BIẾN ĐỔI CƠ CẤU XÃ HỘI - GIAI CẤP Ở THÀNH PHỐ VŨNG
TÀU HIỆN NAY
Sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, xã hội ở Việt Nam đã diễn ra
một quá trình biến đổi to lớn trên tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã
hội cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... Sự biến đổi về kinh tế (kết cấu
kinh tế) đã dẫn đến sự biến đổi về cơ cấu xã hội, nhất là cơ cấu xã hội - giai
cấp. Sự biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp trên đất nước ta thời gian vừa
qua đặt ra nhiều vấn đề về chính trị, xã hội cần nghiên cứu và giải quyết, đó là
những thách thức của sự mất cân đối về cơ cấu giai cấp, cơ cấu ngành nghề,
cơ cấu nguồn nhân lực…sự phân hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa người
giàu và người nghèo, giữa các giai tầng trong xã hội, vấn đề giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa trong xây dựng và phát huy cơ cấu xã hội - giai cấp
của thời kỳ quá độ; xây dựng và củng cố khối liên minh giai cấp giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, tạo nền tảng củng cố
khối đại đoàn kết toàn dân tộc; v.v…
Thành phố Vũng Tàu thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là một thành phố
biển, du lịch và dịch vụ dầu khí, nằm trong tam giác phát triển kinh tế khu
vực miền Đông Nam Bộ. Trong hơn hai thập kỷ vừa qua, với những điều
kiện thuận lợi về tự nhiên đã tạo điều kiện cho thành phố Vũng Tàu phát
triển năng động, cơ cấu kinh tế về công nghiệp và dịch vụ tăng mạnh, theo
đó cơ cấu xã hội - giai cấp cũng có những biến đổi. Biến đổi cơ cấu xã hội
- giai cấp ở thành phố Vũng Tàu vừa tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển kinh tế - xã hội của thành phố, đồng thời nó cũng làm xuất hiện những
vấn đề xã hội cần tháo gỡ.
Nắm vững hiện trạng và dự báo xu hướng biến đổi về cơ cấu xã hội giai cấp có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với lãnh đạo, chính quyền thành
3
phố, để trên cơ sở đó có những giải pháp phát triển kinh tế bền vững, củng cố
nền tảng chính trị - xã hội của chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ, trong
quá trình đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng thành phố giàu
mạnh. Để sự biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp diễn ra có kế hoạch, chủ động,
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển đòi hỏi Đảng
bộ thành phố Vũng Tàu phải điều chỉnh sự biến đổi cơ cấu xã hội theo hướng
nào? Vì vậy, chủ đề “Biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở thành phố Vũng Tàu
hiện nay” có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BIẾN ĐỔI CƠ
CẤU XÃ HỘI - GIAI CẤP Ở THÀNH PHỐ VŨNG TÀU,
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU HIỆN NAY
1.1. Một số vấn đề lý luận về biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp
1.1.1. Cơ cấu xã hội, cơ cấu xã hội – giai cấp
Cơ cấu xã hội
Để hiểu rõ cơ cấu xã hội - giai cấp, trước hết cần làm rõ quan niệm về cơ
cấu xã hội.
Cơ cấu xã hội là một khái niệm, thuật ngữ của một số ngành khoa học:
triết học, chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học, xã hội học… Tùy theo đối
tượng, góc độ nghiên cứu mà các khoa học có quan niệm về cơ cấu xã hội
khác nhau và tập trung nghiên cứu một phân hệ, hay một loại hình, lát cắt đặc
trưng của cơ cấu xã hội.
Mặc dù xuất phát từ cách tiếp cận khác nhau và đưa ra các ý kiến khác
nhau, nhưng về cơ bản, các quan niệm đều chỉ ra rằng: cơ cấu xã hội là mô
hình các mối quan hệ mang tính chức năng - cấu trúc giữa các thành phần cơ
bản trong một hệ thống xã hội; những thành phần cơ bản trong một hệ thống
xã hội và mối liên hệ, quan hệ giữa chúng tạo cơ sở, điều kiện cho sự vận
động, phát triển của hệ thống xã hội trong mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể: “Cơ cấu
4
xã hội là cách thức tổ chức của một hệ thống xã hội nhất định; là sự thống
nhất tương đối bền vững của các nhóm xã hội, tạo nên tính ổn định và phát
triển của hệ thống xã hội” [14, tr.112-113].
Tuy còn có những ý khác nhau trong nội dung quan niệm về cơ cấu xã
hội, song trong phân tích cơ cấu xã hội, thường phân tích và làm rõ: các yếu
tố cấu thành hệ thống xã hội (trả lời câu hỏi: hệ thống xã hội được cấu thành
bởi các yếu tố nào?); vị trí, vai trò, vị thế của các yếu tố cơ bản cấu thành hệ
thống xã hội (vị trí, chức năng của mỗi yếu tố); mối liên hệ giữa các yếu tố
cấu thành hệ thống xã hội; tính quy luật của các mối liên hệ giữa các yếu tố
tạo nên tính chỉnh thể của hệ thống xã hội. Như thế, hạt nhân trong quan
niệm, phân tích cơ cấu xã hội là các yếu tố cấu thành hệ thống xã hội và mối
liên hệ giữa chúng. Đó là hai mặt của cơ cấu xã hội.
Hiện nay còn có những tên gọi, cách tiếp cận khác nhau về yếu tố cấu
thành hệ thống xã hội: thành phần xã hội, thành tố xã hội, nhóm xã hội, tập
đoàn xã hội,… Xã hội học hướng chủ yếu vào các nhóm xã hội; triết học; Chủ
nghĩa xã hội khoa học hướng chủ yếu vào các tập đoàn xã hội, các giai cấp và
tầng lớp xã hội; chính trị học hướng chủ yếu vào các thành phần xã hội. Các
khoa học xã hội ở một số nước phương Tây hướng chủ yếu vào nghiên cứu
các nhóm xã hội, với tính cách là yếu tố cấu thành hệ thống xã hội. Các khoa
học xã hội mác xít hướng chủ yếu vào nghiên cứu các tập đoàn xã hội, thành
phần xã hội (giai cấp, tầng lớp xã hội, đoàn thể chính trị - xã hội) với tính
cách là yếu tố cấu thành hệ thống xã hội.
Dù còn có cách tiếp cận, định danh các yếu tố cấu thành hệ thống xã hội
khác nhau, song nhìn chung, cơ cấu xã hội gồm các yếu tố (phân hệ, loại
hình) cơ bản: cơ cấu xã hội - giai cấp; cơ cấu xã hội - lãnh thổ; cơ cấu xã hội dân số (nhân khẩu); cơ cấu xã hội - tộc người; cơ cấu xã hội - tôn giáo.
Trong các yếu tố (phân hệ, loại hình) cơ bản, cơ cấu xã hội - giai cấp giữ
vị trí, vai trò then chốt, phản ánh tính chất chính trị - xã hội của hệ thống xã hội
và quy định các phân hệ cơ cấu khác. Phân tích cơ cấu xã hội - giai cấp là “chìa
5
khóa” để tìm hiểu bản chất chính trị - xã hội của hệ thống xã hội và hiểu rõ các
phân hệ cơ cấu xã hội khác. Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, lịch sử xã hội
loài người cho thấy, sự phân hóa xã hội diễn ra sớm nhất, nhưng phân chia xã
hội thành giai cấp là sự phân chia lớn nhất, chủ yếu nhất, sâu sắc nhất. “Chúng
ta phải luôn luôn cần phải thấy rõ rằng, sự phân chia xã hội thành giai cấp như
thế trong quá trình lịch sử là sự kiện căn bản” [25,tr.81]. Vấn đề giai cấp, cơ
cấu xã hội - giai cấp chi phối mọi lĩnh vực của dời sống xã hội, mọi hoạt động
xã hội, mọi thành viên xã hội. Mỗi con người, dù ở vị trí xã hội nào cũng bị chi
phối bởi quan điểm của một giai cấp nhất định.
Cơ cấu xã hội – giai cấp
Cơ cấu xã hội - giai cấp là một yếu tố, một phân hệ, một loại hình của cơ
cấu xã hội. Đã và đang có các quan niệm về cơ cấu xã hội - giai cấp.
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học: “Cơ cấu xã hội - giai cấp là hệ
thống các giai cấp và tầng lớp xã hội tồn tại khách quan, hoạt động hợp pháp
trong một chế độ xã hội nhất định, chủ yếu là thông qua những mối quan hệ
về sở hữu tư liệu sản xuất, về quản lý, về phân phối, về địa vị chính trị - xã
hội giữa các giai cấp và tầng lớp đó” [20, tr.280].
Theo T.S Phùng Văn Thiết, dưới góc độ chủ nghĩa duy vật lịch sử: Cơ cấu
xã hội - giai cấp là một loại hình cơ bản của cơ cấu xã hội với tư cách một chỉnh
thể bao gồm các giai tầng xã hội khác nhau được gắn kết với nhau bởi những
mối quan hệ qua lại tất yếu (những mối quan hệ phản ánh tập trung tính chất,
trình độ phát triển của các quan hệ kinh tế - xã hội giữa chúng) [36, tr, 9].
Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Cơ cấu xã hội giai cấp, khái niệm sử
dụng để chỉ các giai cấp và tầng lớp xã hội tồn tại trong một xã hội nhất định;
vị trí của các giai cấp và tầng lớp xã hội; vai trò của chúng và mối liên hệ giữa
chúng với nhau trong xã hội đó. Cơ cấu xã hội giai cấp xuất hiện cùng với
giai cấp, do sự phát triển của phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu về
tư liệu sản xuất”, “Cơ cấu xã hội - giai cấp giữ vai trò quan trọng trong phát
triển xã hội” [38, tr.640].
6
Tuy còn có ý kiến khác nhau, song về cơ bản, quan niệm về cơ cấu xã
hội - giai cấp có những nội dung cơ bản: Một là, khái niệm để chỉ các giai cấp
và tầng lớp xã hội tồn tại trong một xã hội nhất định; hai là, vị trí, vai trò của
các giai cấp, tầng lớp xã hội trong một xã hội; ba là, mối liên hệ giữa các giai
cấp, tầng lớp xã hội trong một xã hội. Từ đó, có thể quan niệm: Cơ cấu xã hội
- giai cấp là khái niệm để chỉ các giai cấp và tầng lớp xã hội tồn tại trong
một xã hội nhất định; vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp xã hội và mối
liên hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội trong một xã hội, những mối quan
hệ về sở hữu tư liệu sản xuất, về quản lý, về phân phối, về địa vị chính trị, địa
vị xã hội giữa các giai cấp và tầng lớp đó.
Ba nội dung cơ bản trong quan niệm về cơ cấu xã hội - giai cấp: giai cấp
và tầng lớp xã hội; vị trí, vai trò của các giai cấp và tầng lớp xã hội; mối liên
hệ giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội. Khi phân tích cơ cấu xã hội - giai cấp
của một xã hội cụ thể phải làm rõ 3 nội dung: Một là, định danh các giai cấp,
tầng lớp xã hội và số lượng của từng giai cấp và tầng lớp xã hội trong xã hội;
Hai là, vị trí, vai trò, vị thế của từng giai cấp, tầng lớp xã hội và chỉ rõ giai
cấp nào giữ vai trò chủ đạo trong xã hội; Ba là, hình thức, tính chất mối liên
hệ giữa các giai tầng xã hội và hạt nhân của mối liên hệ đó, làm nền tảng cho
sự kết dính giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
Khái niệm cơ bản trong nghiên cứu cơ cấu xã hội - giai cấp là các giai cấp và
tầng xã hội. Về định nghĩa giai cấp, phải đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Giai cấp là những tập đoàn người khác nhau về quan hệ đối với tư
liệu sản xuất, vai trò tổ chức lao động xã hội trong tổ chức quản lý sản xuất, khác
nhau về thu nhập, về địa vị trong chế độ kinh tế - xã hội nhất định. Tầng lớp xã hội
là một tập hợp người có địa vị kinh tế, xã hội và có những lợi ích như nhau.
Các giai cấp, tầng lớp xã hội cơ bản trong xã hội hiện nay: giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức.
Giai cấp công nhân là giai cấp hình thành và phát triển cùng với quá
trình phát triển của nền công nghiệp ngày càng gắn với hiện đại, với lực
7
lượng sản xuất có tính chất xã hội ngày càng cao; là lực lượng sản xuất cơ
bản tiên tiến, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, chủ
yếu là sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực
lượng lãnh đạo và tổ chức tiến trình lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những
người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho
giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; ở các nước xã
hội chủ nghĩa, họ là những người cùng nhân dân lao động làm chủ tư liệu
sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi ích chung của toàn
xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của bản thân họ.
Giai cấp nông dân là giai cấp của những người lao động sản xuất vật
chất trong nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp,… trực tiếp sử dụng (canh
tác) một tư liệu sản xuất cơ bản và đặc thù, gắn với thiên nhiên là đất, rừng,
biển để sản xuất ra nông sản. Theo sự phân tích khoa học của Lênin, nông dân
có “bản chất hai mặt”: là những người lao động và là những người tư hữu
nhỏ. Giai cấp nông dân vốn có cơ cấu không thuần nhất, không có sự cố kết
chặt chẽ cả về kinh tế lẫn tư tưởng và tổ chức. Họ không có hệ tư tưởng riêng,
mà tư tưởng của họ phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội
đồng thời, là lực lượng sản xuất và lực lượng chính trị - xã hội đông đảo nhất
trong những nước nông nghiệp.
Trí thức là một “tầng lớp xã hội đặc biệt”, gồm những người lao động trí
óc phức tạp và sáng tạo, có trình độ học vấn đủ để am hiểu và hoạt động
chuyên sâu trong lĩnh vực lao động của mình. Trí thức có phương thức lao
động đặc thù, chủ yếu là lao động trí tuệ cá nhân. Do vậy, họ phải thường
xuyên thể hiện và nâng cao khả năng tư duy khoa học độc lập. Trí thức trực
tiếp hoạt động chủ yếu trong các lĩnh vực nghiên cứu, giảng dạy, ứng dụng
các khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân văn, văn
học nghệ thuật, lãnh đạo và quản lý. Sản phẩm lao động trực tiếp nhất của trí
thức là những giá trị lý luận, lý thuyết khoa học; những giá trị tinh thần.
8
Những giá trị đó tuy không quyết định nhất đối với tồn tại xã hội, song lại tác
động quyết định đến năng suất lao động, chất lượng sản xuất, tốc độ tăng
trưởng và phát triển của xã hội trên cả đời sống vật chất lẫn đời sống tinh
thần. Ngày nay khoa học và công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp của xã hội nên vai trò của trí thức ngày càng quan trọng. Trí
thức không có hệ tư tưởng riêng, chủ yếu vì không có phương thức sản xuất
riêng và địa vị kinh tế xã hội độc lập. Vai trò và tư tưởng của họ đều phụ
thuộc vào giai cấp thống trị xã hội [20].
Cùng với ba giai tầng xã hội cơ bản, trong xã hội, trong mỗi hệ thống xã
hội cụ thể còn có những tầng lớp xã hội, nhóm xã hội khác như: tầng lớp
doanh nhân, tầng lớp tiểu tư sản, nhóm xã hội lưu manh, v.v… Đồng thời,
trong mỗi giai cấp và tầng lớp xã hội còn có sự phân chia thành nhiều loại,
với thứ bậc địa vị xã hội khác nhau. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản, C.Mác, Ph.Ăngghen đã viết: “Trong những thời đại lịch sử trước, hầu
khắp mọi nơi, chúng ta đều thấy xã hội hoàn toàn chia thành từng nấc
thang địa vị xã hội. Ở La Mã thời cổ đại, chúng ta thấy có quý tộc, hiệp sĩ,
bình dân, nô lệ; thời trung cổ thì có lãnh chúa phong kiến, chư hầu, thợ cả,
thợ bạn, nông nô và hơn nữa, hầu như trong mỗi giai cấp ấy, lại có những
thứ bậc đặc biệt nữa” [28, tr.597].
Hiện nay, để xác định các giai tầng trong xã hội, thường căn cứ vào thành
phần kinh tế. Nghĩa là, căn cứ vào hình thức sở hữu tư liệu sản xuất và phân
công lao động xã hội, trong đó hình thức sở hữu tư liệu sản xuất là chính. Xác
định thành phần xã hội trong mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội, thường lấy tiêu chí
nghề nghiệp để định danh. Ví dụ: giai cấp công nhân có: công nhân công
nghiệp, công nhân dịch vụ… giai cấp nông dân có: nông dân nông nghiệp,
nông dân ngư nghiệp, nông dân diêm nghiệp… Như thế để thấy rằng, cơ cấu xã
hội - giai cấp đa dạng, phức tạp, khó định danh, khó nhận diện và đo lường.
Như thế, trong nghiên cứu về cơ cấu xã hội - giai cấp của một hệ thống
xã hội, vấn đề quan trọng đầu tiên là định danh (đặt tên) cho các tầng lớp xã
9
hội, đối với các thành phần xã hội trong các giai cấp và tầng lớp xã hội.
Cùng với việc định danh là xác định các dấu hiệu, tiêu chí, chỉ báo để đo
lường các giai cấp, tầng lớp xã hội.
1.1.2. Biến đổi cơ cấu xã hội – giai cấp
1.1.2.1. Quan niệm, nội dung, tính chất biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp
Quan niệm, nội dung biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp
Biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp phản ánh trạng thái của biến đổi xã
hội; khái niệm dùng để chỉ quá trình thay đổi về kết cấu và tính chất quan
hệ xã hội giữa các giai cấp và tầng lớp trong một hệ thống xã hội, ở
những thời điểm xác định.
Biến đổi xã hội, thuật ngữ dùng để chỉ những thay đổi về mặt xã hội của
một nhóm xã hội, một cộng đồng hoặc toàn bộ xã hội; sự thay đổi về xã hội so
với trước, khác trước; quá trình thay đổi kết cấu xã hội, tính chất quan hệ xã hội.
Biến đổi xã hội và biến động xã hội, tiến bộ xã hội, cách mạng xã hội có
điểm chung và riêng. Điểm chung, biến đổi xã hội, biến động xã hội, tiến bộ
xã hội, cách mạng xã hội - hệ khái niệm phản ánh sự vận động của xã hội với
tính chất, đặc điểm, tình trạng và quy mô khác nhau. Điểm riêng: Biến động
xã hội - sự vận động xã hội ở trạng thái thường xuyên, không ở trạng thái
tĩnh; Biến cố xã hội - những sự kiện xã hội xảy ra trong đời sống xã hội, có
thể làm thay đổi xã hội, có thể không làm thay đổi xã hội như: một cuộc biểu
tình, một cuộc đình công,…; Tiến bộ xã hội - sự vận động của xã hội theo
chiều hướng được xã hội mong đợi, nhiều người tán thành, thường là kết quả
của hoạt động xã hội có ý thức; Cách mạng xã hội - sự vận động của xã hội
mang tính chất căn bản, làm thay đổi trật tự xã hội, chế độ xã hội và những
thể chế xã hội, đưa xã hội từ trạng thái này sang trạng thái khác về chất.
Biến đổi xã hội là những thay đổi xã hội ảnh hưởng tới nhiều người,
nhiều nhóm xã hội; nếu chỉ tác động tới một số ít người, không được xác định
là biến đổi xã hội. Biến đổi xã hội là hiện tượng xã hội phổ biến, song ở mỗi
thời điểm khác nhau, quy mô, tính chất biến đổi xã hội khác nhau (biến đổi vĩ
10
mô, vi mô). Trong một hệ thống xã hội và giữa các hệ thống xã hội có sự khác
nhau về quy mô, tính chất và hậu quả của biến đổi xã hội. Về dạng thức, có
biến đổi xã hội có kế hoạch và biến đổi xã hội không kế hoạch. Hệ lụy xã hội
của biến đổi xã hội đa dạng, phức tạp, khó nhận diện và đo lường, phản ánh
chủ yếu thông qua tính chất các quan hệ xã hội, sự ổn định và phát triển xã
hội theo mục tiêu của giai cấp cầm quyền xác định. Tóm lại, sự xáo trộn, thay
đổi trong cấu trúc xã hội và tính chất quan hệ xã hội là hai đặc trưng, đồng
thời là hai dấu hiệu cơ bản để nhận biết biến đổi xã hội.
Nội dung biến đổi xã hội chủ yếu: Biến đổi cơ cấu xã hội, phân tầng xã hội,
phân hóa xã hội và biến đổi chuẩn mực, lối sống xã hội. Như thế, biến đổi cơ cấu
xã hội - giai cấp là một nội dung của biến đổi xã hội, cụ thể hơn đó là biến đổi cơ
cấu xã hội, quá trình thay đổi về kết cấu và tính chất quan hệ xã hội giữa các giai
cấp và tầng lớp trong một hệ thống xã hội, ở những thời điểm xác định.
Biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp trên những nội dung chủ yếu: Một là,
biến đổi về số lượng, về quy mô của từng giai cấp, tầng lớp xã hội trong xã
hội; hai là, biến đổi về vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp xã hội trong hệ
thống xã hội; ba là, biến đổi về mối liên hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội
trong hệ thống xã hội.
Biến đổi về số lượng, về quy mô của từng giai cấp, tầng lớp xã hội là sự
thay đổi so với khác trước về số lượng của từng giai cấp, tầng lớp xã hội,
cũng như sự thay đổi so với khác trước về số lượng của các thành phần (các
bộ phận) trong các giai cấp và tầng lớp xã hội; sự thay đổi so với khác trước
về quy mô tổ chức của từng giai cấp, tầng lớp xã hội. Nghiên cứu biến đổi về
số lượng, về quy mô của từng giai cấp, tầng lớp xã hội phải trả lời cho được
câu hỏi: trong quãng thời gian vừa qua (5 năm, 10 năm,…) các giai cấp, tầng
lớp xã hội nhiều lên, ít đi hoặc giữ nguyên về số lượng; quy mô tổ chức của
từng giai cấp, tầng lớp xã hội phát triển, mở rộng hay suy giảm, thu hẹp.
Biến đổi về vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp xã hội là sự thay đổi
so với trước về vị trí, vai trò của từng giai cấp, tầng lớp xã hội trong phát triển
11
kinh tế - xã hội của hệ thống xã hội; trong mối quan hệ với sự ổn định và phát
triển của hệ thống xã hội; đồng thời làm rõ vị trí, vai trò của giai cấp giữ vai
trò lãnh đạo, chủ đạo trong xã hội. Nghiên cứu biến đổi về vị trí, vai trò của
các giai cấp, tầng lớp xã hội phải trả lời cho được câu hỏi: trong quãng thời
gian vừa qua (5 năm, 10 năm,…) vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp xã
hội trong phát triển kinh tế - xã hội, ổn định và phát triển của hệ thống xã hội
tăng lên, suy giảm hay giữ nguyên; vị trí, vai trò của giai cấp giữ vai trò lãnh
đạo, chủ đạo trong xã hội tăng lên, suy giảm hay giữ nguyên.
Biến đổi về mối liên hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội trong hệ thống xã
hội là sự thay đổi so với trước về tính chất, quy mô của mối liên hệ giữa các giai
cấp, tầng lớp xã hội. Nghiên cứu biến đổi về mối liên hệ giữa các giai cấp, tầng
lớp xã hội phải trả lời cho được câu hỏi: trong quãng thời gian vừa qua (5 năm,
10 năm,…) tính chất, quy mô của mối liên hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội
tăng lên, suy giảm hay giữ nguyên; liên minh giữa các giai tầng xã hội cơ bản
trong hệ thống xã hội tăng lên, suy giảm hay giữ nguyên; khối đoàn kết giữa các
giai tầng xã hội cơ bản trong hệ thống xã hội tăng lên, suy giảm hay giữ nguyên.
Từ sự phân tích trên, nghiên cứu (đo lường) biến đổi cơ cấu xã hội - giai
cấp trên các nội dung (tiêu chí, dấu hiệu) chủ yếu: Thứ nhất, nghiên cứu biến
đổi về số lượng, về quy mô của từng giai cấp, tầng lớp xã hội và các thành
phần (các bộ phận) trong các giai cấp và tầng lớp xã hội. Thứ hai, nghiên cứu
biến đổi vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp xã hội trong phát triển kinh tế
- xã hội, ổn định và phát triển của hệ thống xã hội; làm rõ vị trí, vai trò của
giai cấp giữ vai trò lãnh đạo, chủ đạo trong xã hội. Thứ ba, nghiên cứu biến
đổi tính chất, quy mô của mối liên hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội; liên
minh giữa các giai tầng xã hội cơ bản trong hệ thống xã hội; đoàn kết giữa các
giai tầng xã hội cơ bản trong hệ thống xã hội.
Nghiên cứu về biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp phải chỉ rõ mức độ: tăng
lên (phát triển), suy giảm hay giữ nguyên (không phát triển) của các giai cấp
và tầng lớp xã hội, cùng với vị trí, vai trò và mối liện hệ của nó. Những đánh
12
giá đó được xem xét trong một khoảng thời gian 5 năm, 10 năm, 20 năm,....
Nghĩa là, phải tiến hành so sánh giữa trước và sau (so sánh lịch đại), đồng
thời kết hợp so sánh đồng đại (so sánh giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội ở
cùng một thời điểm, trước và sau) để tìm xu hướng biến đổi của từng giai cấp
và tầng lớp xã hội nói riêng, biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp nói chung. Để
phản ánh được sự biến đổi đó phải tổng hợp, phân tích số liệu thống kê, điều
tra khảo sát thực tiễn khoa học, công phu.
Khái niệm cơ cấu xã hội, cơ cấu xã hội - giai cấp gắn bó chặt chẽ với khái
niệm hệ thống xã hội. Lý luận và thực tiễn chỉ rõ rằng, cơ cấu xã hội, cơ cấu xã hội
- giai cấp luôn luôn là cơ cấu xã hội, cơ cấu xã hội - giai cấp của một hệ thống xã
hội xác định, không có cơ cấu xã hội, cơ cấu xã hội - giai cấp chung chung, trừu
tượng. Do đó, nghiên cứu biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp là nghiên cứu biến đổi
cấu trúc xã hội của một hệ thống xã hội xác định: biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở
Việt Nam; biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; biến đổi cơ
cấu xã hội - giai cấp của thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, v.v…
Từ đó cho thấy, nghiên cứu biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp phải được đặt
trong thời gian và không gian cụ thể. Ví dụ: nghiên cứu biến đổi cơ cấu xã hội giai cấp trên đất nước Việt Nam từ khi thực hành công cuộc đổi mới (năm 1986)
đến năm 2011; nghiên cứu biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp của thành phố Vũng
Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, giai đoạn 2000 - 2010. Tính thời gian và không
gian là hệ quy chiếu, trục ngang - trục dọc của biểu đồ phản ánh sự biến đổi cơ
cấu xã hội - giai cấp của một hệ thống xã hội.
Tính chất, hệ lụy xã hội của biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp
Biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp mang tính giai cấp, tính lịch sử, tính
quốc gia và tính quốc tế.
Cơ cấu xã hội - giai cấp bao giờ cũng là cơ cấu xã hội - giai cấp hệ thống
xã hội cụ thể. Mà ở các hệ thống xã hội, sự phát triển của nó luôn luôn bị chi
phối bởi lập trường, quan điểm của giai cấp giữ vị trí, vai trò thống trị xã hội.
Do đó, sự biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp luôn mang tính giai cấp. Ở hình
13
thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, cơ cấu xã hội - giai cấp và sự biến động
của nó bị chi phối bởi lý luận, quan điểm, đường hướng của giai cấp tư sản. Ở
các nước đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ cấu xã hội - giai
cấp và sự biến động của nó bị chi phối bởi lý luận, quan điểm, đường lối của
giai cấp vô sản, thông qua sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp mang tính lịch sử. Trong tiến trình
lịch sử, nhân loại đã trải qua các hình thái kinh tế - xã hội: nô lệ, phong
kiến, tư bản, xã hội chủ nghĩa. Và tương ứng với mỗi hình thái kinh tế - xã
hội là một kết cấu xã hội - giai cấp đặc trưng, điển hình, vừa có tính kế thừa,
vừa có tính phát triển.
Biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp mang tính quốc gia và tính quốc tế.
Nghĩa là, nó vừa có tính riêng của từng quốc gia, vừa có tính chung của các
quốc gia, mang tính quốc tế. Nó phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội và quá trình hội nhập quốc tế của mỗi quốc gia, dân tộc.
Biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp vừa là sự phản ánh, vừa tác động đến sự
ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời tiềm ẩn nguy cơ xung đột xã hội.
Cơ cấu xã hội - giai cấp luôn luôn song hành với điều kiện kinh tế - xã
hội nhất định. Biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp phản ánh sự phát triển kinh tế
- xã hội của một quốc gia, một địa phương. Nó là một dấu hiệu, một tiêu chí
đánh giá sự phát triển kinh tế - xã hội của các hệ thống xã hội.
Biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp về thực chất là biến đổi số lượng, chất
lượng, quy mô tổ chức lực lượng xã hội cơ bản, lực lượng lao động cơ bản trong
xã hội; là biến đổi vị trí, vị thế, vai trò của các lực lượng xã hội cơ bản, lực lượng
lao động cơ bản trong xã hội; là biến đổi tính chất liên hệ giữa các lực lượng xã
hội cơ bản, lực lượng lao động cơ bản trong xã hội. Nếu những biến đổi đó thuận
chiều với sự phát triển xã hội, điều hòa lợi ích giữa các lực lượng xã hội cơ bản,
lực lượng lao động cơ bản trong xã hội thì hệ thống xã hội đó ổn định, phát triển
đúng định hướng của giai cấp thống trị, lãnh đạo xã hội và ngược lại.
14
Từ đó cho ta thấy, để kinh tế - xã hội phát triển phải quản lý cho được sự
biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp. V.I. Lênin đã chỉ ra “Kết cấu xã hội và chính
quyền có nhiều biến đổi, nếu không tìm hiểu các biến đổi này thì không thể
tiến một bước trong bất kỳ lĩnh vực xã hội nào. Vấn đề tiền đồ phụ thuộc vào
sự tìm hiểu của các biến đổi ấy” [24, tr.221].
1.1.2.2. Yếu tố tác động, chi phối biến đổi cơ cấu xã hội – giai cấp
Thể chế kinh tế, cơ cấu kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hình thức
sở hữu và phân công lao động xã hội tác động, chi phối biến đổi cơ cấu kinh
tế chi phối biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp.
Thể chế kinh tế, chế độ phân chia quyền hạn và trách nhiệm giữa nhà
nước và doanh nghiệp, trung ương và địa phương, xử lý lợi ích giữa họ; bao
gồm thể chế quản lý các mặt: kế hoạch, tài chính, vật tư, lao động…Thể chế
kinh tế là tổng hòa các chế độ quản lý kinh tế, phản ánh quan hệ sản xuất ở
khía cạnh lợi ích kinh tế. Thể chế kinh tế phát huy tác dụng thông qua các thể
chế khác, chủ yếu là thể chế chính trị; nghĩa là thông qua sự quy định của hệ
thống pháp luật. Sự tác động của thể chế kinh tế đến biến đổi cơ cấu xã hội giai cấp là vấn đề lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế tạo động lực của sự chuyển
dịch giai cấp xã hội, sự tăng lên hay giảm đi của từng giai cấp, tầng lớp xã hội.
Trong đề tựa tái bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Ph. Ăngghen viết:
“Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của “Tuyên ngôn” là: trong mỗi thời đại lịch sử,
sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội, cơ cấu này tất yếu phải do kinh tế mà ra; cả
hai cái đó cấu thành cơ sở lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy”
[29, tr.11]. Theo đó, cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội làm thành nền tảng lịch
sử chính trị và lịch sử tư tưởng của mỗi thời đại; và, cơ cấu xã hội, trong đó
có cơ cấu xã hội - giai cấp bị quy định bởi cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế là
tính thứ nhất, cơ cấu xã hội là tính thứ hai. Thực tiễn ở nước ta cho thấy,
trong thời kỳ thực hành cơ chế tập trung, bao cấp, với hai thành phần kinh tế
cơ bản: quốc doanh và tập thể, trong xã hội có hai giai cấp cơ bản: công
nhân, nông dân và tầng lớp trí thức; từ khi thực hiện cơ chế kinh tế nhiều
15
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên đất nước ta xuất hiện nhiều thành
phần kinh tế, theo đó cơ cấu xã hội - giai cấp đa dạng, đa diện, với nhiều giai
cấp, tầng lớp, nhóm xã hội.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là nhân tố có ý nghĩa
quyết định trực tiếp tác động đến biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay là
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Quá trình ấy trước hết là một quá trình kinh tế, mà quy luật
kinh tế hàng đầu và cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Việc đẩy nhanh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đồng nghĩa với nó là sự thúc đẩy nhanh những biến đổi
trong cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu thành phần kinh tế. Thông qua việc
làm biến đổi cơ cấu thành phần kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trở
thành nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với việc đẩy nhanh các xu hướng biến
đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta hiện nay theo các chiều hướng khác
nhau. Sau những năm tiến hành đổi mới, nước ta cơ bản thoát ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội và bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển
mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ đã tạo ra sự biến đổi nhanh
chóng và sâu sắc của cơ cấu kinh tế và phân công lao động xã hội, trở thành
những đòn bẩy, những sức kích thích chủ yếu và trực tiếp cho quá trình biến
đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta.
Hình thức sở hữu, phân công lao động xã hội cùng là yếu tố tác động, chi
phối biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta. Từ một nền kinh tế chỉ duy trì
hai hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể; với hai
thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, đến nay trên đất nước ta đã
duy trì đồng thời nhiều hình thức sở hữu, hình thành nhiều thành phần kinh tế
với những hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng, đan xen hỗn hợp.
16
Mỗi thành phần kinh tế đều có vai trò quan trọng riêng của nó trong phát triển
kinh tế, ổn định xã hội, củng cố quốc phòng và an ninh, góp phần tích cực
thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trong đó, thành phần kinh tế nhà nước luôn giữ vị trí, vai trò chủ đạo, là lực
lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng, điều tiết vĩ
mô nền kinh tế. Thành phần kinh tế tập thể đang phát triển với các hình thức
đa dạng, và từng bước khẳng định vị trí, vị thế, vai trò của mình trong nền
kinh tế nhiều thành phần. Thành phần kinh tế tư nhân (kinh tế cá thể, kinh tế
tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân) trong những năm đổi mới vừa qua đã phát
triển mạnh và có nhiều đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước,
đặc biệt trong việc khai thác tài nguyên và giải quyết việc làm cho những
người lao động từ lao động giản đơn đến lao động có tay nghề cao. Thành
phần kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh
tế nhà nước với kinh tế tư nhân trong nước và ngoài nước có vị trí, vai trò rất
quan trọng trong thực hiện chiến lược kinh tế vĩ mô, nắm giữ và phát triển
một số ngành kinh tế then chốt, thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập kinh tế thế giới trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế.
Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài không chỉ đem lại công ăn, việc
làm cho người lao động, nó còn góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với sự đa dạng của các thành phần kinh tế, đa dạng các hình thức sở hữu
tất yếu xuất hiện sự da dạng các lợi ích; các lợi ích này đan cài nhau, nó nằm
trong nhau, vừa là nhân vừa là quả của nhau. Lợi ích của mỗi thành phần kinh
tế không thể tách rời với lợi ích của nền kinh tế. Trong lợi ích của mỗi thành
phần kinh tế có lợi ích của mỗi cá thể trong thành phần kinh tế đó. Lợi ích của
bản thân mỗi cá thể của các thành phần kinh tế và lợi ích của mỗi thành phần
kinh tế luôn được chủ sở hữu của nó đặt lên trước hết. Trong phân tích kết cấu
xã hội không thể không nghiên cứu các vấn đề xã hội nảy sinh giữa các giai tầng
xã hội mà căn nguyên của nó là từ lợi ích của mỗi thành phần kinh tế, và gốc rễ
17
sâu xa của nó chính từ hình thức sở hữu. Đa sở hữu là tất yếu trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, đa sở hữu làm cho cơ cấu xã hội - giai cấp biến đổi.
Chế độ chính trị, quan điểm của giai cấp cầm quyền và chính sách nhà
nước giữ vai trò quan trọng quyết định trực tiếp đến biến đổi cơ cấu xã hội giai cấp.
Chính trị, toàn bộ những hoạt động có liên quan đến quan hệ giai cấp,
dân tộc, các tầng lớp xã hội, nòng cốt của nó là vấn đề chính quyền, sử dụng
quyền lực nhà nước đối với toàn xã hội. Chế độ chính trị, đường lối của giai
cấp cầm quyền, chính sách của nhà nước quyết định đến biến đổi cơ cấu xã
hội - giai cấp, trực tiếp nhất là chủ trương, kế hoạch, chính sách phát triển
kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn.
Lịch sử xã hội loài người cho thấy, các giai cấp cầm quyền, thông qua
chính đảng và nhà nước của mình để xác định hướng phát triển kinh tế - xã
hội, đồng thời cũng hoạch định kế hoạch phát triển các giai cấp, tầng lớp xã
hội làm thành kết cấu xã hội, cơ sở và nền tảng xã hội cho chế độ xã hội dự
định xây dựng. Không có giai cấp cầm quyền nào lại không có chính sách
phát triển giai cấp, tầng lớp xã hội đặc trưng, nền tảng cho chế độ xã hội mà
giai cấp đó lãnh đạo xây dựng. Đây là một nội dung của cuộc đấu tranh giai
cấp, đấu tranh dân tộc.
Biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp thuộc phạm trù chính trị - xã hội, phản
ánh một quá trình xã hội cơ bản nhất của con người trong một xã hội có đối
kháng giai cấp. Theo đó, những biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta
hiện nay, phụ thuộc một cách quyết định vào vai trò của các chủ thể, đặc biệt
là sẽ chịu tác động to lớn bởi đường lối, chính sách kinh tế - xã hội của Đảng
và Nhà nước ta. Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta sẽ can thiệp
vào quá trình, các quan hệ kinh tế theo những chiều hướng và mức độ khác
nhau, qua đó tác động đến những biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp. Nếu thực
hiện tốt các chức năng “định hướng sự phát triển; trực tiếp đầu tư vào một số
lĩnh vực để dẫn dắt nỗ lực phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thiết
18
lập khuôn khổ luật pháp, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường
ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn phát đạt; khắc phục hạn chế,
mặt tiêu cực của cơ chế thị trường; phân phối và phân phối lại thu nhập quốc
dân, quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế, xã
hội” [8, tr.203] như Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã đề ra, thì đường lối,
chính sách của Đảng, Nhà nước không những sẽ trực tiếp tạo dựng một nền
tảng kinh tế vững chắc để đẩy nhanh những biến đổi tích cực trong cơ cấu xã
hội - giai cấp ở nước ta hiện nay, mà còn gián tiếp tạo dựng được một cơ sở
ổn định để khẳng định tính chất không thể đảo ngược của những biến đổi ấy
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn đất nước ta cũng đã cho thấy, khi Đảng, Nhà nước ta chủ
trương thực hành cơ chế tập trung, bao cấp, với hai thành phần kinh tế, trong
xã hội có hai giai cấp và một tầng lớp xã hội cơ bản; khi Đảng, Nhà nước ta
chủ trương thực hành kinh tế thị trường, với nhiều thành phần kinh tế, trong
xã hội xuất hiện nhiều giai tầng, nhóm xã hội.
Biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp thực chất là biến đổi của những tập
đoàn người và có liên quan đến toàn bộ đến đời sống cộng đồng của con
người, nên cần phải được trực tiếp tác động bởi một loại công cụ, phương
tiện tương ứng, đó là hệ thống chính sách xã hội. Chính sách xã hội là
chính sách đối với con người, luôn được thực hiện bởi con người và nhằm
phục vụ lợi ích của những tập đoàn người xác định. Chính vì vậy, tính chất
khoa học và nhân văn của chính sách xã hội không thể tách rời phương
hướng chính trị - giai cấp của nó.
Lịch sử mô hình xã hội chủ nghĩa đã đổ vỡ trước đây đã minh chứng
điều đó. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ ở Liên Xô và Đông
Âu trên lĩnh vực cơ cấu xã hội - giai cấp thì chính những bất cập trong đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trước tình trạng biến đổi và biến dạng
cơ cấu xã hội - giai cấp là thủ phạm gây nên sự đổ vỡ đó. Lúc đầu, sự áp đặt
một hệ thống kinh tế cứng nhắc nhằm bảo đảm an toàn cho chế độ xã hội chủ
19
nghĩa theo quan điểm nhấn mạnh vai trò hàng đầu của chính trị đã dẫn đến
một xã hội trì trệ, thiếu sức sống. Sau đó, lại là một xã hội hỗn loạn đến mức
không thể kiểm soát và định hướng nổi, với tư cách là hệ quả trực tiếp của
việc từ bỏ những nguyên tắc xã hội chủ nghĩa trong việc hoạch định chính
sách kinh tế của quá trình cải tổ. Đây là lối đi chúng ta đã tránh được trong
quá trình đổi mới vừa qua.
Đặc điểm văn hóa, xã hội của đất nước tác động, chi phối đến sự biến
đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta.
Văn hóa là hoạt động sáng tạo ra các giá trị của một dân tộc, một cộng
đồng người; biểu hiện cụ thể ở các luật lệ, quy định, phong tục, tập quán,…và
hệ quả của quá trình văn hóa hóa xã hội: thói quen trong sản xuất và sinh hoạt,
tâm lý xã hội, tâm lý cộng đồng, tâm lý tộc người,... tạo nên những nét riêng,
mang tính bản sắc. Những thói quen trong sản xuất và sinh hoạt, tâm lý xã hội,
tâm lý cộng đồng, tâm lý tộc người,... mang tính văn hóa truyền thống là một
trong những yếu tố vừa kìm hãm, vừa thúc đẩy sự chuyển dịch lao động, sự thay
đổi về giai tầng xã hội và tính chất giai cấp trong các giai cấp, tầng lớp xã hội.
Xã hội, ở khía cạnh rộng nhất, toàn bộ hình thức cộng đồng (tập hợp, tổ
chức) của con người. Trong xã hội (cộng đồng xã hội, tổ chức xã hội), các cá
nhân, nhóm xã hội được sắp đặt theo một thứ bậc tôn ti nghiêm ngặt và quan
hệ giữa họ tuân theo chuẩn mực, quy ước,…nhất định, qua đó mà tạo nên sự
cố kết cộng đồng. Tính cộng đồng là đặc trưng cơ bản nhất của xã hội, của xã
hội Việt Nam. Tính cộng đồng, nét đẹp trong truyền thống xã hội Việt Nam
tạo ra một lực cản đối với sự chuyển dịch về lãnh thổ, về việc làm, hạn chế
đến biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp, chủ yếu là sự biến đổi về số lượng.
Song, tính cộng đồng lại tạo nên sự gắn kết giữa các giai cấp và tầng lớp xã
hội, cơ sở và nền tảng cho việc củng cố khối liên minh giai cấp, khối đại đoàn
kết toàn dân tộc vì mục tiêu chung.
Nét đặc trưng của toàn bộ tiến trình biến đổi xã hội Việt Nam trong lịch sử
là hình thái xã hội mới ra đời không trên cơ sở phủ định, mà trái lại, luôn trên cơ
20
sở bảo tồn và cải biến hình thái xã hội cũ cho phù hợp với yêu cầu mới. Trở
lại lịch sử, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy một phương thức sản xuất xã
hội chủ nghĩa đương đại, do nhiều nguyên nhân, đặc biệt do yêu cầu chi phối
của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, nên không
những chưa được phát triển mà còn bao chứa vô số các biến dạng đang tồn
tại. Trước đó là một quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bị chủ nghĩa thực dân
và chiến tranh làm thui chột, một phương thức sản xuất phong kiến nhưng có
khuynh hướng chống tư hữu hóa và tập trung lớn về ruộng đất. Tình hình đó
đã góp phần quyết định vào việc đưa đến cho xã hội ta hiện nay một cơ cấu
xã hội - giai cấp quá độ cùng với sự tồn tại, phát triển trong sự đan xen, tác
động qua lại phức tạp giữa các giai tầng thuộc nhiều thời đại kinh tế không
nguyên nghĩa khác nhau.
Sự hình thành các giai tầng xã hội do sản xuất vật chất, kết cấu kinh tế
quy định. Song, mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội chỉ được xác định và khẳng định
là giai cấp, tầng lớp xã hội trong điều kiện có một số lượng nhất định, có quy
mô tổ chức nhất định và khẳng định một vị trí, vai trò trong xã hội nói chung,
phát triển kinh tế - xã hội nói riêng. Sự tự ý thức về giai tầng xã hội giữ vai trò
quan trọng trong sự tồn tại, phát triển của các giai tầng xã hội. Điều kiện văn
hóa, xã hội của đất nước ta vừa tạo ra sự thuận lợi, vừa tạo ra những cản trở
cho quá trình ý thức và phát huy ý thức tự giác về vị trí, vị thế, vai trò của giai
tầng xã hội trong các tầng lớp dân cư. Nó vừa kìm hãm, vừa thúc đẩy sự biến
đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta hiện nay.
Hiện trạng một cơ cấu xã hội - giai cấp không đồng bộ, khi gặp điều kiện
phù hợp sẽ dễ dàng tăng quy mô và nhịp độ biến dạng. Mục tiêu giữ vững ổn
định chính trị - xã hội, duy trì định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi
mới cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta sẽ trở nên khó khăn hơn khi hiện tượng
phân tầng, phân hóa gia tăng, khi xảy ra những xáo trộn lớn về vị thế xã hội
của các giai tầng, cũng như khi xảy ra hiện tượng dịch chuyển lẫn nhau rất
phức tạp giữa các giai tầng như hiện nay.
21
Việc chúng ta cùng một lúc vừa phải triệt bỏ những di hại từ quá khứ, vừa
phải kế thừa có chọn lọc và phát triển những giá trị đích thực của truyền thống
dân tộc sẽ làm tăng thêm tính quanh co, phức tạp của những biến đổi cơ cấu xã
hội - giai cấp đã, đang và sẽ diễn ra. Vì vậy, trong thời gian tới, biến đổi cơ cấu
xã hội - giai cấp ở nước ta còn nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp nhưng ít
có khả năng xảy ra đột biến lớn, nhất là những đột biến xấu khó có thể xảy ra.
Đặc điểm trên đây bao hàm những tiền đề thuận lợi cho việc nhận thức
và xử lý các quan hệ giai cấp. Điều đó sẽ giúp cho Đảng, Nhà nước tận
dụng được mọi nguồn lực của từng giai tầng và của cả cộng đồng dân tộc
nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói
chung, cũng như xây dựng và củng cố cơ cấu xã hội - giai cấp của chế độ
xã hội chủ nghĩa.
Mở cửa, hội nhập trong xu thế toàn cầu hóa, sự chống phá của các thế
lực thù địch là một trong các yếu tố tác động, chi phối đến biến đổi cơ cấu
xã hội - giai cấp.
Mối quan hệ quốc tế luôn là một nhân tố quan trọng, đưa đến cho nước ta
cả những thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức trong quá trình đổi mới cơ
cấu xã hội - giai cấp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Khu vực châu Á Thái Bình Dương và Đông Nam Á phát triển năng động của thế giới. Nhưng
so với các nước trong khu vực, chúng ta là nước đi sau. Là nước đi sau, chúng
ta hoàn toàn có thể rút được những kinh nghiệm từ thành công và thất bại của
các nước đi trước để xác định mô hình chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại
hóa phù hợp nhất, giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
với phát triển bền vững, giữa phát triển kinh tế với giữ vững và ổn định chính
trị. Từ đó mà xác lập một cơ cấu lao động phù hợp và thích ứng với nó là một
cơ cấu xã hội - giai cấp.
Hội nhập trong xu thế toàn cầu hóa cũng làm nảy sinh những vấn đề tác
động đến quá trình biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta theo những
chiều hướng và mức độ khác nhau. Xu thế này đã cho phép chúng ta ký kết
22
được ngày càng nhiều hợp đồng kinh tế và xuất khẩu lao động với các nước,
phối hợp ngày càng chặt trẽ với họ trong giúp đỡ nhau khắc phục khủng
hoảng kinh tế - xã hội…giờ đây do sự đan xen về lợi ích kinh tế, nên sự ổn
định về chính trị trong khu vực và ở mỗi nước đã trở thành mối quan tâm
chung. Tình hình ấy tạo ra cho chúng ta thế và lực mới để chủ động điều tiết,
kiểm soát biến động cơ cấu xã hội - giai cấp theo chiều hướng đã vạch ra.
Nhưng có một thực tế là bất cứ sự liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau nào giữa
các nước do xu thế quốc tế hóa nền kinh tế thế giới đưa lại cũng tồn tại đồng
thời với sự kiềm chế lẫn nhau giữa họ. Hiện nay, một bộ phận không nhỏ tiềm
lực kinh tế của đất nước ta đã không nằm trong tầm kiểm soát của Nhà nước,
thậm chí lại chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những biến động kinh tế, xã hội từ
bên ngoài. Tính chất bấp bênh của bộ phận kinh tế này là một trở lực từ bên
ngoài gây nên những bất ổn xã hội như: tình trạng thất nghiệp, tranh giành
công nhân có tay nghề cao, lôi kéo làm chảy máu chất xám đội ngũ trí thức.
Nó ít nhiều tác động đến biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta hiện nay.
Một trong những điều đáng quan tâm của nhân tố quốc tế hiện nay là các
thế lực thù địch vẫn chưa chịu từ bỏ âm mưu xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên đất
nước ta. Theo đó, một trong những mục tiêu được chúng ưu tiên là lái những
biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp theo định hướng tư sản. Để thực hiện mục
tiêu này, kẻ thù không từ bỏ một chiến lược nào: từ “chi phối đầu tư” nhằm
dùng sức ép kinh tế nhằm mặc cả, nhằm làm mất ổn định chính trị đến “ngoại
giao thân thiện” nhằm gây mơ hồ chính trị trong nhân dân, rồi đến “khoét sâu
nội bộ” với mục tiêu làm thoái hóa, biến chất một bộ phận nhân dân, chia rẽ
nội bộ Đảng, “pha loãng” chính trị của các giai tầng cơ bản trong cơ cấu xã
hội - giai cấp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một trở lực lớn nhất
từ bên ngoài mà chúng ta luôn phải tính đến, luôn phải đề phòng trong suốt
quá trình xây dựng cơ cấu xã hội - giai cấp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
23
1.1.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giai cấp, tầng lớp
xã hội thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa
1.1.3.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với các giai cấp,
tầng lớp xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Quan điểm cơ bản, chủ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với các
giai cấp, tầng lớp xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là: xây
dựng toàn diện giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức xã
hội chủ nghĩa, làm cho nền tảng chính trị - xã hội của xã hội - xã hội chủ
nghĩa ngày càng vững chắc. Đại hội lần thứ VI của Đảng lần thứ VI chỉ rõ:
“Cần có quan điểm đúng đắn và thống nhất, kèm theo những chính sách, biện
pháp có hiệu quả xây dựng toàn diện giai cấp công nhân, giai cấp nông dân
và tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa, làm cho nền tảng chính trị - xã hội
của xã hội mới ngày càng vững chắc, ưu thế của lực lượng xã hội chủ nghĩa
trong cuộc đấu tranh giữa hai con đường ngày càng được phát huy mạnh
mẽ” [8, tr.96]
Đối với giai cấp công nhân, Đảng chủ trương phát triển về số lượng và
chất lượng, nâng cao chất lượng toàn diện, để xứng đáng là giai cấp tiên
phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo. Nghị quyết “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt
Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” trong điều
kiện mới của Đảng đã khẳng định: Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực
lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay
và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và
dịch vụ có tính chất công nghiệp. Xây dựng giai cấp công nhân nước ta lớn
mạnh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là
24
nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính
trị, của mỗi người công nhân và của toàn xã hội.
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung phát triển năm 2011) chỉ rõ: “Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh cả
về số lượng và chất lượng; là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên
phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội” [12, tr 80-81]. Đại hội Đảng lần thứ XI ghi rõ:
“Quan tâm giáo dục đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả
về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn,
chuyên môn kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao
động, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế” [12, tr.240-241]
Đối với giai cấp nông dân, Đảng chủ trương, xây dựng về mọi mặt để
nông dân xứng đáng là lực lượng cơ bản, chủ thể trong phát triển nông
nghiệp, nông thôn mới; tạo điều kiện để nông dân tham gia và hưởng lợi từ
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá X đã ra Nghị quyết “Về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn”. Nghị quyết xác định quan điểm, mục tiêu trong giải quyết vấn đề nông
nghiệp, nông dân, nông thôn thời kỳ mới và khẳng định, xây dựng giai cấp
nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh, tạo
nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Xây dựng, phát huy vai trò của giai
cấp nông dân, chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nâng
cao trình độ giác ngộ của giai cấp nông dân, tạo điều kiện để nông dân tham
gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Hỗ trợ, khuyến khích nông dân học nghề, chuyển dịch cơ
cấu lao động, tiếp nhận và áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo điều kiện
thuận lợi để nông dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Nâng cao
25
chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu quả bền vững
công cuộc xoá đói, giảm nghèo, làm giàu hợp pháp” [12, tr.241]
Đối với tầng lớp (đội ngũ) trí thức, Đảng chủ trương, xây dựng đội ngũ trí
thức lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Đại
hội Đảng lần thứ XI xác định: “Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất
lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước…Coi trọng vai trò tư vấn,
phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc
hoạch định đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và các dự án phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội. Gắn bó mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với trí thức, giữa
trí thức với Đảng, Nhà nước”[12, tr.241-242].
Đối với các tầng lớp xã hội khác, Đảng ta chỉ rõ, trong thời kỳ quá độ, với
nhiều thành phần kinh tế, sẽ xuất hiện thêm các tầng lớp xã hội khác. Đảng chủ
trương, quan tâm thích đáng và phát huy khả năng của các tầng lớp dân cư khác
vì sự nghiệp chung của đất nước. Đối với tầng lớp doanh nhân, một tầng lớp xã
hội xuất hiện trong thời gian gần đây, Đảng xác định: “Tạo điều kiện xây dựng,
phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có đạo đức nghề nghiệp và trách
nhiệm xã hội cao. Phát huy tiềm năng và vai trò tích cực của đội ngũ doanh
nhân trong phát triển sản xuất kinh doanh;… tạo việc làm, thu nhập cho người
lao động, hàng hóa, dịch vụ cho đất nước và xuất khẩu” [12, tr.242]. Ngoài ra,
Đảng còn định ra chủ trương xây dựng, phát huy vai trò của thế hệ trẻ, phụ
nữ, cựu chiến binh,… trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.1.3.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về củng cố khối liên
minh giai cấp và khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng luôn luôn chủ
trương xây dựng, củng cố, phát huy khối liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, khối đại đoàn kết dân tộc.
Về liên minh giai cấp, Đảng xác định, liên minh công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức tạo nền tảng chính trị - xã hội của xã hội mới
26
ngày càng vững chắc và thể hiện ưu thế của lực lượng xã hội xã hội chủ nghĩa
trong cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường ngày càng phát
huy mạnh mẽ. Đồng thời, Đảng chỉ rõ: “Động lực chủ yếu để phát triển đất
nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích
cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành
phần kinh tế, của toàn xã hội”. [11, tr.85]
Về củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng xác định, đoàn kết toàn
dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong suốt quá trình cách mạng. Quan
điểm xuyên suốt của Đảng ta là: đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp, các dân
tộc, các tôn giáo, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi người; phát huy sức mạnh của cả
cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc vì mục tiêu
giữ vững độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng. Từ lịch sử lãnh
đạo cách mạng, Đảng ta đã rút ra bài học kinh nghiệm lớn: “Không ngừng
củng cố, tăng cường đoàn kết, đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn
kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức
mạnh to lớn của cách mạng nước ta” [12, tr.65]. Trong thời kỳ mới, Đảng xác
định: “Xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các
tầng lớp dân cư đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi” [12, tr.80].
Trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, Đảng ta nhấn mạnh, xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, lấy liên minh giai cấp
công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng và cơ sở; xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa; thực hành đoàn kết các dân tộc, “các dân tộc trong đại gia đình
dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ” [12, tr.244]; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân trong “tập hợp, đoàn kết nhân dân xây dựng cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân; thực hiện dân chủ, giám sát và phản biện xã hội;…tổ