Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO NHỮNG vấn đề cơ BẢN TRONG tư TƯỞNG TRIẾT HỌC hồ CHÍ MINH về văn HÓA VÀ sự vận DỤNG TRONG xây DỰNG QUÂN đội TA về văn HÓA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.64 KB, 23 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT
HỌC HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA VÀ SỰ VẬN DỤNG
TRONG XÂY DỰNG QN ĐỢI TA VỀ VĂN HÓA
Chủ tịch Hồ Chí Minh có những tư tưởng triết học phong phú, sâu sắc
và độc đáo, được thể hiện trong nhiều bài viết của Người. Những tư tưởng
triết học của Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể được xem xét ở nhiều góc độ khác
nhau. Nhưng dù ở góc độ nào chúng ta cũng thấy những tư tưởng đó vừa
mang sắc thái thâm th của triết học phương Đơng, lại vừa có tính khúc triết,
duy lý, hiện đại của triết học phương Tây. Thí dụ: Về tư tưởng “Khơng có gì
q hơn độc lập tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người Việt Nam nhận thấy
ở đó trình độ khái qt cao của tư tưởng “một dân tộc độc lập và một quốc gia
có chủ quyền” của tư tưởng truyền thống Việt Nam; người phương Tây nhìn
thấy bóng dáng của tư tưởng triết học khai sáng Pháp; những người cộng sản
lại nhìn thấy ở đó hiện thân của triết học Mác - Lênin. Trong hàng loạt những
tư tưởng triết học của Chú tịch Hồ Chí Minh về con người, chúng ta cũng
thấy hiện lên rất rõ những khai niệm nhân văn đặc sắc của dân tộc Việt Nam,
cũng như những tư tưởng triết học sâu sắc của Khổng Tử, Lão Tử, Phật giáo,
Thiên chúa giáo, triết học khai sáng Pháp và đặc biệt là tư tưởng nhân đạo cao
cả của triết học Mác - Lênin. Ở tư tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, có cả phép “biến dịch” của triết học phương Đơng, lại có
cả phép biện chứng duy vật của triết học mácxít…Có thể nói, nhiều giá trị
triết học của nhân loại trong lịch sử đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết,
kế thừa, vận dụng sáng tạo, và nhờ đó mà nâng chúng lên ở trình độ mới,
chẳng những ngang tầm thời đại mà còn hướng tới tương lai.
Như vậy, nguồn gốc tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh ở ba yếu tố
chính: một là, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam; hai là,
những giá trị hợp lý, tiến bộ của triết học phương Đông và triết học phương
Tây; ba là, hệ thống tư tưởng triết học Mác - Lênin - đỉnh cao trong sự phát
triển của tư tưởng nhân loại. Những yếu tố này đóng vai trị quan trọng tạo



nên nội dung của tư tưởng triết học Hồ Chí Minh. Trong đó, mỗi yếu tố lại có
vai trị khác nhau. Yếu tố truyền thống dân tộc đóng vai trị là yếu tố nội sinh,
là chất keo gắn kết những tư tưởng triết học khác nhau tham gia vào tư tưởng
triết học Hồ Chí Minh. Yếu tố triết học phương Đơng và triết học phương Tây
lại đóng vai trị kết hợp truyền thống Đông - Tây trong sự phát triển tư tưởng
triết học của Người. Còn triết học Mác - Lênin có vai trị quyết định nhất, là
thế giới quan và phương pháp luận khoa học để Hồ Chí Minh xử lý những
vấn đề, những yếu tố nêu trên; và quyết định bản chất, nội dung cơ bản trong
tư tưởng triết học Hồ Chí Minh. Nội dung triết học trong tư tưởng Hồ Chí
Minh rất phong phú và đa dạng, trong phạm vi của tiểu luận này tác giả chỉ đi
sâu và luận giải những vấn đề có tính khái lược triết học về văn hóa trong tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam và là danh
nhân văn hoá của thế giới. Hai danh hiệu đó được nghi trong nghị quyết của
tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá liên hợp quốc là sự khái qt cao tồn
bộ cơng lao và sự nghiệp cách mạng của Người. Ở đây hoàn tồn khơng có sự
tách rời giữa Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc với Hồ Chí Minh danh nhân văn hoá. Cách mạng và văn hoá là sự thống nhất hữu cơ, biện
chứng trong con người Hồ Chí Minh.
Cách đây hơn 70 năm, nhà thơ Xơviết - ÔxípManđenxơtam đã viết “Từ
Nguyễn Ái Quốc tỏa ra một nền văn hóa, khơng phải của văn hóa châu Âu,
mà có lẽ là nền văn hóa tương lai…”. Nhiều nhà hoạt động nổi tiếng trong
phong trào cộng sản thế giới, nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, xã hội, văn học,
triết học…đều đánh giá Hồ Chí Minh là “một nhà lý luận vĩ đại” mà “tên
tuổi…sẽ mãi gắn bó với những hành động cao cả nhất là nhưng ước mơ cao
quý nhất của nhân loại” và chân lý của lịch sử.
Xung quanh việc xác định nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hố
và sự nghiệp văn hố Hồ Chí Minh, cịn có những nhận thức mang những sắc
thái khác nhau.



Có ý kiến cho rằng, “để hiểu ý nghĩa của bản nghị quyết của UNESCO,
tơi hình dung Hồ Chí Minh là người đem lại ánh sáng, ánh sáng văn hoá, ánh
sáng cách mạng cho nhân dân nhiều nước khác để xua tan bóng tối của chủ
nghĩa thực dân, đế quốc, của dốt nát, đói nghèo, bệnh tật đè nặng lên cuộc
sống của các dân tộc bị áp bức…Sự nghiệp văn hố lớn nhất, quan trọng nhất
của Hồ Chí Minh là đã huy động sức mạnh của truyền thống hơn 4000 năm
văn hiến của dân tộc kết hợp với tinh hoa văn hố của thời đại, lãnh đạo thành
cơng sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành lại cho nhân dân ta quyền làm
người, quyền được sống xứng đáng với con người. Sự nghiệp đó trả lại địa vị
xứng đáng cho nền văn hố Việt Nam, cũng là một sự nghiệp có ý nghĩa to
lớn đối với nền văn hoá thế giới, góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân
các nước thuộc địa, từng bước tiến lên thanh toán chủ nghĩa thực dân, xoá đi
một vết nhơ trong lịch sử và trong nền văn hố của lồi người” 1. Ý kiến này
xác định một cách tổng quát rằng: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một kho tàng
đầy của báu, là di sản chứa đựng biết bao giá trị, giá trị đó nói cho cùng là giá
trị văn hố”2.
Một ý kiến khác khẳng định: “Sự nghiệp Văn hoá quan trọng nhất của
Người là đã lãnh đạo toàn dân đánh đuổi giặc ngoại xâm trong thời đại mới,
giành lại cho nhân dân những quyền sống của con người, một cuộc sống có
văn hố”3.
Một vài nhà nghiên cứu khi trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hố
đã đi vào từng lĩnh vực cụ thể như văn hố chính trị, văn hố đạo đức, văn
hố nghệ thuật…
Có học giả viết: “Tư tưởng Hồ Chí Minh tất nhiên là tư tưởng chính trị,
định hướng chính trị, song mang đặc thù dễ phân biệt với các tư tưởng đương
thời ở phần lớn biểu hiện của tư tưởng dưới dạng văn hố. Nói cách khác, tư
Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh - quá khứ, hiện tại và t tương lai, Nxb. Sự thật, Hà t Nội, 1991, t1, tr.43,
47-48.
2 Phạm Văn Đồng: Văn hoá và t đổi mới, Nxb. CTQG, Hà t Nội, 1994, tr.. 126.
3 Võ Nguyên Giáp: Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi, Ban Khoa học xã hội

Thà tnh uỷ thà tnh phố Hồ Chí Minh, 1991, tr. 14.
1


tưởng Hồ Chí Minh tác động vào xã hội như một sức mạnh văn hoá, sức
mạnh hợp nhất lý và tình, tổng quát và đơn lẻ, thuyết phục bằng cảm hố”4.
Nhiều ý kiến cho rằng, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chính trị, đạo đức,
văn hố ln hồ quện với nhau. Một thứ chính trị rất đạo đức và cũng rất văn
hố; một thứ văn hố, đạo đức rất chính trị, v.v…
Từ những thành tựu đã đạt được trong việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hố và do sự phong phú của nội dung nghiên cứu, trong phạm vi
tiểu luận này tác giả tập trung làm rõ những vấn đề triết học về văn hoá trong
tư tưởng Hồ Chí Minh.
1. Sự nghiệp văn hố Hồ Chí Minh với tư cách danh nhân văn hoá
1.1. Danh nhân văn hố Hồ Chí Minh là một hiện tượng đặc biệt
Thế giới nói đến Hồ Chí Minh - danh nhân văn hố mang “kích thước
đặc biệt”. Người là “Hiệp sĩ của thời đại”; là “một trong số ít nhân vật trong
lịch sử trở thành một bộ phận của huyền thoại ngay khi cịn sống”. Năm 1923,
nhà thơ Nga là Ơxíp Manđenxtam đã nhận xét về Người như sau: “Từ
Nguyễn Ái Quốc toả ra một nền văn hố, khơng phải văn hố châu Âu, mà có
lẽ là nền văn hố của tương lai…Dân tộc Việt Nam là một dân tộc giản dị và
lịch sự. Qua cử chỉ cao thượng, tiếng nói trầm lắng của Nguyễn Ái Quốc, tôi
thấy được ngày mai, thấy được viễn cảnh trời yên bể lặng của tình hữu ái tồn
thế giới bao la như đại dương”5.
Hồ Chí Minh là trường hợp hiếm thấy mà nghị quyết UNESCO ghi
nhận: Vừa là anh hùng giải phóng dân tộc, vừa là nhà văn hoá lớn. Các mảng
lớn của khoa học nhân văn như triết học, sử học, văn chương, nghệ thuật, giáo
dục, báo chí…đều có mặt trong sự nghiệp văn hố của Hồ Chí Minh. Đặt Hồ
Chí Minh trong bối cảnh thế kỷ XX, một thế kỷ đầy biến động, càng thấy
Người là một hiện tượng văn hoá đặc biệt. Khi văn hoá phương Tây trên con

đường của trào lưu thực dân tràn vào Việt Nam với thế áp đảo, thì nền văn
4
5

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh xuất bản, Hà t Nội, 1993, tr. 57.
Ơxíp Manđenxtam: Thăm một chiến quốc tế cộng sản - Nguyễn Ái Quốc, báo Đốm lửa, số 39, tháng 12-1923.


hoá truyền thống Việt Nam - bên cạnh các giá trị cao đẹp có sức trường tồn đã bộc lộ những hạn chế không đủ khả năng cứu vãn số phận dân tộc. Thế kỷ
XX và thời đại mới đặt ra và đòi hỏi phải xử lý các mối quan hệ: truyền thống
- hiện đại; dân tộc - nhân loại; dân tộc - giai cấp; Đơng - Tây, v.v…Hồ Chí
Minh - trong khi có điều kiện để trở thành “nhà văn hố kiểu cũ” hoặc nhà
“trí thức mới thuần Pháp” - lại khơng đi theo con đường đó. Người sang tận
phương Tây tìm đường cứu nước, chọn cho mình và cho cả dân tộc mình con
đường hồ nhập vào thế giới hiện đại trên cơ sở giữ vững bản sắc văn hố dân
tộc. Con đường Hồ Chí Minh hoạt động cách mạng trở thành vị lãnh tụ kiểu
mới của dân tộc cũng chính là con đường Người trở thành nhà văn hoá kiệt
xuất, nhà văn hoá của tương lai. Trên con đường để đạt tới nhà văn hoá kiểu
mới, Hồ Chí Minh đã được bồi đắp nhiều kinh nghiệm sống, sự tiếp xúc với
nhiều nền văn hoá và một lối ứng xử khoan dung, độc đáo.
1.2. Sự kết hợp hài hồ tinh hoa văn hố dân tộc và nhân loại
Trước khi rời tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã được
hấp thụ một vốn văn hố gia đình, quê hương, dân tộc. Từ vùng quê làng
chùa, làng sen, mở rộng ra quê hương Nghệ Tĩnh, qua kinh đơ Huế…, mỗi
nơi có vốn có sắc thái văn hoá khác nhau, nhưng điểm tương đồng là tất cả
đều sáng ngời truyền thống yêu nước, dân chủ, cộng đồng và nhân văn. Hồ
Chí Minh có được những yếu tố văn hố dân tộc có tính chất cội rễ đó cùng
với quá trình tiếp nhận và nâng cao giá trị văn hóa phương Đơng. Nói cách
khác, trên nền tảng của văn hóa dân tộc, Người đã dân tộc hóa những tinh hoa
văn hóa được tiếp nhận từ bên ngồi và khơng bao giờ bị hịa tan trong bất cứ

một nền văn hóa nào khác.
Văn hóa Ấn Độ, tiêu biểu là Phật giáo, ngồi mặt tiêu cực cịn mang
những nội dung nhân đạo lớn như: đại từ, đại bi, cứu khổ, cứu nạn,… Những
yếu tố tích cực đó đã kết hợp với chủ nghĩa yêu nước và tinh thần đoàn kết
chiến đấu của nhân dân Việt Nam. Khổng giáo, với những nội dung coi trọng
đạo đức, luân lý, người hiền tại và kẻ sĩ…tức là đề cao văn hóa, trong quá


trình thâm nhập vào đời sống xã hội Việt Nam đã khơng cịn giữ ngun vẹn
nội dung ban đầu nữa. Nó đã được biến đổi một phần để thích ứng với nhu
cầu chính trị và xã hội của dân cư bản địa, tạo thành “một thứ chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam mang mầu sắc Nho giáo”6.
Sống trong môi trương văn hóa của gia đình, q hương như đã nêu,
đặc biệt ln ở bên cha làm nghề dạy học, Hồ Chí Minh không những nắm
được những quan điểm cơ bản của Phật giáo, Nho giáo mà Người cũng am
hiểu Lão giáo với những yếu tố văn hóa sống giản dị, chan hịa với thiên
nhiên. Khơng phải ngẫu nhiên mà Người thường xuyên nhắc nhở các danh
ngôn của Khổng giáo, của Đức phật Thích Ca. Và đặc biệt trên cơ sở vận
dụng những nhân tố tích cực của văn hóa phương Đơng, Người là một tấm
gương sáng về cuộc sống trong sạch, chăm lo cho lợi ích của nhân dân, của cả
cộng đồng dân tộc.
Bên cạnh văn hóa phương Đơng, Hồ Chí Minh cũng có điều kiện sớm
tiếp xúc với nền văn hóa phương Tây qua sách của một số nhà cách mạng
Pháp như Rousseau, Montesquieu, Voltaire; qua khẩu hiệu “tự do - Bình đẳng
- Bác ái”…Từ đó nhiều câu hỏi đã được đặt ra với người thanh niên yêu nước
Nguyễn Tất Thành. Chẳng hạn: Vì phong trào giải phóng dân tộc của Việt
Nam dưới ngọn cờ của các chiến sĩ Cần Vương, của các sĩ phu yêu nước vẫn
chưa giành được thắng lợi? Vì sao phương Tây lại sớm giành được độc lập,
dân chủ?...Vấn đề đặt ra và thúc đẩy Hồ Chí Minh “phải tìm lời giải đáp
khơng phải từ vốn kiến thức cũ của nền văn hóa dân tộc mà từ những thành

tựu của nền văn hóa nhân loại. Nhưng không thể ngồi ở Việt Nam để nắm
được những thành tựu ấy”7.
Với khát vọng và ham muốn tột bậc là giải phóng đồng bào mình,
vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ và lỗ lực kiên trì, Người tự làm phong
phú sự hiểu biết của mình bằng nhiều vốn tri thức: tri thức ngoại ngữ, tri
Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh-q trình hình thà tnh và t phát triển, Nxb. Sự thật, H, 1993, tr.
29.
7 Vũ Khiêu: HCM đỉnh cao của văn hóa dân tộc và t nhân loại. Viện văn hóa xb. H, 1990, tr. 60-61.
6


thức sách vở, tri thức thực tiễn…Đấy cũng là quá trình và con đường Hồ
Chí Minh đi tới đỉnh cao của văn hóa nhân loại. Điều kỳ lạ chính lại bắt
nguồn từ sự tương phản, nghịch cảnh của trung tâm văn minh nhân loại
như Pháp, Anh, Mỹ lúc bấy giờ. Với tầm hiểu biết và trình độ nhận thức
cao, Hồ Chí Minh sớm ghi nhận những gì mà cuộc cách mạng Pháp 1789
đã làm được như xoá bỏ chế độ phong kiến, giải phóng nơng nơ, đấu tranh
cho tự do của con người, lập hiến pháp…Đó là “một sự nghiệp rất nhân
đạo”, “một trong những cội nguồn của tự do, bình đẳng, bắc ái”. Người
cũng nhấn mạnh tới “quyền con người”, “quyền tự do và bình đẳng về
quyên lợi” trong tuyên ngôn độc lập 1776 của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, bằng sự
nhạy cảm chính trị và nhãn quan văn hóa qua những cảnh tai nghe mắt thấy
trong cuộc sống của nhân loại đau khổ, Người đã thấy rõ sự thật đằng sau
những từ “tự do, bình đẳng, bác ái” là sự chống lại nhân dân lao động,
chém giết bạo tàn; là phản bội lý tưởng của cách mạng Pháp, Mỹ, tức là
phản văn hóa. Năm1924, Người viết trên tạp chí Thư tín quốc tế như sau:
“Rốt cuộc người ta đã nhân danh nó (tức bình đẳng - TG) để nhập vào nước
họ (chỉ các thuộc địa) rượu cồn, thuốc phiện, chế độ lao dịch, chế độ bốc
vác nặng nề, chế độ dân bản xứ và sự cướp đoạt”. Trong bản án chế độ
thực dân Pháp, Người viết: “công lý được tương trưng bằng một bà đầm,

một tay cầm cân, một tay cầm kiếm. Vì đường từ Phấp đến Đơng Dương xa
q, xa đến nỗi sang được tới đó thì cán câm đã mất thăng bằng, đĩa cân đã
chảy lỏng ra và biến thành những tẩu thuốc phiện hoặc những chai rượu ty,
nên bà đầm cơng lý tội nghiệp chỉ cịn lại độc cái kiếm để chém giết. Bà
chém giết đến cả người vô tội và nhất là người vô tội”. Sự “điểm trang”
cho những hành động vô nhân đạo bằng những châm ngôn lý tưởng “bác
ái”, “tự do” của chủ nghĩa tư bản được Hồ Chí Minh vạch trần sự thật: “Tư
bản nó dùng tự do, bình đẳng, Đồng bào để lừa dân, xúi dục dân đánh đổ
phong kiến. Khi dân đánh đổ phong kiến rồi, thì nó lại thay phong kiến mà
áp bức dân”.


Dù văn hóa phương Đơng hay văn hóa phương Tây, Hồ Chí Minh đều
dày cơng chắt lọc một cách kỹ lưỡng với thái độ khách quan, khoa học, trân
trọng và một tầm nhìn văn hóa rộng mở.
Những tháng hịa nhập vào xã hội phương Tây, thông qua thực tiến
hoạt động và đấu tranh cách mạng, cũng là quá trình từng bước Hồ Chí
Minh tìm hiểu, nghiên cứu trực tiếp lý luận của C.Mác, V.I.Lênin. Đó
chính là lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học, đỉnh cau và là kết tinh
thành tựu văn hóa của lồi người. Vì vậy, Người đã hoàn toàn tin theo
V.I.Lênin và tán thành quốc tế III.
Như vậy, nếu văn hóa phương Đơng, phương Tây làm phong phú thế
trí tuệ văn hóa Hồ Chí Minh, thì chủ nghĩa Mác - Lênin lại là kim chỉ nam
cho hành động cách mạng của Người; là phương pháp luận giúp Người cải tạo
thế giới. Và người có đủ cơ sở để khẳng định: Chủ nghĩa Mác - Lênin là cái
cần thiết và là con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức.
Cuộc hành trình của Hồ Chí Minh từ nông thôn đến thành thị; từ Đông
sang Tây; từ Nho học đến Tây học; từ truyền thống đến hiện đại; từ dân tộc
vươn tới tầm thời đại là một hành trình văn hóa, mà thực chất là đi từ chủ
nghĩa yêu nước chân chính tới chủ nghĩa quốc tế vơ sản. Cuộc hành trình đó

chứa đựng nhiều giá trị mà căn bản là những giá trị văn hóa. Nó làm giàu
khơng chỉ cho kho tàng văn hóa Việt Nam mà cho cả văn hóa nhân loại. Với
cuộc hành trình đó, Hồ Chí Minh đã đem về cho dân tộc những giá trị văn hóa
đó có khả năng kết hợp đạo đức của nhân loại với đạo lý làm người của cha
ơng; có khả năng giữ gìn, khai thác triệt để di sản văn hóa tinh thần của tổ tiên
và cả lồi người tiến bộ.
1.3. Hồ Chí Minh - chủ thể sáng tạo văn hóa
Đối với Hồ Chí Minh, tri thức văn hóa chỉ nhằm mục đích phục vụ cho
sự nghiệp cách mạng và cuộc đời hoạt động cách mạng chuyên nghiệp của
Người lại phản ánh một tầm nhìn văn hóa rộng lớn. Những tri thức và các yếu
tố văn hóa trong con người Hồ Chí Minh là hết sức phong phú, đa dạng, mà


trước hết Người là một chủ thể sáng tạo văn hóa. Người để lại cho dân tộc và
nhân loại một giá trị văn hóa phong phú, cao đẹp, trong sáng và đậm dà tư
tưởng nhân văn như chính cuộc đời Người.
Người là nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc. Văn thơ Người mang tính
chiến đấu cao, triệt để chống mọi thứ tham tàn, bạo ngược. Thơ văn Người
phản ánh nội tâm của Người và khơng vắng bóng con người với khát vọng
giải phóng, tự do, cơng lý, cơm áo, hịa bình. cái đẹp của thiên nhiên, của con
người và cuộc sống hòa quyện trong thơ Người thành sức mạnh cổ vũ lớn lao,
hướng con người tới chân, thiện, mỹ. Thơ, văn của Người mang hơi thở của
dân tộc và thời đại, trăn trở với vận mệnh của các dân tộc bị áp bức và số
phận đau khổ của con người. Với rất nhiều thể loại như văn chính luận, truyện
ký, kịch, tiểu phẩm…, Hồ Chí Minh đã thể hiện nhiều yếu tố mới, hiện đại cả
nội dung tư tưởng, hình thức nghệ thuật, phương pháp, phong cách, ngơn
ngữ,v.v..
Người là bậc thầy của báo chí cách mạng Việt Nam. Người nhận thức
đúng đắn, đầy đủ vai trị của báo chí, đặc biệt trong hồn cảnh lúc đó (1919),
“trong tất cả những tờ báo Pháp, chỉ có tờ dân chúng, cơ quan của Đảng xã

hội Pháp là đã in những lời yêu cầu của Việt Nam”8.
Khi đã bắt đầu vào làm báo, Người có điều kiện truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin vào Việt Nam; bóc trần những tội ác của thực dân Pháp ngay ở
Pari; thức tỉnh tâm hồn những người mất nước, định hướng và thôi thúc họ
đứng lên làm cách mạng. Tờ le Pari là một trong nhiều thí dụ điển hình. Đó là
tiếng nói của nhân dân thuộc địa, vừa hiên ngang tiến công kẻ thù hung bạo
ngay tại hang ổ của nó, vừa tỏa rộng sức mạnh cổ vũ, đoàn kết nhân dân
thuộc địa dưới ngọn cờ của giai cấp vô sản để lật đổ ách thống trị thực dân.
Báo Le Paria “ là một luồng gió mới thổi đến nhân dân các nước bị áp bức”.
Là một nhà hoạt động cách mạng chuyên nghiệp lại “có dun nợ với
báo chí”, ngồi tờ cùng khổ (4-1922), Người còn sáng lập hoặc viết nhiều bài
8ả

Trần Dân Tiên: Những mẩu truyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Nxb. St, H, 1975, tr. 34- 45.


cho các báo thanh niên (6-1925), Cơng nơng (12-1926), Lính cách mạng (121927), Việt lập (8-1941). Tính từ bài đầu “Vấn đề nhân dân bản xứ” đăng báo
nhân đạo (2-8-1919) đến bài cuối “Nâng cao trách nhiệm chăm sóc và giáo
dục thiếu niên nhi đồng” đăng báo nhân dân (1-6-1969), Hồ Chí Minh đã viết
trên 1500 bài có bút danh của Người và hàng trăm bài đang xác minh.
Hồ Chí Minh là người đặt nền móng và mở đường cho việc vận dụng lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và phương pháp lịch sử, phương pháp lơgíc
để nghiên cứu các lĩnh vực thuộc khoa học nhân văn. Đứng trên quan điểm
mácxít, xuất phát từ những yêu cầu của dân tộc và thời đại, ngay từ những
năm 20, Người đã có những bài viết thẳng thắn phê phán những sai lầm từ
gốc tư tưởng cải lương chủ nghĩa, chỉ ra những nhược điểm về hình thức nghệ
thuật của một vài tức phẩm.
1.4. Hồ Chí Minh - những hoạt động và ứng xử văn hóa
Khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã ni chí lớn và ấp ủ
khát vọng giải phóng đồng bào. Người nghĩ đến một xã hội mới công bằng,

dân chủ, nhân đạo, khác với xã hội đầy rẫy áp bức, bất công đang diễn ra trên
Tổ quốc mình. Vì vậy, cả cuộc đời Người ln ln chiến đấu trên mặt trận
văn hóa. Cùng với việc sử dụng ngịi bút làm vũ khí sắc bén lên án chế độ
thực dân đế quốc, người còn thực sự là một chiến sĩ văn hóa chiếu rọi ánh
sáng, gieo mầm cách mạng, chăm lo giáo dục đào tạo con người.
Sau ngày cách mạng tháng tám năm 1945 thành công, người đã có kế
sách văn hóa trong chiến lược “kháng chiến kiến quốc”. Xã hội mới với tiêu
ngữ được đặt lên hàng đầu: Việt Nam dân chủ cộng hòa đã phản ánh cách
nhìn và tầm nhìn của Hồ Chí Minh, tiếp tục những ước vọng từ quá khứ, đồng
thời bắt đầu những công việc mới của một xã hội vừa thốt thai từ chế độ
thuộc địa. Đó là cơng việc phát triển toàn diện đất nước. Người đã phát triển
văn hóa Việt Nam thơng qua chiến lược chống giặc dốt; chống giặc đói;
chống giặc ngoại xâm; chống giặc nội xâm; chống giặc truyền thống của thói
quen lạc hậu. Nhiệm vụ “chống giặc dốt” và xoá mù chữ do Người khởi


xướng được liên hợp quốc đánh giá rất cao. Theo V.I. Lênin, sau khi giành
được chính quyền, phải đưa quần chúng lên một trình độ cao hơn, nếu quần
chúng lao động khơng biết chữ thì sẽ bị đứng ngồi chính trị. Hồ Chí Minh đề
ra vấn đề “giáo dục lại tinh thần của nhân dân bằng cách thực hiện “cần,
kiệm, liêm, chính” để làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng
cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc
lập”9. Về nhiệm vụ chống giặc đói, người khẳng định: “Dân dĩ thực vi thiên”.
Người chỉ rõ nhiệm vụ chống giặc nội xâm (tức chống chủ nghĩa cá nhân) là
công việc “tỷ lệ thuận” với thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh xác
định rõ việc chống nghèo nàn, lạc hậu và những gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra
những cái mới mẻ tốt tươi là cuộc sống chiến đấu khổng lồ. Muốn giành được
toàn thắng trong chiến đấu thì trước tiên phải động viên tồn dân, tổ chức và
giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của nhân dân… Hồ Chí Minh là
người khởi xướng các phong trào xây dựng “Đời sống mới”, “Tết trồng cây”,

“kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến”, v.v…mà kết quả văn
hóa là làm cho con người phải suy tư trăn trở và thấy phải thôi thúc hành
động cho những gì tốt đẹp hơn.
Tư cách nhà văn hóa Hồ Chí Minh cịn thể hiện trong nhân cách, đạo
đức, lối sống, quan hệ ứng xử với mọi người, đặc biệt nổi trội lf mối quan hệ
giữa lãnh tụ và quần chúng cũng như lối sống đời thường ở Hồ Chí Minh. Cái
cốt lõi của các mối quan hệ ứng xử ở người ta là chứ nhân, chữ tâm, chữ đức.
Chẳng hạn trong phong cách lãnh đạo, Người vừa là người lãnh tụ, vừa là
công bộc của nhân dân. Là lãnh tụ tối cao, biết khai thác tối đa kiểu lãnh đạo
bằng thực hiện nhân trị, Hồ Chí Minh hết sức tránh áp đặt và sử dụng quyền
uy và quyền lực đối với nhân dân. Do đó, Người có một sức thu hút mạnh mẽ,
một khả năng cảm hóa đặc biệt đối với mọi người xung quanh, ngay cả đối
với người nước ngồi, thậm chí cả những kẻ coi Người là thù địch. Cũng
chính yếu tố văn hóa ln tỏa sáng trong con người Hồ Chí Minh đã giúp
9

Hồ Chí Minh: Tồ tn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. CHQG, H, 1995, t4, tr. 8.


Người sáng suốt phân biệt với chính tà, bạn với thù, đúng với sai trong mọi
hành động và hoàn cảnh.
Hồ Chí Minh là nhà hoạt động chính trị đồng thời là nhà thơ; là chiến sĩ
cách mạng nhưng thanh thản, ung dung, thư thái như một triết gia; mềm dẻo
nhưng rất kiên quyết; cao cả nhưng lại thiết thực, gần gũi, quan tâm từ cái lớn
đến cái nhỏ; hài hước, không nghi thức mà cũng rất nghiêm chỉnh, thận trọng;
nhuần nhị cái xưa và cái nay; lạc quan yêu đời nên khi viết di chúc cũng hết
sức thanh thản, nhẹ nhàng.
2. Những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh về văn hóa
2.1. Văn hóa là động lực của sự nghiệp cách mạng
Văn hóa là trình độ phát triển nhất định trong lịch sử của xã hội và của

con người; là tất cả những gì do con người và liên quan trực tiếp đến con
người, được thể hiện qua các giá trị vật chất và tinh thần, qua các hình thức tổ
chức đời sống và hoạt động của con người. Với nội dung như vậy, văn hóa
ln ln là động lực thức đẩy xã hội phát triển và mục tiêu phát triển của xã
hội, xét cho cùng cũng chính là văn hóa.
Bước nhảy vọt lớn lao, triệt để từ con người bị áp bức, bị bóc lột, bị
tha hóa đến vương quốc của con người phát triển tự do và toàn diện được
thực hiện trước hết và xuyên suốt bằng sứ mệnh và sức mạnh của văn hóa
thơng qua việc thức tỉnh, định hướng, tổ chức và quy tụ con người. Những
năm đầu hoạt động cách mạng, nhiều giá trị văn hóa của nhân loại, đặc biệt
là chủ nghĩa Mác - Lênin đã trở thành bó đuốc soi tỏ nhận thức Hồ Chí
Minh. Rồi đến lượt mình, suốt đời Hồ Chí Minh cần mẫn thực hiện sứ
mệnh của người đi gieo ánh sáng, thức tỉnh lương tâm đồng bào, đồng chí,
chăm lo việc trồng người, gieo mầm cách mạng, đào tạo những thế hệ con
người mới. Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc rằng văn hóa là vũ khí sắc bén
để lên án chế độ thực dân đế quốc; để tuyên truyền và tổ chức lớp lớp quần
chúng nhân dân đứng lên làm cách mạng. Văn hóa tạo khả năng cho các
dân tộc bị áp bức xây dựng tình đồn kết, vùng dậy với sức mạnh, tài năng


sáng tạo và lòng dũng cảm để tiến hành sự nghiệp giải phóng. Chúng ta
chiến thắng kẻ thù, đó là “sự chiến thắng của văn minh đối với bạo tàn”,
tức là chiến thắng bằng sức mạnh văn hóa.
Văn hóa được huy động như một lực thúc đẩy sự tiếp xúc văn hóa và sự
hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc. Ở khía cạnh này, Hồ Chí Minh đã khai
thác sức mạnh của văn hóa một cách hiệu nghiệm làm cho các dân tộc tạo
dựng được cơ hội để mở rộng kiến thức của mình và xích lại gần nhau. Thơng
qua các yếu tố và sức mạnh văn hóa, Hồ Chí Minh đã nâng cao tầm nhìn của
dân tộc Việt Nam ra thế giới bên ngồi. Vì vậy văn đã trở thành thước đo sự
phát triển và tiến bộ của đất nước ta. Văn hóa mới, đời sống mới mà Hồ Chí

Minh khởi xướng thực chất là xác định vị trí quan trọng của văn hóa như một
động lực để sửa đổi lối làm việc và những thói hư tật xấu trong xã hội.
2.2. Văn hóa phải góp phần khẳng định bản sắc dân tộc đi liền với
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
Văn hóa là tinh hoa của dân tộc. Vì vậy, trước hết phải khẳng định bản
sắc dân tộc và bản sắc văn hóa của cộng đồng dân tộc. Dân tộc nào cũng có
một chiều sâu và cội rễ lịch sử - văn hóa nhất định. Nó được tiếp tục duy trì
qua các thế hệ trở thành truyền thống hay các giá trị truyền thống. Dân tộc
Việt Nam có nhiều giá trị truyền thống như yêu nước, thương người, vì nghĩa,
anh hùng, lạc quan, sáng tạo,…Văn hóa phải làm cho mọi người hiểu sâu sắc
và đầy đủ những giá trị truyền thống, hay như cách nói của Hồ Chí Minh là
“vốn” của dân tộc, trên cơ sở đó mà khẳng định bản sắc dân tộc, huy động sức
mạnh vĩ đại các giá trị truyền thống hàng mấy mươi thế kỷ phục vụ cho sự
nghiệp cách mạng và kháng chiến. Trong cơng tác giáo dục truyền thống, Hồ
Chí Minh thường căn dặn: “Dân ta phải biết sử ta. Sử ta dạy cho ta những
chuyện vẻ vang của tổ tiên ta. Dân ta là con Rồng cháu Tiên, có nhiều người
tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam, yêu dân trị nước tiếng để muôn đời” 10. Truyền
thống của Đảng, của cách mạng và kháng chiến cũng phải được khẳng định
10

Hồ Chí Minh Tồ tn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb, CTQG, H, 1995, t.3, tr. 216.


thơng qua vai trị của văn hóa. Tinh thần u nước và các giá trị truyền thống
khác cũng như các thức của quý mà “bổn phận của chúng ta là làm cho những
của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích,
tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi
người đều được thực hành vào cơng việc u nước, cơng việc kháng chiến”11.
Nói tới bản sắc dân tộc khơng phải chỉ có chủ nghĩa u nước, mặc
dù đó là nội dung chủ yếu nhất. Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh tới triết lý

sống nhân, nghĩa, trọng lẽ phải, ngay thẳng, thật thà, làm điều thiện, tránh
điều ác. Văn hóa có sư mệnh ln ln khẳng định một sự thật hiển nhiên
là đã bao đời nay nhân dân ta sống với nhau có tình có nghĩa. Đồng thời
văn hóa - thơng qua gương người tốt, việc tốt còn là cộng cụ sắc bén để
tuyên truyền, giáo dục lẽ sống làm người. Chúng ta có vốn văn nghệ dân
tộc hết sức độc đáo. Đó là âm nhạc, thơ cổ điển, tuồng, chèo, ví dặm, hát
phường vải…Những yếu tố, chất liệu riêng đó phản ánh tinh hoa văn hoá
của dân tộc và sắc thái độc đáo nhất của nền văn hóa, văn nghệ Việt Nam.
Nói đến vốn văn hóa, văn nghệ, Hồ Chí Minh thương nhắc nhở các nhà văn
hóa phải chịu khó học, hiểu sâu, khai thác, phát huy và phát triển những cái
độc đáo, cốt cách và đặc tính dân tộc. Trong khi khẳng định bản sắc văn
hóa của dân tộc thì cần phải hiểu đó là một nền văn hóa Việt Nam nhiều
màu sắc đẹp. Nó kết tinh nhiều tài năng, sáng tạo, ln hướng tới một nền
văn minh vì những giá trị nhân đạo và tiến bộ xã hội.
Hồ Chí Minh ln khẳng định chứ khơng bao giờ cường điệu hóa bản
sắc dân tộc. Bời vì Người đã đi từ văn hóa dân tộc đến văn hóa nhân loại.
Tiếp xúc với nhiều nền văn hóa của nhân loại, Người thấy văn hóa của các
dân tộc khác cần phải nghiên cứu tồn diện, chỉ có trong trường hợp đó mới
có thể tiếp thu được nhiều hơn cho văn hóa của chính mình. Kế thừa truyền
thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc đi đơi với tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn
hóa nhân loại là sự thể hiện một nét biện chứng trong tư tưởng Hồ Chí Minh
11

Hồ Chí Minh Tồ tn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb, CTQG, H, 1995, t.6, tr. 216.


về văn hóa. Dân tộc và nhân loại là những yếu tố có giá trị vĩnh hằng. Nhưng
quá khứ, hiện tại hay tương lai thì văn hóa dân tộc vẫn ln là yếu tố hàng
đầu. Đó là điều kiện, là cơ sở để tiếp thu văn hóa nhân loại. Mặt khác, khi các
dân tộc đã có sự tiếp xúc lẫn nhau thì văn hóa dân tộc phải trở thành một bộ

phận của tinh thần quốc tế. Chủ nghĩa yêu nước, độc lập tự do là những giá trị
văn hóa quý. Nó phải là một bộ phận của tinh thần quốc tế, phải gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Đó là cốt lõi tư tưởng của nền văn hóa mới.
Nhìn nhận về tính nhân loại của văn hóa, Hồ Chí Minh thường nói đến
“việc mở rộng kiến thức của mình về văn hóa thế giới”, và “có thể bắt chước
những cái hay của bất kỳ nước nào ở Âu, Mỹ”. Phương châm của Người là có
cái gì tốt của Đơng phương hay Tây phương ta phải học lấy để tạo nên một
nền văn hóa Việt Nam. Nền văn hóa đó dĩ nhiên phải dựa trên hệ tư tưởng
Mác - Lênin, thành quả van hóa vĩ đại từ thế kỷ XIX ở phương Tây và là đỉnh
cao của văn hóa nhân loại.
Tính dân tộc và nhân loại trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa tác
động qua lại và kết hợp nhuần nhuyễn với nhau. Theo Người, tính dân tộc
càng sâu sắc, hồn hảo bao nhiêu thì càng có khả năng tiếp nhận văn hóa nhân
loại bấy nhiêu. Ngược lại, những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới sẽ bồi
đắp phong phú thêm cho nền văn hóa dân tộc.
2.3. Văn hóa là một mặt trận, người hoạt động văn hóa là chiến sĩ
trên mặt trận ấy
Trước hết, cần nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò độc lập của văn
hóa với tư cách là một mặt trận như các mặt trận chính trị, kinh tế, quân sự.
Nhưng mặt khác phải thấy quan hệ và tác động ảnh hưởng lẫn nhau giữa các
mặt trận. Từ đó, thấy rõ “văn hóa khơng thể đứng ngồi mà phải ở trong kinh
tế và chính trị”; sự phát triển và tiền đồ của văn hóa nghệ thuật phụ thuộc vào
cuộc đấu tranh và tiền đồ của dân tộc. Từ thực tế là, văn chương cách mạng
của Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu bị thực dân, phong kiến khinh rẻ, Hồ
Chí Minh khẳng định: “rõ ràng dân tộc bị áp bức, thì văn nghệ cũng mất tự


do. Văn nghệ muốn tự do thì phải tham gia cách mạng” 12. Kỷ niệm 32 năm
ngày thành lập Đảng (3-2-1962), đến thăm và dự cuộc họp thân mật vui tết
với các nhà khoa học, kỹ thuật, văn nghệ sĩ, anh hùng lao động, anh hùng

quân đội, nhân sĩ…, Hồ Chí Minh chúc tết bằng một vế đối:
“Muốn cho xã hội đầu xuân
Nhân sĩ phải là chiến sĩ”13.
Văn hóa ở trong chính trị tức văn hóa phải là “vũ khí sắc bén trong sự
nghiệp phị chính trị trừ tà”; “anh chị em văn hóa và trí thức quyết tâm khơng
chịu làm nơ lệ”, “phải xây đắp một nền văn hóa kháng chiến kiến quốc thiết
thực và rộng rãi, để giúp sự nghiệp kháng chiến kiến quốc của tồn dân”. Văn
hóa là một mặt trận nên có tính chất phức tạp của “mặt trận” và chiến sĩ trên
mặt trận đó cần có những đức tính của người chiên sĩ như “lập trường đúng,
tư tưởng đúng, hiểu thấu, liên hệ và đi vào cuộc sống của nhân dân” để bày
tỏ cái tinh thần kiên quyết và anh hùng của quốc dân ta, đồng thời để giúp
phát triển và nâng cao tinh thần ấy. Chiên sĩ văn hóa phải là những người
dũng cảm, kiên cường để chống lại những lực lương phản văn hóa.
Khơng nên hiểu một cách một cách hạn hẹp về nội dung khái niệm
“mặt trận văn hóa” và “chiến sĩ văn hóa”. đừng bao giờ nghĩ rằng tư tưởng
đó chỉ có ý nghĩa trong thời kỳ “kháng chiến kiến quốc”. Đây là một luận
điểm khoa học soi sáng thời đại, mang tầm nhân loại và có ý nghĩa lớn lao
đối với hạnh phúc và nền văn minh của loài người trên hành tinh. Chúc
mừng hội nghị các nhà văn Á - Phi tại thủ độ Ai Cập, Hồ Chí Minh viết:
“…Cây bút phục vụ chính nghĩa trong tay nhà văn chiến đấu có một lực
lượng cực kỳ mạnh mẽ…Hội nghị sẽ làm cho các nhà văn góp phần xứng
đáng trong phong trào chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân,
đoàn kết các dân tộc để đấu tranh cho độc lập, hịa bình, dân chủ và hạnh
phúc cho cả lồi người trên thế giới” 14.
Hồ Chí Minh: Văn hóa nghệ thuật cũng là t một mặt trận, Nxb. Văn học, H, 1981,tr.361.
Hồ Chí Minh: Văn hóa nghệ thuật cũng là t một mặt trận, Nxb. Văn học, H, 1981,tr. 356.
14 Hồ Chí Minh: Văn hóa nghệ thuật cũng là t một mặt trận, Nxb. Văn học, H, 1981,tr.356.
12
13



2.4. Văn hóa phải phục vụ nhân dân và quần chúng nhân dân
phải được hưởng thụ các giá trị văn hóa
Văn hóa là những gì do con người và vì con người. Vì vậy văn hóa là
mục tiêu của sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh khẳng định rõ ràng là văn
hóa phải phục vụ nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc làm mục
tiêu. Độc lập, tự do phải đi tới ấm no hạnh phúc và phát triển, tức là văn hóa
phải nhằm mục tiêu phục vụ và nâng cao đời sống con người. Sự phát triển
của một quốc gia dân tộc là gì? Đó chính là sự phát triển kinh tế gắn liền với
sự tiến bộ và phát triển của xã hội, được đo bằng hiệu quả xã hội, mà hiệu quả
lớn nhất là mỗi thành viên cộng đồng có được một cuộc sống đúng nghĩa, tức
cuộc sống có văn hóa.
Sự nghiệp văn hóa Hồ Chí Minh là sự nghiệp vì dân. Theo Người,
suy nghĩ, hành động, sáng tác đều xuất phát từ cái tâm: vì nhân dân phục
vụ. Những người làm cơng tác văn hóa muốn tìm thấy sự thay đổi, sự ha
mê thật thì “phải trở về với cuộc sống thực tại của con người”. Năm 1946,
Người đã nói rằng: Tơi thiết tha mong muốn cho nền văn hóa mới nước
nhà lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở. Xun suốt sự
nghiệp văn hóa của mình, Người ln quan niệm phục vụ nhân dân và lấy
lợi ích của nhân dân làm “khn phép” của cơng tác văn hóa. Người viết:
“Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: dân mà làm…Nói chuyện,
tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo,v.v…của chúng ta đều phải lấy câu này
làm khuôn phép: “Từ trong quần chúng mà ra. Về sâu trong quần
chúng”15. Hồ Chí Minh - với tính nhân văn cao cả - đã đánh giá đúng lực
lượng và tài nghệ của quần chúng nhân dân. Quần chúng nhân dân mảnh
đất mầu mỡ nuôi dưỡng các sáng tác; là người sáng tạo, kiểm nghiệm và có
quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa. Về sáng tác của quần chúng, Người
coi đó là “những hịn ngọc q”. Về vai trị ni dưỡng, Người khẳng định:
Chỉ có nhân dân mới ni dưỡng cho sáng tác của nhà văn bằng những
15


Hồ Chí Minh: Tồ tn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. CTQG, H, 1995, t5, tr. 248.


nguồn nhựa sống. Cịn nếu nhà văn qn điều đó - nhân dân cũng quên anh
ta. Người cho rằng: “Muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa phải có tinh thần xã
hội chủ nghĩa, muốn có tinh thần xã hội chủ nghĩa phải đánh bại chủ nghĩa
cá nhân”16. Văn hoá là sự ni dưỡng những giá trị người, Người nói:
“Làm cán bộ tức là suốt đời làm đày tớ trung thành của nhân dân” 17. Về
Vai trò của giáo dục và tự giáo dục trong phát triển nhân cách Người cho
rằng: “Văn hố phải thiết thực phục vụ nhân dân, góp phần vào việc nâng
cao đời sống vui tươi, lành mạnh của quần chúng. Vì vậy, nội dung văn
hố phải có ý nghĩa giáo dục” 18.
Như vậy, những nét đặc sắc trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về
văn hố thể hiện: thứ nhất, tính triết luận và biện chứng sâu sắc, Người nói:
Chúng ta khơng chống mượn tiếng ngoại quốc để làm cho tiếng ta đầy đủ
thêm. Nhưng chúng ta phải chống cách mượn không phải lối, mượn đến nỗi
bỏ cả tiếng ta, đến nỗi quần chúng không hiểu; khơng chú ý đến đặc điểm
của dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em, là
sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều. Nhưng nếu quá nhấn
mạnh đặc điểm dân tộc để phủ nhận giá trị phổ biến của những kinh
nghiệm lớn, cơ bản của các nước anh em, thì sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng
của chủ nghĩa xét lại; thứ hai, tính dung dị, gần gũi với nhân dân, Người
nói: cán bộ đi làm việc chỗ nào, phải học tiếng ở đấy; khơng riêng gì viết
sách viết báo, mà cơng tác gì muốn làm tốt đều phải coi trọng ý kiến của
nhân dân; tun truyền huấn luyện khơng nên nói trên trời dưới đất, nào là
khách quan, chủ quan, nào là tích cực, tiêu cực, không đâu vào đâu cả; thứ
ba, bản sắc dân tộc đậm nét, Người nói: tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu
đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng
nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp. Của mình mà lại khơng

dùng, lại đi mượn của nước ngồi, đó chẳng phải là đầu óc quen ỷ lại hay
Hồ Chí Minh: Tồ tn tập, t9, tr.472.
Hồ Chí Minh: Tồ tn tập, t 12, tr. 555.
18 Hồ Chí Minh: Toà tn tập, t 10, tr. 59.
16
17


sao; thứ tư, bề rộng của tri thức văn hoá nhân loại. Người đi nhiều nước,
biết nhiều thứ tiếng, được tiếp xúc với nhiều nền văn minh, song vẫn đề
cao văn hoá dân tộc. Tháng 2 - 1958, tại buổi lễ Trường Đại học Rănggun
tặng Bác danh hiệu "Bác sĩ Luật học danh dự", ơng Giám đốc nói: "Tất cả
học sinh, nhân viên và giáo sư ở đây đều biết Hồ Chủ tịch là một nhà triết
học, một chiến sĩ hồ bình, một lãnh tụ cách mạng" 19.
3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa trong xây dựng Quân
đội ta hiện nay
Hồ Chí Minh khẳng định quân đội nhân dân ta là “đội chủ lực” trong đội
hình lực lượng của toàn dân đánh giặc, là hạt nhân của tổ chức quân sự trong
chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Mục tiêu chiến đấu của
quân đội ta là độc lập tự do của Tổ quốc và lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Mục
tiêu đó quyết định nhiệm vụ và chức năng của quân đội ta. Người nói: “Quân
đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự
do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn
nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Bản chất của quân đội ta là bản chất cách mạng của giai cấp công nhân.
Đây là công cụ của Đảng và Nhà nước cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh
khẳng định: “Quân đội nhân dân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến
đấu”. Đây là tư tưởng độc đáo của Hồ Chí Minh trong tổ chức và xây dựng
quân đội nhân dân Việt Nam. Đó là tư tưởng của Người về quân đội cách
mạng trong điều kiện thực tế là Người và Đảng ta đưa phong trào yêu nước

của nhân dân Việt Nam vào quỹ đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa. Quân đội ta
có những quan hệ kiểu mới khác hẳn với mọi thứ quân đội của giai cấp áp bức
và bóc lột. Đó là quan hệ đồn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc
tế, dân chủ rộng rãi đi đôi với kỷ luật tự giác nghiêm minh.

19

Hồ Chí Minh: Tồ tn tập, t9, tr. 128.


Về quan hệ nội bộ của lực lượng vũ trang, Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
“Cán bộ phải thương yêu đội viên…Cán bộ có thân đội viên như chân tay, thì
đội viên mới thương cán bộ như ruột thịt…có như thế thì chỉ thị, mệnh lệnh
và kế hoạch cấp trên đưa xuống đội viên sẽ tích cực và triệt để chấp hành”.
Người cán bộ bất kỳ ở cương vị nào “từ tiểu đội trưởng trở lên, từ tổng tư
lệnh trở xuống phải chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần của đội viên. Bộ đội
chưa ăn cơm cán bộ không được kêu mình đói…Bộ đội chưa đủ chỗ ở, cán bộ
khơng được kêu mình mệt. Thề mới dân chủ, mới đồn kết, mới tất thắng” 20.
Đối với quan hệ quân dân, Hồ Chí Minh nói: “Nhân dân là nền tảng là cha mẹ
bộ đội”. Quân dội nhân dân do dân đẻ ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Người
căn dặn bộ đội: “Mình đánh giặc là vì nhân dân, nhưng mình khơng phải là
“cứu tinh” của dân, mà mình có trách nhiệm phụng sự nhân dân”. Đó là,
những tư tưởng văn hóa đặt trong từng mối quan hệ của người quân nhân, là
đặc sắc văn hóa trong xây dựng Quân đội ta hiện nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có
con người mới xã hội chủ nghĩa”, con người mới xã hội chủ nghĩa là một
nhân cách tổng hợp của các yếu tố, đó hệ tư tưởng, phẩm chất chính trị, lối
sống, thế giới quan, nhân sinh quan, đó là biểu hiện những giá trị văn hóa của
con người Việt Nam nói chung và lực lượng vũ trang nói riêng. Từ chiều sâu
văn hóa, chúng ta cần khẳng định rằng dân tộc ta đã chiến thắng tất cả các kẻ

thù xâm lược và đơ hộ bằng sức mạnh văn hóa mà cốt lõi của nó là đem đại
nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo. Quân đội ta là quân đội
cách mạng tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, đó là cuộc chiến tranh
chính nghĩa. Chiến tranh chính nghĩa là dùng sức mạnh của chân, thiện, mỹ
chống lại cái giả dối, cái xấu, cái ác, là sự bảo vệ lương tri nhân phẩm và hạnh
phúc của nhân dân. Quân đội ta mang bản chất giai cấp công nhân dưới sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, chiến đấu vì mục tiêu lý

20

Hồ Chí Minh: Toà tn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. CTQG, H, 1995, t6, tr.207.



×