Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

ĐẶC điểm THƠ TRỮ TÌNH lưu QUANG vũ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (540.81 KB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
-------------˜&™-------------

TRẦN THẾ TUÂN

ĐẶC ĐIỂM
THƠ TRỮ TÌNH LƯU QUANG VŨ
Chuyên ngành:
Mã số:

Văn học Việt Nam hiện đại
60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Trần Đăng Xuyền

HÀ NỘI – 2015


Lời cảm ơn
Em xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc tới GS.TS Trần Đăng Xuyền, người thầy
đã dành cho em sự quan tâm, hướng dẫn tận tình và những gợi ý quý báu trong quá
trình em thực hiện luận văn này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới PGS.TS Lưu Khánh Thơ đã cho em những ý
kiến cùng với những tài liệu liên quan đến tác giả Lưu Quang Vũ.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam hiện
đại, khoa Ngữ văn, phòng quản lý khoa học trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã
quan tâm, giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn Sở Giáo Dục và Đào tạo tỉnh Điện Biên. Trường


THPT Trần Can – Điện Biên Đông – Điện Biên, đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
trong thời gian học tập.
Xin được biết ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên tôi
trong quá trình thực hiện luận văn!
Hà Nội, tháng 10 năm 2015
Tác giả

Trần Thế Tuân


MỤC LỤC
(Lá bưởi lá chanh)............................................................................................94


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lưu Quang Vũ một con người, một số phận, một ngôi sao sáng trên bầu trời
văn học Việt Nam cuối thế kỷ XX. Mấy ai từng biết rằng con người ấy đã âm thầm,
lặng lẽ vượt lên chính mình, vượt qua bao bão giông của cuộc đời để miệt mài lao
động nghệ thuật, để được thỏa lòng đam mê và tình yêu đắm đuối với nghệ thuật
chân chính, “nghệ thuật vị con người”.
Vào những năm 80 của thế kỷ XX trên sân khấu của kịch nói Việt Nam như
bước vào thời kỳ hồi sinh, khởi sắc. Hầu hết các rạp chiếu phim suốt từ bắc đến
nam đều lung linh ánh đèn trở lại. Những bước chân tấp nập, vội vã của hàng nghìn
khán giả đứng chờ xếp hàng mua vé vào xem những vở kịch làm xôn xao dư luận
của Lưu Quang Vũ như: Lời nói dối cuối cùng; Nàng Xi-ta; Chết cho điều chưa có;
Nếu anh không đốt lửa; Lời thề thứ 9…
Có thể nói rằng, bằng chính tài năng, tâm huyết và khát khao bỏng cháy của
mình Lưu Quang Vũ đã đem đến cho sân khấu kịch nói Việt Nam lúc bấy giờ một
sự hồi sinh thật sự mạnh mẽ. Trong vòng chưa đầy 8 năm (1980 đến 1988) Lưu

Qung Vũ đã cho ra đời hơn 50 vở kịch được công chúng yêu thích và đón nhận một
cách nồng nhiệt, được diễn đi diễn lại nhiều lần trên khắp cả nước, mở ra một thời
kỳ phát triển huy hoàng của sân khấu Việt Nam. Hàng chục vở kịch của anh đã
được xướng tên cho các giải vàng trong các hội diễn sân khấu toàn quốc. Đó là thời
kỳ mà kịch của Vũ đã thực sự chiếm lĩnh được sân khấu, thậm chí là “làm mưa làm
gió trên sân khấu nhất là sân khấu hội diễn”- (Lý Hoài Thu). Có lẽ chỉ chừng ấy
thôi cũng đủ để nói lên năng lực và sức sáng tạo dồi dào của một con người có tài
năng bẩm sinh này. Kịch của Lưu Qung Vũ không chỉ dừng lại là những trăn trở,
suy tư sâu lắng về lẽ sống và lẽ làm người mà đó còn là tiếng lòng thiết tha, đồng
vọng thấm đẫm chất thơ trong đề tài của anh. Có những vở kịch của Lưu Quang Vũ
đã đứng vững trước thời gian, vượt lên trên tính thời sự của một thời để hướng tới
cái muôn đời, cái vĩnh hằng của cuộc sống.
Nhắc đến Lưu Quang Vũ còn phải nhắc đến mảng truyện ngắn của anh. Tuy
1


không gây được những tiếng vang và sự ồn ào như kịch, nhưng những tác phẩm của
anh cũng mang đến cho người đọc xúc cảm riêng mang đậm phong cách của Vũ.
Bởi đó là những câu chuyện luôn rất đời, rất thật và thấm đẫm hồi ức, là những suy
tư, trăn trở về cuộc đời, về lẽ sống. Anh khiến cho người đọc phải suy nghĩ nhiều
hơn về trách nhiệm của mình. Dường như qua những trang viết của Lưu Quang Vũ
người đọc nhận thấy rằng họ phải sống tốt hơn, phải có trách nhiệm hơn đối với con
người và cuộc sống. Mặc dù những sáng tác truyện ngắn không nhiều nhưng cũng
đã kịp hé lộ ở Lưu Quang Vũ một cây bút có tiềm năng trong lĩnh vực này, như một
nhận xét đầy tinh tế và mang tính tiên đoán của nhà văn Nguyễn Minh Châu: “Nếu
một lúc nào đó…anh bỏ kịch và thơ, đi hẳn vào văn xuôi, chắc là anh vẫn giữ cái
ngòi bút chừng mực dung dị và những truyện ngắn của anh chắc chắn sẽ có sức
nặng hơn nhiều và giới văn xuôi lại như giới kịch bây giờ, cứ ngớ ra mà nhìn anh
tung hoành” [1].
Hai nhà nghiên cứu Lý Hoài Thu và Lưu Khánh Thơ đã rất có lý khi cho

rằng: văn xuôi của Lưu Quang Vũ là cầu nối giữa kịch và thơ, bởi truyện ngắn của
anh là “những truyện ngắn mang dư vị thơ” và “hàm chứa nhiều chất kịch”. Đúng
như đã có lần chính Lưu Quang Vũ cũng đã từng tâm sự: “Trong quan niệm của
tôi, thơ và kịch rất gần nhau” và “chất thơ phải là linh hồn của kịch”.
Tháng 9 năm 2000, Lưu Quang Vũ vinh dự nhận giải thưởng Hồ Chí Minh
về văn học nghệ thuật cũng bởi những đóng góp to lớn ấy của anh cho nền sân khấu
nước nhà. Anh là tác giả trẻ tuổi nhất được vinh dự nhận giải thưởng cao quý này.
Như vậy, trước hết và sau cùng người ta vẫn thấy Lưu Quang Vũ là con
người của thi ca. Từ thẳm sâu trong con người anh, tâm hồn anh vẫn là tình yêu
mãnh liệt, bỏng cháy dành cho thơ. Thơ là nơi để anh gửi gắm, ký thác những nỗi
niềm, những uẩn khúc sâu thẳm, thầm kín nhất của lòng mình mà nhiều khi anh
không thể nói bằng kịch hay truyện. Tình yêu ấy vẫn luôn nung nấu và không
ngừng lớn mạnh trong trái tim của Lưu Quang Vũ, khiến cho anh luôn dành thời
gian và một sự quan tâm đặc biệt cho thơ, mặc dầu vẫn còn đó những vất vả, lo toan

2


bộn bề của cuộc sống. Thậm chí trong những ngày tháng cay đắng nhất của cuộc
đời khi tình yêu và hạnh phúc tan vỡ thì thơ như là người bạn tri kỷ để tâm hồn anh
neo đậu, trú ngụ, để anh tìm thấy sự an ủi, vỗ về và xoa dịu những vết thương lòng
để anh sống “…Và anh tồn tại”. Điều đó lý giải vì sao đã rất nhiều lần Lưu Quang
Vũ đã tâm sự với bạn đọc: “thơ mới là tình yêu của tôi”; “Tôi muốn sẽ làm thơ
mãi, nếu như mình còn làm được” [33].
Trên cuộc hành trình tìm đến với “nàng thơ”, Lưu Quang Vũ như một chàng
trai đa tình, lãng tử yêu thơ bằng một tình yêu đắm đuối, nồng nàn và tha thiết nhất.
Để rồi từ đó anh vượt lên chính mình, vượt qua cả những cảnh ngộ của bản thân,
những xót xa, cay đắng, lầm lỡ của cuộc đời để lặng lẽ và bền bỉ sáng tạo.
Thơ Lưu Quang Vũ đã mang đến cho người đọc một giọng điệu riêng, một
thế giới nghệ thuật khá đặc sắc và mới mẻ. Chính vì vậy mà thơ anh có sức hút bao

nhiêu thì cũng có chừng bấy nhiêu điều bí ẩn. Tuy nhiên, từ trước tới nay chưa có
một công trình nghiên cứu nào đi sâu vào tìm hiểu những đặc điểm mang tính hệ
thống và nổi bật nhất về thơ trữ tình của Lưu Quang Vũ.
Vì những lẽ đó, chúng tôi chọn đề tài “Đặc điểm thơ trữ tình Lưu Quang
Vũ” với mong muốn đưa ra một cái nhìn trọn vẹn hơn, hệ thống hơn về thế giới thơ
trữ tình Lưu Quang Vũ. Bởi hành trình tìm đến với thơ của Vũ cũng chính là hành
trình tìm đến với con người anh, đến với tiếng lòng thiết tha, sâu lắng, dung dị mà
thầm kín của người nghệ sĩ tài hoa này. Đó cũng là cách mà hết thảy chúng ta,
những người của hiện tại gửi lời tri ân đến anh, một con người luôn đắm đuối và hết
mình vì nghệ thuật.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lưu Quang Vũ chính thức bước vào con đường thơ ca của mình vào
cuối thập niên sáu mươi của thế kỷ trước với phần thơ đầu tay “Hương cây” được
in chung với nhà thơ Bằng Việt trong tập “Hương cây – Bếp lửa” (1968). Các tập
thơ như: Mây trắng của đời tôi (1989); Bầy ong trong đêm sâu (1993); Lưu Quang
Vũ – Di cảo thơ và nhật ký (2008); Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi (2010),
cũng lần lượt được ra đời sau khi anh mất.

3


2.2. Cùng với thời gian những công trình nghiên cứu của giới chuyên môn về
thơ Lưu Quang Vũ ngày một nhiều hơn và nó đã thu hút được sự quan tâm của
nhiều độc giả trên cả nước. Tiêu biểu như các công trình nghiên cứu, các bài viết
của các tác giả sau đây.
Xuân Quỳnh – Lưu Quang Vũ tình yêu và sự nghiệp (Lưu Khánh Thơ sưu
tầm và biên soạn), tập hợp nhiều bài viết của nhiều tác giả.
Lưu Quang Vũ thơ và đời (Lưu Khánh Thơ biên soạn). Là tập hợp những tác
phẩm tiêu biểu của tác giả cùng với những lời nhận xét của người thân, bạn bè,
đồng nghiệp về cuộc đời và sự nghiêp của nhà thơ.

Lưu Quang Vũ tài năng và lao động nghệ thuật (Lưu Khánh Thơ chủ biên),
được ra đời nhân dịp tác giả được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về
Văn học nghệ thuật.
Lưu Quang Vũ - về tác gia và tác phẩm (Lý Hoài Thu – Lưu Khánh Thơ
tuyển chọn và giới thiệu), là tuyển tập những bài nghiên cứu của nhiều tác giả về
thơ, kịch, truyện ngắn của Lưu Quang Vũ.
Hoài Thanh trong bài viết “Một cây bút trẻ nhiều triển vọng”, được đăng
trên Tạp chí văn học (số 12/1966), đã có nhiều phát hiện tinh tế, mới mẻ về thơ Lưu
Quang Vũ. Ông cho rằng thơ Lưu Quang Vũ có một giọng điệu rất riêng, rất độc
đáo đó là “Một tiếng nói nhỏ nhẹ mà sâu”. Đặc biệt tác giả đã khẳng định: “Lưu
Quang Vũ đã có nhiều câu, nhiều đoạn đúng là thơ, lại có cả một bài thơ rất hay.
Năng khiếu của anh đã rõ. Miễn anh đi đúng, nhất định anh sẽ đi xa”.
Tác giả Lê Đình Kỵ trong bài “Hương cây – Bếp lửa – Đất nước và đời ta”,
đăng trên báo Văn nghệ ngày 15/5/1969, đã có một cái nhìn khá thú vị về thơ Lưu
Quang Vũ: “Thơ Lưu Quang Vũ có một điệu tâm hồn riêng và không thiếu tâm
tình, một tâm tình sâu sắc, tự nhiên không rứt ra được, nó như có tự bao giờ và
được đem san sẻ cho các bài thơ”.
Vũ Quần Phương lại nhận thấy: “Đọc thơ anh có cảm giác anh viết kịch để
sống với mọi người, và làm thơ để sống với riêng mình”. (Tạp chí Văn học, số 41989).
Năm 1996, trong bài viết “Tình yêu – đau xót và hi vọng”, kể về những
4


chuyện tình trong cuộc đời của Lưu Quang Vũ, những mối tình đã trở thành nguồn
cảm hứng chính trong nhiều sáng tác của anh, tác giả Lưu Khánh Thơ cho rằng:
“Lưu Quang Vũ là một người đàn ông may mắn. Trong cuộc đời long đong, vất vả
của anh, hầu như ở giai đoạn nào anh cũng gặp một tình yêu lớn. Cho dù cái mà tình
cảm đó đem lại có thể là một vết thương, một nỗi đau suốt đời”.
Ngoài ra còn có rất nhiều những bài viết khác của các nhà phê bình nghiên
cứu về thơ Lưu Quang Vũ như Vũ Từ Trang, Anh Ngọc, Nguyễn Thị Minh Thái,

Nguyễn Trọng Tạo, Bích Thu...Tất cả đã cho thấy sức hút của thơ anh trong đời
sống văn học của ngày hôm nay.
Nhìn chung, trong các bài viết, các công trình nghiên cức của các tác giả về
thơ Lưu Quang Vũ đã có sự đánh giá khách quan và công bằng hơn so với cái nhìn
về thơ Vũ ở thời kỳ trước. Các tác giả tiếp cận thơ Lưu Quang Vũ ở nhiều vấn đề,
nhiều góc độ khác nhau. Có người chú ý đến giọng điệu của thơ, có người lại quan
tâm đến những biểu tượng hay có người lại nhìn nhận thơ anh và con người anh từ
phương diện tình yêu. Nhưng đáng chú ý hơn cả là những nghiên cứu về thơ Lưu
Quang Vũ ở các nội dung lớn như: về quê hương, đất nước; hiện thực chiến tranh
và cuộc sống con người; về tình yêu và hạnh phúc.
Tình yêu đối với quê hương, đất nước luôn luôn là một thứ tình cảm thiêng
liêng, cao đẹp trong thơ Lưu Quang Vũ. Ở phương diện này tác giả Hoài Thanh đã
phát hiện ra tình yêu của anh được thể hiện một cách rất cụ thể là: “Yêu Tổ quốc
trước hết cũng là yêu thành quả của người lao động”.
Nhận xét về những bài thơ tình của Lưu Quang Vũ, tác giả Lý Hoài Thu cho
rằng: “Trước sau, dấu ấn sâu đậm nhất về một thi sĩ tài hoa, đa cảm ở Lưu Quang
Vũ vẫn là những bài thơ tình”.
Việt Nga cũng có chung một cảm nhận: “Tình yêu trở thành đức tin lớn nhất
của Lưu Quang Vũ giữa cuộc đời đầy rẫy những biến động và phức tạp”.
Xét ở phạm vi nghiên cứu trong trường đại học, đã có một số các công trình
nghiên cứu, tìm hiểu về thơ Lưu Quang Vũ. Có thể kể tên cụ thể như sau:
Về luận văn thạc sĩ gồm có: Đặc sắc thơ trữ tình Lưu Quang Vũ (Nguyễn Thị
5


Kim Chi, 2004); Phong cách thơ Lưu Quang Vũ (Nguyễn Thị Thu Thủy, 2008); Thơ
tình Lưu Quang Vũ (Dương Ngọc Thúy, 2010); Cảm hứng thế sự và cảm hứng đời
tư trong thơ Lưu Quang Vũ (Phạm Thị Minh Huệ, 2011); Cảm thức cô đơn trong
thơ Lưu Quang Vũ (Trần Thị Hương Giang, 2013).
Về khóa luận tốt nghiệp có: Cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ giai

đoạn 1971-1973 (Hà Thị Hạnh, 2005).
Về báo cáo khoa học: Người phụ nữ trong thơ Lưu Quang Vũ (Hà Thị Hạnh,
2003); Cảm thức cô đơn trong thơ Lưu Quang Vũ giai đoạn 1971- 1973 (Đỗ Thị Hà
Anh, 2007); Biểu tượng gió trong thơ Lưu Quang Vũ (Trương Thị Mai Hương, 2010).
Nhìn chung, ở các công trình nghiên cứu trên ít nhiều đều đã đề cập đến một
vài đặc điểm của thơ Lưu Quang Vũ, nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu
một cách có hệ thống và đi sâu vào những đặc điểm nổi bật nhất của thơ trữ tình
Lưu Quang Vũ. Xuất phát từ những khoảng trống ấy và từ những nhận định, đánh
giá của các nhà nghiên cứu phê bình đi trước là những gợi ý quý báu cho chúng tôi
trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu này.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là nhằm chỉ ra những đặc điểm nổi bật
nhất về nội dung và nghệ thuật của thơ trữ tình Lưu Quang Vũ. Từ đó thấy được
những đóng góp của Lưu Quang Vũ về thơ ca cho nền văn học nước nhà.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài này bao gồm tất các tập thơ đã xuất bản của
Lưu Quang Vũ:
- Hương cây – Bếp lửa (in chung với Bằng Việt, năm 1968)
- Mây trắng của đời tôi (1989)
- Bầy ong trong đêm sâu (1993)
- Thơ Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ, NXB Hội nhà văn, 1994.
- Lưu Quang Vũ thơ và đời, Lưu Khánh Thơ biên soạn, NXB Văn hóa Thông
tin,1997.
- Lưu Quang Vũ thơ và truyện ngắn, NXB Hội nhà văn, 1998.
6


- Di cảo: Nhật ký: Mùa hoa phượng và nhật ký lên đường – Thơ: Những
bông hoa không chết, NXB Lao động, 2008.
- Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, NXB Hội nhà văn, (2010).

5. Phương pháp nghiên cứu
Khi thực hiện luận văn này người viết đã sử dụng những phương pháp
nghiên cứu chủ yếu sau đây.
- Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại.
- Phương pháp thống kê phân loại.
- Phương pháp hệ thống.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
6. Đóng góp của luận văn
Khi lựa chọn và thực hiện luận văn này người viết mong muốn đem đến cho
người đọc một cái nhìn có hệ thống về những đặc điểm cơ bản nhất ở phương diện
nội dung và nghệ thuật của thơ trữ tình Lưu Quang Vũ.
Đồng thời, luận văn cũng góp phần làm rõ diện mạo, phong cách riêng của thơ
Lưu Quang Vũ trong dòng chảy xuyên suốt của thơ ca Việt Nam thời hiện đại. Từ đó
chúng ta càng hiểu hơn về thơ và đời của người nghệ sĩ đầy tài năng và bí ẩn này.
7. Cấu trúc của luận văn
Trong luận văn này, ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo
nội dung của luận văn được triển khai gồm 3 chương:
Chương 1: Thơ chống Mỹ và hành trình sáng tạo nghệ thuật của Lưu
Quang Vũ.
Chương 2: Những hình tượng tiêu biểu trong thơ Lưu Quang Vũ.
Chương 3: Một số nét đặc sắc về nghệ thuật trong thơ Lưu Quang Vũ.
---------------------------------------------

7


Chương 1
THƠ CHỐNG MỸ VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT
CỦA LƯU QUANG VŨ
1.1. Phác thảo diện mạo chung của thơ thời kỳ chống Mỹ

Có thể nói rằng cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta được bắt
đầu kể từ sau khi hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Không lâu sau đó với âm mưu và
giã tâm muốn xâm lược đất nước ta, đế quốc Mỹ cùng với chính quyền tay sai Ngô
Đình Diệm đã ra sức phá hoại hiệp định Giơ-ne bằng cách đơn phương gây chiến với
quân ta ở nhiều nơi, chúng cũng ban hành nhiều đạo luật, chính sách phản động hà
khắc, tiêu biểu như sự ra đời của đạo luật 10/59, lê máy chém đi khắp miền Nam để
đàn áp, giết hại đồng bào ta. Những hành động dã man đó của kẻ thù đã làm xuất hiện
đội quân tóc dài của quê hương Bến Tre với phong trào Đồng khởi (1959 - 1960)
nhanh chóng lan rộng ra khắp miền Nam, sức nóng của cuộc chiến đã được đẩy lên
một cao trào mới. Cuối cùng người Mỹ đã dựng lên cái gọi là “sự kiện vịnh Bắc Bộ”
tháng 8/1964, để mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược ra miền Bắc. Lòng căm hờn đối
với giặc Mỹ xâm lược của nhân dân hai miền Nam-Bắc ngày càng trở nên sôi sục.
Cũng chính thời điểm ấy đã có biết bao nhiêu thế hệ, lớp lớp những thanh
niên, những người con ưu tú theo tiếng gọi tha thiết của non sông đất nước đã “xếp
bút nghiên theo nghiệp binh đao”, lên đường tòng quân bảo vệ Tổ quốc. Cả dân tộc
bước vào một cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại trên mọi phương diện, ở mọi nơi.
Đối với văn học nghệ thuật, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã thúc
đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền thơ ca. Bởi vì “Viết về cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của nền văn học nói chung và
thơ ca nói riêng thời kỳ chống Mỹ. Đó không chỉ là đòi hỏi của thời đại mà còn là
sự thôi thúc bên trong của chính các nhà thơ”[15,346]. Đây cũng chính là sự kế tục
và phát triển liền mạch của thơ ca cách mạng Việt Nam có từ trước đó.
Nhìn vào bức tranh tổng quát của thơ ca thời kỳ chống Mỹ chúng ta có thể
nhận ra rằng nhiều thế hệ nhà thơ đã chung tay xây dựng nên bề dày của nền thơ ca
ấy. Chưa bao giờ mà đội ngũ các nhà thơ lại được tập hợp nhiều những thế hệ và
nhiều phong cách như ở giai đoạn này. Sự đa dạng ấy vừa có tính chất kế thừa, lại
8


vừa thống nhất và bổ sung cho nhau để cùng làm nên một diện mạo mới cho thơ

Việt Nam thời chống Mỹ. Đó là thế hệ các nhà thơ đã từng nổi danh và được đông
đảo công chúng đón nhận từ trước Cách mạng như: Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận,
Chế Lan Viên…đến nay bút lực của họ vẫn còn sung mãn và tiếp tục gặt hái được
nhiều thành công trên con đường sáng tạo nghệ thuật của mình. Đó là một hệ quả
tất yếu của cuộc hành trình “tìm đường, nhận đường”, từ bỏ cái tôi riêng lẻ, bế tắc,
cô đơn để đến với đất nước, với nhân dân, với cội nguồn sáng tạo nghệ thuật. Một
cuộc hành trình đầy khó khăn, gian khổ nhưng cũng thật vẻ vang “từ thung lũng
đau thương ra cánh đồng vui” để có được những thay đổi lớn lao, cần thiết trong
cuộc đời, “người thay đổi đời tôi, người thay đổi thơ tôi”- (Chế Lan Viên).
Tiếp đến là thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong đạn lửa của cuộc kháng
chiến chống Pháp: Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Vũ Cao, Trần
Mai Ninh, Hồng Nguyên, Chính Hữu, Quang Dũng, Hoàng Cầm… cũng thực sự đang
trong thời kỳ khởi sắc trên con đường sáng tạo nghệ thuật của mình.
Tuy nhiên, với những cách nhìn, cách nghĩ và cách cảm nhận về chiến tranh
như vậy vẫn còn chưa đáp ứng được những kỳ vọng và mong mỏi đến từ bạn đọc.
Bức tranh tổng quát về cuộc chiến tranh ấy dường như vẫn còn thiếu đi một mảng rất
quan trọng để có thể giúp người đọc hiểu một cách đầy đủ hơn về “những ấm lạnh”
của người lính đang ngày đêm lăn lộn trên chiến trường chống Mỹ đầy cam go, quyết
liệt. “Người đọc vẫn khao khát, mong đợi sự xuất hiện của những nhà thơ, không
phải chỉ bộc lộ cái tình đối với những người đang đổ máu ngoài tiền tuyến, làm
người chứng kiến những cuộc tiễn đưa hay cắm thêm những cành ngụy trang cho
những đoàn quân trùng trùng ra trận mà là những nhà thơ trực tiếp cầm súng, thật
sự xông vào nơi mưa bom bão đạn, từng giờ từng phút đối mặt với cái chết để nói về
chiến tranh, để tự nói về mình và đồng đội của mình ”[15,347].
Trước những đòi hỏi của hoàn cảnh lịch sử và nhu cầu phát triển tất yếu của
nền thơ chống Mỹ ấy, chỉ trong vòng mười năm, thơ ca chống Mỹ đã chứng kiến sự
xuất hiện của rất nhiều những gương mặt trẻ như Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Vũ Quần
Phương, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Mỹ, Lê Anh Xuân, Thanh Thảo, Hoàng Nhuận
Cầm, Hữu Thỉnh, Nguyễn Duy, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Khoa Điềm, Lưu Quang
9



Vũ, Phan Thị Thanh Nhàn, Trần Đăng Khoa...Và “đó là những gương mặt tiêu biểu
đem lại vinh quang cho cả thế hệ thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ”[15,348].
Giá trị xuyên suốt và nổi bật của thơ ca kháng chiến chống Mỹ là ở nội dung
tư tưởng – cảm xúc. Vì nó đã tập trung biểu hiện những tư tưởng, tình cảm lớn của
thời đại, phát hiện, sáng tạo và xây dựng nên những hình tượng cao đẹp, kỳ vĩ, lớn
lao về Tổ quốc, Dân tộc, Nhân dân…Về những thế hệ con người Vệt Nam đang
đứng lên chiến đấu anh dũng với giặc Mỹ xâm lược để bảo vệ quê hương, đất nước
thân yêu của mình.
Tiếp nối truyền thống yêu nước của thơ ca ở những giai đoạn trước, chủ
nghĩa yêu nước trong thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Mỹ vẫn tiếp tục phát
triển, đồng thời được nâng lên tầm cao mới và được biểu hiện hết sức phong phú
và đa dạng.
Cảm hứng sử thi là cảm hứng chủ đạo trong thơ ca thời kỳ này. Để thể hiện
được một cách sinh động và thành công cảm hứng chủ đạo ấy các nhà thơ đã không
ngần ngại hòa mình vào dòng thác chung của thời đại, đi sâu, đi sát và thực hiện
“cùng ăn, cùng ở, cùng làm”, cùng nhân dân chiến đấu với phương châm “sống đã
rồi hãy viết”, bởi nghệ thuật từ cuộc sống mà ra và cũng là để phục vụ cho cuộc
sống, nên phải mang tiếng nói của nhân dân, của thời đại đó. Họ đã ý thức được
rằng: “Trong hoàn cảnh lịch sử và khí quyển tinh thần ấy, thơ không thể không trở
thành tiếng nói chung của cả cộng đồng, phát ngôn cho ý chí, khát vọng tình cảm
chung rộng lớn và thống nhất của mọi người, của toàn dân tộc. Đó là lúc mà như
cách nói của Chế Lan Viên: Những năm Đất nước có chung tâm hồn, có chung
khuôn mặt. Nụ cười tiễn đưa con nghìn bà mẹ như nhau. Bởi vậy không có con
đường nào khác cho thơ ngoài con đường bay theo đường dân tộc đang bay”, [10].
Chính vì vậy mà họ đã nhanh chóng có được một vị trí trang trọng và vững chắc
trong lòng của quần chúng nhân dân:
Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy
Bên những dũng sĩ đuổi xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi.

(Chế Lan Viên)

10


Trước khi trở thành những nhà thơ, những người nghệ sĩ, họ đã là những
chiến sĩ cầm súng ngày đêm lăn lộn, chiến đấu trực tiếp với quân thù trên chiến
trường. Họ là “những chàng trai xuất thân từ nông dân, mặc áo lính, đánh giặc và
làm thơ…Hầu hết trong số họ, khi bắt đầu cầm bút làm thơ chưa bao giờ nghĩ mình
sẽ trở thành nhà thơ và đoạt giải thưởng này nọ. Đơn giản là lúc nghỉ chân trên
chặng đường hành quân hay khoảng lặng giữa hai trận đánh, họ cầm bút ghi lại
những gì mình đã và đang làm, những tâm tư, tình cảm, nỗi nhớ nhà, nhớ quê
hương, nơi có những người thân yêu ở đó…” – (Thơ chống Mỹ - Một diễn ngôn
thời đại, Đỗ Ngọc Yên).
Vì vậy, họ cũng ý thức rất rõ trách nhiệm của một người công dân đối với
quê hương, đất nước thân yêu của mình khi bị quân thù giày xéo. Lớp lớp những
thanh niên năm ấy đã lên đường với một nhiệm vụ nặng nề nhưng cao đẹp biết bao:
“Cả thế hệ dàn hàng gánh đất nước trên vai” - (Bằng Việt).
Những năm tháng ấy mọi người con của quê hương không kể già trẻ, gái trai
tất cả họ đều có chung một ước mơ cháy bỏng, một khát khao mãnh liệt và một câu
trả lời duy nhất khi tổ quốc kêu gọi:
Lớp tuổi hai mươi, ba mươi điệp trùng áo lính
Trùng điệp áo màu xanh là một tiếng trả lời.
(Thanh Thảo)
Trên những con đường ra trận, vượt qua mưa bom bão đạn của quân thù, các
nhà thơ đã kịp thời ghi lại rất nhiều những khuôn mặt, những bức chân dung của
những con người “gánh đất nước trên vai”, đang làm nên lịch sử ấy một cách cụ
thể, sinh động. Họ là những cô gái thanh niên xung phong, những người lính lái xe
trên tuyến đường Trường Sơn đạn lửa mà vẫn hồn nhiên, yêu đời đến lạ.
Người tinh nghịch là anh dễ thân

Bởi vì thế có em đứng gần
Em ở Thạch Kim sao lại lừa anh nói là "Thạch Nhọn"
Ðêm ranh mãnh ngăn cái nhìn đưa đón.
(Phạm Tiến Duật)
11


Lưu Quang Vũ xuất hiện và nhập cuộc lần đầu tiên trên văn đàn thời kỳ
chống Mỹ bằng phần thơ “Hương cây” trong tập thơ “Hương cây – Bếp lửa” in
chung với nhà thơ Bằng Việt. Ngay từ những buổi đầu xuất hiện ấy, thơ Lưu Quang
Vũ đã kịp gieo vào lòng người đọc những ấn tượng khó phai và được đánh giá là
“một cây bút trẻ có nhiều triển vọng”[26]. Bằng tài năng và tâm huyết của mình
Lưu Quang Vũ đã đóng góp một tiếng nói rất riêng, rất độc đáo vào dàn đồng ca
hào hùng, hào sảng ấy của thời đại.
Như vậy, nếu quan niệm “Diễn ngôn” là sự thông qua lớp ngôn ngữ của tác
phẩm thi ca để diễn đạt tinh thần thời đại, mà khi người ta nhắc đến giai đoạn văn
chương của thời đại ấy, không thể không nhắc đến những gì mà họ từng trải nghiệm thì
thơ ca kháng chiến chống Mỹ đã thực sự trở thành một diễn ngôn của thời đại mang
tính lịch sử, gắn liền với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta.
1.2. Hành trình sáng tạo nghệ thuật của Lưu Quang Vũ
Lưu Quang Vũ là một người đa tài và thành công trên nhiều thể loại của văn
học, nghệ thuật như: thơ ca, truyện ngắn, phê bình sân khấu và từ năm 1980 anh
được biết đến như một “hiện tượng” của sân khấu kịch nói Việt Nam.
Khi tìm hiểu về Lưu Quang Vũ ta nhận thấy điều khiến anh luôn trăn trở,
luôn đau đáu trong tâm can mình lại chính là thơ. “Vũ rất yêu thơ. Ngày đó thơ anh đã
hay nhưng anh nói: Phải khi nào viết được hết những gì của mình mới có thể gọi là thơ”
[12]. Tác giả Nguyễn Thị Minh Thái cũng đã từng nhận xét: “Trong tính cách sáng

tạo của con người tài hoa trẻ trung Lưu Quang Vũ thì Thơ là hồn cốt thâm hậu
nhất, chứ không phải là kịch nghệ, báo chí, văn xuôi hay hội hoạ - những mảnh đất

mà chàng đã từng thử nghiệm, gieo trồng và gặt hái”[39].
Lưu QuangVũ xuất hiện và nổi danh trên văn đàn Việt Nam với tư cách là
một nhà thơ khi còn khá trẻ. Năm 20 tuổi anh bắt đầu ra mắt với tập thơ “Hương
cây – Bếp lửa” (in chung với nhà thơ Bằng Việt). Như vậy, trước khi tỏa sáng và
tạo cho mình một “kịch pháp” sừng sững trên sân khấu Viêt Nam trong những năm
80 của thế kỷ XX, Lưu Quang Vũ đã là một nhà thơ, là người của thơ.
Lưu Quang Vũ cũng như một số nhà thơ trẻ ngày ấy, họ là những người lính
đã “đi thẳng từ cánh cửa nhà trường đến chiến trường chống Mỹ”, nên trong những

12


hành trang đời lính của mình các anh đã mang theo thật nhiều kỷ niệm của quê
hương, của tuổi thơ với mái trường yêu dấu.
Chính vì vậy, khi đọc “Hương cây” chúng ta còn bắt gặp ở đó chút rung
động đầu đời vừa thơ ngây, vụng dại vừa trong trẻo tươi mát của tuổi học trò.
“Võng nào êm bằng võng ru ngày ấy
Trang giấy nào thơm bằng giấy khai trường
Câu thơ nào hay bằng câu ca dao tập đọc
Ai xinh bằng cô bạn nhỏ mến thương”
(Tuổi thơ)
Cũng như khi anh ngất ngây, đắm đuối với tình yêu và hạnh phúc đầu tiên
của mình.
“Em vụt đến trong lòng anh chói lọi
Em vụt đến trong lòng anh bối rối”
(Em)
Những hình ảnh lá bưởi, lá chanh, hay cô bạn nhỏ cùng lớp thuở còn cắp
sách đến trường và những góc phố, hàng cây xào xạc lá, cùng với những cảm xúc
trong trẻo, đắm đuối của buổi đầu trong thơ, đã đưa Lưu Quang Vũ lọt vào những
con mắt xanh của những người yêu thơ và cả giới nghiên cứu về thơ như Hoài

Thanh, Vũ Quần Phương, Lê Đình Kỵ…Bởi lúc này anh vừa rời ghế nhà trường
vào bộ đội, mà “anh bộ đội này khá nhiều mơ mộng, mỗi bước đường hành quân,
mỗi làng mạc đi qua gợi lên trong anh bao cảm xúc còn nhiều dấu vết của sách vở
nhà trường: thiêng liêng, trong trẻo, đầy tin cậy”. [22]
Sau “Hương cây”, đánh dấu một thời kỳ khác của thơ Lưu Quang Vũ, “thời
kỳ của dằn vặt, đau xót, cô đơn đến cùng cực. Đó là thời kỳ đầu những năm 70 của
thế kỷ trước” [19]. Cũng giống như tác giả Lưu Khánh Thơ, Lê Minh Khuê cũng có
chung một cảm nhận về Lưu Quang Vũ trong thời kỳ này: “Nồng nhiệt, chu đáo, ân
cần…đó là Vũ của những năm 70…Vũ của thời kỳ thơ và truyện buồn” [13].
Có sự thay đổi đó là do anh đã trải nghiệm nhiều hơn, nhận thức rõ hơn về bản
chất thật của cuộc chiến tranh. Mặt khác, hoàn cảnh đời tư của Vũ trong giai đoạn này
cũng gặp nhiều những trắc trở, đa đoan (ra bộ đội, nghề nghiệp chưa ra sao, xin mãi
13


không được việc làm, hạnh phúc gia đình tan vỡ, con thì nhỏ…), nên thơ anh dần chuyển
sang giọng điệu cay đắng, u buồn, hoài nghi và có phần lạc điệu với thơ ca cùng thời.
Nhưng cũng chính trong thời gian này anh làm thơ nhiều hơn cả. Bởi “Lưu
Quang Vũ có một tài thơ bẩm sinh. Bản năng thi sĩ của anh giàu có trong những
nỗi buồn, những cô đơn và khổ hạnh. Khi bị dồn vào chân tường trong những
khoảnh khắc chập chờn sáng tối những vần thơ ám ảnh tung bứt lên như muốn đối
mặt với buồn đau. Nhưng anh là một người yếu đuối và đa cảm, bởi thế tình yêu và
thi ca như một cứu cánh” [7]. Những ngày ấy Vũ làm thơ như để ghi nhật ký về
cuộc đời mình, chẳng vì ai và cũng chẳng cho ai cả mà trước hết là cho riêng anh.
Có lẽ với anh lúc này thơ như những lời ru, như bàn tay êm đềm của mẹ hiền vỗ về
lòng anh trong cơn bĩ cực. Thơ như một liều thuốc an thần giúp anh tìm lại trạng
thái cân bằng, nó cũng làm lành dần những vết thương lòng đang rỉ máu trong anh.
“Giữa dòng thơ chống Mỹ ngày ấy, không theo quy ước chung, Vũ lặng lẽ tìm
“tín ngưỡng” riêng cho thơ mình. Ngòi bút anh hướng vào bên trong khám phá nội tâm,
khai thác triệt để “cái tôi” của chính mình: “Tâm hồn anh dằn vặt cuộc đời anh”, “Anh

xé lòng anh những đêm mất ngủ”, “Anh khờ dại anh tự làm mình khổ”, “Có những lúc
tâm hồn anh rách nát”.[25]. Cũng chính trong những ngày tháng gian nan ấy anh đã
nhận ra nhiều điều quý giá từ cuộc sống, đồng thời cũng giúp anh khám phá ra chính
mình, anh hiểu và đã nhận thức được đến tận cùng con người của mình. Để rồi cuối cùng
người ta thấy một Lưu Quang Vũ vẫn với những ước nguyện thiết tha, vẫn luôn khao
khát vượt lên trên tất cả những khó khăn của cuộc sống đời thường để sống và viết,
muốn rũ bỏ hoài nghi để gieo mầm cho những niềm tin và hi vọng ở cuộc đời. Vì vậy,
thơ anh ở giai đoạn tiếp theo bên cạnh những nét rất riêng, rất độc dáo của Vũ còn có nét
chung, cái âm hưởng chung của thời đại. Những cảm hứng về quê hương, đất nước, nhân
dân…tươi đẹp, hồn hậu đã làm giàu có và phong phú thêm cho thơ Lưu Quang Vũ.
“Những ban mai xanh biếc tiếng đàn bầu
Bà hiền hậu têm trầu bên chõng nước
Em đi gặt trên cánh đồng cổ tích
Lúa bàng hoàng chín rực những triền sông”
(Đất nước đàn bầu)
14


Sinh thời, Lưu Quang Vũ mới chỉ được in nửa tập thơ, đó là phần Hương
cây in chung với Bằng Việt trong tập Hương cây - Bếp lửa. Hai tập thơ Mây trắng
của đời tôi (1989) và Bầy ong trong đêm sâu (1993) được ra đời sau khi anh mất.
Trong lĩnh vực truyện ngắn, Lưu Quang Vũ cũng để lại nhiều ấn tượng sâu
sắc trong lòng người đọc. Bởi lẽ, những tác phẩm truyện ngắn của anh ngày ấy
được bắt nguồn từ chính những câu chuyện của đời anh, là những điều anh thường
suy tư, trăn trở hay ấp ủ bấy lâu, giờ đây anh muốn đem ra kể, muốn được tâm sự
cùng mọi người. Hay “có lẽ anh không nói hết bằng thơ. Anh viết truyện ngắn” [9].
Chính vì vậy mà tác giả Lê Minh Khuê trong bài viết “Truyện ngắn Lưu Quang
Vũ” đã khẳng định: “Lưu Quang Vũ của năm 1972, Vũ là của thơ. Vài năm sau Vũ
là người của truyện ngắn”. Chỉ trong một thời gian ngắn những tác phẩm truyện
ngắn của Vũ đã để lại dấu ấn trên văn đàn và dành được những mến mộ từ bạn đọc.

Bằng tài năng, sự tâm huyết và lòng đam mê của mình, Lưu Quang Vũ đã có
được một vị trí thật vững vàng, trang trọng trên văn đàn lẫn trong lòng dộc giả yêu
văn chương nghệ thuật. “Có thể nói rằng bước đầu là thơ: sau đó là truyện ngắn:
Vũ đã đứng như một tác giả có bút pháp riêng biệt, khó trộn lẫn”[12]. Những tác
phẩm như: Đêm giao thừa năm ấy, Người kép đóng hổ, Đứa con, Anh Thình, Anh
Y…đã mang đến cho bạn đọc những ấn tượng khó phai.
Trong những truyện ngắn của anh người ta thấy “ngòi bút của Lưu Quang
Vũ không ồn ào. Nhưng nhẹ nhàng và nghiêm khắc”. Ở đó có rất nhiều những nhân
vật mà khi đọc xong truyện rồi người đọc cứ cảm thấy ngờ ngợ rằng đó như một
bức chân dung tự họa của Vũ. Hay nói một cách khác, cái tôi trữ tình của Lưu
Quang Vũ hằn in rất đậm nét lên từng trang viết, trong từng nhân vật của mình.
Giống như Lê Minh Khuê cũng đã từng nhận xét: “Truyện ngắn Vũ có những nhân
vật nhân hậu như chính tác giả của nó, con người của những năm sôi động”.
Với hai tập truyện Người kép đóng hổ; Mùa hè đang đến - (1983) và sau này
là tuyển tập 15 truyện ngắn, Lưu Quang Vũ đã cho chúng ta thấy được tài năng, sức
sáng tạo dồi dào và quá trình lao động nghệ thuật không biết mệt mỏi của mình.
Lĩnh vực tiếp theo mà Lưu Quang Vũ đã gieo trồng và gặt hái là Kịch. Đây
15


là lĩnh vực đã đem lại cho anh nhiều vinh quang và thành công hơn cả. Chính Kịch
đã đưa anh đứng vào hàng ngũ những người nghê sĩ lớn trong làng văn nghệ Việt
Nam vào những năm 80 của thế kỷ XX. Lưu Quang Vũ đến với ánh đèn sân khấu
đúng lúc sân khấu Việt Nam đang cần những làn gió mới để có thể làm thay đổi và
hồi sinh sức sống của Kịch trên sân khấu nước nhà.
Có thể nói rằng, “chọn cho mình con đường viết kịch, Lưu Quang Vũ đã tìm
ra con đường ngắn nhất để đến với công chúng khán giả, để dịp bộc lộ những gì
mình ấp ủ” [11,14].
Vẫn là những mạch nguồn cảm xúc đã được phát hiện từ sớm, nhưng có lẽ ở
kịch người ta thấy Vũ chín chắn hơn, tỉnh táo hơn trong cách cảm, cách nghĩ của

mình. Cũng chính vì thế những tác phẩm của anh ngày càng được đón nhận và mến
mộ nhiều hơn.
Năm 1985 là năm Lưu Quang Vũ thu được những thành công vang dội trên
sân khấu kịch nói Việt Nam. Tại hội diễn sân khấu toàn quốc năm 1985, anh có 8
vở tham gia hội diễn, trong đó có 6 vở giành giải vàng, 2 vở giành giải bạc. Cho đến
nay đó vẫn là một con số kỷ lục mà chưa ai có thể đạt được.
Đằng sau những thành công vang dội ấy người ta vẫn thấy một Lưu Quang
Vũ “Khiêm nhường, không bị thế giới sân khấu ồn ào làm thay đổi nếp sống, không
choáng ngợp trước những thành công, gần như bao giờ Vũ cũng an phận làm một
người lao động khổ sai. Tính cả nể, không hiếu thắng, Vũ cứ lặng lẽ sống, lặng lẽ
làm việc”[34].
Có thể nói: “Bằng tâm huyết và sức lao động của mình, Lưu Quang Vũ đã
tạo nên một khối lượng tác phẩm vượt xa tất cả các tác gia sân khấu đi trước… nói
tới sân khấu thập niên 80 này, một thập niên sân khấu có những thành tựu đặc sắc,
không thể thiếu Lưu Quang Vũ trong các tác giả hàng đầu”[34].
Như vậy, chỉ trong khoảng thời gian 25 năm nhưng Lưu Quang Vũ đã tạo
được dấu ấn khá đậm nét trên cả ba thể loại mà anh tham gia sáng tác là thơ, truyện
ngắn và kịch. Điều đó đã phần nào nói lên được tài năng và tâm huyết của người
nghệ sĩ này đối với văn học nghệ thuật nói chung.

16


1.3. Lưu Quang Vũ với những quan niệm về thơ
Dẫu đã có lúc được xem như là một nhà viết kịch tài ba, một “Moliere” từng
làm mưa làm gió trên kịch trường Việt Nam, hay là một cay bút truyện ngắn “có
nhiều triển vọng” - (Hoài Thanh); song điều cuối chót còn đọng lại trong tâm trí
của người đọc vẫn là một Lưu QuangVũ con người của thơ ca và đó là điều không
ai có thể phủ nhận.
Tác giả Nguyễn Thị Minh Thái trong bài viết “Thơ tình Lưu Quang Vũ” đã cho

rằng: “Thơ là những gì để lại tinh tuý nhất của chàng. Dường như chàng thi sĩ đã thấu
suốt hết cả và đã kịp làm hết cả những gì chàng có thể dâng tặng cho Đời”[39].
Nhà thơ Vũ Quần Phương cũng có chung một cảm nhận: “Nhưng tôi vẫn
nghĩ, với anh, thơ mới là chủ yếu vì nó nói được anh nhiều nhất và cũng nói được
chuyện đời nhiều hơn”[22]. Nếu như kịch là đã giúp anh đến được với đông đảo
quần chúng, là tiếng nói chung để anh có thể sống với mọi người thì thơ lại là tiếng
nói riêng của cõi lòng anh. Vũ làm thơ là để đối diện với chính lòng mình. Nó là
tiếng nói của nội cảm, của cái tôi trữ tình mà nhiều khi Vũ chỉ có thể nói, chỉ có thể
bộc bạch được ở trong thơ. Vì thế thật là có lí khi cho rằng: “Đọc thơ anh có cảm
giác anh viết kịch để sống với mọi người, và làm thơ để sống với riêng mình”[22].
Giữa những năm tháng mà cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân
dân ta đang diễn ra hết sức cam go và quyết liệt, trong bầu khí quyển chung của thời
đại ấy, thơ ca trở thành tiếng nói chung của cộng đồng, là phát ngôn cho ý chí và
khát vọng của toàn dân tộc. Trong hoàn cảnh ấy thơ phải là thứ vũ khí chiến đấu và
người nghệ sĩ cũng là người chiến sĩ xông ra giữa trận tiền:
Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy.
Bên những chiến sĩ đuổi xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi.
(Chế Lan Viên)
Trong hoàn cảnh ấy hiện thực tàn khốc của chiến tranh và những đau thương,
mất mát của đất nước và nhân dân phần nào bị che dấu, bị khỏa lấp. Để rồi những
năm tháng sau đó nhìn nhận lại người ta bổng thấy tiếc nuối về một thời đã đánh
mất chính mình trong mỗi trang thơ, bị hòa tan trong biển lớn cuộc đời:
17


Đã có thời nỗi đau ta phải dấu
Ta đánh mất ta trong mỗi con người.
(Trần Nam Hương)
Hay:
Câu thơ đã viết xong rồi

Vẫn như thấy thiếu một lời ở trong
Một lời thốt tự đáy lòng
Một lời vẽ được chân dung của mình.
(Anh Ngọc)
Khi ấy, một vấn đề được đặt ra đối với những người nghệ sĩ cầm bút lúc bấy giờ
là: “Có nên tin ở mắt mình không hay tin theo niềm tin có sẵn”[22]. Và đã có “Nhiều
nhà thơ hồi ấy đã chọn cách thứ hai, tiện và lợi”. Nhưng cũng đã có những nhà thơ đã
chọn cho mình con đường ngược lại như Lưu Quang Vũ. Từ chối nhập vào dàn đồng
ca đang ào ạt ấy của thời đại để tự đi tìm cho mình một lối đi riêng đầy gian nan, thử
thách, đầy những sóng gió của cuộc đời đang chờ đón họ ở phía trước. Phải chăng đó
là sự lựa chọn không hề dễ dàng Vũ, anh dám dấn thân mình vào con đường đầy chông
gai, khổ hạnh để được nói lên tiếng nói thiết tha, chân thật của lòng mình về hiện thực
tàn khốc của chiến tranh và số phận mong manh nhỏ bé của con người.
Khi lật rở lại từng trang viết của anh ngày ấy, chúng ta bắt gặp rất nhiều lần
anh đã thẳng thắn nêu ra những suy nghĩ, quan niệm của mình về văn học nghệ
thuật, mà trong đó có không ít những suy nghĩ, những quan niệm của anh ngày ấy
vẫn còn giá trị đối với những người cầm bút của hôm nay, như: “Nhà văn không thể
mong có ích lâu dài nếu không có ích cho thời mình đang sống”, (Tự bạch). Theo
anh, người nghệ sĩ nếu muốn trở thành một người có ích lâu dài thì trước hết anh ta
phải là con người có ích đối với thời đại mà mình đang sống. Nhà văn (nhà thơ) nếu
muốn tồn tại và sống mãi được với thời gian thì trước hết anh ta phải sống và tồn tại
được với thời mà anh ta đang sống.
Giữa lúc thơ ca đương thời đang mải mê với những dòng ca ngợi, đang say
sưa với những niềm vui chiến thắng mà quên đi những mảng tối, những chỗ còn
khuất lấp của cuộc sống vẫn còn những nhiều khó khăn, gian khổ thì thơ anh lại là
18


lời nhắc nhở, thức tỉnh con người ta quay về với cuộc sống thực tại. Anh luôn tâm
niệm rằng:

Cuộc sống còn dở dang
Cần đóng góp không cần ngồi ca ngợi.
(Nói với mình và các bạn)
Lưu Quang Vũ luôn cho rằng khi Đất nước và Nhân dân còn nghèo đói, lầm
than, cơ cực thì người nghệ sĩ cần phải có những đóng góp thiết thực hơn để dựng
xây chứ không phải là ngồi một nơi để viết ra những lời ngợi ca hào nhoáng bằng
những mỹ từ sáo rỗng. Anh đã chân thành và thẳng thắn chỉ ra:
Nịnh đời dễ, chửi đời cũng dễ
Chỉ dựng xây đời là khó khăn thôi.
(Nói với mình và các bạn)
Đây là những câu thơ không chỉ mang ý nghĩa là những quan niệm, những
triết lý sâu xa về nghệ thuật của một người ở một thời đại nhất định, mà nó đã trở
thành cái triết lý chung của nghệ thuật muôn đời.
Trong quá trình sáng tác của mình Lưu Quang Vũ luôn trăn trở, day dứt và
suy ngẫm về ngòi bút của mình, về những gì mình đã viết. Đối với anh lao động
nghệ thuật là một công việc luôn đòi hỏi người cầm bút sự lao động miệt mài,
nghiêm túc thậm chí là khắc khổ. Đồng thời đó cũng là công việc đòi hỏi người
nghệ sĩ phải biết tìm tòi, sáng tạo, luôn làm mới chính mình. Đã nhiều lần anh cay
đắng khi phát hiện ra có không ít những kiểu viết máy móc, “giống nhau” đến
nhàm chán, vô vị.
Những trầm tư về thế hệ của ta
Lắm kiểu nói mà giống nhau đến thế.
(Nói với mình và các bạn)
Là một người nghệ sĩ có bản lĩnh và giàu tự trọng, Lưu Quang Vũ không bao
giờ chấp nhận những kiểu nghệ thuật giả dối, dễ dãi, tầm thường, kiểu văn chương
“ngây ngô” nhưng lại nghĩ mình là “trí tuệ”, theo anh thứ văn chương nghệ thuật

19



ấy chẳng mang lại cho đời những tác dụng hay lợi ích gì. Đó là loại văn chương
“không đáng thờ” và cần phải bỏ đi, cần phải lên án mạnh mẽ.
“Ta viết những suy tư ngây ngô vờ là trí tuệ
Những câu nhạt phèo chiếu lệ
Những lời nhàm tai ai cũng quen rồi
……………
Ta viết mãi những điều vô ích
Vô duyên sao ta cứ nhoẻn miệng cười
Như phường bát âm thánh thót
Mong cuộc đời xuôi tai…”
(Nói với mình và các bạn)
Lưu Quang Vũ cho rằng: “Đã qua cái thời nhà thơ nhìn đời bằng con mắt
trong veo. Con mắt xanh non ngỡ ngàng như mắt trẻ”, điều đó cũng có nghĩa người
nghệ sĩ ấy đã đoạn tuyệt với những lối viết giản đơn, dễ dãi, từ bỏ lý tưởng hóa hiện
thực để nguyện làm “người thư ký trung thành của thời đại” mà mình đang sống.
Để thơ anh mãi là tiếng nói chân thành, trung thực của lòng anh.
Thơ không phải là chứng minh
Không phải hào quang phản chiếu của tấm gương
Thơ là bó đuốc đốt thiêu là bàn tay thắp lửa
Thơ sinh sự với cuộc đời không cho ai dừng bước cả.
(Nói với mình và các bạn)
Với anh, thơ không cần phải chứng minh, cũng không phải là ánh hào quang
hư vinh trong thoáng chốc, mà ngược lại thơ chỉ có thể là những “bó đuốc” rừng
rực cháy thiêu đốt tâm hồn ta, “sinh sự” với ta để không cho ta tự bằng lòng, an
phận hay dừng bước trước cuộc đời nhiều gian khó.
Anh luôn đòi hỏi nhà thơ, người nghệ sĩ chân chính trước hết phải là người có
lòng tự trọng, phải sống có ước mơ, có hoài bão của riêng mình, không ngừng sáng tạo
và phấn đấu vươn lên. Nhà văn không phải là “lũ viết thuê. Chạy theo những biển
hàng ngắn ngủi. Những khuôn phép những trang in những hư danh một buổi”. Để rồi
thứ mà họ nhận lại được từ cuộc đời là những trái đắng, những chua cay:


20


Ta nịnh người để người lại khinh ta
Sớm già cỗi, cố quên đi phẩm cách
Muốn yên thân ta trở thành hèn nhát
Nhân dân có cần thơ của ta đâu.
(Nói với mình và các bạn)
Nếu như trước đây Nam Cao đã từng quan niệm nhà văn “phải đứng trong lao
khổ, mở hồn ra đón lấy những vang động của cuộc đời”; “Nghệ thuật không cần phải
là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có
thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than” thì đối với Lưu Quang Vũ
anh cũng cho rằng:
Giữa tàn bạo hư vô giữa đấu tranh khốc liệt.
Thơ phải dạy ta nhìn bằng con mắt thật.
(Nói với mình và các bạn)
Cả cuộc đời mình Lưu Quang Vũ luôn sống và viết với một tâm niệm rằng:
thơ phải là “nhịp đập của trái tim trung thực”; “Không hát ta say mà lay ta thức”;
“Không giấu che sự thật của lòng mình” và đặc biệt “Trước đau khổ của nhân dân
thơ không gian dối”- (Nói với mình và các bạn).
Đối với anh, văn học nghệ thuật cũng phải tham gia dựng xây đời chứ không
phải chỉ biết ngồi hát mãi bài ca quen thuộc, cũ mèm. Con người không thể sống
với những niềm tin ảo ảnh, bằng những khẩu hiệu, áp phích, pa nô.
Người ta không thể sống bằng niềm tin đẹp
Bằng áp phích trên tường, bằng những lời đanh thép.
Mà thứ họ cần hơn là:
Phải mang cho mọi người áo mặc cơm ăn.
Phải có nhà trường cửa sổ trời xanh”.
Tác giả Phạm Xuân Nguyên đã rất có lý khi cho rằng “Gần hai mươi năm

sau những điều anh viết ở đây, cơn gió đổi mới thổi lên trên đất nước”[21].
Bằng cảm quan nghệ thuật nhạy bén và tấm lòng nhân hậu của mình anh đã
nhanh chóng nghiệm ra một điều thơ văn nhiều khi không cần đến những mỹ từ đẹp
đẽ, bóng bẩy để ru đời, mị đời. Anh quyết tâm muốn thay đổi những suy nghĩ cũ kĩ của

21


mình và thay đổi thơ mình bằng cách “bỏ đi những chữ đẹp ngày xưa” mà giữ lại cho
mình những trang thơ với những chữ sần sùi, gai góc và lem luốc hơn. Còn lại trên
trang giấy mênh mông nhưng chữ trần truồng/chữ như đinh nhìn tôi sắc nhọn/Chữ gầy
guộc, chữ bùn lầy, cống rãnh/Từ ho lao, giận dữ, than tro… (Những chữ)
Và Lưu Quang Vũ đã tìm thấy chính mình, tìm thấy niềm vui và hạnh phúc
cho mình trong “những chữ hôm nay” mà anh đã lựa chọn.
Tôi ở cùng những chữ hôm nay
Những điều còn lại sau đường dài tôi vượt
Những chữ lấm lem đứng dậy từ đời thật
Tin yêu cuộc đời theo cách của tôi.
(Những chữ)
Có phải chăng với sự lựa chọn ấy, những con chữ ấy đã đưa anh trở về sống
giữa cuộc sống đời thường với bao điều bình dị, anh được gần gũi, gắn bó và hoà
mình vào những con người lao khổ, được trở về với nhân dân của anh, với ngọn
nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Để anh được nói, được “tin yêu cuộc đời”
theo cách của mình.
Đó là những câu thơ không chỉ có ý nghĩa thiết thực đối với một thời đại mà
nó đã vượt qua giới hạn nghiệt ngã của thời gian để có ý nghĩa với muôn đời.
Tuy chỉ sống và viết trong một thời gian ngắn ngủi, nhưng Lưu Quang Vũ đã
có được một vị trí vững chắc trên thi đàn văn học hiện đại Việt Nam nửa cuối thế kỷ
XX và cả trong lòng người hâm mộ tài năng cũng như thơ văn của anh. Đặc biệt,
thông qua những tác phẩm của mình Lưu Quang Vũ đã thể hiện được một cách rõ

nét những quan niệm về thơ văn rất tiến bộ và đúng đắn của mình.
Dù hôm nay, anh đã trở thành “người trong cõi nhớ”; nhưng vượt lên trên
tất cả, như chòm mây trắng lửng lơ trên bầu trời cao rộng, thơ anh còn quyến luyến
mãi trong cuộc đời, trong lòng người như anh đã từng viết:
Trên mái nhà, cao vút rừng cây
Trên rừng cây, những đám mây xô giạt
Trên ngày tháng, trên cả niềm cay đắng
Thơ tôi là mây trắng của đời tôi.
(Mây trắng của đời tôi).
22


×