B GIO DC V O TO
TRNG I HC S PHM H NI
--------
TRN TH NGON
THIếT Kế BàI DạY THEO PHƯƠNG PHáP TRảI NGHIệM
TRONG DạY HọC PHầN CÔNG DÂN VớI ĐạO ĐứC
ở TRƯờNG THPT HồNG ĐứC, Hà NộI
Chuyờn ngnh: LL&PP ging dy Giỏo dc chớnh tr
Mó s: 60.14.01.11
LUN VN THC S KHOA HC GIO DC
Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS. Phan Trng Ng
H NI 2015
LI CM N
Lời đầu tiên, tác giả xin gửi lời cảm ơn trân trọng và sâu sắc nhất tới
PGS.TS. Phan Trọng Ngọ – Người thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cho
tác giả trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Tác giả trân trọng cảm ơn ban Giám hiệu trường Đại học sư phạm Hà
Nội, ban Chủ nhiệm khoa Giáo dục chính trị, các thầy cô giáo bộ môn đã
tham gia giảng dạy, truyền đạt kiến thức, hướng dẫn khoa học, đóng góp ý
kiến quý báu và giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tại trường cũng như
quá trình thực hiện luận văn.
Cuối cùng tác giả xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã cổ vũ,
động viên nhiệt tình và tạo điều kiện giúp đỡ mọi mặt để tác giả hoàn thành
tốt chương trình học tập và nghiên cứu đề tài khoa học này.
Hà Nội, tháng 11 năm 2015
Tác giả
Trần Thị Ngoãn
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
3
MỤC LỤC
4
– BIỂU
Bảng 3.2. Kết quả đánh giá về mặt kiến thức của học sinh lớp 10 môn
GDCD khi học theo thiết kế bài dạy theo phương pháp trải
nghiệm
BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1.
Biểu diễn mức độ nhận thức của HS lớp thực nghiệm
và lớp đối chứng trước thực nghiệm trường THPT
Hồng Đức, Hà Nội
Biểu đồ 3.2.
Biểu đồ biểu diễn mức độ nhận thức sau thực nghiệm
của 2 lớp TN và ĐC
5
MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài:
Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta đang diễn ra trong bối cảnh quốc tế
hóa, toàn cầu hóa với những đặc trưng bởi xã hội tri thức đã và đang đặt ra
những yêu cầu mới đối với sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ và đào tạo nguồn nhân
lực hiện nay. Để đáp ứng được những yêu cầu đó đòi hỏi các cấp học, các ngành
học phải đổi mới về nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học.... Trong đó
nhấn mạnh đến đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của người học, lấy người học làm trung tâm. Việc tổ chức các
hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học là một phương pháp hiện đại giúp
định hướng và phát huy tối đa năng lực người học.
Trong nhà trường phổ thông, GDCD là môn học có tầm quan trọng đặc
biệt trong việc giáo dục nhân cách, rèn luyện kỹ năng sống, nuôi dưỡng và
phát triển cảm xúc, hình thành thái độ và hành vi tốt đẹp, trong sáng của HS.
Để thực hiện nhiệm vụ đó, cùng với việc đổi mới nội dung, phương pháp
trong quá trình giảng dạy cho phù hợp, thì việc thiết kế bài dạy vừa đảm bảo
nội dung, mục tiêu bài học vừa tạo hứng thú cho HS trải nghiệm sáng tạo là
vô cùng quan trọng đối với mỗi người GV.
Môn GDCD không phải chỉ dạy để HS thuộc những lý thuyết về luân
lý, đạo đức, pháp luật và hình thành những thói quen trong sinh hoạt, ứng xử,
giao tiếp…. Môn học này phải được dạy để HS “học qua làm” và “tiến bộ qua
trải nghiệm”. Nói cách khác, dạy GDCD là dạy HS biết huy động những hiểu
biết từ cuộc sống vào bài học và biết vận dụng những kiến thức đã học được
vào cuộc sống. Đó chính là sự trải nghiệm. Vì vậy, học GDCD, học đạo đức
phải thông qua trải nghiệm thì mới thực hiện được mục tiêu và nhiệm vụ đặt
ra của môn học này.
6
Xuất phát từ những thực tế trên, với mong muốn góp một phần nhỏ bé
của mình vào việc nâng cao chất lượng môn học GDCD nói chung và phần
“Công dân với đạo đức” nói riêng trong trường THPT, tôi đã mạnh dạn lựa
chọn đề tài: “Thiết kế bài dạy theo phương pháp trải nghiệm trong dạy học
phần công dân với đạo đức ở trường THPT Hồng Đức, Hà Nội ” để làm đề tài
luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu:
* Trên thế giới
Có thể nói học tập bằng kinh nghiệm thực tế đã có từ rất lâu cùng với
sự xuất hiện của loài người nhưng giáo dục trải nghiệm mới được các nhà
giáo dục đưa vào từ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Ở phương pháp giáo dục
trải nghiệm, HS được thực hành chủ động, tự tạo kiến thức, thu thập kiến
thức, hình thành kĩ năng, thái độ cho bản thân.
Theo Cral Rges: “Chỉ có cách học tập dựa trên sự khám phá bản thân
hoặc tự lĩnh hội thì mới giúp con người thay đổi hành vi của mình. Bản chất
của nó chính là giáo dục trải nghiệm”[46].
Saymour Papert cũng đã nói: “Bạn không thể dạy học sinh mọi thứ
chúng cần. Cách tốt nhất bạn có thể làm là đặt chúng vào nơi mà chúng có thể
tìm ra những thứ đó, giúp chúng xác định được cái mình cần biết là gì và khi
nào thì cần đến nó” [46].
Richard Ponzio và Sally Stanley cho rằng: “Giáo dục trải nghiệm
không đơn thuần là phải thực hiện một hoạt động, từ đó rút ra những kết luận
và vận dụng vào các tình huống khác nhau. Mà thông qua việc kết hợp nhiều
cảm giác trong quá trình chia sẻ kinh nghiệm, tất cả người học đều được mở
rộng hiểu biết của mình” [24].
Lev Vygotsky (1896 - 1934), nhà tâm lý học người Nga, đã viết một số
bài báo và một số sách về tâm lý học. Một trong số các nghiên cứu của
7
Vygotsky về việc trẻ em giải quyết những vấn đề chúng gặp phải vượt lên
trên mức độ phát triển của chúng như thế nào đã đưa ông đến chỗ sáng tạo ra
lý thuyết về “Vùng phát triển gần” (the Zone of Proximal Development) hay
còn được gọi là “Vùng cận phát triển”. “Vùng cận phát triển” chính là khái
niệm chỉ khu vực kinh nghiệm của cá nhân nằm giữa trình độ phát triển tiềm
tàng (ở dạng tiềm năng) được đặc trưng bằng năng lực giải quyết vấn đề có sự
hỗ trợ từ bên ngoài và trình độ phát triển hiện tại có đặc trưng là năng lực giải
quyết vấn đề độc lập [29]. Nội dung của vùng cận phát triển chính là những
giá trị và kinh nghiệm thường trực ở cá nhân. Mỗi cá nhân do trải nghiệm,
học tập và tố chất di truyền đều có kinh nghiệm nền tảng khác nhau, nó quy
định ở mức tương đối cho tiềm năng của cá nhân. Khi tương tác với môi
trường: khi giao tiếp, học tập, làm việc,..., tiềm năng đó vốn từ kinh nghiệm
nền tảng được huy động ra, thể hiện rõ và được định hướng vào nhiệm vụ một
cách tập trung, coi như đó là kinh nghiệm thường trực lúc đó. Nhờ sự tương
tác, kinh nghiệm thường trực ở cá nhân được chia sẻ, được thử thách, được
cải thiện, dẫn cá nhân đến chỗ đạt được trình độ phát triển mới cao hơn, được
đặc trưng bằng năng lực giải quyết vấn đề độc lập. Trình độ này lại trở thành
kinh nghiệm nền tảng trong hiện tại, điều chỉnh và làm giàu kinh nghiệm nền
tảng trước kia, làm cơ sở xuất phát cao hơn cho chu kỳ phát triển tiếp sau.
Năm 1938, John Dewey (1859 - 1952), nhà triết học Hoa Kỳ trong thế
kỷ XX, đã tìm kiếm một khái niệm dân chủ trong các lĩnh vực của cuộc sống,
trong đó có giáo dục. Một số công trình nghiên cứu có liên quan đến giáo dục
của Dewey là: Trường học và Xã hội (School and Society, 1899), Cách chúng
ta nghĩ (How we think, 1910), Dân chủ và giáo dục (Democracy and
Education, 1916) và Kinh nghiệm và giáo dục (Experience and Education,
1938). Dewey được đánh giá là “nhà lý luận giáo dục có ảnh hưởng nhất của
thế kỷ XX” [31]. Trong Kinh nghiệm và giáo dục, Dewey phân biệt giữa nền
8
giáo dục truyền thống và nền giáo dục tiến bộ, đề cập đến những nhược điểm
cơ bản của cả hai nền giáo dục. Ông nhấn mạnh rằng: “Cả hai nền giáo dục đó
đều chưa đáp ứng được sự đòi hỏi, mỗi nền giáo dục đều có những sai lầm về
mặt giáo dục. Bởi vì, cả hai đều không vận dụng những nguyên tắc của nhận
thức dựa trên kinh nghiệm được phát triển thấu đáo” [33]. Trong công trình
nghiên cứu này, Dewey đã làm sáng tỏ ý nghĩa của kinh nghiệm cá nhân và
mối quan hệ giữa kinh nghiệm cá nhân người học với hoạt động dạy học.
Thật không sai khi nói người đặt nền móng cho giáo dục trải nghiệm là
Jonh Dewey. Thuyết trải nghiệm của ông dựa trên hai nguyên lý chủ đạo là sự
liên tục và tác động ảnh hưởng lẫn nhau. Sự liên tục được ông chứng minh ở
luận điểm: Một điều gì đó từ một trải nghiệm kể cả điều tốt, điều dở chúng
đều tích lũy thành kinh nghiệm ảnh hưởng tới những bản chất, bản tính của
con người trong những hành động tương lai của mỗi cá nhân. Còn sự tác động
ảnh hưởng qua lại lẫn nhau được xây dựng dựa trên khái niệm liên tục. Theo
Jonh Dewey, trải nghiệm trong quá khứ ảnh hưởng tới những tình huống hiện
tại [31, tr 370-390].
Theo triết lý giáo dục của Dewey, trường học không phải đơn thuần
là nơi người lớn dạy cho trẻ con các bài học kiến thức và bài học luân lý.
Trường học phải là một cộng đồng dân chủ trong đó mọi hoạt động được
tập trung nhằm tạo ra hiệu quả cao nhất trong việc chia sẻ cho người học di
sản tri thức nhân loại và làm cho họ có thể sử dụng tài năng của mình vào
mục đích xã hội. Do đó, giáo dục là một hoạt động của đời sống, là bản
thân quá trình sống của các em chứ không phải là sự chuẩn bị cho một cuộc
sống tương lai mơ hồ nào đấy. Nhà trường và GV phải tạo ra một môi
trường học tập và vui chơi mà trong đó người học tự tìm tòi và xây dựng
kiến thức thông qua “kinh nghiệm” và “tư duy”, thông qua “trải nghiệm”
của chính bản thân [32, tr 34-67].
9
Thuyết giáo dục trải nghiệm của Jonh Dewey sau này được các nhà
giáo dục học, các nhà nghiên cứu lấy làm tiền đề, làm điểm tựa, coi như gốc
rễ quan trọng khi nghiên cứu về giáo dục trải nghiệm.
Năm 1946, Zadek Kurt Lewin (1890 - 1947), người sáng lập của tâm lý
học xã hội Mỹ, được biết đến với công việc nghiên cứu trong lĩnh vực hành vi
tổ chức, động lực nhóm và sự phát triển phương pháp luận của nghiên cứu
hành động. Mối quan tâm chính của Lewin là sự kết hợp giữa lý thuyết và
thực hành. Qua nghiên cứu, Lewin cho ta thấy việc học tập đạt hiệu quả tối đa
khi có một sự xung đột căng thẳng biện chứng giữa kinh nghiệm cá nhân với
việc phân tích giải quyết nhiệm vụ học tập.Theo ông, cuộc xung đột này có
vai trò rất quan trọng làm thay đổi và giúp con người tiến bộ hơn. Công trình
nghiên cứu có liên quan đến học tập dựa vào trải nghiệm của Lewin là “Tnhóm và phương pháp phòng thí nghiệm”. Lewin đã khẳng định kinh nghiệm
chủ quan của cá nhân là một thành phần quan trọng của học tập dựa vào trải
nghiệm. Ông đã phát triển chu kỳ học tập như “một quá trình liên tục của
hành động và đánh giá hệ quả của hành động đó [45].Trong công trình nghiên
cứu của mình, Kurt Lewin đã đưa ra mô hình học tập dựa vào trải nghiệm.
Mô hình 1: Mô hình học tập dựa Chú thích mô hình:
vào trải nghiệm của Kurt Lewin 1. Reflect - Suy nghĩ về tình
huống
2. Plan - Lập kế hoạch giải quyết
tình huống
3. Act - Tiến hành kế hoạch
4. Observe - Quan sát các kết quả
đạt được
10
Mô hình học tập dựa vào trải nghiệm của Lewin bao gồm: giai đoạn đầu
tiên, người học suy nghĩ về tình huống; tiếp đến là lập kế hoạch giải quyết tình
huống; tiếp đó là tiến hành kế hoạch; sau cùng là quan sát các kết quả đạt được.
Năm 1960, Jean Piaget (1896 - 1980), nhà tâm lý học phát triển người
Thụy Sỹ, một trong những người theo dòng phái lý luận nền tảng của giáo
dục hiện đại, đã góp phần chỉ rõ bản chất và nguồn gốc của tri thức và trí tuệ.
Ông đã nghiên cứu bản chất và quá trình phát triển của trí thông minh. Ông
thấy rằng quá trình phát triển của trí thông minh có liên quan đến tuổi của mỗi
người, cũng như sự khác biệt trong cách nghĩ của mỗi trẻ em về những điều
trẻ nhận thức. Từ những hiểu biết này, Piaget đã thực hiện một nghiên cứu về
kinh nghiệm và kiến thức của con người. Ông đã dành nhiều thời gian để
khám phá những ý tưởng này. Lý thuyết của Piaget cho rằng: “Trí thông minh
được định hình bởi kinh nghiệm và trí thông minh đó không phải là một đặc
tính bẩm sinh mà là một sản phẩm của sự tương tác giữa con người và môi
trường sống của mình” [29].
Trên cơ sở những nghiên cứu của Dewey về kinh nghiệm và học tập
dựa vào kinh nghiệm, David Kolb (sinh năm 1939), nhà lý luận giáo dục Hoa
Kỳ, đã nghiên cứu và cho xuất bản một công trình về học tập dựa vào trải
nghiệm: Trải nghiệm học tập: Kinh nghiệm là nguồn học tập và phát triển
(Study experience: Experience is the source of Learning and Development).
David Kolb đã chính thức giới thiệu lý thuyết học tập dựa vào trải nghiệm,
cung cấp một mô hình học tập dựa vào trải nghiệm để ứng dụng trong trường
học, tổ chức kinh tế và hầu như bất cứ nơi nào con người được tập hợp với
nhau. Ông đã liệt kê các đặc điểm của học tập dựa vào trải nghiệm và xác
định các giai đoạn trong học tập dựa vào trải nghiệm. Đối với Kolb, “Học tập
là quá trình mà trong đó kiến thức được tạo ra thông qua việc chuyển đổi kinh
nghiệm”[44]. Các kinh nghiệm học tập liên quan đến việc áp dụng các thông
11
tin nhận được từ giáo dục đến kinh nghiệm của người học. Các HS không tiếp
thu kiến thức của mình chỉ từ các GV, mà thay vào đó, người học thông qua
quá trình trải nghiệm dựa trên các kinh nghiệm hiện có của bản thân để thu
nhận thông tin mới trong môi trường học tập thực tiễn và kiểm tra nó lại bằng
kinh nghiệm của mình. Mô hình học tập dựa vào trải nghiệm của Kolb bao
gồm bốn giai đoạn trong một vòng tròn khép kín [44].
Kinh nghiệm cụ thể
Thử nghiệm trong tình huống mới
Quan sát, đối chiếu và phản hồi
Hình thành khái niệm trừu tượng
Mô hình 2: Mô hình học tập dựa vào trải nghiệm của Kolb
Từ năm 1984 đến nay, từ mô hình học tập dựa vào trải nghiệm trên,
David Kolb cùng một số tác giả khác đã có nhiều công trình nghiên cứu có
liên quan đến học tập dựa vào trải nghiệm, tập trung vào các lĩnh vực khác
nhau như: kinh tế, giáo dục, văn hóa,... Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, có
thể kể đến các công trình nghiên cứu sau:
- Phong cách học tập và không gian học: Tăng cường học tập dựa vào
trải nghiệm trong giáo dục đại học (Learning Styles and Learning Spaces:
Enhancing Experiential Learning in Higher Education) (2005) của Kolb, KY,
Kolb, DA. Các tác giả đã giới thiệu khái niệm về không gian học tập như là
một khuôn khổ cho sự hiểu biết giữa việc học tập của HS và môi trường, thể
12
chế học tập; minh họa việc học tập trong khuôn khổ sử dụng một không gian
nhất định và trình bày các nguyên tắc cho việc tăng cường học tập dựa vào
trải nghiệm trong giáo dục đại học. Bên cạnh đó, các tác giả cũng đã đề nghị
học tập dựa vào trải nghiệm có thể được áp dụng trong suốt môi trường giáo
dục cho các chương trình phát triển, bao gồm: việc đánh giá; việc giảng dạy,
việc đào tạo HS; đào tạo, bồi dưỡng giảng viên ở trường đại học.
- Học cách học từ kinh nghiệm là con đường để suốt đời học tập và
phát triển (The Learning Way-Learning from Experience as the Path to
Lifelong Learning and Development) (2011) của Passarelli, A., Kolb, DA.
Các tác giả đã trình bày lý thuyết về học tập dựa vào trải nghiệm. Theo đó,
kiến thức được tạo ra từ kinh nghiệm thông qua một chu kỳ học tập: hành
động → phản ánh kinh nghiệm → trừu tượng hóa khái niệm → thử nghiệm,
vận dụng. Qua đó, cung cấp một cái nhìn tổng quan về phương thức học tập
cũng như các không gian diễn ra quá trình tổ chức học tập. Trong chu kỳ học
tập dựa vào trải nghiệm, các giai đoạn được liên kết thành một không gian
kinh nghiệm để tạo ra một chu kỳ học tập xoắn ốc nhằm thu nhận được kiến
thức mới và phát triển học tập suốt đời. Học tập suốt đời cũng được định hình
bởi bản sắc của cá nhân người học, người học có thể tìm hiểu các mối quan hệ
trong học tập, kết nối với nhau nhằm thúc đẩy quá trình học tập suốt đời.
Như vậy, trên thế giới quan niệm về giáo dục trải nghiệm đã được nhắc
đến từ lâu. Mặc dù có nhiều quan điểm nhưng đều đề cập đến cách học thông
qua hoạt động trải nghiệm sẽ giúp HS nhớ lâu kiến thức, kết hợp lý thuyết với
thực hành trên thực tế. Quan trọng hơn nó giúp hình thành nhân, phẩm chất
của người học và góp phần thay đổi hành vi của họ.
* Ở Việt Nam
Mặc dù trên thế giới, học tập dựa vào trải nghiệm được bắt đầu nghiên
cứu từ rất sớm nhưng ở Việt Nam, việc tiếp cận nghiên cứu về học tập dựa
13
vào trải nghiệm còn nhiều hạn chế: có ít công trình, tài liệu nghiên cứu và vận
dụng. Có thể kể đến một số chương trình, dự án tiêu biểu sau :
- Năm 2006, học tập dựa vào trải nghiệm được đề cập ở Việt Nam
trong tài liệu “Học mà chơi - Chơi mà học: Hướng dẫn các hoạt động giáo
dục môi trường trải nghiệm” do Dự án giáo dục môi trường Hà Nội và Trung
tâm Con người và Thiên nhiên biên soạn. Chương trình Dự án này được triển
khai tại 12 trường tiểu học và 11 trường trung học cơ sở tại Hà Nội. Nội dung
tài liệu dự án giới thiệu tóm tắt khái niệm liên quan đến giáo dục môi trường
nói chung và học tập dựa vào trải nghiệm nói riêng, giới thiệu một số hoạt
động trò chơi thực hành nhằm giáo dục môi trường cho HS tiểu học và trung
học cơ sở [14].
- Năm 2011, lần đầu tiên môn học “Giáo dục trải nghiệm” được
giảng dạy cho sinh viên thuộc chương trình đào tạo Cử nhân khoa học
ngành Quản lý, liên kết giữa khoa Quốc tế - Đại học Quốc gia Hà Nội với
Đại học Keuka, Mỹ. Nội dung và mục tiêu của môn học là nhằm giúp sinh
viên gần gũi hơn với cuộc sống, với xã hội và có thêm được những trải
nghiệm thực tế, những điều mà các em có thể chưa nắm bắt được khi học
qua sách vở tại trường đại học.
Bên cạnh đó, cũng có nhiều trường học, đa số là các trường tiểu học,
trường dạy nghề cũng đã áp dụng giáo dục trải nghiệm trong quá trình giảng
dạy cho HS.
Đối với môn GDCD là môn học trực tiếp giáo dục tư tưởng chính trị,
đạo đức, phong cách, chuẩn mực cho người lao động mới, đồng thời trang bị
những kiến thức lý luận một cách có hệ thống của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, bồi dưỡng năng lực và phương pháp khoa học trong hoạt
động thực tiễn.
Giảng dạy phần đạo đức nói riêng và môn GDCD nói chung không đơn
thuần chỉ là hoạt động nhận thức, mà còn là hoạt động thực tiễn nhằm hiện
14
thực hoá nhận thức lý luận về đạo đức của cả người dạy và người học. Đây là
đặc điểm đặc biệt quan trọng của giảng dạy môn GDCD so với các môn khác.
Đối tượng của công tác giáo dục đạo đức là HS THPT. Ở lứa tuổi bắt đầu phát
triển về mọi mặt, tâm lý thường có những biến đổi thất thường đầy xúc cảm
cho nên thái độ học tập đối với môn đạo đức bị xem nhẹ, tiết học bị coi là
buổi “giáo huấn’’ về đạo đức. HS học tập môn GDCD vừa là đối tượng của
giáo dục vừa là chủ thể của quá trình giáo dục về mặt nhân cách con người.
Mục đích của môn GDCD là chuẩn bị hành trang lối sống, ứng xử, tác phong
của con người văn hoá, văn minh, hình thành nhân cách cho người học.
Chính vì vậy, dạy học trải nghiệm trong bộ môn này giữ vai trò hết sức
quan trọng. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu về phương pháp dạy học
trải nghiệm trong môn học GDCD, đặc biệt là phần giáo dục đạo đức chưa
được đề cập nghiên cứu.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Thiết kế và thực nghiệm bài dạy theo phương pháp trải nghiệm phần
“Công dân với đạo đức” trong chương trình GDCD lớp 10 THPT.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Thiết kế bài dạy môn GDCD phần “Công dân
với đạo đức” cho HS lớp 10 THPT Hồng Đức, Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu: Xây dựng, thiết kế các bài dạy theo phương
pháp trải nghiệm phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD cho HS lớp 10
trường THPT Hồng Đức, Hà Nội.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể.
5.2.1.Phương pháp nghiên cứu lí luận
15
Tra cứu các tài liệu có liên quan đến đề tài, phân tích, tổng hợp, khái
quát và hệ thống hóa các nguồn tài liệu để xây dựng cơ sở lý thuyết và nội
dung của đề tài.
5.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra, quan sát, phỏng vấn GV.
5.2.3.Phương pháp thiết kế
phương pháp sử dụng kĩ thuật thu thập thông tin, xây dựng các mô
hình, thiết kế bài dạy.
5.2.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Tổ chức dạy một số bài phần “ Công dân với đạo đức” có sự vận dụng
phương pháp trải nghiệm.
6. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả:
- Hệ thống hóa lý thuyết về dạy học trải nghiệm, các phương pháp dạy học
trải nghiệm, lý thuyết về thiết kế bài giảng theo phương pháp dạy học trải nghiệm.
- Thiết kế một số bài dạy cho phần “Công dân với đạo đức” trong
chương trình GDCD lớp 10 THPT theo phương pháp dạy học trải nghiệm
phục vụ cho GV bộ môn GDCD trong quá trình dạy học.
- Phác thảo quy trình thiết kế bài dạy, quy trình lên lớp theo phương
pháp trải nghiệm với GV và HS trong dạy và học phần “Công dân với đạo
đức” môn GDCD ở trường THPT.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học của việc thiết kế bài dạy theo phương pháp
trải nghiệm trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” ở trường THPT.
Chương 2: Thết kế bài dạy theo phương pháp trải nghiệm trong dạy
học phần “Công dân với đạo đức” ở trường THPT Hồng Đức, Hà Nội.
16
Chương 3: Thực nghiệm vận dụng thiết kế bài dạy theo phương pháp
trải nghiệm trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” ở trường THPT
Hồng Đức, Hà Nội.
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC THIẾT KẾ BÀI DẠY THEO
PHƯƠNG PHÁP TRẢI NGHIỆM TRONG DẠY HỌC PHẦN “CÔNG
DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1.
Cơ sở lý luận của việc thiết kế bài dạy theo phương pháp trải nghiệm
trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” ở trường THPT Hồng Đức,
1.1.1.
1.1.1.1.
Hà Nội
Phương pháp dạy học môn GDCD
Khái niệm về phương pháp
Ngày nay, thế giới đang biến đổi từng giây, từng phút bởi sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, nhà tương lai học Thierry Gaudin đã
đưa ra một thông điệp khẩn thiết: Hãy học phương pháp chứ đừng học dữ
liệu! Thật vậy, phương pháp có ý nghĩa to lớn trong đời sống xã hội.Vậy
phương pháp là gì luôn là câu hỏi lớn cần giải đáp.
Phương pháp là thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp “Methodos” nghĩa
là “con đường nghiên cứu”, “cách thức nhận thức”, nguyên căn là con đường
đi tới một cái gì đó, có nghĩa là cách thức đạt tới mục đích. Theo nghĩa chung
nhất phương pháp là cách thức, con đường, phương tiện để đạt tới mục đích
nhất định, là hoạt động được sắp xếp theo một trật tự nhất định để giải quyết
những nhiệm vụ nhất định trong nhận thức và trong thực tiễn [23,Tr 9].
Phương pháp là phạm trù gắn liền với hoạt động có ý thức của con
người, giúp con người nhận thức được hiện thực khách quan, nhận thức được
thực tiễn. Tuy nhiên, hiện thực khách quan và thực tiễn được vận động theo
17
những qui luật khách quan của bản thân và chịu sự tác động hợp quy luật của
thế giới xung quanh. Do đó, là một trong những yếu tố quyết định thành công
hay thất bại trong hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con người.
Chính vì vậy mà trong Từ điển bách khoa, phương pháp được định nghĩa: là
cách thức, con đường, phương tiện để đạt đến mục đích nhất định, để giải
quyết những nhiệm vụ nhất định trong nhận thức và thực tiễn [27].
Phương pháp là sự đúc rút kinh nghiệm, vừa là khoa học, đồng thời là
nghệ thuật, nó đòi hỏi tính sáng tạo và mang dấu ấn của chủ thể sử dụng
phương pháp. Trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người đều cần đến
phương pháp.
Khái niệm về phương pháp dạy học
1.1.1.2.
Dạy học là một lĩnh vực hoạt động đặc trưng, bởi cả chủ thể và đối
tượng đều là con người. Hoạt động dạy học là quá trình giảng dạy của người
GV và học tập của HS– quá trình xử lý, chuyển giao thông tin, ứng dụng, phát
triển của HS. Trong quá trình đó nhất thiết phải được thực hiện thông qua các
phương pháp đặc thù gọi là phương pháp dạy học. Như vậy, bản chất của quá
trình dạy học chính là sử dụng hệ thống các phương pháp giảng dạy và học
tập nhằm thực hiện mục đích, yêu cầu đặt ra về trang bị, cung cấp và tiếp thu,
lĩnh hội (chiếm lĩnh), ứng dụng kiến thức, kĩ năng của GV và HS. Để đạt hiệu
quả cao trong quá trình đó, phải xuất phát từ phương pháp dạy của GV vì
phương pháp dạy quyết định và tác động đến phương pháp học của HS.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về phương pháp dạy học:
-
Theo Lu.K.Babanxki: “phương pháp dạy học là cách thức tương tác giữa thầy
và trò nhằm giải quyết các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển trong
quá trình dạy học” [1, tr 46].
18
-
Theo Nguyễn Ngọc Quang, phương pháp dạy học là cách thức làm việc của
thầy và trò trong sự phối hợp thống nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy nhằm
-
làm cho trò tự giác, tích cực, tự lực đạt đến mục đích dạy học.
Theo tác giả Phan Thị Hồng Vinh: “Phương pháp dạy học là cách thức hoạt
động phối hợp thống nhất của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học
được tiến hành dưới vai trò chủ đạo của giáo viên nhằm thực hiện tối ưu mục
tiêu và nhiệm vụ dạy (41, tr 204).
Phương pháp dạy học được hiểu là cách thức hoạt động phối hợp thống
nhất của giáo viên và học sinh nhằm thực hiện tối ưu mục tiêu và nhiệm vụ
dạy học [23,Tr 13].
1.1.1.3.
Khái niệm về phương pháp dạy học GDCD
Phương pháp dạy học GDCD là cách thức hoạt động phối hợp thống
nhất của giảng viên và sinh viên nhằm phát hiện những quy luật của quá trình
dạy học môn GDCD, xây dựng hệ thống các nguyên tắc, hình thức và phương
pháp dạy học cụ thể để tổ chức thành công hoạt động dạy học môn GDCD ở
trường Trung học [23, Tr 20].
1.1.2.
1.1.2.1.
•
Phương pháp dạy học trải nghiệm
Khái niệm về phương pháp dạy học trải nghiệm
Học tập qua kinh nghiệm
Kinh nghiệm là những hiểu biết do trông thấy, nghe thấy, do từng trải,
tiếp xúc với cuộc sống mà có hoặc là những điều coi như những kiến thức học
được bằng lí luận, đã thu nhận được trong quá trình thực sự hoạt động (cư xử,
giao thiệp, hành nghề,…) [18, tr 441]. Kinh nghiệm còn được định nghĩa là
những gì liên quan tới bản chất của sự kiện đã diễn ra mà sự kiện đó xảy ra
bởi một con người hoặc một vật nào đó. Kinh nghiệm là những gì xảy ra liên
quan đến chúng ta trong toàn bộ thời gian mà chúng ta tồn tại [38].
Kinh nghiệm được sử dụng trong thời gian quá khứ, liên quan tới
những gì đã được tích lũy (hoặc những thứ còn tồn đọng) của những kinh
19
nghiệm trước đây. Kinh nghiệm quá khứ thường ảnh hưởng tới kinh nghiệm
hiện tại và kinh nghiệm tương lai. Ý tưởng kinh nghiệm quá khứ ảnh hưởng
đến kinh nghiệm tương lai đã được John Dewey đề cập đến trong triết lý về
giáo dục của mình. Tất cả những kinh nghiệm ảnh hưởng tới tương lai của nó
( nghĩa là kinh nghiệm về sau) hoặc là tốt hơn hoặc là xấu đi. Về cơ bản, kinh
nghiệm, kinh nghiệm tích lũy hoặc sẽ bị mai một đi, hoặc là sẽ mở ra cơ hội
để cho những kinh nghiệm tương lai [30].
Học tập qua kinh nghiệm: là quá trình người học tạo dựng kiến thức, kĩ
năng và quan điểm về giá trị từ việc trải nghiệm trực tiếp từ chính bản thân.
Học tập qua kinh nghiệm gồm có hai hoạt động học tập khác nhau: Tự
học và giáo dục trải nghiệm. Nó thể hiện sự trưởng thành và thành công của
các cá nhân và nhóm người qua chu trình: Lĩnh hội – hành động – phản ánh –
lĩnh hội để đạt được kinh nghiệm [14].
Học tập qua kinh nghiệm còn được hiểu là quá trình học tập dựa trên
những kinh nghiệm có sẵn. Nó khác với phương pháp giáo dục truyền thống ở
chỗ, quá trình giáo dục theo cách truyền thống thu nhập thông tin thông qua
việc nghiên cứu các chủ đề mà không cần sự trải nghiệm thực tế. Học tập
thông qua kinh nghiệm rất thích hợp để tiếp thu những kỹ năng thực hành.
Trong phương pháp học tập này, thực hành và thí nghiệm những bài tập thực
tế là chủ đạo.
Học tập qua kinh nghiệm là một thuật ngữ thường bị hiểu lẫn với giáo
dục thực nghiệm, phương pháp học tích cực, học tập mạo hiểm, học lựa chọn
tự do, học hợp tác, học theo ngành và nhiều phương pháp khác. Các phương
pháp này ngoài những điểm tương đồng, chúng cũng có những khác biệt. Học
tập qua kinh nghiệm tập trung vào người học và kinh nghiệm của người học.
Giáo dục thực nghiệm tập trung vào quan hệ giao tiếp và sự trao đổi thông tin
giữa thầy và trò [14].
20
Tự học đồng nghĩa với giáo dục không chính thức hoặc tự giáo dục là
hình thức người học tự tổ chức cho bản thân, phản ánh qua sự tham gia trải
nghiệm trực tiếp của chính người học với các sự việc, sự kiện của cuộc sống
diễn ra hằng ngày.
•
Học tập dựa vào trải nghiệm
Trải nghiệm là quá trình cá nhân tiếp xúc trực tiếp với môi trường, với
sự vật, hiện tượng, vận dụng vốn kinh nghiệm và các giác quan để quan sát,
tương tác, cảm nhận về sự vật, hiện tượng đó. Trải nghiệm diễn ra dựa trên
vốn kinh nghiệm của cá nhân về sự vật, hiện tượng.
Học tập dựa vào trải nghiệm là hình thức học tập gắn liền với các hoạt
động có sự chuẩn bị ban đầu về kinh nghiệm và có phản hồi, trong đó đề cao
kinh nghiệm chủ quan của người học. Ngoài ra, học tập dựa vào trải nghiệm
còn được định nghĩa là “triết lý giáo dục, triết lý này nhấn mạnh vào quá trình
tác động qua lại giữa GV và HS cùng với những kinh nghiệm trực tiếp của HS
trong môi trường và nội dung học tập” [6].
Học tập dựa vào trải nghiệm còn được coi như là triết lý cũng như
phương pháp luận mà ở đó nhà sư phạm thiết lập một cách có chủ đích với
người học trong hoạt động trải nghiệm trực tiếp ở môi trường học tập và phản
ánh để làm rõ ý nghĩa của bài học, nâng cao kiến thức và phát triển kỹ năng
của người học kết hợp trên vốn kinh nghiệm hiện có của họ.
Trong luận văn này, chúng tôi hiểu học tập dựa vào trải nghiệm là
phương pháp dạy học, trong đó GV là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các
hoạt động để HS bằng vốn kinh nghiệm của cá nhân kết hợp tiếp xúc trực tiếp
với môi trường học tập, sử dụng các giác quan, tự lực chiếm lĩnh kiến thức,
hình thành kỹ năng và thái độ, hành vi.
•
Khái niệm phương pháp dạy học trải nghiệm
21
Giáo dục trải nghiệm ( Experiential Education) hay học tập qua kinh
nghiệm dựa trên các hoạt động có hướng dẫn là phương pháp học tập gắn liền
với các hoạt động có sự chuẩn bị ban đầu và có phản hồi trong đó đề cao kinh
nghiệm chủ quan của người học [14, tr 11].
Ngoài khái niệm trên, giáo dục trải nghiệm còn được định nghĩa là
“triết lí giáo dục, triết lí này nhấn mạnh vào quá trình tác động qua lại giữa
giáo viên và học sinh cùng với những kinh nghiệm trực tiếp của họ trong môi
trường và nội dung học tập” [44].
Giáo dục trải nghiệm là quá trình giáo dục, trong đó chú trọng khai thác
tối đa kinh nghiệm và kiến thức có sẵn của học sinh, tạo mọi điều kiện để học
sinh phát huy khả năng của bản thân trong hoạt động học tập [7, tr 50].
Giáo dục trải nghiệm được coi như là triết lý cũng như phương pháp
luận mà ở đó nhà sư phạm thiết lập một cách có chủ định với người học trong
hoạt động thực nghiệm trực tiếp và phản ánh để làm rõ ý nghĩa của bài học,
nâng cao kiến thức và kĩ năng.
Như vậy, chúng ta có thể khái quát như sau: Phương pháp dạy học trải
nghiệm là một quá trình dạy học trong đó dưới vai trò tổ chức của người GV,
HS chủ động tự tạo kiến thức, thu thập kiến thức, hình thành kĩ năng và thái
độ cho bản thân thông qua việc tiếp xúc trực tiếp với môi trường học tập. Đây
là hoạt động học tập có sự phản hồi và đề cao kinh nghiệm chủ quan của
người học theo sự định hướng của GV.
1.1.2.2.
Bản chất của phương pháp dạy học trải nghiệm
Quá trình dạy học là một quá trình hoạt động thống nhất giữa GV và
HS. Trong đó GV giữ vai trò hướng dẫn, tổ chức, điều chỉnh hoạt động của
HS nhằm làm cho HS tự giác nắm vững hệ thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và
trong đó phát triển được năng lực nhận thức, năng lực hoạt động và hình
thành cơ sở của thế giới quan khoa học [6]. Xét về bản chất, đây là hoạt động
22
của HS. HS là chủ thể tích cực chiếm lĩnh tri thức bằng hoạt động học tập của
mình còn đối tượng nhận thức ở đây chính là hiện thực khách quan, được các
thế hệ trước tích lũy thành kinh nghiệm lịch sử - xã hội và được đưa ra qua
nội dung dạy học [28].
Giáo dục trải nghiệm là quá trình học tập dựa trên những kinh nghiệm.
Nó khác với phương pháp giáo dục truyền thống ở chỗ, quá trình giáo dục
theo cách truyền thống thu nhận thông tin qua việc nghiên cứu các chủ đề mà
không cần trải nghiệm thực tế. Ở giáo dục trải nghiệm, kinh nghiệm của
người học được tích lũy và phản hồi thông qua những kiến thức và hiểu biết
mới mà họ tiếp thu được từ những trải nghiệm thực tế. Điều đáng lưu ý ở đây
là giáo dục trải nghiệm không đơn thuần là thực hiện một hoạt động trong môi
trường xung quanh, mà trải nghiệm trở thành một quá trình học tập khi vận
dụng vào các tình huống khác nhau ( Richatrd Ponzio và Stanley) [24].Trong
quá trình này, GV phải tạo ra môi trường học tập thuận lợi nhất cho HS thực
hiện quá trình nhận thức của mình. Dưới sự tổ chức, hướng dẫn của GV, HS
tự mình trải nghiệm thực tế nhằm tìm ra những điều mới lạ, hình thành kĩ
năng, hành vi, tri thức khoa học bổ ích, hấp dẫn chứ không phải ghi nhớ, nhắc
lại lời GV hay những nội dung có sẵn trong sách giáo khoa hoặc làm theo
mẫu một cách máy móc.
Như vậy, bản chất của phương pháp dạy học trải nghiệm là cách dạy
học lấy hoạt động của HS làm trung tâm.Cả lớp học tự trải nghiệm một tiến
trình cụ thể. Đây là cách dạy học khai thác tối đa kinh nghiệm và kiến thức
sẵn có của HS, đồng thời tạo mọi điều kiện cho HS phát huy khả năng làm
việc tự lập, làm việc theo nhóm, tư duy sáng tạo, biết đánh giá qua sự trải
nghiệm trực tiếp của bản thân mình. Hay nói cách khác, bản chất của phương
pháp dạy học trải nghiệm là dạy học dựa trên việc học tập từ kinh nghiệm trực
23
tiếp và sử dụng tất cả các giác quan. Như vậy, bản chất của dạy học trải
nghiệm là phương pháp dạy học tập trung vào các giác quan và kinh nghiệm
của người học.
24
1.1.2.3.
•
Đặc điểm của phương pháp dạy học trải nghiệm
Về vai trò của GV và HS trong dạy học trải nghiệm
Phương pháp dạy học trải nghiệm là quá trình tác động qua lại giữa GV
và HS về kiến thức. Kiến thức không chỉ là vài con chữ trong bài giảng mà
kiến thức còn trở nên chủ động, có tác động đối với cuộc sống và các tình
huống thực tế. Ở đây, GV chỉ đóng vai trò là người tổ chức, hướng dẫn, thúc
đẩy việc trực tiếp trải nghiệm đảm bảo quá trình học tập và lĩnh hội kiến thức
của HS có ý nghĩa và giữ được lâu dài chứ không chỉ là người cung cấp các
kiến thức có sẵn. HS trở thành người tự tạo dựng và thu thập kiến thức cho
bản thân. Kiến thức HS thu được không chỉ là những kiến thức trong nhà
trường, trong sách giáo khoa mà đó còn là những kiến thức ngoài trường học,
ngoài xã hội. Điều đáng lưu ý là trong quá trình dạy học trải nghiệm nhiều khi
diễn biến của nó ngoài tầm dự kiến của giáo viên. Chính vì vậy mà việc lập kế
hoạch bài dạy cho việc tổng hợp kiến thức tổng hợp của HS đòi hỏi ở GV sự
sáng tạo. Vì vậy, GV cũng trở thành người học chủ động cùng trải nghiệm với
học sinh. GV cũng như HS đã tạo cho mình những kiến thức và kĩ năng mới.
Với phương pháp dạy học trải nghiệm này, còn khuyến khích HS chủ
động đóng góp tiếng nói của mình vào việc xác định mục đích học tập, cho
phép HS soạn thảo chương trình học tập và thực hiện dự án của mình, thậm chí
HS được tự đánh giá kết quả học tập của mình ( David Lemper, 1996) [44].
Như vậy, dạy học bằng phương pháp trải nghiệm, GV là một chuyên
gia trong việc thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo
nhóm để HS trải nghiệm tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các
mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo chương trình và HS có điều kiện
phát huy cao độ vai trò chủ thể tích cực, độc lập, chủ động, sáng tạo của
mình. Qua đó, HS không những tìm ra, tự phát hiện ra tri thức mới, cách thức
hành động mới mà còn rèn luyện các nét tính cách tích cực cho bản thân.
25