Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

CẢNH HUỐNG NGÔN NGỮ ở HUYỆN sìn hồ, TỈNH LAI CHÂU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.35 KB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ TẠO ĐẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

NGUYỄN THÁI DŨNG

CẢNH HUỐNG NGÔN NGỮ
Ở HUYỆN SÌN HỒ, TỈNH LAI CHÂU
Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 60220102

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:

GS.TS Trần Trí Dõi
TS Bùi Thanh Hoa


SƠN LA - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu kết quả nêu trong
Luận văn là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả

Nguyễn Thái Dũng



LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TS
Trần Trí Dõi ,TS. Bùi Thanh Hoa. Nhân đây tác giả bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới thầy giáo Trần Trí Dõi, cô giáo Bùi Thanh Hoa người đã tận tình giúp
đỡ để tác giả hoàn thành Luận văn này.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới BGĐ, các thầy cô giáo tổ
Văn - Sử Trung tâm GDTX Sìn Hồ và bạn bè đồng nghiệp đã tận tình quan
tâm, giúp đỡ, cung cấp nhiều thông tin và tư liệu quý giá cho Luận văn.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy, cô giáo
những người đã trực tiếp giúp tác giả nâng cao vốn kiến thức ngôn ngữ trong
thời gian theo học chương trình thạc sĩ ngôn ngữ Việt Nam khoá 2013 – 2015
tại Trường Đại học sư phạm Sơn La.
Trong quá trình học tập và nghiên cứu bản thân tác giả đã có nhiều cố
gắng, song Luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong các thầy,
cô giáo và bạn bè đồng nghiệp chỉ dẫn và góp ý.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thái Dũng


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DTTS

: Dân tộc thiểu số

CSNN


: Chính sách ngôn ngữ

CHNN

: Cảnh huống ngôn ngữ

CSDT

: Chính sách dân tộc


DANH MỤC BẢNG


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, nhiều
chương trình, dự án, chính sách được ban hành nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế,
xã hội vùng đồng bào dân tộc, đặc biệt các dân tộc ít người. Dưới sự lãnh đạo,
chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền, các đoàn thể, sự nỗ lực vươn lên và đồng
tình ủng hộ của nhân dân các dân tộc trong huyện việc triển khai thực hiện
các chính sách đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhất là trong xoá đói
giảm nghèo. Kinh tế ở vùng đồng bào dân tộc có bước phát triển khá, đời
sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện, các dân
tộc thiểu số hoà nhập nhanh chóng vào sự phát triển chung của huyện.
Những thành tựu về tăng trưởng, xoá đói giảm nghèo là sự gia tăng
khoảng cách giữa các nhóm dân tộc trong huyện, bên cạnh những nhóm dân
tộc có trình độ phát triển khá, tận dụng tốt sự hỗ trợ từ các chính sách nhà
nước để vươn lên thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu. Bên cạnh đó vẫn còn có
những nhóm dân tộc có trình độ phát triển thấp, tỷ lệ đói nghèo cao, trình độ

dân trí thấp, tập quán sinh hoạt, sản xuất lạc hậu, sống cuộc sống du canh - du
cư, phụ thuộc vào tự nhiên. Điển hình cho nhóm dân tộc này là các dân tộc:
Mảng, Nhắng....
Huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu là huyện có nhiều dân tộc sống xen kẽ
nhau, có những ảnh hưởng lẫn nhau về mặt ngôn ngữ và chữ viết. Mỗi nhóm
ngôn ngữ đều có tính thống nhất, được phân bố trên những địa bàn nhất định
và có những chức năng xã hội khác nhau. Tiếng Việt từ lâu đã là ngôn ngữ
phổ thông của huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu dù việc sử dụng nó có thể không
đồng đều giữa các dân tộc, ở các lứa tuổi. Các dân tộc ở huyện Sìn Hồ, tỉnh
Lai Châu sống xen kẽ nên hiện tượng một dân tộc sử dụng hai hoặc hơn hai
ngôn ngữ (song ngữ và đa ngữ) là tương đối phổ biến. Trong tình trạng đan

1


xen các tộc người, thì bên cạnh việc sử dụng tiếng Kinh được coi là tiếng phổ
thông, một vài nhóm ngôn ngữ của các dân tộc khác ở huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai
Châu như nhóm ngôn ngữ Tày - Thái cũng đã được sử dụng song song trong
giao tiếp hàng ngày. Từ lâu tiếng Thái đã thực sự trở thành thứ tiếng nói
chung không chỉ trong các dân tộc Thái mà người Hoa, người Dao, người Lự,
người Mảng… và cả người Kinh miền núi cũng đều sử dụng nhóm ngôn ngữ,
Tày - Thái như ngôn ngữ phổ biến trong khu vực, và tiếng Thái được coi là
ngôn ngữ của vùng. Theo kết quả khảo sát tại 2 xã một thị trấn về điều tra
chuyên sâu về quá trình sử dụng tiếng mẹ đẻ và tiếng phổ thông của 2 dân tộc
ít người ở Huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu, chúng tôi nhận thấy một tình trạng
khá rõ là địa bàn sử dụng tiếng mẹ đẻ đang có chiều hướng bị thu hẹp lại ngay
cả ở trên quê hương của chính các dân tộc thiểu số này. Tiếng nói các dân tộc
thiểu số đang chịu ảnh hưởng trực tiếp của quá trình tiếp biến văn hoá, nó đã
bị biến đổi, lai tiếng kinh vào trong quá trình sử dụng tiếng mẹ đẻ. Đa số
người dân đã sử dụng tiếng phổ thông trong sinh hoạt, giao tiếp nhất là đối

với lớp trẻ. Việc sử dụng tiếng mẹ đẻ trong đời sống phần lớn là tập trung ở
tầng lớp trung cao tuổi trong làng bản, bởi ở họ, nó đã được hình thành như
một thói quen lâu đời. Song rõ ràng là với tốc độ giao lưu, biến đổi trong cuộc
sống như hiện nay, tiếng mẹ đẻ của một số dân tộc thiểu số không phải dân
tộc kinh ở huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đang đứng trước nguy cơ bị mai một,
khi mà trong đời sống cộng đồng có không ít người đã bỏ mất thói quen sử
dụng, thậm chí không sử dụng được thành thạo tiếng mẹ đẻ của mình. Nói
cách khác, dù tiếng mẹ đẻ vẫn đang tồn tại trong một cộng đồng dân tộc với
vai trò là tiếng nói không thể thiếu của cộng đồng này và có vai trò như một
nhân tố vô cùng quan trọng để khu biệt dân tộc này với dân tộc khác, nhưng
mức độ thể hiện, vai trò của tiếng mẹ đẻ trong đời sống cộng đồng các dân tộc
thiểu số ở huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã và đang bị phai mờ.

2


Thực tế cho thấy, ở huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu, ngoài sự tiếp thu các
loại văn hoá khác thì việc tiếp thu ngôn ngữ phổ thông ngày càng diễn ra
mạnh mẽ. Các thế hệ trẻ hàng ngày được học tập văn hoá bằng tiếng Việt,
được nghe nhìn và thưởng thức văn học nghệ thuật cũng đều bằng tiếng Việt.
Có thể nói, trong đời sống hàng ngày, tiếng phổ thông đã chiếm quá nửa với
tư cách là phương tiện giao tiếp. Chính vì thế, trong giao tiếp với các thành
viên trong gia đình, người ta cũng dần chuyển sang nói tiếng Việt. Một số bộ
phận thanh thiếu niên, sau khi thoát li gia đình đi học tập hay đi công tác trở
về nhà đều không muốn nói bằng tiếng mẹ đẻ của mình nữa vì cảm thấy
ngượng nghịu do lâu ngày ít sử dụng nên khiến nó bị mai một. Bởi vậy để
diễn đạt được ý của mình dễ dàng và thuận tiện, phong phú hơn, người ta đã
thích sử dụng tiếng phổ thông hơn. Do việc giao lưu thường xuyên và sự phát
triển đời sống xã hội của các dân tộc cùng với các loại phương tiện thông tin
đại chúng ngày càng phong phú, đa dạng thì một điều không thể tránh khỏi là

sự từ bỏ tiếng mẹ đẻ và làm biến đổi tiếng mẹ đẻ. Từng ngày, từng giờ, các
thứ tiếng khác nhau được tiếp xúc với nhau, dẫn đến có sự vay mượn từ ngữ
giữa các ngôn ngữ. Điều này đã dẫn đến sự tạo ra trong ngôn ngữ các dân tộc
thiểu số nói chung nhiều loại từ phiên âm, tiếng lóng hoặc các từ ngữ, cách
nói được vay mượn từ tiếng Việt, thậm chí cả các từ ngữ tiếng nước ngoài.
Bản thân tác giả Luận văn này được công tác trên mảnh đất Sìn Hồ Lai Châu 13 năm, vùng đất hội tụ của trên 15 dân tộc anh em cùng sinh sống
và được coi là quê hương cách mạng. Đây chính là điều kiện để tác giả Luận
văn đi sâu nghiên cứu, khảo sát tìm hiểu “Cảnh huống ngôn ngữ ở huyện
Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu” bằng tất cả niềm say mê, niềm tự hào với quê hương.
Với đề tài “Cảnh huống ngôn ngữ ở huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu”. Luận
văn sẽ đi sâu vào tìm hiểu đặc điểm cảnh huống ngôn ngữ và đời sống kinh tế
- văn hoá - xã hội của các dân tộc sinh sống tại nơi đây để từ đó nêu kiến nghị

3


những giải pháp cụ thể nhằm bảo tồn và gìn giữ tiếng mẹ đẻ của các dân tộc
thiểu số, phục vụ cho chính sách phát triển văn hoá giáo dục của huyện Sìn
Hồ, tỉnh Lai Châu nói riêng, của đất nước ta nói chung.
2. Lịch sử vấn đề
Cảnh huống ngôn ngữ của một quốc gia nói chung hay của một khu
vực nói riêng được hình thành trong suốt một thời gian dài chứ không chỉ
trong một vài năm. Cảnh huống ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng trong
việc đưa ra các chính sách ngôn ngữ. Nhận thức được điều này, trong suốt
mấy chục năm gần đây, các nhà nghiên cứu trên thế giới cũng như ở Việt
Nam đã hết sức quan tâm nghiên cứu vấn đề này nhằm đưa ra được những cơ
sở lý thuyết chung phục vụ cho việc nghiên cứu ngôn ngữ nói chung và phát
triển xã hội nói riêng. Đề cập đến cảnh huống ngôn ngữ không thể không
nhắc tới các tác giả nước ngoài như: V.YU.Mikhailchenko, A.E.Karlinskij,
Iu.A.Zhluktenko, V.C.Rubalkin, V.A.Tkachenko…Trong nước có thể kể đến:

Trần Trí Dõi với các công trình:“Nghiên cứu các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam”, “Thực trạng giáo dục ở vùng dân tộc miền núi một số tỉnh của Việt
Nam”, Khổng Diễn với “Dân số và dân số tộc người ở Việt Nam”, “Vấn đề
chữ viết của các dân tộc thiểu số”; Tạ Văn Thông (chủ biên) - “Tìm hiểu ngôn
ngữ các dân tộc ở Việt Nam”; Nguyễn Đức Tồn với “Cảnh huống và chính
sách ngôn ngữ ở Liên bang Nga” (Tạp chí Ngôn ngữ, số 1&2 năm 2000),
Những cơ sở lí luận và thực tiễn khi xây dựng chính sách ngôn ngữ của Việt
Nam trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế (Tạp chí
Ngôn ngữ số 1 năm 2010), hay công trình cấp bộ "Nghiên cứu về tiếng Chăm
và chữ viết Chăm ở An Giang" do GS Nguyễn Văn Khang chủ nhiệm, mới
được nghiệm thu đánh giá xuất sắc năm 2009,...
Việt Nam là một quốc gia của 54 dân tộc cùng chung sống hòa thuận,
trong đó dân tộc Kinh chiếm 86% dân số; 53 dân tộc còn lại có số lượng dao

4


động trên dưới một triệu người như Tày, Nùng, Thái, Mường, Khmer cho đến
vài trăm người như các dân tộc Ơ Đu và Brâu. Dân tộc Kinh sống rải rác ở
trên khắp lãnh thổ, nhưng tập trung nhiều nhất ở các đồng bằng và châu thổ
các con sông. Họ là chủ nhân của nền văn minh lúa nước. Đa số các dân tộc
còn lại sinh sống ở miền núi và trung du, trải dài từ Bắc vào Nam; hầu hết
trong số họ sống xen kẽ nhau, điển hình là cộng đồng dân tộc thiểu số ở phía
Bắc và Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên... 54 dân tộc sinh sống trên đất nước Việt
Nam có ngôn ngữ riêng và nền văn hóa truyền thống đặc sắc của mình. 24
dân tộc có chữ viết riêng như: Thái, Mông, Tày, Nùng, Khmer, Gia Rai, Êđê,
Hoa, Chăm… Một số chữ viết này đang được sử dụng trong các trường học.
Trong quá trình phát triển, tiếng Việt được chọn là ngôn ngữ chung cho
các dân tộc. Trong hệ thống giáo dục từ mẫu giáo đến bậc đại học, tiếng Việt là
ngôn ngữ phổ thông, là công cụ để truyền thụ kiến thức; đồng thời cũng là công

cụ giao tiếp, quản lý Nhà nước của các dân tộc trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Như chúng ta đều biết, ngôn ngữ là một trong những yếu tố quan trọng
nhất của ý thức giác ngộ dân tộc và cũng là phương tiện thống nhất dân tộc. Ở
các quốc gia đa dân tộc, đa văn hoá và đa ngôn ngữ như Việt Nam, cùng với
vấn đề dân tộc và tôn giáo, ngôn ngữ càng trở nên có vai trò hết sức quan trọng.
Chính vì thế, cho dù ở bất kì quốc gia nào, nhà nước cũng luôn quan
tâm đến chính sách ngôn ngữ, và chính sách ngôn ngữ luôn luôn không thể
thiếu cùng với chính sách dân tộc. Nói đến chính sách ngôn ngữ là nói đến hệ
thống các chủ trương, biện pháp của nhà nước nhằm tác động có định hướng
đến sự phát triển cũng như sự hành chức của các ngôn ngữ trong một quốc
gia. Và mỗi quốc gia luôn cần phải có một chính sách ngôn ngữ phù hợp với
từng giai đoạn lịch sử. GS Nguyễn Đức Tồn đã chỉ ra rằng có chính sách ngôn
ngữ đúng thì đất nước mới ổn định, thống nhất và phát triển bền vững. Nếu
chính sách ngôn ngữ mắc sai lầm thì đất nước sẽ bị rơi vào tình trạng rối loạn,

5


thậm chí có thể là nguyên nhân gây ra các cuộc xung đột sắc tộc đẫm máu
làm tan rã cộng đồng quốc gia như chúng ta đã từng chứng kiến xảy ra ở các
nước như Liên Xô và Nam Tư...trước đây [12].
Ngay từ khi thành lập, vấn đề về ngôn ngữ đã được Đảng Cộng sản
Việt Nam hết sức chú ý, chẳng hạn, trong đề cương văn hoá năm 1943 của
Đảng. Từ đó đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đến chính sách
ngôn ngữ, coi ngôn ngữ là một nhân tố hết sức quan trọng trong việc củng cố
nền độc lập, khối đại đoàn kết dân tộc và thống nhất đất nước. Điều này đã
được ghi rõ trong Hiến pháp, trong nhiều nghị quyết và các văn bản pháp quy
của Nhà nước, đặc biệt trong Quyết định 53/CP (22/2/1980) của Hội đồng
Chính phủ.
Hiện nay, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội

nhập quốc tế (giai đoạn 2015- 2020), vấn đề sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp
giữa các dân tộc trong một lãnh thổ và giữa các dân tộc trên thế giới đã và
đang có những biến đổi mạnh mẽ và sâu sắc. Tình hình này đã có sự tác động
rất lớn đến cảnh huống ngôn ngữ của các nước, trong đó có Việt Nam.
Nói đến cảnh huống ngôn ngữ, như các nhà ngôn ngữ học đã chỉ ra, là
nói đến toàn bộ các hình thái tồn tại của một ngôn ngữ, hay toàn bộ các ngôn
ngữ trong mối quan hệ tương hỗ về lãnh thổ - xã hội và sự tương tác về mặt
chức năng, trong giới hạn của một khu vực địa lí, hay một thực thể hành chính
– chính trị nhất định. Do cảnh huống ngôn ngôn ngữ của một quốc gia thay
đổi nên chính sách ngôn ngữ của quốc gia ấy cũng phải thay đổi theo cho phù
hợp. Bởi vậy việc nghiên cứu cảnh huống ngôn ngữ để phục vụ cho việc
hoạch định chính sách ngôn ngữ luôn luôn có tính thời sự.
Cho đến nay, ở Việt Nam nói chung, các công trình đã xuất bản trong
nước chỉ nghiên cứu từng khía cạnh khác nhau của tình hình sử dụng một

6


ngôn ngữ nào đó hoặc một nhân tố nào đó tại một địa phương nhất định trên
lãnh thổ Việt Nam.
Việc nghiên cứu toàn diện các vấn đề thuộc cảnh huống ngôn ngữ ở
một địa phương có nhiều dân tộc cùng chung sống như huyện Sìn Hồ, tỉnh
Lai Châu hầu như chưa có.
Vì vậy chúng tôi chọn vấn đề “Cảnh huống ngôn ngữ ở huyện Sìn
Hồ tỉnh Lai Châu” để làm đề tài cho luận văn nhằm chỉ ra các đặc điểm và
những nhân tố ảnh hưởng đến tình hình sử dụng ngôn ngữ ở huyện Sìn Hồ,
tỉnh Lai Châu. Từ đó, Luận văn cung cấp thêm các cứ liệu thực tế để góp
phần trong việc hoạch định chính sách ngôn ngữ phù hợp với địa phương.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến việc
sử dụng ngôn ngữ ở huyện Sìn Hồ tỉnh Lai Châu (trong đó tập trung vào
“nghiên cứu trường hợp” tiếng Thái và tiếng Mông và tiếng dân tộc Mảng.
Tiếng Thái, tiếng Mông là ngôn ngữ của dân tộc có số dân chiếm tỷ lệ đông
nhất trong Huyện; Tiếng Thái, tiếng Mông là ngôn ngữ được sử dụng trong
giao tiếp ở một số xã, với tư cách như ngôn ngữ vùng. Còn tiếng Mảng là
ngôn ngữ của người Mảng đại diện cho nhóm dân tộc đặc biệt ít người ở
huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu nhằm mục đích miêu tả các đặc điểm “Cảnh
huống ngôn ngữ ở huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu”. Trong quá trình nghiên
cứu, chúng tôi sẽ trực tiếp khảo sát 2 xã, 1 thị trấn của huyện Sìn Hồ, có các
dân tộc là đối tượng nghiên cứu trong luận văn để tìm hiểu kĩ hơn thực tế sử
dụng các ngôn ngữ nơi đây, cũng như ý kiến của các nhà quản lí và giáo
viên; thái độ, nguyện vọng của học sinh và đồng bào các dân tộc về vấn đề
dạy và học tiếng Việt và tiếng mẹ đẻ của mình nên như thế nào.

7


3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu một số khía cạnh về “Cảnh huống
ngôn ngữ ở huyện Sìn Hồ tỉnh Lai Châu”:
- Thực trạng sử dụng ngôn ngữ trong đời sống hàng ngày của đồng bào
dân tộc thiểu số ở (bao gồm việc sử dụng tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ của dân
tộc khác trong các phạm vi giao tiếp khác nhau (trong phạm vi gia đình, làng
bản, ở trường học, ở chợ, trong lễ hội…).
- Điều kiện và môi trường văn hóa, giáo dục của đồng bào có quan hệ
trực tiếp tới thực tế sử dụng và bảo tồn ngôn ngữ.
- Thực trạng sử dụng ngôn ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân đối
với giáo viên và học sinh các cấp phổ thông trong huyện và thái độ ngôn ngữ
của giáo viên và học sinh nơi đây đối với việc sử dụng ngôn ngữ làm phương

tiện truyền thụ kiến thức và vấn đề học tiếng mẹ đẻ.
Từ kết quả thu được trong các phạm vi nghiên cứu này chúng tôi thử đề
xuất một số giải pháp trong việc bảo tồn và phát triển tiếng mẹ đẻ của các dân
tộc thiểu số, vấn đề giáo dục và sử dụng tiếng Việt trong hoạt động giáo
dục và đời sống xã hội của đồng bào các dân tộc thiểu số ở huyện Sìn Hồ,
tỉnh Lai Châu.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích
Với đề tài “Cảnh huống ngôn ngữ ở huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu” mục
đích của luận văn là: Thứ nhất, nắm chắc tình hình thực tế của việc sử dụng
ngôn ngữ của dân tộc Thái và Mông, Mảng trong đời sống và các phạm vi
hoạt động khác nhau.
Thứ hai, để từ đó nêu kiến nghị những giải pháp cụ thể nhằm bảo tồn
và gìn giữ tiếng mẹ đẻ của các dân tộc thiểu số, phục vụ cho chính sách phát
triển văn hoá giáo dục của Lai Châu nói riêng, của đất nước ta nói chung.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
8


- Tìm hiểu cơ sở lí thuyết có liên quan đến đề tài.
- Khảo sát và miêu tả tình hình sử dụng ngôn ngữ của người Thái và
Mông, Mảng ở huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Tìm hiểu thái độ và nguyện
vọng của họ đối với việc sử dụng ngôn ngữ.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng những phương pháp
nghiên cứu chủ yếu sau:
5.1. Phương pháp ngôn ngữ học điền dã
Phương pháp này sử dụng các bảng hỏi, ghi âm, chụp ảnh, phỏng vấn...
để thu thập tư liệu về cảnh huống ngôn ngữ ở huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu.
5.2. Phương pháp thống kê

Phương pháp này được sử dụng để định lượng các yếu tố có liên quan
đến cảnh huống ngôn ngữ, từ đó có cơ sở để rút ra các nhận xét, kết luận về
hiện tượng được khảo sát.
5.3. Phương pháp miêu tả
Phương pháp này được sử dụng để miêu tả hoàn cảnh sử dụng ngôn
ngữ để thấy được sự chi phối của từng thông số cảnh huống ngôn ngữ đến
việc sử dụng ngôn ngữ của đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Sìn Hồ, tỉnh
Lai Châu.
6. Đóng góp mới
6.1. Về lí luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần soi sáng những vấn đề lí
luận chung về cảnh huống ngôn ngữ vốn mới được nghiên cứu chủ yếu ở
nước ngoài, từ đó góp phần xây dựng chuyên ngành ngôn ngữ học xã hội ở
nước ta. Luận văn có thể mang lại những kinh nghiệm nghiên cứu quý cho
những người quan tâm trong lĩnh vực này. Luận văn góp phần thực hiện chính
sách ngôn ngữ dân tộc của Đảng và nhà nước về giải quyết vấn đề ngôn ngữ
văn tự của các dân tộc thiểu số.
9


6.2. Về thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được coi là những luận cứ có
giá trị để Đảng và Nhà nước ta nói chung, các nhà lãnh đạo ở huyện Sìn Hồ,
tỉnh Lai Châu nói riêng, hoạch định chính sách về ngôn ngữ - xã hội tại huyện
Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu trong mối quan hệ với các địa phương khác trong cả
nước khi xây dựng và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ
XI Đảng cộng sản Việt Nam, đặc biệt nói riêng là trong lĩnh vực văn hóa –
giáo dục huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Việc phát triển ngôn ngữ của các dân
tộc nói riêng và tạo nên sự thống nhất trong ngôn ngữ Việt Nam nói chung có
vai trò quan trọng nhằm hướng tới việc giáo dục và sử ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ

của các dân tộc thiểu số cũng như tiếng Việt.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận
văn gồm có các chương sau:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết chung về cảnh huống ngôn ngữ. Những đặc
điểm về địa lí tự nhiên, kinh tế - văn hoá – xã hội và dân cư ở huyện Sìn Hồ,
tỉnh Lai Châu.
Chương 2: Đặc điểm của cảnh huống ngôn ngữ ở huyện Sìn Hồ, tỉnh
Lai Châu xét theo các tiêu chí định lượng và định chất.
Chương 3: Đặc điểm của cảnh huống ngôn ngữ ở huyện Sìn Hồ, tỉnh
Lai Châu xét theo tiêu chí định giá và những vấn đề đặt ra đối với chính sách
ngôn ngữ - xã hội ở huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu.

10


Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
I. Cơ sở lí thuyết về cảnh huống ngôn ngữ
1.1. Khái quát chung về cảnh huống ngôn ngữ
1.1.1. Khái niệm “cảnh huống ngôn ngữ”
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người; ngôn
ngữ cũng là phương tiện tư duy. Đối với mỗi cá nhân, tiếng mẹ đẻ được hình
thành, phát triển từ tuổi ấu thơ, góp phần hình thành, phát triển nhân cách mỗi
người. Đối với mỗi dân tộc, ngôn ngữ được hình thành và phát triển trong lịch
sử hình thành, phát triển ngàn năm của mỗi dân tộc, góp phần thống hợp dân
tộc, là phương tiện ghi lại kinh nghiệm lịch sử, tri thức, trí tuệ…làm nên văn
hóa của mỗi dân tộc. Ngôn ngữ là bộ phận chủ yếu của văn hóa. Ngôn ngữ
dân tộc là biểu hiện của bản sắc văn hóa dân tộc, mỗi dân tộc có một ngôn
ngữ riêng, được dùng trong hoạt đông giao tiếp. Do đó, mỗi ngôn ngữ là sự sở

thuộc thân thiết, là tài sản thiêng liêng của dân tộc. Bảo vệ ngôn ngữ các dân
tộc chính là bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc. Đối với loài người, các ngôn ngữ
đều có giá trị nhân văn như nhau; kho tàng các ngôn ngữ thế giới là tài sản
quý báu của nhân loại. Bảo vệ, duy trì các ngôn ngữ mang ý nghĩa nhân bản
sâu sắc.
Có rất nhiều các công trình nghiên cứu về chính sách ngôn ngữ nói
chung và cảnh huống ngôn ngữ nói riêng. Trong hầu hết các công trình này
các tác giả đều đưa ra những quan niệm của mình về cảnh huống ngôn ngữ.
Có thể điểm một số công trình sau: V.YU. Mikhalchenco với Những vấn đề
dân tộc - ngôn ngữ ở Liên bang Nga: Cảnh huống ngôn ngữ và chính sách
ngôn ngữ // cảnh huống và chính sách ngôn ngữ ở các quốc gia đa dân tộc;
Nguyễn Đức Tồn với Cảnh huống và chính sách ở Liên bang Nga; Nguyễn

11


Văn Lợi với Một số vấn đề về chính sách ngôn ngữ ở các quốc gia đa dân
tộc… Mặc dù nhấn mạnh ở khía cạnh này hay khía cạnh khác, nhưng tựu
trung lại các tác giả đều cho rằng: Cảnh huống ngôn ngữ là sự phân bố những
hình thức tồn tại khác nhau của ngôn ngữ trên một lãnh thổ. Đặc biệt, trong
luận văn này, để có cơ sở làm việc, chúng tôi theo quan niệm của
V.Yu.Mikhalchenco đã được Nguyễn Đức Tồn dẫn trong bài nghiên cứu của
mình như sau: "Cảnh huống ngôn ngữ là sự phân bố được hình thành trong
suốt một thời gian dài trên một lãnh thổ nhất định những hình thức tồn tại
khác nhau (ngôn ngữ văn học, khẩu ngữ, các phương ngữ) và những hình
thức thể hiện khác nhau (nói và viết) của các ngôn ngữ đang hành chức trên
lãnh thổ này" [19,9].
Có thể nói: Cảnh huống ngôn ngữ là một khái niệm quan trọng trong
ngôn ngữ xã hội học và có liên quan trực tiếp đối với chính sách ngôn ngữ.
Nói cách khác, chính sách ngôn ngữ gắn bó chặt chẽ với cảnh huống ngôn

ngữ. Tuy nhiên để có cách nhìn nhận đúng về cảnh huống ngôn ngữ thì cần
phải xem xét nhiều khía cạnh khác, trong đó có các nhân tố hình thành nên
cảnh huống ngôn ngữ.
1.1.2. Các nhân tố hình thành cảnh huống ngôn ngữ
Cảnh huống ngôn ngữ của một quốc gia hay khu vực nào đó được hình
thành nên trong suốt một thời gian lâu dài. Trong quá trình hình thành, cảnh
huống ngôn ngữ chịu sự tác động của rất nhiều các nhân tố khác nhau. Theo
V.Yu.Mikhalchenco thì có các nhân tố sau đây hình thành nên cảnh
huống ngôn ngữ.
Các nhân tố dân tộc - nhân khẩu: thành phần dân tộc của cư dân trong
một khu vực, cách cư trú của những người thuộc các dân tộc khác nhau, sự
phân hóa xã hội, trình độ học vấn của họ.

12


Các nhân tố ngôn ngữ học: Trạng thái cấu trúc và chức năng của một
ngôn ngữ: trong ngôn ngữ này lại có các phong cách chức năng, hệ thống
thuật ngữ, truyền thống chữ viết...
Các nhân tố vật chất: có các cuốn từ điển, sách hội thoại, tài liệu, giáo
viên, hệ thống lớp học ngôn ngữ...hay không.
Các nhân tố con người: Những định hướng có giá trị của người bản
ngữ, tri năng ngôn ngữ, sự sàng lọc ngôn ngữ mới của họ....Hay
T.B.Krjuchkova thì cho rằng: cảnh huống ngôn ngữ là một hiện tượng phức
tạp nhiều tầng bậc, gồm các thông số chủ quan và khách quan.
- Thông số chủ quan bao gồm:
+ Sự đánh giá của những đối tượng sử dụng ngôn ngữ về các ngôn ngữ
và các hình thức tồn tại các ngôn ngữ tham gia vào cảnh huống.
+ Sự đánh giá tập trung khả năng thích dụng trong giao tiếp, uy tín văn
hóa và thẩm mĩ của ngôn ngữ...

- Thông số khách quan bao gồm:
+ Số lượng các ngôn ngữ (phương ngữ, biệt ngữ...) hành chức trên địa
bàn lãnh thổ hành chính.
+ Số người sử dụng các ngôn ngữ này, cách phân bố các đối tượng sử
dụng, số lượng phạm vi giao tiếp của từng ngôn ngữ, số lượng người có chức
năng ưu thế và đặc tính ngôn ngữ của chúng (biến thể của một ngôn ngữ hay
các ngôn ngữ khác nhau).
Như vậy, có thể thấy cảnh huống ngôn ngữ được hình thành từ rất
nhiều nhân tố. Dựa vào các nhân tố trên, có thể phân loại cảnh huống ngôn
ngữ theo các tiêu chí: định lượng, định chất và định giá.
- Các tiêu chí định lượng gồm:
+ Số lượng các thứ tiếng (thổ ngữ/ phương ngữ/ ngôn ngữ).
+ Số lượng người nói mỗi thứ tiếng trong quan hệ với số lượng chung
cư dân khu vực đó.

13


+ Số lượng các phạm vi giao tiếp của mỗi ngôn ngữ trong quan hệ với
số lượng chung các phạm vi giao tiếp.
+ Số lượng các ngôn ngữ nổi trội về chức năng.
- Các tiêu chí định chất gồm:
+ Đặc điểm của các thứ tiếng thuộc khu vực đó: chúng là các biến thể
của một ngôn ngữ, hay là các ngôn ngữ độc lập.
+ Quan hệ về cấu trúc và cội nguồn các ngôn ngữ: các tiếng giống nhau
hay khác nhau về loại hình; có quan hệ cội nguồn với nhau hay không; mức
độ quan hệ cội nguồn.
+ Tính chất cân bằng hay không cân bằng về chức năng của các ngôn
ngữ.
- Tiêu chí định giá liên quan đến thái độ, quan điểm của người bản ngữ

hay người nói ngôn ngữ khác về tính hữu ích, giá trị văn hóa của một ngôn ngữ.
1.1.3. Sự phân loại cảnh huống ngôn ngữ
Trên cơ sở các nhân tố hình thành, cảnh huống ngôn ngữ được phân
loại như sau:
* Dựa theo số lượng ngôn ngữ
Theo số lượng các ngôn ngữ được sử dụng trên một khu vực có thể chia
cảnh huống ngôn ngữ thành: cảnh huống ngôn ngữ một thành tố và cảnh
huống ngôn ngữ đa thành tố.
* Dựa theo tiêu chí định chất
- Theo tiêu chí định chất 1: Có thể phân chia thành: cảnh huống ngôn
ngữ đơn ngữ (chỉ có một ngôn ngữ với các biến thể của ngôn ngữ này) và
cảnh huống ngôn ngữ đa ngữ (từ hai ngôn ngữ trở lên).
- Theo tiêu chí định chất 2: Có thể xét theo 2 tiêu chí nhỏ:
+ Xét theo quan hệ cội nguồn, có thể chia thành: cảnh huống ngôn ngữ
đồng nguồn và cảnh huống ngôn ngữ phi đồng nguồn.

14


+ Xét theo loại hình, có thể chia thành: cảnh huống ngôn ngữ đồng hình
và cảnh huống ngôn ngữ phi đồng hình.
- Theo tiêu chí định chất 3 - tiêu chí năng lực giao tiếp của các ngôn
ngữ: có thể chia cảnh huống ngôn ngữ ra thành: cảnh huống ngôn ngữ cân
bằng (trong đó các ngôn ngữ có chức năng giao tiếp ngang bằng nhau) và
cảnh huống ngôn ngữ phi cân bằng (khi các ngôn ngữ có năng lực giao tiếp
không ngang bằng nhau).
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trong nhất của con người (V.I.
Lê nin). Mỗi một cộng đồng xã hội hay dân tộc khác nhau có những hình thức
giao tiếp khác nhau. Có những dân tộc trong xã hội chỉ dùng một ngôn ngữ
duy nhất để giao tiếp với nhau. Trường hợp ấy gọi là tình trạng đơn ngữ. Lại

có những dân tộc trong xã hội để giao tiếp với nhau người ta sử dụng nhiều
hơn 2 ngôn ngữ trong sinh hoạt hàng ngày. Trường hợp này người ta gọi là
tình trạng song ngữ. Nói như Nguyễn Văn Khang trong "Ngôn ngữ học xã
hội" thì "Song ngữ, theo cách hiểu chung nhất, là hiện tượng sử dụng 2 hay
trên 2 ngôn ngữ của người song ngữ trong xã hội đa ngữ" [15,39]. Đồng thời
với việc làm rõ khái niệm này, chúng tôi cũng nêu ra một số khái niệm liên
quan đến song ngữ.
- Người song ngữ: là người biết 2 hoặc trên 2 ngôn ngữ hoàn toàn như
nhau, có khả năng sử dụng một cách thuần thục 2 ngôn ngữ đó. Tuy nhiên
trên thực tế thì việc sử dụng thuần thục 2 ngôn ngữ của một người song ngữ là
không hề đơn giản. Cho nên khả năng song ngữ của người song ngữ được
chia thành 2 loại lớn: song ngữ hoàn toàn và song ngữ bộ phận
+ Song ngữ hoàn toàn là khả năng nắm một cách chủ động, tự do như
nhau 2 ngôn ngữ đến mức có thể tư duy trực tiếp bằng từng ngôn ngữ mà
không cần dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác - song ngữ lí tưởng.

15


+ Song ngữ bộ phận (song ngữ không hoàn toàn, song ngữ có điều
kiện) là trong một phạm vi cơ bản, người sử dụng có thể trình bày được ý
nghĩ của mình mà người khác hiểu được, thụ cảm được, đồng thời lại có thể
hiểu được điều người khác trình bày bằng ngôn ngữ đó. Đây là hiện
tượng song ngữ phổ biến.
- Song ngữ xã hội: Đây là khái niệm chưa được quan tâm đúng mức bởi
khi nói đến song ngữ thì người ta thường nghĩ đến song ngữ cá nhân nhưng
trên thực tế thì điều quan trọng lại thuộc về song ngữ xã hội. Chỉ trong xã hội
thì cá nhân mới tiến hành giao tiếp song ngữ được. Tuy nhiên khi lí giải hiện
tượng song ngữ xã hội, cần phải xuất phát từ 3 phương diện là: tính khu vực,
tính dân tộc, tính chức năng.

- Giao thoa (ngôn ngữ) là hiện tượng lệch khỏi chuẩn của một ngôn
ngữ nào đó trong lời nói của những người biết từ hai ngôn ngữ trở lên.
Trong nghiên cứu ngôn ngữ, thuật ngữ song ngữ được sử dụng thường
xuyên và trở nên quen thuộc bởi ở giai đoạn đầu việc nghiên cứu ngôn ngữ chủ
yếu dựa vào 2 ngôn ngữ. Việc nghiên cứu chỉ dựa vào hai ngôn ngữ cũng bắt
nguồn từ thực tế số lượng người biết song ngữ phổ biến hơn so với đa ngữ.
Tuy nhiên trong tiến trình phát triển của lịch sử - xã hội với xu thế quốc
tế hóa ngày càng diễn ra mạnh mẽ thì số người biết nhiều ngôn ngữ (đa ngữ)
tăng lên đáng kể. Thuật ngữ đa ngữ cũng chính thức được sử dụng rộng rãi. Đề
cập đến vấn đề này, Nguyễn Văn Khang trong "Ngôn ngữ học xã hội" đưa ra:
"Đa ngữ không chỉ là một hiện tượng ngôn ngữ học thuần túy mà nó có liên
quan đến cả vấn đề chính trị - xã hội mang tính nhà nước ở các quốc gia nói
chung và đặc biệt ở các quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ nói riêng" [15,62].
Như vậy có thể nói song ngữ, đa ngữ là hiện tượng phổ biến ở tất cả
các quốc gia trên thế giới. Mặc dù là hai khái niệm độc lập nhưng hai cách gọi

16


song ngữ và đa ngữ có thể dễ dàng luân chuyển cho nhau trong khi sử dụng.
Nói cách khác thì khi dùng song ngữ cũng đã bao hàm đa ngữ và ngược lại.
Khi nghiên cứu về hiện tượng song ngữ, các nhà nghiên cứu mà đại
diện là Gumperz còn bàn đến vấn đề song thể ngữ. Tác giả đã chỉ ra rằng hiện
tượng song thể ngữ không chỉ có trong xã hội đa ngữ mà cả trong xã hội sử
dụng 2 hoặc trên 2 phương ngữ khác nhau. Như vậy, "các biến thể ngôn ngữ
được sử dụng trong môi trường song ngữ sẽ bao gồm cả các ngôn ngữ và các
phương ngữ cùng tồn tại lâu dài trong một cộng đồng xã hội và có sự phân
bố chức năng sử dụng chúng” [15,91 ].
Trong một cộng đồng đa ngữ dễ xảy ra hiện tượng pha tạp ngôn ngữ.
Có người cho rằng ngôn ngữ pha tạp rất nguy hiểm cho người sử dụng và có

thể làm hỏng ngôn ngữ đồng thời cũng làm rối ren cho cả công việc nghiên
cứu ngôn ngữ. Tuy nhiên có nhà nghiên cứu lại cho rằng ngôn ngữ pha tạp có
tầm quan trọng khá lớn trong đời sống giao tiếp cũng như trong lĩnh vực
nghiên cứu khoa học nhân văn nói chung và nghiên cứu ngôn ngữ nói riêng.
Việt Nam là quốc gia đa ngữ, trong đó chủ đạo là tiếng Việt hay còn
được gọi là tiếng phổ thông. Trong Chính sách của Đảng và Nhà nước đối
với ngôn ngữ các dân tộc thiểu số, Tạ Văn Thông có nêu quan điểm về tiếng
và chữ phổ thông như sau: “Tiếng và chữ phổ thông là ngôn ngữ chung giữa
các địa phương và các dân tộc trong cả nước, giúp cho các địa phương và
các dân tối thiểu số có thể đồng đều về các mặt kinh tế, văn hóa, khoa học xã
hội..., tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân và thực hiện quyền lợi học tập
và sử dụng tiếng và chữ phổ thông”. Nói như vậy có nghĩa là tiếng và chữ
phổ thông được dùng đồng thời với tiếng và chữ ở các vùng dân tộc. Như vậy,
tiếng phổ thông thường là ngôn ngữ của một cộng đồng người có số dân
đông, có trình độ khoa học phát triển...được chọn làm phương tiện giao tiếp
chung của các dân tộc sống trong một cộng đồng. Ở nước ta thì tiếng phổ
thông đồng nghĩa với ngôn ngữ quốc gia.
17


1.2. Khái quát chung về chính sách ngôn ngữ
1.2.1. Khái niệm chính sách ngôn ngữ
Khi đề cập đến khái niệm chính sách ngôn ngữ (CSNN) có rất nhiều
quan niệm được đưa ra. Có thể kể ra một số công trình như: Chính sách dân
tộc Lêninit và sự phát triển các ngôn ngữ xã hội của các dân tộc ở Liên Xô
của B.A.Avrorin; Xây dựng ngôn ngữ ở Liên Xô của M.I.Isaev, Lingguistic
Minorrities in Multilingual Settings của Paul ston; Cảnh huống và chính sách
ngôn ngữ ở các quốc gia đa dân tộc của V.YU. Mikhalchenco; Chính sách
ngôn ngữ. Chính sách ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam của Như Ý;
Chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với ngôn ngữ các dân tộc

thiểu số của Tạ Văn Thông...Nhìn chung khi đưa ra các quan niệm của mình,
các tác giả có thể đi sâu vào một mặt nào đó, nhưng nhìn chung đều cho rằng:
CSNN là sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa
vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra. Theo ý kiến của
B.A.Avrorin, M.I. Isaev và một số người khác thì: "CSNN là một bộ phận
hữu cơ trong chính sách dân tộc của một giai cấp hay một đảng phái nào đó"
và nó là "bình diện ngôn ngữ trong chính sách ngôn ngữ (cương lĩnh) của
Đảng và Nhà nước về vấn đề dân tộc" [1,20,183].
Ý kiến của các tác giả trên dựa trên cơ sở chính sách dân tộc của một
nhà nước, một đảng, phái... và chỉ nhằm giải quyết những nhiệm vụ gắn liền
với các vấn đề thuộc phạm trù dân tộc. Như vậy, cách định nghĩa CSNN này
chưa thỏa đáng và chưa đánh giá đúng tầm của nó. Bởi vì: Thứ nhất: CSNN
không thể là một bộ phận của chính sách dân tộc (CSDT) được vì trong các
quốc gia đơn dân tộc, đơn ngữ luôn có CSNN. Thứ hai: CSNN cũng như
những chính sách khác đều được xây dựng trên cơ sở đường lối và nhiệm vụ
chung của một nhà nước, một giai cấp nhất định và phục vụ đường lối và nhiệm
vụ đó. Quy CSNN vào CSDT, thực chất là không tính đến tính quy định của
chính trị và phạm vi tác động của nó trong mối liên hệ với chính sách chung của

18


×