MỞ ĐẦU
Độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia luôn là khát vọng mãnh liệt
của con người và khát vọng đó được hun đúc từ các yếu tố lịch sử và chiều
sâu văn hóa của mỗi dân tộc. Dù cho bối cảnh quốc tế ngày nay có nhiều
biến động, nhưng độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia vẫn luôn là những
giá trị thiêng liêng bất khả xâm phạm và cao đẹp mà các dân tộc và loài
người tiến bộ vươn tới.
Trong tình hình hiện nay, toàn cầu hóa đã trở thành xu thế khách
quan, xu thế chủ đạo của đời sống nhân loại trong thế kỷ XXI và nó đã trở
thành điều kiện quan trọng không thể thiếu đối với sự phát triển của mỗi
quốc gia trong quá trình phát triển. Bên cạnh những cơ hội mà các nước có
thể tận dụng để phát triển đất nước, toàn cầu hóa cũng đặt ra nhiều thách
thức rất lớn cho tất cả các nước nhất là các nước đang phát triển trên các
lĩnh vực như kinh tế, chính trị, an ninh quốc gia, chủ quyền dân tộc…Đặc
biệt là vấn đề chủ quyền quốc gia dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa phải
đối mặt với một thách thức rất lớn là làm thế nào để hội nhập mà vẫn giữ
vững được độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia; duy trì ổn định chính trị
trong nước, tăng thế và lực của mình trên trường quốc tế.
Đối với nước ta, độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia là khát vọng
ngàn đời mà mỗi người dân đều hướng tới. Trải qua lịch sử đấu tranh lâu dài
chống giặc ngoại xâm với bao gian khổ, hy sinh dân tộc ta mới giành được độc
lập. Vì vậy, nhân dân Việt Nam hơn ai hết đều thấu hiểu giá trị của độc lập dân
tộc, chủ quyền quốc gia và ngày nay bằng mọi nỗ lực cao nhất của mình đang
phấn đấu vì mục tiêu cao cả: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ nhận thức đúng đắn xu thế khách quan của toàn cầu hóa,
trong những năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn nhấn mạnh chủ trương
2
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế nhằm thu hút nguồn lực của bên ngoài
phục vụ mục tiêu phát triển đất nước. Bên cạnh những thành tựu quan trọng đã
đạt được, Việt Nam cũng đang đứng trước không ít khó khăn thách thức từ quá
trình toàn cầu hóa. Văn kiện Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ:
Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố
bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước
đang phát triển. Hơn nữa, các thế lực thù địch lợi dụng toàn cầu hóa để đẩy
mạnh âm mưu “ diễn biến hòa bình” gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài
“dân chủ”, “nhân quyền” “dân tộc”, “tôn giáo” hòng làm thay đổi chế độ chính
trị, đe dọa chủ quyền quốc gia dân tộc ở nước ta. Trong điều kiện đó, vấn đề chủ
quyền quốc gia dân tộc vẫn được Đảng và Nhà nước ta khẳng định: độc lập chủ
quyền là tuyệt đối, không thể chia sẻ, thể hiện quyền độc lập, tự chủ của quốc
gia trong quan hệ quốc tế.
Với ý nghĩa đó, nghiên cứu làm rõ nội dung “Tác động của toàn cầu hóa
đến chủ quyền quốc gia dân tộc trong quan hệ quốc tế và vấn đề đặt ra với
Việt Nam hiện nay” là vấn đề cần thiết và cấp bách cả về mặt lý luận và thực
tiễn hiện nay.
1. Tác động của toàn cầu hóa đến chủ quyền quốc gia dân tộc trong
quan hệ quốc tế
Để làm rõ sự tác động của toàn cầu hóa đến chủ quyền quốc gia dân tộc trong
quan hệ quốc tế, trước hết cần hiểu thế nào là chủ quyền quốc gia dân tộc. Chủ
quyền quốc gia dân tộc là thuật ngữ dùng để chỉ quyền làm chủ thiêng liêng, bất
khả xâm phạm của một quốc gia độc lập nhất định, được thể hiện trên mọi
phương diện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao
và được đảm bảo toàn vẹn, đầy đủ về mọi mặt, cả lập pháp, hiến pháp lẫn tư
pháp của một quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia đó. Hiểu một cách
chung nhất, chủ quyền quốc gia dân tộc là quyền làm chủ của mỗi quốc gia trên
tấc cả các phương diện nêu trên.
3
Chủ quyền quốc gia là đặc trưng chính trị và pháp lý thiết yếu của một quốc
gia độc lập, được thể hiện trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước và trong
hệ thống pháp luật quốc gia. Quốc gia dân tộc là chủ thể duy nhất có chủ quyền,
được coi là một thực thể chính trị - pháp lý bao gồm các yếu tố cơ bản: lãnh thổ,
dân cư, bộ máy nhà nước và quyền năng chủ thể. Chủ quyền quốc gia dân tộc
được coi là thuộc tính cơ bản của quốc gia dân tộc, là phạm trù chính trị - pháp
lý có liên hệ mật thiết với vấn đề độc lập, chính trị, an ninh, kinh tế… của quốc
gia dân tộc. Trong lịch sử, xung quanh vấn đề chủ quyền quốc gia dân tộc có rất
nhiều định nghĩa và quan niệm khác nhau và là vấn đề thường gây nên sự tranh
luận giữa các nhà triết học, chính trị học, luật học, các nhà ngoại giao, các nhà
kinh tế…Tuy nhiên, trên cơ sở kế thừa những thành tựu của chính trị học, dân
tộc học…cũng như những thay đổi lớn trong so sánh lực lượng trên thế giới
trong thời đại ngày nay, có thể khái quát quan niệm chủ quyền quốc gia dân tộc
ở hai nội dung cơ bản: Quyền tối cao của quốc gia dân tộc trong phạm vi lãnh
thổ và quyền độc lập của quốc gia dân tộc trong quan hệ quốc tế.
Như vậy, chủ quyền quốc gia dân tộc trong quan hệ quốc tế là quyền độc lập
của quốc gia dân tộc. Theo đó, trong quan hệ quốc tế, mọi quốc gia dân tộc đều
độc lập và bình đẳng, không một quyền lực nào được đứng trên chủ quyền quốc
gia dân tộc, được đưa ra các mệnh lệnh buộc quốc gia dân tộc khác phải phục
tùng. Tôn trọng chủ quyền quốc gia dân tộc là một nguyên tắc cơ bản của luật
pháp quốc tế. Một trong những nguyên tắc cơ bản nhất được Hiến chương Liên
hiệp quốc khẳng định là: tôn trọng và bảo đảm sự bình đẳng về chủ quyền quốc
gia, không một quốc gia nào được can thiệp hoặc khống chế, xâm phạm chủ
quyền của một quốc gia độc lập khác.
Với tư cách là một xu thế lịch sử, là kết quả có được từ sự phát triển cao của
lực lượng sản xuất thế giới, toàn cầu hóa đã trở thành một xu thế vận động
khách quan, không thể đảo ngược. Xu thế toàn cầu hóa, hay quá trình toàn cầu
hóa đang diễn ra ở khắp nơi, đang hiện diện ở cả phương Bắc lẫn phương Nam,
từ thành thị đến nông thôn, từ các nước giàu, đã phát triển đến các nước nghèo,
4
đang phát triển…Xu thế này tác động một cách mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội loài người như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng,
an ninh quốc gia, đối ngoại…
Toàn cầu hóa không những là một xu thế đang vận động, mà còn đang biến
đổi, thay đổi không ngừng. Do toàn cầu hóa được tiếp cận từ các góc độ nghiên
cứu khác nhau, các nhãn quan chính trị khác nhau, nên trên thực tế đã có khá
nhiều cách lý giải khác nhau, nhiều định nghĩa khác nhau về toàn cầu hóa. Mặc
dù có nhiều ý kiến khác nhau, nhiều cách nhìn nhận khác nhau nhưng từ các
quan điểm, các quan niệm, các cách tiếp cận về vấn đề toàn cầu hóa có thể rút ra
một vài điểm chung về toàn cầu hóa như sau: Toàn cầu hóa là sự phát triển cao
của lực lượng sản xuất trên phạm vi quốc tế và là sự gia tăng các mối liên hệ,
liên kết, sự tùy thuộc và chế ước lẫn nhau giữa tất cả các nước trong cộng đồng
quốc tế, ý nghĩa của biên giới quốc gia giảm dần. Toàn cầu hóa là một xu thế
đang vận động biến đổi không ngừng, trong đó các chủ thể tham gia vào xu thế
này vừa hợp tác với nhau ngày càng chặt chẽ hơn, vừa cạnh tranh ngày càng
quyết liệt hơn.
Với tính cách là một xu thế tất yếu khách quan, là quá trình chuyển hóa các
yếu tố riêng, giá trị riêng của mỗi quốc gia dân tộc thành những tài sản chung,
giá trị chung của nhân loại, toàn cầu hóa làm cho các dân tộc trong cộng đồng
quốc tế vốn rất khác nhau trên nhiều phương diện ngày càng xích lại gần nhau
hơn. Với tính cách là kết quả có được từ sự phát triển cao của lực lượng sản xuất
và các yếu tố vật chất khác, toàn cầu hóa là một xu thế tiến bộ, là bước tiến tích
cực trong đời sống xã hội loài người. Chính do bắt nguồn từ sự phát triển mạnh
mẽ của lực lượng sản xuất và từ sự xã hội hóa sản xuất và những quả của sản
xuất; từ việc mở rộng quan hệ xã hội, chính trị, khoa học, công nghệ, văn hóa…
mà xu thế toàn cầu hóa ra đời. Nghĩa là những thành quả kinh tế - kỹ thuật, khoa
học – công nghệ, các hệ thống tổ chức – quản lý xã hội, các định chế pháp lý
quốc tế, thậm chí cả lối tư duy và lối sống thông qua giao lưu ngày càng sâu
rộng, đặc biệt qua kỹ thuật điện tử viễn thông, qua Internet mà dần trở thành tài
5
sản chung, thành những giá trị phổ quát của cộng đồng quốc tế. Toàn cầu hóa
làm tăng lên nhanh chóng tổng sản phẩm kinh tế, tạo cơ hội cho tất cả mọi
người, tất cả mọi quốc gia, dân tộc có thể rút ngắn khoảng cách phát triển với
những nước đi trước. Nhiều nước độc lập mới phát triển nhờ tận dụng được
những cơ hội do toàn cầu hóa mang lại mà vượt lên thành những quốc gia phát
triển xét trên nhiều bình diện.
Tuy nhiên, toàn cầu hóa trong giai đoạn hiện nay không chỉ là và không đơn
giản là quá trình tiến hóa lịch sử tự nhiên của loài người. Toàn cầu hóa cũng
không phải chỉ là một quá trình kinh tế - kỹ thuật, mà chủ yếu là quá trình kinh
tế - xã hội đang chứa đựng những bất công và nghịch lý lớn. Nguyên nhân hiện
nay là do các nước tư bản chủ nghĩa giàu có nhất và các công ty tư bản xuyên
quốc gia của những nước này đang nắm trong tay nguồn lực vật chất và phương
tiện hùng mạnh nhất( vốn, kỹ thuật, công nghệ, các tổ chức, thiết chế kinh tế, tài
chính, thương mại quốc tế…) để tác động lên toàn thế giới theo hướng có lợi
cho họ, phục vụ cho lợi ích của họ. Họ cũng nắm trong tay cả những phương
tiện hùng mạnh nhất trong lĩnh vực sản xuất tinh thần, văn hóa, văn minh cũng
như nguồn lực quan trọng về chất xám. Từ đó, có thể thấy rõ hiện nay trên thế
giới đang diễn ra quá trình toàn cầu hóa các giá trị, hệ giá trị của các nước tư
bản chủ nghĩa phát triển phương Tây. Xét từ khía cạnh này, toàn cầu hóa ngoài
những giá trị nhân loại, cũng đang mang trong mình những phản giá trị, phản
văn hóa nên cũng là xu thế tiêu cực. Mặc dù toàn cầu hóa trong giai đoạn hiện
nay về cơ bản mang tính chất tư bản chủ nghĩa, nhưng trong cái toàn cầu hóa đó
cũng đã và đang diễn ra một cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc âm ỉ
nhưng không kém phần quyết liệt với những mục tiêu vừa cấp bách trước mắt,
vừa cơ bản lâu dài vì một toàn cầu hóa mang lại lợi ích chính đáng cho mọi
người, mọi quốc gia, dân tộc trên hành tinh này.
Như vậy, khi nói về toàn cầu hóa trong giai đoạn hiện nay có thể thấy rõ về
bản chất đó là một quá trình đầy mâu thuẫn, một quá trình vừa hợp tác, liên kết,
6
hội nhập, vừa đấu tranh, trong sâu xa là cả một cuộc đấu tranh vì sự toàn cầu
hóa bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc, vì một xã hội quốc tế công bằng
ngày càng thoát khỏi bá quyền, áp đặt của các thế lực đế quốc tư bản quốc tế
đối với các dân tộc và nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Đại hội IX của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định “ Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế
khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia…vừa có mặt tích cực,
vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh” 1, đến Đại hội Đảng lần
thứ X nêu rõ: “ Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa
đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc
gia, nhất là các nước đang phát triển” 2 và Đại hội Đảng lần thứ XI tiếp tục
khẳng định “ Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình
thức biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan
xen rất phức tạp.... Sự tùy thuộc lẫn nhau, hội nhập, cạnh tranh và hợp tác giữa các
nước ngày càng trở thành phổ biến”3.
Khi nghiên cứu toàn cầu hóa không thể không đề cập vấn đề tác động của nó
đến chủ quyền quốc gia dân tộc, nhất là đối với các nước đang phát triển. Với
tư cách là một quá trình mang tính hai mặt, tác động của toàn cầu hóa tất
nhiên cũng theo cả hai chiều thuận – nghịch, tích cực và tiêu cực. Vì vậy,
những vấn đề mới đặt ra hiện nay đối với việc bảo vệ chủ quyền quốc gia dân
tộc ở các nước đang phát triển có cả mặt cơ hội mới, thuận lợi mới, lẫn mặt
khó khăn, thách thức mới. Trong bối cảnh xu thế toàn cầu hóa giai đoạn hiện
nay đang diễn biến phức tạp, nhất là đang chứa đầy những bất công và nghịch
lý lớn, mà những bất công và nghịch lý này không sớm được xóa bỏ, nên
những tác động tích cực của toàn cầu hóa nhiều khi không đủ khỏa lấp những
tác động tiêu cực. Cụ thể, những tác động tích cực của toàn cầu hóa đến chủ
quyền quốc gia dân tộc được thể hiện:
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001, tr.64.
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr.73.
3
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr.96, 97.
1
2
3
7
Thứ nhất, trên lĩnh vực kinh tế, xu thế toàn cầu hóa thúc đẩy sự phát triển sâu
rộng của các quan hệ kinh tế quốc tế, tạo cơ hội cho từng quốc gia tận dụng
được thị trường thế giới cho hoạt động sản xuất – kinh doanh của mình. Đặc
biệt, trong nền kinh tế thị trường việc khai thông và mở rộng thị trường có ý
nghĩa quan trọng sống còn đối với mỗi nền kinh tế quốc gia. Đồng thời, xu thế
toàn cầu hóa làm lưu chuyển tự do các nguồn vốn đầu tư, công nghệ sản xuất
tiên tiến và khoa học quản lý hiện đại, đặt các yếu tố quan trọng này vào khả
năng tiếp cận, sử dụng của mọi quốc gia. Toàn cầu hóa cũng đã làm thay đổi
một cách căn bản cơ cấu kinh tế toàn cầu theo hướng theo hướng thúc đẩy gia
tăng lĩnh vực hàng hóa dịch vụ, đặc biệt là các sản phẩm dựa trên tri thức, dựa
trên “chất xám” trong cơ cấu kinh tế thế giới. Toàn cầu hóa làm tăng giá trị của
tri thức trong nền kinh tế quốc dân của các nước và hình thành “ nền kinh tế tri
thức”. Nghĩa là, toàn cầu hóa thúc đẩy sự phát triển kinh tế thế giới đi vào chiều
sâu, vào việc chủ yếu sử dụng tri thức của nhân loại, từ đó góp phần đạt được
mục tiêu phát triển bền vững, thân thiện với môi trường. Vì vậy, nhìn chung các
quốc gia trên thế giới đều tỏ ra năng động trong sự nghiệp cải cách, mở cửa,
trong xây dựng một cơ cấu kinh tế phù hợp, gắn sản xuất trong nước với thị
trường quốc tế, đặc biệt chú ý phát triển những ngành và lĩnh vực có lợi thế xuất
khẩu. Do vậy, những nước nào có chiến lược và chính sách hội nhập phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước mình, chuẩn bị tốt nội lực để “đi
tắt đón đầu” thì rút ngắn rất nhanh khoảng cách phát triển, vai trò và vị thế quốc
tế được nâng cao. Tóm lại, nhờ xu thế toàn cầu hóa kinh tế, những nước nào biết
tận dụng thời cơ thuận lợi thì có thể nâng cao nội lực, nhờ đó mà tạo dựng được
nền tảng, cơ sở để bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc.
Thứ hai, xu thế toàn cầu hóa mở ra khả năng cho các quốc gia, nhất là các
quốc gia đang phát triển có thể tham gia nhanh chóng và hiệu quả vào hệ thống
phân công lao động quốc tế, từ đó tận dụng mọi nguồn lực ( nội lực và ngoại
lực), hay nói chính xác hơn là có thể kết hợp nội lực và ngoại lực thành sức
8
mạnh quốc gia tổng hợp phục vụ mục tiêu phát triển của quốc gia mình. Trong
bối cảnh toàn cầu hóa, nhờ tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế,
mà các quốc gia đang phát triển có thể đẩy nhanh quá trình cơ cấu ngành kinh tế
và rút ngắn thời gian vật chất của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
nâng cao nội lực, sức mạnh quốc gia tổng hợp, từ đó có cơ hội và điều kiện
cải thiện được đời sống của nhân dân đất nước mình, cũng như cải thiện và
nâng cao vị thế quốc tế của quốc gia mình. Nghĩa là, toàn cầu hóa đang gián
tiếp tạo cơ sở, tạo điều kiện cho các nhà nước dân tộc thuộc nhóm nước đang
phát triển nâng cao hơn khả năng bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc mình.
Thứ ba, xu thế toàn cầu hóa tạo điều kiện cho tất cả các nước trong cộng
đồng quốc tế tham gia vào đời sống các quan hệ quốc tế thông qua các tổ chức
quốc tế, các tập hợp lực lượng lớn nhỏ trên các lĩnh vực khác nhau đang hoạt
động trên khắp địa cầu. Chính nhờ được tham gia vào các tổ chức này, các tập
hợp lực lượng này mà các nước lớn – nhỏ, mạnh – yếu dù khác nhau cũng có thể
tham gia vào các diễn đàn, các tổ chức quốc tế nhằm đạt được mục đích của
mình. Ngay cả các nước nhỏ yếu hơn cũng nhờ đó mà có cơ hội bày tỏ chính
kiến của mình, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc mình, đồng thời có thể tham gia
vào các quá trình liên kết kết khác nhau ( quốc tế, khu vực, chính trị, kinh tế,
văn hóa, khoa học…) nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược của mình. Trên
thực tế, các nước đang phát triển từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc cho đến
nay cũng đã khẳng định vị thế ngày càng cao hơn của nhóm nước này trong bối
cảnh toàn cầu hóa hiện nay thông qua các diễn đàn, các tổ chức quốc tế như
Liên hiệp quốc, Tổ chức thương mại quốc tế ( WTO), phong trào không liên kết,
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)….Như vậy, toàn cầu hóa trên
thực tế đã tạo ra những cơ hội mới, thậm chí những điều kiện mới cho các nước
đang phát triển có thể tập hợp lực lượng và sử dụng các tập hợp lực lượng ấy
vào mục đính bảo vệ được chủ quyền của từng nhà nước dân tộc.
9
Thứ tư, xu thế toàn cầu hóa thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động giao lưu văn
hóa và tri thức quốc tế, tăng cường sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau và tình hữu
nghị giữa các dân tộc. Nhờ sự giao lưu quốc tế được mở rộng mà làm cho
phương Đông và phương Tây, dân tộc này và dân tộc khác hiểu biết lẫn nhau
hơn, xích lại gần nhau hơn, tôn trọng lẫn nhau hơn. Do vậy có thể nói, nhờ toàn
cầu hóa đã tạo ra cơ hội giao lưu, bổ sung lẫn nhau giữa các nền văn hóa, văn
minh khác nhau; trên cơ sở đó mà tình hữu nghị, sự tôn trọng lẫn nhau giữa các
quốc gia, các dân tộc khác nhau được tăng cường, được nâng cao lên. Như thế
cũng có nghĩa là toàn cầu hóa đã góp phần đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, xung
đột; do đó chủ quyền quốc gia dân tộc của các nước được tôn trọng và bảo vệ tốt
hơn.
Thứ năm, xu thế toàn cầu hóa làm cho các nước ngày càng phụ thuộc lẫn
nhau. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, trước hết trong lĩnh vực kinh tế thương mại đã tồn tại từ lâu, từ khi chủ nghĩa tư bản “ vươn những chiếc vòi
bạch tuộc” ra các “khu vực ngoại vi”. Nhưng trên thực tế sự phụ thuộc lẫn nhau
lúc đó chủ yếu mang tính chất một chiều và có thể nói thẳng ra đó là kiểu phụ
thuộc giữa kẻ đi bóc lột và người bị bóc lột. Nhưng dưới sự tác động của xu thế
toàn cầu hóa, sự phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia dân tộc ngày càng đa chiều
hơn, toàn diện hơn, sâu sắc hơn và với quy mô rộng lớn hơn. Đáng chú ý là sự
phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia dân tộc hiện nay không chỉ thể hiện trên
lĩnh vực kinh tế như trước đây, mà còn phụ thuộc trên cả lĩnh vực chính trị, an
ninh, đối ngoại…Chính tính tùy thuộc, phụ thuộc lẫn nhau và sự giàng buộc lợi
ích nhiều mặt giữa các quốc gia dân tộc gia tăng đã làm hạn chế ý đồ của các
quốc gia dân tộc này muốn xâm phạm chủ quyền quốc gia dân tộc khác. Vì điều
đó nhất định sẽ làm tổn hại đến lợi ích của chính những quốc gia dân tộc có ý đồ
xâm hại chủ quyền và lợi ích của nước khác. Đây cũng là cơ hội tích cực để loại
bỏ những biểu hiện của ý đồ thiết lập mối quan hệ một chiều chứa đựng sự áp
đặt, chi phối, thống trị của các siêu cường đối với đông đảo các quốc gia dân tộc
10
khác trên thế giới. Đồng thời đây cũng là cơ hội cho sự hình thành một trật tự
thế giới đa cực, đa trung tâm như khuôn khổ quyền lực cho cơ chế sinh hoạt
quốc tế dân chủ, công bằng, bình đẳng giữa các quốc gia dân tộc lớn – nhỏ,
mạnh – yếu. giàu – nghèo khác nhau. Có thể nói, tính tùy thuộc lẫn nhau và sự
ràng buộc lợi ích lẫn nhau ngày càng chặt chẽ giữa các quốc gia dân tộc trong
bối cảnh toàn cầu hóa đang tạo ra một số cơ hội, một số điều kiện thuận lợi để
các nước đang phát triển bảo vệ tốt hơn chủ quyền quốc gia dân tộc của mình.
Trên đây là một số tác động tích cực không thể phủ nhận của toàn cầu hóa và
cùng với đó là những cơ hội mới, thuận lợi mới cho các nước đang phát triển
bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc mình. Nhưng đáng tiếc là bên cạnh những tác
động tích cực đó, toàn cầu hóa trong giai đoạn hiện nay đang có rất nhiều những
tác động tiêu cực đối với các nước, nhất là các nước đang phát triển. Những tác
động tiêu cực của toàn cầu hóa đến chủ quyền quốc gia dân tộc được thể hiện:
Thứ nhất, trên lĩnh vực kinh tế như đã đề cập ở trên, đông đảo các nước trên
thế giới đã và đang chịu sự giàng buộc của các quy tắc kinh tế thương mại, tài
chính – tiền tệ, đầu tư chủ yếu do các nước phương Tây đề ra từ cách đây hơn
nửa thế kỷ. Những quy tắc này phần lớn mang tính áp đặt, bắt buộc những nước
nào muốn tham gia quá trình phân công lao động quốc tế đều phải tuân theo,
phải thực hiện. Trong khi đó có một thực tế hiển nhiên là các nước đang phát
triển, chậm phát triển, kém phát triển khi tham gia cái sân chơi mang tên “ toàn
cầu hóa kinh tế” đó đều phải chịu sức ép cạnh tranh bất bình đẳng và sự điều tiết
vĩ mô bất hợp lý của các nước tư bản phát triển hàng đầu. Trên thực tế, đây là
hoạt động lũng đoạn của tư bản độc quyền quốc tế. Trong hoàn cảnh này, sự
cạnh tranh kinh tế quốc tế và quan hệ kinh tế quốc tế trở nên bất bình đẳng và
bất hợp lý cao độ. Hệ quả là chênh lệch giàu – nghèo và khoảng cách về trình độ
phát triển đạt tới con số vực thẳm và diễn ra ở mọi cấp độ: giữa các quốc gia,
trong từng quốc gia cũng như trong từng cộng đồng xã hội. Trong bối cảnh đó,
chủ quyền quốc gia dân tộc của các nước đang phát triển ( nhất là các nước
11
chậm phát triển, tình hình chính trị - xã hội bất ổn) trên lĩnh vực kinh tế đứng
trước những thách thức rất lớn cả từ bên trong từng nước lẫn do áp lực từ bên
ngoài.
Thứ hai, trên lĩnh vực xã hội, cơn lốc toàn cầu hóa đang làm trầm trọng và có
thể tiếp tục làm trầm trọng thêm tình trạng loại trừ xã hội. Có nghĩa là trong khi
toàn cầu hóa đem lại sự giàu sang vô độ cho một số ít người có lợi thế, biết tận
dụng lợi thế, biết tận dụng cơ hội do toàn cầu hóa mang lại, thì có tới hàng tỷ
người khác trên hành tinh này hầu như không được hưởng một chút gì của toàn
cầu hóa. Trên thực tế họ đang bị bần cùng hóa, bị rơi vào, bị đẩy vào tình trạng
thất nghiệp triền miên, không được giáo dục - đào tạo, không được chăm sóc sức
khỏe; thiếu thông tin, nước sạch, an sinh xã hội, nghĩa là đang bị đặt ra ngoài lề
của sự phát triển. Hậu quả là cơ cấu xã hội của mỗi quốc gia dân tộc trong bối
cảnh toàn cầu hóa có thể biến động phức tạp, tiêu cực và khó lường; làm cho sự
phân tầng, phân hóa xã hội cũng trở thành yếu tố tiêu cực đối với bản thân sự
phát triển của đất nước. Đây là những nguy cơ tiềm ẩn có thể dẫn đến sự bùng
nổ xã hội trong từng quốc gia cũng như trên phạm vi toàn cầu, đây cũng là cơ
hội thuận lợi cho các thế lực cực đoan từ bên trong từng nước và từ bên ngoài
lợi dụng phục vụ cho các mục đích của họ. Trong bối cảnh đó, những nước nào
rơi vào tình trạng bùng nổ xã hội có thể mất hết chủ quyền quốc gia dân tộc.
Thứ ba, trên lĩnh vực văn hóa, xu thế toàn cầu hóa đã đặt các quốc gia dân
tộc vào nguy cơ bị các giá trị phương Tây, nhất là các giá trị văn hóa Mỹ xâm
nhập ồ ạt, làm tổn hại bản sắc văn hóa dân tộc. Thực tế cho thấy, chưa bao giờ
nền văn hóa nhân loại lại đứng trước một nghịch lý phức tạp như trong kỷ
nguyên toàn cầu hóa hiện nay. Đó là việc toàn cầu hóa vừa mở ra cơ hội, mở ra
khả năng cho các quốc gia dân tộc giao lưu sâu rộng với các quốc gia dân tộc
khác, từ đó làm giàu thêm các giá trị văn hóa của dân tộc mình; vừa đặt nhân
loại trước một nguy cơ bị nghèo văn hóa rất nghiêm trọng. Cụ thể là, trong khi
các giá trị phổ quát mang tính nhân loại tác động làm nâng cao trình độ văn hóa
12
chung một cách lành mạnh, thì đồng thời nó cũng làm cho tính riêng biệt, đặc
thù, sắc thái độc đáo của mỗi nền văn hóa dễ bị mai một, nhạt nhòa nếu các nền
văn hóa đó không có cách bảo vệ những giá trị văn hóa của riêng mình. Khuynh
hướng đồng nhất trên những bình diện nào đó về văn hóa đang trở nên rất rõ
ràng. Hơn nữa, mưu đồ của các nước phương Tây dùng văn hóa phương Tây
như một phương sách, một biện pháp, một thủ đoạn ( còn được gọi là sử dụng “
sức mạnh mềm”, “ quyền lực mềm”) để thống trị toàn thế giới đã được nhiều
chính khách quốc tế, nhà nghiên cứu quốc tế xác định là biểu hiện của chủ nghĩa
đế quốc về văn hóa. Thế lực này, “ sức mạnh mềm” này cũng như các loại chủ
nghĩa đế quốc về kinh tế và chính trị (các loại “sức mạnh cứng”) đang là nguy
cơ đe dọa sự sống còn và phát triển của mọi cộng đồng, mọi quốc gia dân tộc
trên thế giới. Chính toàn cầu hóa đã tạo ra một trong những khả năng phản tiến
bộ quốc tế là quốc tế hóa các hiện tượng tiêu cực của đời sống xã hội như: sự lan
tràn chủ nghĩa khủng bố, chủ nghĩa kinh tế, chủ nghĩa kỹ trị; sự du nhập lối sống
xa lạ với truyền thống, thậm chí lối sống đồi trụy; nạn ma túy, mại dâm và lây
nhiễm nhiều căn bệnh thế kỷ. Đây thực sự là vấn đề rất lớn, không đơn giản chỉ
đe dọa bản sắc dân tộc, mà còn là vấn đề tác động đến sự tồn vong của mỗi quốc
gia dân tộc.
Thứ tư, trên lĩnh vực an ninh quốc gia, xu thế toàn cầu hóa đặt ra cho mỗi
quốc gia dân tộc hàng loạt vấn đề rất mới và rất khác trước. Nội dung khái niệm
“an ninh quốc gia” được mở rộng, bao gồm các lĩnh vực sau: An ninh quân sự,
an ninh chính trị, an ninh kinh tế ( bao gồm cả an ninh năng lượng, an ninh
lương thực, an ninh tài chính), an ninh xã hội, an ninh môi trường, an ninh con
người. Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang mở rộng phạm vi và lĩnh vực hoạt
động thì các nguy cơ đe dọa an ninh ngày càng phức tạp hơn, bởi bên cạnh các
nguy cơ truyền thống đã xuất hiện các nguy cơ phi truyền thống mang tính chất
xuyên quốc gia. Chẳng hạn, nạn tin tặc tấc công vào hệ thống bảo mật quốc gia,
sự lan rộng của chủ nghĩa khủng bố quốc tế, nạn di cư bất hợp pháp, tình trạng ô
13
nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng…Nghĩa là cục diện an ninh dưới tác
động của toàn cầu hóa đã thay đổi, nên các công cụ, biện pháp, hình thức, cơ chế
bảo đảm an ninh cũng phải thay đổi. Phát triển kinh tế bền vững và bảo đảm an
ninh kinh tế trên mọi bình diện trở thành nội dung trung tâm, xuyên suốt trong
các chính sách của các quốc gia dân tộc. Do vậy, ngày càng có nhiều nước đặt
an ninh quốc gia như một mục tiêu và thành tố của chiến lược phát triển tổng thể
đất nước, gắn chặt vấn đề này với các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ
môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và phát triển con người.
Thứ năm, trên lĩnh vực chính trị, xu thế toàn cầu hóa đang tạo ra một số nguy cơ
đe dọa độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ…Ở đây, nổi lên
trước hết là mối quan hệ giữa toàn cầu hóa với chủ quyền quốc gia dân tộc. Cùng
với đà phát triển mạnh mẽ của toàn cầu hóa về kinh tế, thì cũng đặt ra những thách
thức đối với chủ quyền quốc gia dân tộc. Hiện nay đã xuất hiện những mưu đồ lấy
cái làng toàn cầu thay thế các quốc gia dân tộc; lấy sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nước để hạ thấp chủ quyền quốc gia dân tộc; lấy thị trường không biên giới để phủ
nhận tính bất khả xâm phạm của toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; lấy các thiết chế quốc
tế làm mô hình siêu nhà nước đứng trên các nhà nước quốc gia dân tộc…Đây là
những biểu hiện lợi hại của chủ nghĩa đế quốc trong bối cảnh toàn cầu hóa, nhằm
đạt tới mục tiêu nhất thể hóa nên kinh tế tư bản chủ nghĩa, bao gồm cả các quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trên toàn thế giới và thiết lập một trật tự thế giới
mới do Mỹ độc quyền chi phối.
Như vậy, nói đến sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước trong cộng đồng quốc
tế, chúng ta không hề phủ nhận những tác động tích cực của nó ( như đã trình
bày ở trên). Tuy nhiên sự tùy thuộc lẫn nhau này lại hết sức không cân đối, một
số nước sẽ bị tổn thương nhiều hơn so với nước khác. Cụ thể, trong lúc một số
nước đang được hưởng sự thịnh vượng do toàn cầu hóa mang lại, thì một số
nước đang phải chịu đựng sự thua thiệt do toàn cầu hóa mang lại. Những nước
được hưởng thành quả do toàn cầu hóa mang lại thì ra sức tiếp sức và cổ xúy
14
cho toàn cầu hóa, còn những nước bị thua thiệt do toàn cầu hóa mang lại có thái
độ đối lập và lo âu. Điều đáng chú ý là sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước chỉ
tạo ra cơ hội cho các nước nghèo đấu tranh, còn trên thực tế có đấu tranh được
và đấu tranh có kết quả hay không lại là chuyện khác, nói chính xác hơn là phụ
thuộc vào hiệu quả hoạt động của các nhân tố chủ quan bên trong từng nước,
vào hiệu quả của quá trình liên kết, hợp tác, tập hợp lực lượng của nhóm nước
đang phát triển. Trong khi đó, không thể bỏ qua một thực tế là rất nhiều trường
hợp, các nước lớn, giàu mạnh và phát triển đã không bỏ lỡ cơ hội sử dụng sự
phụ thuộc lẫn nhau này làm nguyên cớ để can thiệp vào công việc nội bộ, xâm
phạm chủ quyền quốc gia của các nước nhỏ, nghèo đang phát triển, chậm phát
triển.
Trên đây là một số tác động chủ yếu của toàn cầu hóa đến các quốc gia dân
tộc trên các lĩnh vực khác nhau, theo những chiều hướng khác nhau và những
vấn đề mới đặt ra cho các quốc gia dân tộc thuộc nhóm các nước đang phát triển
trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc.
Tóm lại, xu thế toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ hiện nay đang tác động đến
mọi mặt của đời sống xã hội và quan hệ quốc tế nói chung, đến vấn đề chủ
quyền quốc gia dân tộc nói riêng. Dưới tác động của xu thế toàn cầu hóa,
quan niệm truyền thống về chủ quyền quốc gia dân tộc ngày nay đã có nhiều
thay đổi. Nếu như trước đây, khi nói đến chủ quyền quốc gia dân tộc, người
ta thường đề cập đến mối đe dọa từ bên ngoài, dến các lực lượng sử dụng
sức mạnh quân sự để xâm lược, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của một quốc
gia dân tộc. Khi toàn cầu hóa trở thành xu thế khách quan lôi cuốn hầu hết
các quốc gia dân tộc cùng tham gia, chủ quyền quốc gia dân tộc và mở cửa
hội nhập kinh tế quốc tế là hai nội dung có quan hệ mật thiết với nhau thì
quan niệm về chủ quyền quốc gia dân tộc cũng được nhận thức khác so với
trước. Mối đe dọa xâm lược bằng sức mạnh quân sự từ các lực lượng bên
ngoài vẫn còn hiện hữu nhưng không phải là yếu tố duy nhất đe dọa chủ
quyền quốc gia dân tộc. Chủ quyền quốc gia dân tộc ngày nay còn bao hàm
15
cả lĩnh vực an ninh phi truyền thống, cả các vấn đề bên trong của một quốc
gia như quyền độc lập quyết định con đường phát triển, tính đúng đắn của
việc đề ra đường lối chính sách phát triển kinh tế- xã hội và hội nhập kinh tế
quốc tế…Nhận thức đúng đắn và đầy đủ các vấn đề trên sẽ là cơ sở khoa học
để mỗi nước có những đối sách phù hợp để vừa bảo vệ được chủ quyền quốc
gia dân tộc, đồng thời hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn trong xu thế
toàn cầu hóa.
2. Quan điểm của Đảng ta về bảo về chủ quyền quốc gia dân tộc trong
xu thế toàn cầu hóa
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, việc bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc
gia có nhiều thuận lợi nhưng cũng đứng trước không ít những thách thức. Toàn cầu
hóa thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của lực lượng sản xuất, đem lại nhiều cơ hội cho
các nước đang phát triển trong việc tranh thủ những tiến bộ của khoa học – công nghệ
để vươn lên đuổi kịp các nước phát triển. Song cùng với nó, toàn cầu hóa cũng đặt các
nước này trước những thách thức không nhỏ, trong đó có nước ta.
Đối với nước ta, độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia là khát vọng ngàn đời
mà mỗi người dân đều hướng tới. Trải qua lịch sử đấu tranh lâu dài chống giặc
ngoại xâm với bao gian khổ, hy sinh dân tộc ta mới giành được độc lập. Trong
xu thế toàn cầu hóa ngày càng diễn ra mạnh mẽ, xu thế hòa bình, hợp tác và
phát triển đã trở thành xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế, vấn đề độc lập
dân tộc và chủ quyền quốc gia vẫn được Đảng và Nhà nước ta tiếp tục khẳng
định: độc lập chủ quyền là tuyệt đối, không thể chia sẻ, thể hiện quyền độc
lập, tự chủ của quốc gia trong giải quyết các vấn đề đối nội và đối ngoại. Văn
kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định “ Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình,hợp tác và phát triển; đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Việt Nam
16
là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc
tế; tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước”4
Xuất phát từ sự nhận thức sâu sắc những cơ hội và thách thức đối với chủ
quyền quốc gia dân tộc, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra những quan điểm mang
tính chỉ đạo nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia dân tộc trong xu thế
toàn cầu hóa ngày nay. Nhờ đó, đất nước ta sau 25 năm đổi mới đã đạt được
những thành tựu to lớn và quan trọng, sức mạnh tổng hợp của đất nước ngày
càng được tăng cường, tạo cơ sở vững chắc để bảo vệ chủ quyền quốc gia dân
tộc, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Có thể khái quát những quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta về bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc trong xu thế
toàn cầu hóa hiện nay như sau:
Thứ nhất, bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc phải đi đôi với phát triển kinh
tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa đất nước ra khỏi
tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cỏ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.
Cùng với sự phát triển của xu thế toàn cầu hóa và tri thức hóa kinh tế, thì mối
đe dọa lớn nhất với chủ quyền quốc gia dân tộc của các nước không phải là sự
tiến công xâm lược bằng quân sự mà chính là sự tụt hậu về kinh tế, nghèo đói và
kém khả năng cạnh tranh kinh tế trên thị trường thế giới. Ngày nay, nước nào có nền
kinh tế phát triển bền vững, làm chủ được khoa học – công nghệ, có năng lực cạnh
tranh quốc tế cao, hội nhập tốt với nền kinh tế thế giới và khu vực thì về cơ bản có
khả năng tự bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc. Do vậy, hầu như tất cả các nước đều
dành ưu tiên hàng đầu cho phát triển kinh tế và đặt vấn đề an ninh kinh tế là một
trong những mục tiêu quan trọng nhất của chiến lược an ninh quốc gia. Quan điểm
trên của Đảng ta cũng xuất phát từ thực tiễn đó.
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr.138,139.
4
17
Là một nước đang phát triển lựa chọn con đường phát triển định hướng xã hội
chủ nghĩa, Đảng vầ Nhà nước ta ngày càng nhận thức đầy đủ hơn cả thời cơ và thách
thức mà xu thế toàn cầu hóa đặt ra, nhất là sau sự sụp đổ của chế độ chủ nghĩa xã hội
ở Đông Âu và Liên Xô. Xuất phát từ tình hình thực tế của đất nước, Đảng ta đã sớm
cảnh báo nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế
giới sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chủ quyền quốc gia dân tộc. Đồng thời, Đảng ta cũng
khẳng định để tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, tiếp tục đưa đất nước phát triển
trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì không thể biệt lập mà nhất thiết
phải có cách thức hội nhập hiệu quả với khu vực và quốc tế, trước hết là trong lĩnh
vực kinh tế nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,công
bằng,văn minh; xem đây là tiền đề, là điều kiện cơ bản để bảo vệ vững chắc chủ
quyền quốc gia dân tộc một cách thực sự.
Đối với nước ta, hội nhập kinh tế là một nhu cầu tất yếu đối với sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng
ta sẽ hội nhập bằng mọi giá mà phải trên tinh thần phát huy tối đa nội lực, tranh
thủ mọi thời cơ để phát triển để phát triển, đồng thời phải giữ vững nguyên tắc
độc lập, tự chủ, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc
làn thứ IX của Đảng đã khẳng định “ chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo
đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ
vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc” 5. Điều quan trọng hơn
khi sự nghiệp đổi mới của đất nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn
biến phức tạp, các lực lượng chống phá thường xuyên tìm cách ngăn cản, chống
phá chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta; do đó nếu không tạo dựng được một nền
kinh tế độc lập tự chủ thì rất dễ bị lệ thuộc, bị các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề
kinh tế để lôi kéo, hoặc khống chế, ép buộc chúng ta phải thay đổi chế độ chính
trị, đi chệch quỹ đạo xã hội chủ nghĩa. Để tiếp tục xây dựng nền kinh tế độc lập tự
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001, tr.43.
5
18
chủ, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ “ Nâng cao hiệu
quả hội nhập quốc tế, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và phát triển
nhanh, bền vững”6. Đây chính là điều kiện cơ bản để chúng ta giữ vững chủ
quyền quốc gia dân tộc trong thời kỳ đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay.
Thứ hai, bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc trên cơ sở tăng cường khối đại
đoàn kết dân tộc
Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta trong lịch sử dựng nước
và giữ nước. Kế thừa và phát huy truyền thống đó, ngay từ khi mới ra đời và trong
suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn coi
trọng củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh dân tộc kết
hợp với sức mạnh quốc tế, sức mạnh truyền thống với sức mạnh thời đại; xác định
đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là cội nguồn sức mạnh, động lực
chủ yếu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn cách mạng
Việt Nam hơn 80 năm qua đã cho thấy: Khi nào Đảng nắm vững và giương cao
ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất thì
phát huy được sức mạnh của dân tộc, vượt qua mọi khó khăn thử thách, đảm bảo cho
cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Ngược lại, khi nào coi nhẹ vấn đề
đại đoàn kết dân tộc thì cách mạng gặp khó khăn. Đại hội IX của Đảng đã nhấn
mạnh “ Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên nền
tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng”7.
Thực tiễn cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc ở nước ta những
năm qua cho thấy, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách để
chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc nhằm chống phá cách mạng nước ta. Không phải
ngẫu nhiên mà Đảng ta đã xác định chủ đề tư tưởng của Đại hội IX là: “Phát huy sức
mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước, ý chí tự lực tự cường và
lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr.139.
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001, tr.86.
6
7
19
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng những ý
kiến khác nhau không trái với với lợi ích chung của dân tộc; xóa bỏ mặc cảm, định
kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở,
tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai”8. Trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn của
20 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, Đại hội lần thứ X của Đảng đã khẳng
định “ Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược
của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý
nghĩa quyết định đảm bảo thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng
bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân…”9. Đại hội lần thứ XI của
Đảng tiếp tục khẳng định “ Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc…Lấy mục
tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng”10.
Những quan điểm trên đây xuất phát từ sự nhận thức sâu sắc của Đảng ta về
tầm quan trọng của đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Dựa vào dân, phát huy sức mạnh của khối
đại đoàn kết toàn dân là cội nguồn sức mạnh, là động lực to lớn để chúng ta
tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, độc lâp
dân tộc, phát triển đất nước bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây
cũng là bài học thành công lớn của công cuộc bảo vệ và củng cố chủ quyền quốc
gia dân tộc trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay.
Thứ ba, bảo vệ chủ quyền quốcgia dân tộc trên cơ sở kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại
Thực tế quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua cho thấy,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một nguyên tắc chiến lược, một
nhân tố cơ bản bảo đảm cho sự thành công của cách mạng nước ta. Vì vậy nguyên tắc
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001, tr.123-124.
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr.116.
10
.Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr.239-240.
8
9
20
đó đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam quán triệt, triển khai thực hiện cả trong cách
mạng giải phóng dân tộc trước kia cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Ngày nay, công cuộc đổi mới của chúng ta diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa, cuộc
cách mạng khoa học – công nghệ phát triển như vũ bão, cuộc đấu tranh của nhân dân
thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội diễn ra sôi nổi. Đây là
nguồn sức mạnh thời đại vô cùng quan trọng đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc của nước ta, đặc biệt đây là cơ sở vững chắc để bảo vệ chủ quyền quốc gia
dân tộc trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay.
Thứ tư, bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc trên cơ sở giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, các nước tư bản phát triển với sự hậu
thuẫn của sức mạnh kinh tế, khoa học – công nghệ, phương tiện thông tin…dã
tuyên truyền, quảng bá văn hóa, hệ giá trị của mình ra thế giới, đặt nền văn hóa dân
tộc của đang phát triển trong đó có nước ta đứng trước nguy cơ bị đồng hóa, xói
mòn. Trước thực trạng đó, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, hội nhập
quốc tế, Đảng ta luôn coi trọng nhiệm vụ giữ gìn và phát triển nền văn hóa dân tộc,
coi văn hóa là nền tảng tinh thần, của xã hội, là động thúc đẩy kinh tế - xã hội phát
triển. Chính vì vậy, vấn đề bảo vệ an ninh văn hóa, xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh hội nhập sâu vào
nền kinh tế thế giới được Đảng ta coi là một trong những ưu tiên hàng đầu trong
quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc giữ gìn bản sắc nền văn hóa dân tộc
đối với sự nghiệp cách mạng nói chung; thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế nói
riêng, trong những năm qua Đảng ta đã thông qua và ban hành nhiều Nghị quyết để
bảo tồn và phát triển nền văn hóa Việt Nam, trong đó phải kể đến Nghị quyết
Trung ương 5 khóa VIII về “ Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đầ
bản sắc văn hóa dân tộc”. Ngoài ra, trong các Văn kiện Đại hội gần đây, Đảng ta
luôn nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng, phát triển và bảo vệ nền văn hóa Việt Nam,
coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng. Văn kiện Đại
hội X của Đảng đã khẳng định “ Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất
21
lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, gắn kết
chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu
vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội . Xây dựng và hoàn thiện giá trị , nhân cách con
người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế” 11. Trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng lại
tiếp tục khẳng định “ Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh,
phong phú, đa dạng…Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chung của con người Việt Nam
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”12.
Thứ năm, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, khai thác có hiệu quả những
măt tích cực của toàn cầu hóa phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ yêu cầu phát triển của đất nước trong những năm đầu của thế
kỷ XXI, Đảng ta đã đề ra quan điểm chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để tạo
ra khả năng đáp ứng đòi hỏi về mở rộng thị trường, tranh thủ vốn, công nghệ,
kinh nghiệm của bên ngoài phục vụ mục tiêu phát triển đất nước. Bên cạnh đó,
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo điều kiện để chúng ta xây dựng
thành công nèn kinh tế độc lập tự chủ - nền tảng vật chất cơ bản để củng cố và
duy trì độc lập tự chủ về chính trị. Bởi lẽ, sẽ không thể có độc lập tự chủ về
chính trị, nếu bị lệ thuộc về kinh tế. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng
đối với nước ta, một nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong
bối cảnh quốc tế phức tạp như hiện nay.
Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta còn xuất phát
từ kinh nghiệm phát triển đất nước trong những năm đổi mới: đổi mới phải luôn
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong thời kỳ đổi mới, chúng
ta đã không ngừng chủ động mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới với tinh
thần cởi mở và trên nhiều lĩnh vực như: kinh tế, chính trị, văn hóa…Nhờ đó,
chúng ta đã phá vỡ được thế bị bao vây cấm vận, đồng thời tham gia chủ động
và tích cực vào đời sống của cộng đồng quốc tế, góp phần nâng cao vị thế của
đất nước trên trường quốc tế, tạo đà thuận lợi cho công cuộc đổi mới, xây dựng
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr.106.
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr.223.
11
12
22
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia dân tộc trong xu thế
toàn cầu hóa hiện nay.
Tóm lại, trước những tác động tiêu cực của xu thế toàn cầu hóa khi nước ta
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc đề ra và thực hiện các quan điểm nêu
trên sẽ là điều kiện quan trọng để tăng cường nội lực và khả năng đối phó của
nước ta trước các mối đe dọa từ bên trong cũng như các cơ hội can thiệp từ bên
ngoài vào công việc nội bộ của nước ta, đồng thời đây cũng là cơ sở vững chắc
để bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc trước tác động của xu thế toàn cầu hóa
hiện nay.
23
KẾT LUẬN
Chủ quyền quốc gia dân tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của mỗi
quốc gia dân tộc, là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế
hiện đại, trong đó có Hiến chương Liên hiệp quốc.
Tuy nhiên, ngày nay khi mà toàn cầu hóa đã trở thành xu thế khách quan lôi
cuốn sự tham gia của hầu hết các quốc gia dân tộc và đang tác động mạnh mẽ
đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thì quan niệm về chủ quyền quốc gia dân
tộc vầ bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc cũng có những biến đổi nhất định.
Toàn cầu hóa trong giai đoạn hiện nay gắn liền với chủ nghĩa tư bản và hiện
đang bị chủ nghĩa tư bản chi phối, lợi dụng để phục vụ cho mục đích của họ
như: lấy cái làng toàn cầu thay thế các quốc gia dân tộc, lấy sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa các nước để hạ thấp chủ quyền quốc gia; lấy thị trường không biên
giới để phủ nhận tính bất khả xâm phạm của toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; lấy các
thiết chế quốc tế làm mô hình siêu nhà nước đứng trên Nhà nước quốc gia dân
tộc; đe dọa đến chủ quyền quốc gia dân tộc của các nước.
Nhận thức đầy đủ sự tác động có tính hai mặt của xu thế toàn cầu hóa đến
chủ quyền quốc gia dân tộc, Đảng và Nhà nước ta đã sớm đề ra các chủ
trương mở rộng hợp tác quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tận dụng tối đa
những tác động tích cực, đồng thời hạn chế tối đa những tác động tiêu cực
của toàn cầu hóa, trên cơ sở đó mà tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc
gia dân tộc, đẩy lùi các mối đe dọa của an ninh truyền thống và phi truyền
thống nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia dân tộc của Việt Nam
trong mọi tình huống.