Tải bản đầy đủ (.docx) (125 trang)

THỰC TRẠNG sử DỤNG LAO ĐỘNG ở HUYỆN lập THẠCH, TỈNH VĨNH PHÚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 125 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG LAO ĐỘNG
Ở HUYỆN LẬP THẠCH, TỈNH VĨNH PHÚC
Chuyên ngành: Địa lí học
Mã số: 60.31.05.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC ĐỊA LÍ

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Tường Huy

HÀ NỘI - 2016

LỜI CẢM ƠN


Trên thực tế không có sự thành công nào mà không gắn liền với những sự hỗ trợ,
giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người khác. Trong suốt thời gian từ
khi bắt đầu học tập tại trường đến nay, em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ
của quý Thầy Cô, gia đình và bạn bè.
Với tất cả tình cảm chân thành của mình, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất
tới TS. Nguyễn Tường Huy, người đã trực tiếp hướng dẫn em bằng tất cả những tri thức
và tâm huyết của mình để em có thể hoàn thành luận văn này.
Đồng thời em cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn tới quý Thầy Cô tổ bộ môn Địa lí
kinh tế, quý Thầy Cô trong Khoa Địa lí, phòng Sau Đại học, ban Giám hiệu Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Nhân dịp này, em xin chân thành cảm ơn tới ban Giám hiệu trường Cao đẳng nghề
Vĩnh Phúc, Ủy ban nhân dân huyện Lập Thạch, Chi cục thống kê huyện Lập Thạch,


Phòng Lao động thương binh và Xã hội huyện Lập Thạch, Cục thống kê tỉnh Vĩnh Phúc,
bạn bè, đồng nghiệp, những người thân trong gia đình đã cổ vũ động viên và tạo điều kiện
giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành bản luận văn này.
Do hạn chế về thời gian và nguồn tư liệu cũng như kinh nghiệm nghiên cứu nên
không thể tránh khỏi những thiếu sót, bản thân em rất mong nhận được sự góp ý của quý
Thầy Cô và các bạn đọc để luận văn được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 10 năm 2016
Tác giả

Từ viết tắt
CMKT
CN-XD
ĐH – CĐ
FDI
GDTH
GDP

Nguyễn Thị Thu Hương
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Nghĩa Tiếng Việt
: Chuyên môn kỹ thuật
: Công nghiệp – xây dựng
: Đại học – Cao đẳng
: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment)
: Giáo dục trung học
: Tổng xản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)
2



GTSX
Giá HH
Giá TT
HĐND
HKTT
HTX
ILO
KHHGĐ
LĐTB & XH
LLLĐ
NN & PTNT
N-L-NN
NTM
ODA
QL
TC
THCS
THPT
TNHH
TP
TT
TX
TTCN
UBND
VA
WTO

: Giá trị sản xuất
: Giá hiện hành
: Giá thực tế

: Hội đồng nhân dân
: Hộ khẩu thường trú
: Hợp tác xã
: Tổ chức lao động quốc tế
: Kế hoạch hóa gia đình
: Lao động Thương binh và xã hội
: Lực lượng lao động
: Nông nghiệp và phát triển Nông thôn
: Nông – lâm – ngư nghiệp
: Nông thôn mới
: Hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance)
: Quốc lộ
: Trung cấp
: Trung học cơ sở
: Trung học phổ thông
: Trách nhiệm hữu hạn
: Thành phố
: Thị trấn
: Thị xã
: Tiểu thủ công nghiệp
: Ủy ban nhân dân
: Giá trị gia tăng
: Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization)

3


MỤC LỤC

4



DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

DANH MỤC BẢN ĐỒ
Bản đồ 1: Bản đồ hành chính huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc
Bản đồ 2: Bản đồ dân cư huyện Lập Thạch
Bản đồ 3: Bản đồ thực trạng sử dụng lao động huyện Lập Thạch

5


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trên hành trình đổi mới và hội nhập quốc tế, để thực hiện mục tiêu xây
dựng một nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn
minh” vấn đề dân số, lao động và việc làm luôn được Đảng và Nhà nước ta đặt
lên vị trí ưu tiên hàng đầu trong các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của
quốc gia. Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, yếu tố con
người và vấn đề giải quyết được công ăn, việc làm cho người lao động luôn là
vấn đề cần được quan tâm giải quyết hàng đầu bởi lẽ con người luôn là điểm
xuất phát của mọi chương trình, kế hoạc phát triển. Tại Đại hội IX (2001) Đảng
ta cũng chỉ ra rằng “đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố
quyết định sự phát triển đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”[58].
Hiện nay, không chỉ ở Việt Nam mà ở nhiều nước đang phát triển trên thế giới
tình trạng thừa lao động, thiếu việc làm hiện đang trở thành một vấn đề hết sức
phổ biển. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển kinh tế - xã hội
chung của đất nước. Chính vì vậy lao động và việc làm là một trong những vấn

đề cần phải giải quyết kịp thời ở nước ta hiện nay.
Lập Thạch là huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Vĩnh Phúc
với diện tích tự nhiên 173,10 km2, dân số năm 2014 của toàn huyện trên là
128.676 người. Trong đó, số người trong độ tuổi lao động trên địa bàn huyện
là 68.590 người, chiếm 53,3% tổng dân số toàn huyện [12]. Đây là một tiềm
năng to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện nói riêng và toàn tỉnh
Vĩnh Phúc nói chung. Mặc dù lực lượng lao động trên địa bàn huyện là khá
dồi dào nhưng chất lượng lao động nhìn chung còn thấp, tỷ lệ lao động từ 15
tuổi trở lên chưa qua đào tạo của huyện chiếm tới 83,3%. Lực lượng lao động
có chuyên môn kỹ thuật chỉ chiếm khoảng 16,7% [8]. Hệ số sử dụng thời gian
lao động ở nông thôn mới đạt 85 - 87,5% [48]. Hiệu quả lao động nhìn chung
còn thấp. Điều đó đã làm lãng phí nguồn lao động của huyện đồng thời cũng
gây ảnh hưởng không nhỏ tới các vấn đề xã hội khác cần giải quyết và ảnh
hưởng tới quá trình phát triển kinh tế của huyện.
6


Việc sử dụng lao động hợp lí và nâng cao chất lượng nguồn lao động
của huyện sẽ góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của toàn huyện, mặt
khác cũng từng bước nâng cao mức sống của dân cư góp phần quan trọng vào
sự nghiệp CNH – HĐH đất nước. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên tôi lựa
chọn đề tài “Thực trạng sử dụng lao động ở huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh
Phúc” làm đề tài tốt nghiệp của mình với mong muốn được đóng góp một
phần nhỏ bé kiến thức của mình vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của
huyện Lập Thạch nói riêng và của tỉnh nhà nói chung.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Trong sự phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia, trong từng khu
vực cũng như trên toàn thế giới, việc nghiên cứu thực trạng sử dụng lao động
là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của mỗi quốc gia nhằm mục
đích đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia cũng như của

khu vực.
Ở nước ta việc nghiên cứu về thực trạng sử dụng lao động từ đó đưa ra
các giải pháp nhằm sử dụng hợp lý nguồn lao động chủ yếu được tiến hành
bởi Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cùng với Ủy ban nhân dân các
cấp, các ngành liên quan thực hiện. Hiện nay việc nghiên cứu thực trạng sử
dụng lao động đã được mở rộng sang nhiều ngành khoa học trong đó có khoa
học địa lí. Có thể nói sự phát triển mạnh mẽ của khoa học địa lí trong những
năm gần đây đặc biệt là sự phát triển của Địa lí Kinh tế - Xã hội đã có những
đóng góp quan trọng vào công tác nghiên cứu, định hướng cho việc sử dụng
nguồn nhân lực quốc gia có hiệu quả.
Cho đến nay nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề lao
động và nguồn lao động. Trong “Giáo trình Nguồn nhân lực” của tác giả
Nguyễn Tiệp đã đề cập tới những vấn đề cơ bản nhất về nguồn nhân lực ở
chương 1 [28]. Chương 5 trong “Giáo trình Kinh tế phát triển” tác giả
Phạm Ngọc Linh đã đưa ra những khái niệm về lao động và nguồn lao
động, đồng thời nhấn mạnh tới vai trò của nguồn lao động ở các nước đang
phát triển trên thế giới và các yếu tố ảnh hưởng tới nguồn lao động [20].
Trên khía cạnh Địa lí kinh tế - xã hội, các tác giả Nguyễn Minh Tuệ,
7


Nguyễn Viết Thịnh, Lê Thông cũng đề cập tới những vấn đề lí luận về
nguồn lao động trong giáo trình “Địa lí Kinh tế - Xã hội Đại cương” [42].
Đề cập tới vấn đề nguồn lao động ở nước ta, tác giả Lê Thông (chủ
biên) trong giáo trình Địa lí Kinh tế - Xã hội Việt Nam không chỉ khái quát
được tình hình lao động chung của cả nước mà còn đưa ra được những nét
cơ bản nhất về nguồn lao động ở các vùng kinh tế nước ta [33]. Ngoài ra
cũng phải kể tới Giáo trình Địa lí Kinh tế - Xã hội Việt Nam (tập 1) của tác
giả Nguyễn Viết Thịnh và Đỗ Thị Minh Đức [36].
Trong “Đánh giá tổng thể tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam sau 5

năm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới” của Viện Nghiên cứu Quản lý
Kinh tế Trung ương đã cho thấy bức tranh khái quát về sự thay đổi lực lượng
lao động, chất lượng lao động, tình hình xuất khẩu lao động cũng như những
hạn chế trong chất lượng lao động ở nước ta sau khi gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) [60]. Bên cạnh đó, trong “Bản tin cập nhật thị
trường lao động Việt Nam” của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thực
hiện với sự phối hợp của Tổng cục Thống kê và hỗ trợ tài chính - kỹ thuật của
Tổ chức Lao động Quốc tế cũng đề cập tới những biến động của thị trường
lao động, nguồn cung lao động và vấn đề việc làm ở nước ta năm 2013 và quý
I năm 2014 [41].
Về mối quan hệ giữa dân số và lao động, việc làm ở nước ta cũng đã
được Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa Gia đình phối hợp cùng với các nhà
khoa học, các chuyên gia đề cập tới trong báo cáo chuyên đề “Dân số là một
trong những yếu tố quyết định sự phát triển bền vững của đất nước” [5].
Để đánh giá được đúng và đủ nguồn lao động và sử dụng nguồn lao
động, ngày 5 tháng 2 năm 2013 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành“Quyết
định số 291/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ” [27]. Trên cơ sở đó, các cơ
quan ban ngành cũng như các cá nhân có thể nghiên cứu, đánh giá việc phát
triển nguồn nhân lực và sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả.
Nghiên cứu về vấn đề lao động và việc làm ở nước ta cũng có nhiều
báo cáo, bài báo, tạp chí viết về vấn đề này. Tiêu biểu như “Lao động và tiếp
cận việc làm” [18], “Những hạn chế về lao động việc làm trên thị trường lao
8


động ở Việt nam hiện nay” [14], “Giải quyết vấn đề lao động và việc làm
trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn” [13].
Bên cạnh đó, vấn đề lao động việc làm còn là đề tài thu hút sự quan tâm
của nhiều tác giả khi tiến hành nghiên cứu và thực hiện những luận văn tốt nghiệp
thạc sĩ như đề tài “Nguồn lao động và sử dụng nguồn lao động ở huyện Hoài Đức

– Hà Nội” [32], “Nguồn lao động và sử dụng nguồn lao động ở tỉnh Bắc Ninh”
[30], “Thực trạng và định hướng sử dụng lao động ở tỉnh Bến Tre” [57].
Các nghiên cứu về nguồn lao động và sử dụng lao động trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc nói chung và huyện Lập Thạch nói riêng hiện còn hạn chế. Ở
cấp tỉnh, công trình “Những biến đổi kinh tế - xã hội ở Vĩnh Phúc từ khi tái
lập tỉnh đến nay (1997 – 2005) [43] đã khái quát thực trạng và những thay đổi
về nguồn lao động và chất lượng nguồn lao động của tỉnh Vĩnh Phúc từ khi
tái lập tỉnh . Chi tiết hơn, “Báo cáo kết quả điều tra thực trạng lao động thời
điểm 1/10/2014 – Tỉnh Vĩnh Phúc” đã thống kê các kết quả điều tra lao động
việc làm trên địa bàn toàn tỉnh đến thời điểm 1/10/2014 [9].
Ở cấp huyện, “Báo cáo tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện Chương
trình mục tiêu giảm nghèo, dạy nghề và giải quyết việc làm giai đoạn 2011 –
2015” của UBND huyện Lập Thạch đã tổng kết và đánh giá được công tác
nâng cao chất lượng nguồn lao động và giải quyết việc làm cho người lao
động trên địa bàn huyện trong vòng 5 năm trở lại đây, từ năm 2011 đến hết
năm 2015 [48]. Tuy nhiên, dưới góc độ địa lí học, hiện chưa có công trình
nghiên cứu cụ thể nào về nguồn lao động và sử dụng lao động ở huyện Lập
Thạch. Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu tại địa phương kết hợp với việc tham
khảo tổng quan các tài liệu, tác giả đã tổng hợp và phân tích để hoàn thiện đề
tài “Thực trạng sử dụng lao động ở huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc”.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ, giới hạn của đề tài
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở vận dụng lý luận về nguồn lao động và sử dụng lao động, đề
tài có mục tiêu phân tích các nhân tố ảnh hưởng và thực trạng sử dụng lao
động ở huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, từ đó đề ra các giải pháp nhằm sử
dụng hợp lí lực lượng lao động trên địa bàn huyện.
9


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu trên, đề tài cần phải giải quyết các nhiệm vụ
chủ yếu sau:
- Tổng quan có chọn lọc cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn lao động
và sử dụng lao động để vận dụng vào địa bàn nghiên cứu là huyện Lập Thạch.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới nguồn lao động và sử dụng lao
động của huyện Lập Thạch.
- Phân tích thực trạng nguồn lao động và sử dụng lao động của huyện
Lập Thạch từ năm 2009 đến năm 2014.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn lao động và
sử dụng hợp lí nguồn lao động của huyện Lập Thạch đến năm 2020.
3.3. Giới hạn nghiên cứu
- Về nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung phân tích thực trạng sử
dụng lao động trên địa bàn huyện Lập Thạch với các nội dung chủ yếu sau:
+ Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới nguồn lao động và sử dụng lao
động của huyện Lập Thạch;
+ Phân tích thực trạng nguồn lao động ở huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh
Phúc thông qua các chỉ tiêu như số lượng và chất lượng nguồn lao động, cơ
cấu lao động và sự phân bố lao động trên địa bàn huyện.
+ Phân tích thực trạng sử dụng lao động ở huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh
Phúc thông qua các tiêu chí như sử dụng lao động theo ngành kinh tế, theo
thành phần kinh tế và theo lãnh thổ.
- Về lãnh thổ nghiên cứu: Địa bàn nghiên cứu là huyện Lập Thạch có
chú ý tới sự phân hóa tới cấp xã, thị trấn. Bên cạnh đó, đề tài còn chú ý tới
việc so sánh với các huyện khác trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
- Về thời gian nghiên cứu: Đề tài chủ yếu sử dụng, phân tích các số
liệu, tư liệu chính thống của Cục thống kê Vĩnh Phúc và các cơ quan chức
năng có liên quan trong thời gian từ năm 2009 đến năm 2014.
4. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu.
4.1. Quan điểm nghiên cứu
4.1.1. Quan điểm hệ thống

Nguồn lực lao động được coi là động lực cho sự phát triên kinh tế nói
10


riêng và là động lực phát triển xã hội loài người nói chung. Trong sự phát
triển chung của xã hội loài người, sự gia tăng về số lượng, chất lượng cũng
như vấn đề việc làm của người lao động chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố
khác nhau như các nhân tố về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội
hay lịch sử hình thành và khai thác lãnh thổ. Vì vậy, để nghiên cứu và nắm rõ
được vấn đề lao động và việc làm cần phải đặt chúng trong sự tác động của cả
hệ thống tự nhiên, kinh tế - xã hội và đặt trong sự vần động phát triển
không ngừng.
4.1.2. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Mọi sự vật, hiện tượng địa lý trên một lãnh thổ nhất định đều có những
nét đặc trưng riêng cho lãnh thổ đó đồng thời cũng mang những nét chung của
đối tượng địa lí đó trên một lãnh thổ ở cấp lớn hơn. Nguyên nhân là do chúng
không chỉ chịu sự tác động của các nhân tố có trong lãnh thổ nghiên cứu mà
còn chịu sự tác động của các nhân tố ở bên ngoài lãnh thổ. Vì vậy, để nghiên
cứu nguồn lao động và sử dụng lao động ở huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc
không thể không nghiên cứu vấn đề lao động và việc làm trên toàn tỉnh Vĩnh Phúc
cũng như khu vực Đồng bằng sông Hồng.
4.1.3. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Mọi sự vật hiện tượng địa lý đều có quá trình phát sinh, phát triển theo
quy luật riêng của nó. Lao động và việc làm là kết quả tất yếu của sự phát
triển dân số, phát triển kinh tế - xã hội trong quá khứ và đồng thời cũng là
điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội trong tương lai. Vì vậy, khi nghiên cứu
về vấn đề lao động – việc làm trong thời điểm hiện tại cần phải xem xét nó
trong mối quan hệ với quá khứ, từ đó tạo cơ sở cho dự báo trong tương lai.
4.1.4. Quan điểm phát triển bền vững
Trong nghiên cứu địa lí kinh tế - xã hội, quan điểm phát triển bền vững

vừa là quan điểm, vừa là mục tiêu nghiên cứu. Do đó, khi đề ra các giải pháp
giải quyết việc làm cho người lao động và sử dụng có hiệu quả nguồn lao
động cần phải dựa trên quan điểm phát triển bền vững. Vấn đề giải quyết tốt
viêc làm cho người lao động phải gắn với vấn đề sử dụng hợp lí và bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên, chống ô nhiễm môi trường đồng thời phải hướng tới mục
tiêu công bằng xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
11


4.1.5. Quan điểm động lực
Quan điểm này xem lực lượng lao động là một yếu tố kinh tế - xã hội,
một yếu tố cơ ban làm động lực cho sự phát triển của nền sản xuất xã hội, lao
động vừa là lực lượng sản xuất đồng thời cũng là lực lượng tiêu thụ sản phẩm.
Do vậy, cần có những chính sách phù hợp nhằm sử dụng hợp lí, phát huy hiệu
quả sử dụng nguồn lao động.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp thu thập tài liệu
Để phân tích rõ thực trạng nguồn lao động và sử dụng lao động trên địa
bàn huyện Lập Thạch cũng như có thể so sánh với các huyện khác trong toàn
tỉnh, tác giải đã tiến hành thu thập, xử lí số liệu từ nhiều nguồn khác
nhau, trong đó có một số nguồn thứ cấp chủ yếu sau:
- Số liệu từ Niên Giám thống kê tỉnh Vĩnh Phúc các năm 2010, 2011,
2012, 2013, 2014.
- Số liệu từ Niên Giám thống kê huyện Lập Thạch các năm 2009, 2010,
2011, 2012, 2013, 2014.
- Báo cáo kết quả điều tra thực trạng lao động thời điểm 1/10/2014,
Tỉnh Vĩnh Phúc
- Báo cáo kết quả công tác Lao động - TB&XH tỉnh Vĩnh Phúc năm
2010, 2011, 2012, 2013, 2014.
- Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu giảm

nghèo, dạy nghề và giải quyết việc làm giai đoạn 2011 – 2015.
4.2.2. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệ đã có
Các nghiên cứu trong lĩnh vực kinh tế, xã hội thường bắt đầu từ nghiên
cứu lý thuyết. Thông qua phương pháp này sẽ giúp cho người nghiên cứu tổng
hợp và định hình nên khung lý thuyết cho nghiên cứu của mình bao gồm các cơ
sở lí thuyết và cơ sở thực tiễn về sử dụng lao động trên địa bàn huyện Lập
Thach. Trên cơ sở những tài liệu, số liệu đã thu thập được từ các cuộc điều tra,
các báo cáo về công tác Lao động – TB&XH của huyện, tác giả đã tiến hành
tổng hợp tài liệu, xử lí, phân tích, so sánh từ đó đưa ra những nhận xét cơ bản
nhất về nguồn lao động và sử dụng lao động trên địa bàn huyện Lập Thạch.
12


4.2.3. Phương pháp bản đồ và GIS
Phương pháp bản đồ và GIS là phương pháp quan trọng không thể
thiếu trong khoa học địa lí. Với việc thành lập nên các bản đồ chuyên đề cho
phép người nghiên cứu nhìn nhận được sự vật, hiện tượng địa lí theo cả chiều
không gian và thời gian. Trong khi triển khai thực hiện luận văn, dựa trên
những số liệu thống kê và xử lí, tác giả đã thành lập các bản đồ hành chính
huyện Lập Thạch, bản đồ dân cư và bản đồ thực trạng sử dụng lao động
huyện Lập Thạch năm 2014.Thông qua các bản đồ thành lập, tác giả đã cố
gắng phản ánh khía cạnh không gian cũng như hiện trạng sử dụng lao động
trên địa bàn huyện trong năm 2014.
4.2.4. Phương pháp so sánh
Nguồn lao động và sử dụng lao động của huyện Lập Thạch là một bộ
phận của vấn đề lao động và sử dụng lao động của tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng
và cả nước nói chung. Vì vậy trong quá trình nghiên cứu để rút ra những nhận
xét và đánh giá cần thiết, tác giả đã tiến hành so sánh nguồn lao động và hiện
trạng sử dụng lao động trên địa bàn huyện Lập Thạch trong tổng thể nguồn
lao động và sử dụng lao động của tỉnh Vĩnh Phúc cũng như của cả nước.

4.2.5. Phương pháp chuyên gia
Phương pháp chuyên gia rất đa dạng tùy thuộc vào mức độ phức tạp
của vấn đề nghiên cứu. Trong nghiên cứu này, tác giả đã tiến hành nghiên cứu
dựa trên cơ sở tham vấn ý kiến của các thầy cô, của các cán bộ huyện, xã ở
địa phương nghiên cứu nhằm có được những ý kiến chính xác, những kết luận
sát với thực tế.
5. Những đóng góp chính của luận văn
- Tổng quan có chọn lọc cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn lao động và sử
dụng lao động để vận dụng vào địa bàn nghiên cứu là huyện Lập Thạch.
- Đánh giá được các nhân tố ảnh hưởng tới nguồn lao động và sử dụng
lao động của huyện Lập Thạch.
- Phân tích thực trạng nguồn lao động và sử dụng lao động trên địa bàn
huyện Lập Thạch.
- Bước đầu đề xuất được một sốgiải pháp nâng cao chất lượng nguồn
lao động và sử dụng hợp lí lao động của huyện Lập Thạch.
13


6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, phần nội
dung của đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về sử dụng lao động
Chương 2: Các nhân tố ảnh hưởng và thực trạng sử dụng lao động ở
huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc
Chương 3: Một số giải pháp nhằmsử dụng hợp lí lao động ở huyện Lập
Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc

14



Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Nguồn lao động và cơ cấu lao động
1.1.1.1. Nguồn lao động
Nguồn lao động là một khái niệm có ý nghĩa quan trọng làm cơ sở cho
việc tính toán cân đối lao động và việc làm trong xã hội. Nguồn lao động là
phạm trù phản ánh lực lượng quan trọng nhất của nền sản xuất xã hội. Nghiên
cứu về nguồn lao động đã có nhiều quan niệm khác nhau về nguồn lao động.
Theo Tổng cục thống kê Việt Nam, nguồn lao động bao gồm những
người từ đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người trong độ tuổi lao động
có khả năng tham gia lao động nhưng đang thất nghiệp, đang đi học, đang làm
nội trợ trong gia đình, không có nhu cầu làm việc, những người thuộc tình
trạng khác (bao gồm cả những người nghỉ hưu trước tuổi theo quy định của
Luật lao động).[1]
Nguyễn Minh Tuệ và những người khác đưa ra khái niệm “Nguồn lao
động là toàn bộ những người từ đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người
trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang thất nghiệp, đang đi
học, đang làm nội trợ trong gia đình hoặc chưa có nhu cầu làm việc” [42].
Trong nhiều tài liệu, khái niệm nguồn lao động cũng đồng nghĩa với
khái niệm dân số hoạt động kinh tế. Thực tế cho thấy không phải tất cả những
người trong độ tuổi lao động đều tham gia hoạt động kinh tế và ngược lại,
không phải người nào ngoài độ tuổi lao động thì không tham gia hoạt động
kinh tế. Theo khuyến nghị của Liên Hợp Quốc nguồn lao động được chia
thành hai bộ phận: dân số hoạt động kinh tế và dân số không hoạt động
kinh tế [42].
- Dân số hoạt động kinh tế bao gồm những người có việc làm và
những người không có việc làm (thất nghiệp) nhưng đang tích cực tìm kiếm
việc làm trong một ngành nào đó của nền kinh tế trong một khoảng thời gian
xác định.

15


Phần lớn số người trong lực lượng lao động là những người đang làm
việc trong nền kinh tế, đó là phần dân số đảm bảo nguồn cung cấp sức lao
động cho sản xuất hàng hóa và dịch vụ bao gồm cả những người đang lao
động và những người thất nghiệp, đang tích cực tìm kiếm việc làm và luôn
sẵn sàng làm việc. Trong nền kinh tế của quốc gia, lực lượng lao động đang
làm việc trong nền kinh tế có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng, triển
khai, đánh giá kết quả thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cả ở
tầm vĩ mô và tầm vi mô. Theo đó, Tổng cục thống kê đưa ra khái niệm dân số
đang làm việc là những người có việc làm/làm việc bao gồm những người từ
15 tuổi trở lên trong khoảng thời gian tham chiếu (một tuần) đang làm việc,
được trả lương, tự làm hoặc làm chủ.
- Dân số không hoạt động kinh tế bao gồm toàn bộ những người từ đủ
15 tuổi trở lên nhưng không tham gia hoạt động kinh tế do đang đi học, đang
làm nội trợ cho bản thân và gia đình, không có khả năng lao động (mất sức,
ốm đau) và những người không có nhu cầu làm việc (được hưởng lợi tức,
hưởng thu nhập mà không phải làm việc)
Trong báo cáo tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 của
Ban chỉ đạo tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương cũng đưa ra khái niệm
dân số hoạt động kinh tế là bộ phận dân số cung cấp hoặc sẵn sàng cung cấp
sức lao động cho sản xuất của cải vật chất và dịch vụ. Hay nói cách khác, dân
số hoạt động kinh tế bao gồm những người đang làm việc và thất nghiệp trong
thời gian nghiên cứu [1].
Khi khái niệm “hoạt động kinh tế hiện tại” được sử dụng để xác định
tình trạng hoạt động, thì “dân số hoạt động kinh tế” còn có tên gọi khác được
dùng rất phổ biến là “lực lượng lao động”[1].
Khái niệm lực lượng lao động được sử dụng trong thống kê ở nước ta
đó là những người từ 15 tuổi trở lên có việc làm (đang làm việc) và những

người thất nghiệp trong thời kỳ tham chiếu (7 ngày trước thời điểm
quan sát).
Như vậy, từ những quan niệm nêu trên có thể định nghĩa nguồn lao
động như sau: “Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động
16


theo quy định của pháp luật, có khả năng lao động và những người ngoài độ
tuổi lao động (trên độ tuổi lao động) đang làm việc trong các ngành kinh tế
quốc dân”[20].
Trong khái niệm nguồn lao động có thể thấy phần cơ bản của nguồn lao
động là dân số trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia lao động và được
xác định bởi luật pháp của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, quy định độ tuổi bắt đầu
của nhóm tuổi lao động và ngoài độ tuổi lao động không giống nhau ở các
quốc gia. Do đó, tỉ trọng dân số trong độ tuổi lao động ở mỗi nước có sự khác
biệt nhất định.
1.1.1.2. Cơ cấu lao động
Cơ cấu lao động có thể hiểu là một phạm trù kinh tế tổng hợp, thể hiện
tỷ lệ của từng bộ phận lao động nào đó chiếm trong tổng số lao động, hoặc thể
hiện sự so sánh của bộ phận lao động này so với bộ phận lao động khác. Cơ
cấu lao động thường được dùng phổ biến là:
a. Cơ cấu lao động theo tuổi
Cơ cấu lao động theo tuổi ở các quốc gia, các khu vực có sự khác nhau
và thay đổi theo thời gian tùy thuộc vào các yếu tố sinh, tử và việc chuyển cư.
Nếu một quốc gia có tỉ lệ sinh cao và duy trì trong một thời gian dài thì lực
lượng lao động đông, đặc biệt nguồn lao động dự trữ cho tương lai. Ngược
lại, nếu mức sinh thấp và liên tục giảm trong nhiều năm thì nguồn lao động
hiện tại của quốc gia đó rất đông nhưng nguồn lao động dự trữ sẽ khan hiếm.
Có thể thấy, số người trong độ tuổi lao động là nguồn lực quan trọng, là vốn
quý của một quốc gia do đó cần phải sử dụng số người trong độ tuổi này một

cách tối ưu để đạt được năng xuất lao động cao nhất cho toàn xã hội.
Ở Việt Nam, nhóm người dưới và trong độ tuổi lao động chiếm ưu thế
với 89,8% dân số cả nước [31]. Trong báo cáo điều tra lao động việc làm của
Tổng cục thống kê chia nguồn lao động nước ta thành 10 nhóm tuổi [1].
Xét theo khả năng tham gia vào các hoạt động kinh tế của lực lượng lao
động, tác giả thia thành 3 nhóm như sau:
- Nhóm lao động có độ tuổi từ 15 – 34 tuổi có khả năng tham gia nhiều
nhất vào tất cả các hoạt động kinh tế
17


- Nhóm lao động có độ tuổi từ 35 – 54 tuổi. Nhóm tuổi này tương đối
ổn định trong các hoạt động kinh tế
- Nhóm lao động có độ tuổi trên từ 55 tuổi trở lên.Nhóm tuổi lao động
chuẩn bị bước vào tuổi nghỉ hưu
Hiện nay cơ cấu lao động nước ta đang bước vào “thời kì vàng” và dự
báo sẽ kéo dài tới khoảng năm 2040 do đó việc sử dụng lao động hợp lí trên
tất cả các lĩnh vực kinh tế cũng như nâng cao chất lượng người lao động trong
thời kì mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
b. Cơ cấu lao động theo khu vực kinh tế
* Cơ cấu lao động theo khu vực kinh tế
Trong lí thuyết “Ba khu vực hoạt động kinh tế - xã hội”, Jean
Fourastier đã chỉ ra rằng tất cả các hoạt động của cộng đồng đều được chia
thành 3 khu vực hoạt động cơ bản và do đó lao động cũng được chia thành 3
khu vực [42]:
- Khu vực I bao gồm lao động tập trung trong các ngành nông – lâm –
ngư nghiệp
- Khu vực II bao gồm lao động tập trung trong các ngành công nghiệp –
xây dựng
- Khu vực III bao gồm lao động tập trung trong ngành dịch vụ

Sự phân chia cơ cấu lao động theo nghề nghiệp ở 3 khu vực kinh tế như
trên có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
một quốc gia, đồng thời nó cũng phản ánh tình hình phát triển kinh tế - xã hội
của quốc gia đó.
Hiện nay trên thế giới đang phổ biến cách phân chia hoạt động lao động
thành bốn khu vực, trong đó khu vực IV (lao động trí óc) đang được định hình
và được quan tâm một cách đặc biệt.
Cùng với sự thay đổi của cơ cấu nền kinh tế chung hiện nay trên toàn thế
giới, cơ cấu lao động cũng có xu hướng chuyển dịch theo hướng giảm tỉ trọng
lao động trong khu vực I, tăng tỉ trọng lao động trong khu vực II và III. Ở các
nước đang phát triển lao động tập trung chủ yếu trong các khu vực I và II.
Ngược lại, ở các nước phát triển, lao động tập trung chủ yếu trong khu vực III.
18


* Cơ cấu lao động trong nội bộ ngành kinh tế
Cơ cấu lao động trong nội bộ ngành kinh tế là sự phân chia lao động
thành những bộ phận theo ngành hẹp hơn.
- Trong nhóm ngành nông - lâm - ngư nghiệp, cơ cấu lao động được
phân chia trong các ngành nhỏ hơn bao gồm lao động trong ngành nông
nghiệp, lao động trong ngành lâm nghiệp, lao động trong ngành ngư nghiệp;
- Trong công nghiệp - xây dựng lao động được chia ra gồm lao động
trong ngành công nghiệp, lao động trong ngành xây dựng;
- Trong ngành dịch vụ gồm có cơ cấu lao động trong ngành giao thông
vận tải, lao động trong ngành thương mại…
Trong từng phân ngành nhỏ sự phân chia lực lượng lao động cũng diễn
ra. Có thể nói từ các ngành kinh tế, lao động được phân chia thành nghề
chuyên môn sâu hơn, tạo nên một cơ cấu lao động theo ngành nghề đa dạng,
phù hợp với trình độ chuyên môn kỹ thuật của từng đối tượng lao động, từ đó
góp phần nâng cao năng suất lao động.

c. Cơ cấu lao động theo giới tính
Trong hoạt động sản xuất và hoạt động kinh tế - xã hội của bất kì một
quốc gia nào sự phân chia cơ cấu lao động theo giới nam và giới nữ có tầm
quan trọng nhất định. Cơ cấu lao động theo giới phản ánh đến sự phân bố sản
xuất, tổ chức đời sống xã hội và sự hoạch định chiến lược phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia, đồng thời nói lên vị thế, vai trò của mỗi giới đối với
xã hội.
Cơ cấu lao động theo giới được phản ánh qua tương quan giữa số lao
động nam (nữ) trên 100 lao động nữ (nam) hoặc tương quan giữa số lao động
nam (nữ) so với tổng số dân, đơn vị tính bằng %.
Nhìn chung, cơ cấu lao động theo giới có sự khác nhau giữa các nhóm
nước trên thế giới. Tại các nước phát triển thường có số lao động nữ nhiều
hơn nam, ở các nước đang phát triển có chiều hướng diễn ra ngược lại.
Nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên ngoài các yếu tố xã hội còn có yếu tố
chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em dẫn tới sự khác nhau về cơ cấu lao động
theo giới giữa các nhóm nước này.

19


Bên cạnh đó, kết cấu lao động theo giới còn có sự khác biệt giữa khu
vực thành thị và nông thôn do hàng loạt các yếu tố như văn hóa, xã hội ở từng
nơi và trong từng thời gian cụ thể và đặc biệt do tính chất và nhu cầu lao động
có ảnh hưởng tới kết cấu lao động theo giới tính.
d. Cơ cấu lao động theo trình độ học vấn và trình độ
chuyên môn kỹ thuật
Cơ cấu lao động theo trình độ học vấn (hay theo trình độ văn hóa) và trình
độ chuyên môn kỹ thuật phản ánh trình độ học vấn của người dân cũng như tình
hình và khả năng phát triển kinh tế của quốc gia. Trong sự phát triển kinh tế, để
nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm ở mỗi quốc gia thì chất
lượng của người lao động đóng vai trò quan trọng. Trình độ của người lao động

càng cao thì nền kinh tế quốc gia càng có cơ hội thúc đẩy phát triển.
Khi nghiên cứu về cơ cấu lao động theo trình độ văn hóa và trình độ
chuyên môn kỹ thuật, người ta thường quan tâm tới số lượng lao động được
đào tạo các cấp, số lượng cán bộ khoa học kĩ thuật, công nhân lành nghề vì
đây là lực lượng lao động quý, có tác dụng thúc đẩy nhanh tốc độ phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhìn chung cơ cấu lao động theo trình độ văn hóa và trình độ chuyên
môn kỹ thuật có sự khác biệt giữa các nhóm nước, giữa các khu vự trên thế
giới, giữa thành thị và nông thôn, giữa giới nam và giới nữ. Ở các nước phát
triển, tỉ lệ lao động có trình độ chuyên môn kĩ thuật cao hơn rất nhiều so với
nhóm các nước đang phát triển, đặc biệt đối với lao động nữ.
1.1.1.3. Phân bố nguồn lao động
Phân bố nguồn lao động là một hiện tượng xã hội phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác nhau như điều kiện tự nhiên, điều kiện tinh tế - xã hội, lịch sử
khai thác và phát triển lãnh thổ… Tùy vào từng nhân tố ảnh hưởng khác nhau
mà nguồn lao động có sự thay đổi theo thời gian và không gian.
a. Phân bố nguồn lao động thay đổi theo thời gian
Sự thay đổi nguồn lao động theo thời gian gắn liền với sự thay đổi số
lượng dân cư theo thời gian. Dưới sự tác động của các nhân tố tự nhiên, nhân
tố kinh tế - xã hội mà đặc biệt sự thay đổi về trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất trong nhưng thời kì khác nhau đã dân tới những biến đổi về lực
20


lượng lao động theo thời gian. Trên thế giới trước đây có những khu vực dân
cư và lực lượng lao động rất thưa thớt nhưng sau đó nhờ các chính sách đổi
mới, thu hút dân cư và lao động thúc đẩy phát triển kinh tế đã khiến lực lượng
dân cư và nguồn lao động ở khu vực đó tăng lên đáng kể. Ngược lại, có
những vùng trước đây dân cư và lao động tập trung rất đông đúc nhưng khi
nền kinh tế có sự biến đổi không còn phát triển như trước nữa đã khiến cho

dân cư và lực lượng lao động tại khu vực đó suy giảm.
b. Phân bố nguồn lao động thay đổi theo lãnh thổ
Sự phân bố dân cư không đồng đều ở các khu vực khác trên thế giới tùy
thuộc vào từng điều kiện cụ thể dẫn tới sự phân bố lực lượng lao động cũng
có sự phân bố không đồng đều. Thực tế cho thấy, những nơi có điều kiện
thuận lợi cho sự quần cư và cư trú của con người thì dân cư sẽ tập trung đông
đúc và ngược lại.
c. Phân bố nguồn lao động không đều giữa các ngành kinh tế
Tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của các nước khác nhau dẫn
tới sự phân bố lao động giữa các ngành kinh tế cũng khác nhau. Tại nhóm
các nước đang phát, lao động tập trung chủ yếu trong nông nghiệp, lao động
trong công nghiệp và dịch vụ còn chiếm tỉ lệ thấp. Ngược lại, tại các nước
phát triển, lao động tập trung chủ yếu trong công nghiệp và dịch vụ, lao
động trong nông nghiệp chiếm tỉ lệ không đáng kể trong co cấu ngành kinh
tế. Chính sự khác biệt trong sự phân bố nguồn lao động theo ngành kinh tế
giữa các nhóm nước này đã tạo nên bức tranh kinh tế tương phản giữa nhóm
các nước phát triển và đang phát triển.
1.1.2. Sử dụng lao động và cơ cấu sử dụng lao động
1.1.2.1. Sử dụng lao động
a. Khái niệm sử dụng lao động
Tiềm năng lao động mới chỉ là cơ sở ban đầu và nếu người lao động chỉ
tham gia lao động một cách tự phát thì hiệu quả lao động đạt được là không
cao. Do đó, để phát huy hết khả năng của người lao động, tạo động lực thúc
đẩy quá trình sản xuất phát triển cần phải có các biện pháp sử dụng nguồn lao
động một cách có hiệu quả.

21


Việc sử dụng lao động có thể hiểu một cách đơn giản đó là hình thức

phân công lao động vào từng công việc cụ thể với những đặc tính khác nhau
về chuyên môn, hình thái. Sử dụng nguồn lao động thực chất là việc phân bổ
nguồn lao động vào các ngành kinh tế, các thành phần kinh tế, các vùng kinh
tế theo những tỉ lệ nhất định nhằm sử dụng có hiệu quả cao và đầy đủ nguồn
lao động của một quốc gia hay vùng lãnh thổ.
Như vậy khái niệm sử dụng lao động được hiểu như sau:
Sử dụng nguồn lao động là sự phân công lao động dựa trên cơ sở kết
hợp khả năng của người lao động với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội sao
cho người lao động có thể phát huy được những phẩm chất của mình để tạo
ra những hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội cao nhất [10].
Theo cách hiểu trên, hiệu quả sử dụng lao động được đánh giá thông
qua năng suất lao động, mức độ an toàn của người tham gia lao động, hao phí
trong sản xuất… cũng như tỷ suất sử dụng lao động trong một năm, qua các
năm, giữa các ngành kinh tế hay các vùng kinh tế khác nhau.
b. Các khái niệm liên quan
- Việc làm:
Việc làm là một phạm trù tồn tại khách quan trong nền sản xuất xã hội,
phụ thuộc vào các điều kiện hiện có của nền sản xuất. Người lao động được
coi là có việc làm khi chiếm giữ một vị trí nhất định trong hệ thống sản xuất
của xã hội. Nhờ có việc làm mà người lao động mới thực hiện được quá trình
lao động tạo ra sản phẩm cho xã hội, cho bản thân.
Đứng trên các góc độ nghiên cứu khác nhau, người ta đã đưa ra rất
nhiều định nghĩa nhằm làm sáng tỏ khái niệm việc làm. Và ở các quốc gia
khác nhau, do ảnh hưởng của nhiều yếu tố như điều kiện kinh tế, chính trị,
luật pháp… người ta quan niệm về việc làm cũng khác nhau. Chính vì thế,
không có một định nghĩa chung và khái quát nhất về việc làm.
Trên thực tế, việc làm được thừa nhận dưới 3 hình thức:
- Làm công việc để nhận được tiền lương, tiền công hoặc hiện vật cho
công việc đó
- Làm công việc để thu lợi cho bản thân, mà bản thân lại có quyền sử


22


dụng hoặc quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tư liệu sản xuất để tiến hành
công việc đó
- Làm các công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù
lao dưới hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó. Hình thức này bao
gồm sản xuất nông nghiệp, hoạt động kinh tế phi nông nghiệp do chủ hộ hoặc
một thành viên khác trong gia đình có quyền sử dụng, sở hữu hoặc quản lý.
Ở Việt Nam, khái niệm việc làm đã được quy định tại Điều 13 của Bộ
luật lao động: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp
luật cấm đều được thừa nhận là việc làm” [21]
Theo tổ chức lao động quốc tế ILO việc làm là hoạt động lao động
được trả công bằng tiền hoặc hiện vật.
Trong các báo cáo điều tra lao động việc làm của Tổng cục thống kê
hiện nay thường sử dụng quan niệm việc làm là mọi hoạt động lao động từ 1
giờ trở lên tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm.
Như vậy, các vấn đề cơ bản được đề cập trong quan niệm về việc làm
bao gồm vị thế của việc làm (việc làm thỏa thuận hay tự làm), mục đích của
việc làm (được trả công bằng tiền và hiện vật, hoặc mang lại lợi ích cho gia
đình và bản thân, đối công, tự làm để tạo ra lợi nhuận…) và tính hợp pháp
theo quy định của pháp luật về việc làm (nhiều việc làm tự làm và mang lại
thu nhập thậm chí rất cao nhưng vi phạm pháp luật thì không được xem là
việc làm).
- Thất nghiệp:
Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thất nghiệp bao gồm toàn bộ số
người ở độ tuổi quy định trong thời gian điều tra có khả năng làm việc, không
có việc làm và đang tìm kiếm việc làm. Từ định nghĩa về thất nghiệp, ILO đã
đưa ra bốn tiêu chí cơ bản để xác định “người thất nghiệp” đó là: trong độ

tuổi lao động; có khả năng lao động đang không có việc làm, đang đi tìm việc
làm. Nhìn chung, các tiêu chí này mang tính khái quát cao, đã được nhiều
nước tán thành và lấy làm cơ sở để vận dụng tại quốc gia mình khi đưa ra
những khái niệm về người thất nghiệp.

23


Ở nước ta, một số nhà nghiên cứu khoa học đã đưa ra những khái niệm
về thất nghiệp như: “Thất nghiệp là hiện tượng mà người có sức lao động, có
nghề, muốn đi làm việc, không có việc làm và đã đăng ký ở cơ quan có thẩm
quyền” (Kỷ yếu hội thảo khoa học 1988 Bộ Lao động –Thương binh và Xã
hội), hay trong những quy định điều tra thực trạng lao động – việc làm được
áp dụng từ năm 1996 do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tiến hành đã
xác định người thất nghiệp là người từ đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số
hoạt động kinh tế trong thười điểm điều tra không có việc làm nhưng có nhu
cầu làm việc. Ở đây, giới hạn độ tuổi của người thất nghiệp bao gồm cả
những người trên độ tuổi lao động. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế
của Việt Nam trong khi xã hội còn một tỷ lệ người trên độ tuổi lao động đang
làm việc trong nền kinh tế quốc dân và đi liền với nó là một tỷ lệ không nhỏ
người đang rơi vào tình trạng không có việc làm.
Hiện nay, trong báo cáo tổng điều tra lao động - việc làm hàng năm, để
xác định tình trạng thất nghiệp của người lao động, Tổng cục thống kê đã chỉ
ra rằng: “Thất nghiệp bao gồm những người từ 15 tuổi trở lên mà trong tuần
nghiên cứu thoả mãn đồng thời ba điều kiện: không làm việc, nhưng sẵn sàng
làm việc và đã có những bước đi cụ thể để tìm việc làm”. Nhóm này bao gồm
cả những người hiện không làm việc nhưng đang chuẩn bị khai trương các
hoạt động kinh doanh của mình hoặc nhận một công việc mới sau thời kỳ
tham chiếu; hoặc những người trong tuần nghiên cứu luôn sẵn sàng làm việc
nhưng không tìm kiếm việc làm do ốm đau tạm thời, bận việc riêng (lo hiếu,

hỷ, con nhỏ), do thời tiết xấu, đang chờ thời vụ.
Thất nghiệp là vấn đề kinh tế - xã hội phổ biến đối với hầu hết các quốc
gia. Nghiên cứu mức độ thất nghiệp giúp đánh giá chính xác mức sống và tình
hình ổn định kinh tế, xã hội… của một quốc gia.
- Thiếu việc làm:
Số người thiếu việc làm phản ánh tình trạng sử dụng lãng phí năng lực sản
xuất và dịch vụ của lực lượng lao động. Hiện nay, ở nước ta quan niệm về thiếu
việc làm bao gồm những người có việc làm mà trong thời gian tham chiếu (7
ngày trước thời điểm điều tra) mong muốn làm thêm giờ, sẵn sàng làm thêm giờ
và trên thực tế họ đã làm việc dưới 35 giờ trong tuần tham chiếu.
24


1.1.2.2. Cơ cấu sử dụng lao động
a. Cơ cấu sử dụng lao động theo ngành
Cơ sở của việc phân chia lao động theo ngành chủ yếu dựa vào tính
chất và nội dung của hoạt động sản xuất. Nền kinh tế quốc dân của một quốc
gia được chia thành ba khu vực hoạt động kinh tế cơ bản, mỗi một khu vực có
những đặc trưng riêng về tính chất sản xuất, phản ánh sức sản xuất và trình độ
sản xuất nhất định của xã hội loài người. Do đó, nguồn lao động của một quốc
gia được cũng được phân bổ ở ba khu vực kinh tế:
- Khu vực I bao gồm lao động tập trung trong lĩnh vực nông – lâm –
ngư nghiệp;
- Khu vực II bao gồm lao động tập trung trong ngành công nghiệp –
xây dựng;
- Khu vực III bao gồm lao động tập trung trong ngành dịch vụ.
Hiện nay trên thế giới đang có xu hướng phân biệt thêm khu vực thứ tư
là khu vực kinh tế tri thức
b. Cơ cấu sử dụng lao động theo lãnh thổ
Việc sử dụng lao động theo lãnh thổ thể hiện sự tương quan phân bố

lao động ở các đơn vị lãnh thổ chủ yếu, có thể xem xét trên phạm vi rộng lớn
như một quốc gia hay phạm vi vùng của một quốc gia, các tỉnh, các huyện
hay trong phạm vi các đơn vị lãnh thổ hỏ hơn huyện. Các đơn vị lãnh thổ này
có thể là những khu vực có những đặc điểm tự nhiên riêng biệt, gắn với các
đơn vị hành chính và có những hoạt động sản xuất đặc trưng quy định việc sử
dụng lao động theo lãnh thổ.
c. Cơ cấu sử dụng lao động theo thành phần kinh tế
Cách phân chia cơ cấu sử dụng lao động theo thành phần kinh tế dựa
trên cơ sở tính chất của quan hệ sản xuất, phân chia nền kinh tế thành những
khu vực khác nhau. Tỷ lệ lao động tham gia trong mỗi thành phần kinh tế là
cơ sở để xác định vai trò, tầm quan trọng của thành phần đó trong nền kinh tế
quốc dân.
Tùy thuộc vào tình hình phát triển các thành phần kinh tế ở từng quốc
gia, từng khu vực khác nhau, tỷ lệ sử dụng lao động theo thành phần kinh tế
có sự khác biệt nhất định. Hiện nay ở nước ta lao động tập trung trong các
25


×