hướng kéo dài thời gian sử dụng đất, tăng
mức hạn điền, chấm dứt tình trạng chênh lệch giá khi chuyển đổi quỹ đất nông
nghiệp sang các mục đích khác, tạo điều kiện để tập trung hóa ruộng đất mở rộng
quy mô sản xuất. Hiện tại ởmột địa phương nhân dân đã có rất nhiều sáng kiến

nhằm đạt hiệu quả sản xuất cao như dồn điển đổi thửa, thực hiện “cùng trà khác


chủ”... những việc này cần phải được khuyến khích tạo điều kiện để nông dân sản
xuất quy mô lớn. Thứ hai, các ngành các cấp cần nhận thức rõ đầu tư cho nông
nghiệp, nông dân, nông thôn là sự đầu tư cho phát triển, bảo đảm phát triển kinh tế
và ổn định chính trị xã hội của đất nước. Do đó, tăng đầu tư cho nông nghiệp, nông
thôn để phục vụ đời sống và sản xuất ở khu vực này. Trước mắt đầu tư vào kết cấu
hạ tầng như: đường xá, mạng điện, thủy lợi, thông tin, các công trình phục vụ sản
xuất thủy sản, nghề muối, ...).Ngoài đầu tư cho kết cấu hạ tầng, rất cần đầu tư cho
nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất nông nghiệp, dạy nghề cho
nông dân, bởi vì đất nông nghiệp bị thu hẹp luôn là xu hướng tất yếu của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhưng nếu chúng ta biết ứng dụng khoa
học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất, có những người nông dân giỏi nghề thì nông
nghiệp vẫn vượt qua được những hạn chế của việc thu hẹp đất đai (như một số
nước Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ixraen... trên thế giới đã từng làm). Thứ
ba, nghiên cứu để có những biện pháp tổ chức các hình thức hợp tác sản xuất và
liên kết giữa sản xuất với chế biến, kinh doanh có hiệu quả. Tạo điều kiện để nông
dân có thể kết nối trực tiếp với thị trường, tiếp cận nhiều thông tin từ đó không chỉ
sản xuất được cái mà thị trường cần, mà còn biết tìm ra những kênh tiêu thụ phù
hợp cho sản phẩm của mình một cách phù hợp nhất. Thứ tư, để nâng cao hiệu quả
sản xuất nông nghiệp, đời sống cho nông dân và thay đổi bộ mặt nông thôn hiện
nay, cần có chính sách gắn kết công nghiệp với nông nghiệp, công nghiệp phải
phục vụ nông nghiệp, đưa dịch vụ vê nông thôn, đa dạng hóa ngành nghề ở nông
thôn để một mặt, công nghiệp hóa nông nghiệp (cung cấp máy móc cho nông
nghiệp, chế biến sản phẩm của nông nghiệp), giải quyết vấn đề thừa lao động trong
nông nghiệp, mặt khác, tăng thêm cơ hội cho người dân nâng cao đời sống của
mình. Ngoài ra, cần nhanh chóng phát triển văn hóa, xây dựng các công trình công
cộng, mở mang đường xá trên địa bàn nông thôn như: trường học, bệnh viện, siêu
thị, khu du lịch, vui chơi giải trí,... nhằm phục vụ bà con nông dân, nâng cao dân trí

đời sống tinh thần của họ. Nông dân, nông nghiệp đã có những đóng góp rất lớn
cho sự phát triển của đất nước. Thế nhưng, dường như ngày nay họ là những người
ít được hưởng lợi nhất trong công cuộc đổi mới của đất nước. Nếu như không quan
tâm đến họ, coi phát triển là vì con người thì chắc chắn sự phát triển ấy sẽ không
thể bền vững. Vì vậy phải có nhận thức đúng đắn, hành động đúng đắn thì những
lý luận của Đảng và Nhà nước mới đi vào cuộc sống một cách có hiệu quả nhất.
Sản phẩm nông nghiệp vẫn là những sản phẩm chủ yếu thể hiện sự hội nhập
của nền kinh tế Việt Nam với thế giới. Tuy nhiên phần thu lại cho người sản xuất
và kinh doanh của Việt Nam vẫn còn rất ít. So với sản xuất và tiềm năng thị hiện
xuất khẩu còn quá hạn hẹp. Trong khi đó, Việt Nam cũng phải nhập phân bón, cây,


con giống… các nông sản không có thế mạnh như sữa, nguyên liệu bia, vải, bông,
nguyên liệu da, gỗ… cho ngành chế biến trong nước. Với việc hội nhập ngày càng
sâu, sức mạnh của Việt Nam được nâng lên rất nhiều, chúng ta từng bước hiểu
thêm về thị trường thế giới, hiểu luật chơi, chính sách, thể chế của các quốc gia
khác. Đến nay, người nông dân cũng biết kiến thức căn bản về an toàn thực phẩm,
tiêu chuẩn kỹ thuật, cũng biết một cách căn bản mặt hàng nào thế giới tiếp nhận
hàng hoá của Việt Nam. Các kiến thức ấy là kiến thức cần thiết cho giai đoạn hội
nhập vừa qua. Nhiều lúc mình còn chê nông dân của mình còn kém nhưng nhìn ra
thế giới không phải nông dân các nước khác đều có thể nắm được nhiều thông tin
tốt như nông dân của Việt Nam. Chưa nói tới kiến thức bên trong về sản xuất, về
kỹ thuật, về quản lý tài nguyên, áp dụng khai thác hệ thống chính sách, quản lý tổ
chức sản xuất nhỏ… nông dân Việt Nam khá giỏi. Tuy nhiên, chỉ dừng lại ở mức
này là chưa đủ sức cạnh tranh trong tương lai. Sản xuất hiện tại cái gì cũng thừa,
cứ được mùa là mất giá, nên cần phải mở rộng thị trường hiện nay, hoặc là tiến
sang thị trường khác. Chúng ta cũng cần xác định, những thị trường sắp mở ra là
thị trường khó tính, đòi hỏi yêu cầu về an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn về xã hội như
về đời sống công nhân, về an toàn thực phẩm, về bảo vệ cảnh quan…, rừng có
quản lý bền vững hay không; các tiêu chuẩn về nhân đạo, không chỉ với con người

mà còn với súc vật và thân thiện với môi trường nông dân cần phải biết và học hỏi.
Tiến sĩ Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Chiến lược và phát triển nông
thôn (Bộ NN&PTNT), cho rằng: việc nhiều doanh nghiệp lớn đầu tư vào nông
nghiệp là một tín hiệu rất mừng, nhưng làm sao để duy trì được xung lực đó,
nhưng không để tác động xấu đến nông dân? Vì nếu không khéo, các DN vào chỉ
lo lấy đất, và khi làm mô hình khép kín, có thể họ không thích “chơi” với nông dân
nhỏ nữa. Do vậy, ông Tuấn cho rằng, với nông dân, để hợp tác với DN, họ phải tiến
tới chuyên nghiệp để sống được bằng nghề nông. Nông dân phải được tập hợp
thành tổ, hoặc HTX, có đại điện, tiếng nói để “chơi” sòng phẳng với DN khi liên
kết làm ăn.Cùng đó, phải để nông dân có tiếng nói trong hiệp hội ngành hàng, được
hỗ trợ về khuyến nông, tín dụng… Còn những nông dân “không chuyên nghiệp”
được, có thể chuyển đổi nghề, tham gia cung cấp một số dịch vụ đầu vào, ra cho
DN. Có thể có cơ chế để nông dân góp cổ phần vào DN hoặc tham gia vào thị
trường cho thuê đất. Ông Tuấn cho rằng, thời làm hàng rẻ, ăn xổi, giá trị thấp đã
hết. DN đầu tư là tính đến 30-50 năm. Do vậy, sự hỗ trợ của Nhà nước có chọn lựa,
định hướng, nhằm tăng giá trị gia tăng cho nông sản, có lợi cho nông dân. “Không
hẳn tự nhiên, mình chuyển sang nền nông nghiệp hiện đại ngay được. Phải có cú
hích về chính sách, hoặc thị trường mới đổi thay được. Việc này, cần tính toán kỹ
để can thiệp về chính sách, để có điểm rơi”- ông Tuấn nói. Hội thảo nhằm đánh giá
thực trạng phát triển của các hình thức kinh tế hợp tác nông nghiệp tại Việt Nam,
trao đổi kinh nghiệm với các nước đã có những cải cách và thúc đẩy kinh tế hợp
tác và tổ chức nông dân chuyên nghiệp thành công trong lĩnh vực nông nghiệp và


bàn giải pháp kích hoạt để loại hình tổ chức quan trọng này đóng góp xứng đáng
hơn vào sự phát triển của ngành nông nghiệp.
Làm sao để tạo thành chuỗi hàng hóa… cũng là bài toán khó mà ngành nông
nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc đang tìm cách tháo gỡ, bởi đến năm 2020, tỉnh chỉ còn
74.000 ha đất nông nghiệp, trong đó đất sản xuất nông nghiệp là 43.000ha, trung
bình chỉ 0,3-0,5ha/hộ. Thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp cũng rất khó

khăn vì lợi nhuận thấp, đất doanh nghiệp cần diện tích lớn song khó đáp ứng. Hộ
nông dân, chủ trang trại, hợp tác xã muốn vay vốn để phục vụ sản xuất nông
nghiệp song rất khó tiếp cận vì không có đủ điều kiện đảm bảo… Từ những khó
khăn trên, tỉnh Vĩnh Phúc đã xác định chỉ có thể triển khai tái cơ cấu nông nghiệp
theo hướng phát triển các ngành sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, có lợi
thế, có thị trường. Tập trung ưu tiên hỗ trợ các ngành hàng chủ lực, theo chuỗi liên
kết sản xuất gắn với tiêu thụ và mô hình sản xuất áp dụng công nghệ cao, hiện đại
vào sản xuất. Cụ thể, đối với chăn nuôi, tỉnh sẽ lựa chọn chăn nuôi bò sữa và bò
thịt; lợn giống và lợn thịt là ngành hàng chủ lực. Tập trung phát triển ở vùng trung
du, miền núi và vùng bãi ven các sông. Khuyến khích đầu tư phát triển chăn nuôi
trang trại gắn với an toàn dịch bệnh và an toàn thực phẩm; sử dụng giống có năng
suất, chất lượng cao, áp dụng quy trình VietGAP. Đối với trồng trọt, tập trung phát
triển ngành hàng rau quả, hỗ trợ dồn điền đổi thửa, thuê ruộng đất để tăng quy mô
sản xuất và sản xuất theo quy trình VietGAP gắn với chế biến, tiêu thụ. Khuyến
khích thành lập các hợp tác xã chuyên cây, con như hợp tác xã chăn nuôi bò sữa,
chăn nuôi lợn, nuôi trồng thủy sản, sản xuất rau quả… Thu hút doanh nghiệp đầu
tư, liên kết với hợp tác xã, trang trại, hộ nông dân để sản xuất, chế biến, tiêu thụ…
Liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp tạo thành chuỗi giá trị đã được
các công ty trong chăn nuôi như Công ty cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu,
Vinamilk, các công ty nước ngoài như Japfa Comfeed Việt Nam, …thực hiện mang
lại hiệu quả cho các đối tượng tham gia. Tuy nhiên khi sản xuất nông nghiệp quy
mô nông hộ vẫn là chủ yếu, sản xuất theo kinh nghiệm, tiềm lực về vốn, trình độ
quản trị vừa thiếu, vừa yếu; nhất là “niềm tin” trong hợp tác, tính minh bạch trong
phân phối lợi nhuận còn “mù mờ” sẽ khó có thể xây dựng và phát triển chuỗi liên
kết từ sản xuất đến tiêu thụ cho sản phẩm nông nghiệp. Để xây dựng và hình thành
được các chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trước hết cần có
cơ chế, chính sách hỗ trợ của Nhà nước để có các mô hình hợp tác xã chuyên cây,
chuyên con, đào tạo đội ngũ quản lý hợp tác xã, nông dân chuyên nghiệp, tạo liên
kết ngang để sản xuất quy mô lớn, cùng giống, cùng quy trình sản xuất và tạo sản
phẩm đồng đều. Trên cơ sở đó, mời gọi doanh liên kết tiêu thụ sản phẩm thì khả

năng thành công sẽ cao và bền vững. Hiện tỉnh đã có mô hình của Công ty TNHH
Sản xuất và thương mại Phát Đạt liên kết với 3 trang trại chăn nuôi đạt quy mô 500
lợn nái: Cùng chăn nuôi lợn từ sản xuất giống, nuôi lợn thịt theo quy trình
VietGAP, tổ chức giết mổ và mở cửa hàng bán thịt lợn an toàn, trong đó công ty là


đầu mối hướng dẫn kỹ thuật và cùng bao tiêu sản phẩm cho các trang trại tham gia
theo giá thị trường. Như vậy để có liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp thì doanh nghiệp cùng đồng hành và là đầu tàu vẫn giữ vai trò quyết định;
thiếu doanh nghiệp khó có chuỗi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Hội
đồng nhân dân và UBND đã ban hành 4 nghị quyết liên quan đến việc hộ trợ sản
xuất, tái cơ cấu nông nghiệp. Theo đó, hỗ trợ các xã, phường, thị trấn rà soát quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp, thuê đất sản xuất nông nghiệp; xây dựng
mô hình chuỗi liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ rau an toàn; xây dựng hạ tầng cho
các khu chăn nuôi, thủy sản tập trung ngoài khu dân cư; máy nông nghiệp; phòng,
chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm; bảo hiểm cho bò sữa…
Tư duy và nhận thức về vị trí, vai trò của công tác vận động nông dân còn
bất cập so với thực tiễn, chưa hình thành được một cách cơ bản hệ thống lý luận về
phương thức vận động nông dân trong tình hình mới. Một bộ phận đáng kể cán bộ,
đảng viên, nhất là trong các cơ quan quản lý Nhà nước chưa nhận thức đúng về vị
trí, vai trò của công tác vận động nông dân; còn quá tập trung vào mục tiêu tăng
trưởng kinh tế, chủ yếu thông qua phát triển công nghiệp, dịch vụ, mở rộng đô thị
và coi đó là nội dung chính của công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) mà
xem nhẹ việc phát triển nông nghiệp, nông thôn và giải quyết các vấn đề bức xúc
của nông dân, nên chưa quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và bố trí nguồn lực tương xứng
đầu tư cho lĩnh vực này. Chủ trương công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn cùng
với mặt tích cực, tiêu cực của kinh tế thị trường và những thách thức của hội nhập
kinh tế quốc tế tác động mạnh mẽ vào đời sống nông dân, nông thôn; những vấn đề
thể chế, tổ chức, quan hệ sản xuất, vấn đề thị trường đất đai... Mối quan hệ giữa
nông dân với Đảng, với chính quyền, với doanh nghiệp; phương thức vận động

nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường chậm được nghiên cứu, tổng kết thành
lý luận để điều chỉnh các chính sách cho kịp với đòi hỏi thực tiễn. Một số cơ chế
chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn chưa hợp lý, thiếu đồng bộ, chậm
được điều chỉnh, tổ chức thực hiện kém. Công tác xây dựng chính sách chưa được
thực hiện một cách chuyên nghiệp, một số chính sách thiếu cơ sở khoa học và thực
tiễn, không có tính khả thi, nhưng chậm được sửa đổi gây nên sự hoài nghi, bất
bình của nông dân. Đáng chú ý là một số chính sách liên quan trực tiếp đến quyền
lợi và nghĩa vụ của nông dân như: các chính sách về đất đai, vốn vay, hỗ trợ lãi
suất, trợ cước, trợ giá, vật tư nông nghiệp, thu mua, tạm trữ nông sản hàng hoá...
đối tượng hưởng lợi chủ yếu là doanh nghiệp, ít đến tay nông dân. Việc quy định
các khoản đóng góp còn nhiều và lớn ảnh hưởng tới đời sống của nông dân. Mức
thu thuế và phí của Việt Nam đang rất cao so với các nước khác trong khu vực.
Trong 5 năm gần đây, tỷ lệ thu thuế, phí/GDP của Việt Nam trên 20% thì ở Trung
Quốc là 17,3%, Thái Lan và Malaysia xấp xỉ 15,5%, Philipine 13%, Indonesia
12,1% và Ấn Độ 7,8%. Ước tính sơ bộ 2 năm 2010 và 2011 tỷ lệ này vẫn tiếp tục
duy trì ở mức cao, thậm chí gia tăng từ 22,6% lên 24,4% (1). Trong khi đó, sắp tới,


dự kiến sẽ lại tăng một số loại phí đối với phương tiện giao thông; tăng viện phí,
học phí... chưa phù hợp với thu nhập và khả năng chi trả, gây lo lắng, bất bình
trong nông dân. Cả nước hiện nay còn 148.059 hộ đồng bào dân tộc thiểu số thiếu
đất ở, 185.936 hộ thiếu đất sản xuất; hiện có khoảng 2,5 triệu nông dân đang làm
nghề rừng nhưng hầu hết lại chưa thể sống bằng nghề rừng do không có đất rừng,
hoặc đất rừng không thể sản xuất. Trong khi đó, các nông - lâm trường hiện đang
quản lý hơn 3 triệu hecta rừng; nhiều nông trường quản lý đất rừng không hiệu
quả, cho thuê theo hình thức “phát canh thu tô”. Đơn cử như Lâm trường Quế
Phong (huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An) hiện có khoảng 5.000 ha rừng, nhưng chỉ
có một giám đốc, một kế toán, hai cán bộ kỹ thuật quản lý, trong đó nhân dân địa
phương không có đất sản xuất. Một số quy định của pháp luật về đất đai lạc hậu so
với tình hình thực tế; công tác quản lý nhà nước về đất đai còn nhiều yếu kém, bất

cập, tạo mảnh đất mầu mỡ cho tham nhũng, đã và đang tác động mạnh đến sự phân
hoá giầu nghèo và gây ra những bất ổn định cho xã hội, một số người giàu lên từ
đất đai, nhưng số đông nông dân mất đất cuộc sống trở lên khó khăn hơn. Công tác
quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, nhiều nội dung quản lý trong lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn chưa thực hiện tốt. Tư duy quản lý vẫn nặng theo cách quản lý
thời bao cấp, theo kế hoạch và mệnh lệnh từ trên xuống, can thiệp sâu vào công
việc của doanh nghiệp và người dân, ban phát, xin cho. Phong cách làm việc của
một bộ phận không nhỏ đội ngũ cán bộ chính quyền các cấp còn quan liêu, thiếu sự
tôn trọng người dân, gây phiền hà, nhũng nhiễu diễn ra khá phổ biến. Công việc
dồn nhiều về cơ sở nhưng trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước
còn rất hạn chế, việc tổ chức thực hiện pháp luật, các chủ trương, chính sách còn
nhiều yếu kém, một bộ phận lớn cán bộ chưa thích ứng kịp với yêu cầu cải cách
hành chính. Trách nhiệm của các cấp uỷ và chính quyền các cấp không được làm
rõ và xử lý nghiêm túc khi không thực hiện tốt, sự phối hợp của các ngành, các cấp
và sự tham gia của các tổ chức đoàn thể thiếu chặt chẽ, có biểu hiện hành chính
hoá các tổ chức chính trị - xã hội. Việc xây dựng giai cấp nông dân chưa được chú
trọng đúng mức. Đến nay chúng ta chưa có chiến lược về phát triển giai cấp nông
dân. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn mặc dù đã có chủ
trương nhưng trên thực tế còn mang tính tự phát và thiếu sự chuẩn bị. Chất lượng
lao động nông nghiệp, nông thôn còn thấp so với yêu cầu CNH, HĐH. Việc nâng
cao trình độ giác ngộ chính trị của nông dân chưa được quan tâm thường xuyên,
đúng mức. Nông dân ít có cơ hội tham gia xây dựng chính sách quản lý phát triển
hoặc đề đạt nguyện vọng với cấp trên. Hiện nay thiếu kênh phản hồi chính sách
hữu hiệu từ người dân. Nhiều nơi quyền lợi của nông dân không được bảo đảm
(phải đóng góp nhiều, bị thua thiệt khi bị thu hồi đất, việc thực thi dân chủ ở nông
thôn ở một số nơi chưa được đảm bảo). Tình trạng nghèo khó, chênh lệch thu nhập,
những tiêu cực trong xã hội, nhất là tình trạng tham nhũng, quan liêu, cửa quyền,


thoái hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên làm ảnh hưởng, xói mòn

lòng tin của một bộ phận nông dân.
IV. Giải pháp tái cơ cấu nông nghiệp
Tái cơ cấu nông nghiệp, tức là phải tăng thu nhập của những người nông dân,
đặc biệt là người dân nghèo. Song để đạt được mục tiêu này là không dễ dàng.
Trong tái cơ cấu phải đa dạng chính sách nông nghiệp. Mỗi một vùng miền chúng
ta phải có một chính sách khác nhau. Song chúng ta cũng phải có những chính sách
cho các doanh nghiệp nhỏ, hộ sản xuất kinh doanh nhỏ để họ tham gia vào quá
trình tái cơ cấu. Không thể bỏ rơi người dân trong quá trình tái cấu trúc. Chúng ta
xác định sản xuất nông nghiệp phải mang tính chất sinh thái bền vững, thân thiện
môi trường, hài hòa về sinh học, kiểm soát được ô nhiễm môi trường, đảm bảo
được sự bền vững độ phì nhiều của đất, giữ được đa dạng sinh học. Chúng ta cần
có những quy định kiểm soát, cấp chứng chỉ trong sản xuất, tổ chức sản xuất, hỗ
trợ xây dựng thương hiệu với sản phẩm nông nghiệp, có sử dụng kỹ thuật canh tác
thân thiện với môi trường và sinh thái. Đây cũng là những điều kiện mà thị trường
các nước phát triển yêu cầu.
Giá trị gia tăng ngày càng thấp. Trong một thời gian dài, nông nghiệp Việt Nam đã phát triển
vượt bậc: Giá trị, sản lượng tăng, xuất khẩu tăng, thu nhập dân cư nông thôn được cải thiện. Tuy
nhiên, tăng trưởng nông nghiệp thời gian qua chủ yếu dựa trên thâm dụng tài nguyên thiên nhiên,
lạm dụng đầu vào, nên đã tác động xấu đến môi trường, tăng mức độ ô nhiễm, suy yếu nguồn tài
nguyên, gây bất lợi cho sức khỏe của cộng đồng, ảnh hưởng đến chất lượng, hạn chế nông sản
Việt tiếp cận phân khúc thị trường quốc tế. Năng suất các cây trồng chủ lực tăng chậm lại. Chuỗi
cung ứng, tiêu thụ nông sản vẫn ở trạng thái manh mún, khiến cho thu nhập cho người nông dân
vẫn thấp, mặc dù giá và lượng hàng hóa giao dịch thương mại trên thị trường cao hơn trước. Tăng
trưởng nông nghiệp đã và đang có dấu hiệu suy giảm. Tốc độ tăng GDP nông nghiệp giai đoạn
1996 - 2000 đạt 4%/năm, giảm xuống còn 3,83%/năm trong giai đoạn 2001 - 2005 và 3,3%/năm
trong giai đoạn 2006-2010. Tỷ lệ giá trị gia tăng so với tổng giá trị sản xuất nông nghiệp cũng có xu
hướng giảm, từ 66,35% năm 2000 xuống 58,8% năm 2010 (theo giá thực tế) và 45,6% năm 2000
xuống 38,8% năm 2010 (theo giá so sánh). Hệ thống khoa học công nghệ nông nghiệp phát triển
chậm, thiếu sự phối hợp với các tổ chức xã hội nghề nghiệp và doanh nghiệp. Tỷ trọng đầu tư cho
nghiên cứu nông nghiệp trong GDP nông nghiệp thấp, chưa bằng một nửa so với nhiều quốc gia có

thu nhập trung bình khác. Sản xuất nông nghiệp vẫn manh mún làm tăng rủi ro, ngăn cản áp dụng
công nghệ tiên tiến, khó bảo quản-quản lý chất lượng- kiểm soát dịch bệnh, tăng chi phí, cản trở
hợp tác nông - công do tính rủi ro khi ký kết hợp đồng bao tiêu nông sản với hàng trăm nông hộ
nhỏ. Công nghiệp chế biến nông sản kém phát triển...
Vấn đề thực hiện tái cơ cấu NN:
Tập trung phát triển những ngành hàng có sức cạnh tranh cao hoặc có tiềm năng phát triển
trong tương lai. Cụ thể, trong ngành trồng trọt, tập trung phát triển các cây trồng có lợi thế so sánh
rõ rệt và có nhu cầu lớn trong tương lai phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu như cà phê, hồ
tiêu, điều, cao su, rau quả nhiệt đới, lúa gạo. Giảm thiểu những cây trồng kém lợi thế, chấp nhận
nhập khẩu với quy mô hợp lý phục vụ chế biến và nhu cầu tiêu dùng trong nước (bông, thuốc lá, rau
hoa quả ôn đới, đỗ tương…).
Trong ngành chăn nuôi, tập trung phát triển các ngành hàng có lợi thế và tiềm năng thị trường
cao như gia cầm, trứng, sữa. Duy trì tăng trưởng ngành hàng lợn và gia súc lớn nhằm đáp ứng nhu
cầu trong nước. Trong ngành thủy sản, tập trung phát triển nuôi trồng, nhất là nuôi thủy sản nước lợ
và sau đó là nước ngọt, mở rộng nuôi trồng trên biển theo hướng đầu tư thâm canh tăng năng suất,


tăng hiệu quả, đảm bảo vệ sinh an toàn và duy trì cân bằng sinh thái môi trường. Chuyển sang đánh
bắt biển xa theo hướng khai thác bền vững, kết hợp kinh tế - quốc phòng…
Tăng cường thể chế cho phát triển nông nghiệp theo định hướng thị trường. Phát triển thị
trường đất đai, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tài chính cung cấp đa dạng loại hình cho vay,
bảo hiểm và các dịch vụ khác trong NN, phát triển nông thôn, tăng cường vai trò và năng lực của
hiệp hội nông dân, hiệp hội ngành hàng; hỗ trợ phát triển hợp đồng nông sản giữa nông dân với
doanh nghiệp, nâng cao năng lực quản lý rủi ro; thúc đẩy phát triển các loại hình giao dịch thị
trường hiện đại.
Phát triển hệ thống đổi mới nông nghiệp. Đổi mới hệ thống quản lý hành chính và tài chính
trong quá trình xác định các vấn đề ưu tiên, giám sát và đánh giá các nghiên cứu trong ngành NN.
Tăng lợi ích gắn liền với trách nhiệm của cán bộ nghiên cứu, đảm bảo chất lượng và khả năng ứng
dụng của các kết quả nghiên cứu. Thu hút đầu tư tư nhân vào lĩnh vực nghiên cứu và chuyển giao
công nghệ, hỗ trợ các hoạt động hợp tác nghiên cứu giữa tư nhân, Nhà nước với các tổ chức

nghiên cứu và giáo dục quốc tế.
Thúc đẩy đầu tư cho công nghiệp phục vụ NN và hiện đại hóa chuỗi cung ứng NN. Nhà nước
tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng hỗ trợ cho phát triển các cụm nông-công nghiệp, có chính sách
khuyến khích đầu tư vào các vùng kém phát triển. Đầu tư tư nhân đóng vai trò chính để hiện đại hóa
chuỗi cung ứng nông, lâm, thủy sản phục vụ xuất khẩu và tiêu thụ trong nước.
Tăng cường năng lực và tạo động lực cho việc quản lý chất lượng và bảo đảm vệ sinh an toàn thực
phẩm. Thị trường là động lực chính để cải tiến chất lượng, Nhà nước đóng vai trò hỗ trợ, đặc biệt là
về đảm bảo chất lượng giống cây trồng vật nuôi, phân bón, thức ăn chăn nuôi và vật tư nông
nghiệp, hỗ trợ các sáng kiến về nâng cao chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, sử dụng chỉ dẫn
địa lý...
Tăng cường quản lý tài nguyên hướng tới tăng trưởng bền vững: Áp dụng các biện pháp kỹ
thuật và thể chế để tăng hiệu quả sử dụng nước trong thủy lợi, tăng cường quản lý giám sát các
nguồn lợi ven biển, áp dụng biện pháp đồng quản lý đối với đánh bắt thủy sản ven bờ, nâng cao
hiệu quả quản lý và khai thác rừng. Tăng cường tính hiệu lực của các quy định và thực hành nhằm
giảm thiểu tác động bất lợi về môi trường của việc khai thác các nguồn lực nông, lâm, thủy sản. Xây
dựng khung pháp lý và chính sách hỗ trợ quản lý tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học,
bảo tồn lưu vực sông và quản lý khí thải carbon.
Nâng cao năng lực quản lý rủi ro: Nâng cao năng lực của nông dân và các thành phần kinh
tế nông thôn khác trong việc quản lý và ứng phó rủi ro liên quan đến thời tiết và giảm thiểu tác động
của biến đổi khí hậu cũng như các rủi ro về thị trường. Cải thiện hệ thống dự báo thời tiết, hệ thống
cảnh báo sớm và gắn kết hệ thống này với dịch vụ tư vấn nông nghiệp. Xem xét thay đổi phương
pháp canh tác và lựa chọn giống phù hợp, tăng cường hợp tác nghiên cứu và phát triển về các
giống cây trồng, vật nuôi mới...

PHẦN KẾT LUẬN
Trong tình hình hiện nay, nông nghiệp là mô hình đột phá, tuy nhiên việc đầu
tư cho nông nghiệp còn hạn chế, đầu tư xã hội thấp, năng suất lao động thấp, sản
phẩm không đủ yếu tố cạnh tranh trên thương trường quốc tế... Đó là lý do tại sao
sản lượng sản phẩm nông nghiệp có tăng trưởng về số lượng, song người nông dân
vẫn chưa được hưởng lợi xứng đáng trên chính sản phẩm của mình. Những thành

tựu của nông nghiệp, nông thôn do người nông dân đóng vai trò chính đã góp phần
quan trọng vào thành công bước đầu của công cuộc đổi mới, đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, bộ mặt của đất nước và đời sống nông dân có nhiều thay
đổi, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; tạo tiền đề để


nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới. Những thành tựu của
nông nghiệp, nông thôn do người nông dân đóng vai trò chính đã góp phần quan
trọng vào thành công bước đầu của công cuộc đổi mới, đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển, bộ mặt của đất nước và đời sống nông dân có nhiều thay đổi,
vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; tạo tiền đề để
nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới. Tuy nhiên công tác
vận động nông dân cũng gặp những khó khăn, thách thức trong cơ chế thị trường
và tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém, đó là: nông nghiệp, nông thôn phát triển kém
bền vững; các hình thức tổ chức sản xuất chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu giải
phóng nguồn lực. Đời sống vật chất, tinh thần của nông dân tuy đã được cải thiện
nhưng nhìn chung vẫn còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo giảm chưa bền vững; chênh lệch
mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng còn lớn; khoảng cách giàu nghèo ở nông thôn cũng ngày càng doãng ra; phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức
xúc, tệ nạn xã hội gia tăng, an ninh trật tự diễn biến phức tạp. Tình hình khiếu kiện
đông người của nông dân không giảm, mà còn có xu hướng ngày càng tăng cả về
số lượng cũng như tính chất phức tạp.



×