NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KẾT HỢP KINH TẾ VỚI QUỐC
Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Kết hợp kinh tế với quốc phòng là vấn đề có tính quy luật chung,
được hầu hết các quốc gia trên thế giới nghiên cứu và áp dụng trong điều
kiện khi đời sống nhân loại còn tồn tại chế độ tư hữu, Nhà nước và sự đối
kháng giai cấp. Hoạt động mang tính chủ động này của con người nảy sinh
từ chính sự tồn tại mối quan hệ khách quan giữa kinh tế với các lĩnh vực
chính trị, chiến tranh, quốc phòng và quân đội, cũng như từ yêu cầu thực
tiễn phải giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ đất nước ở mỗi
quốc gia. Dưới chủ nghĩa xã hội đây là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt
trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Việc vận dụng cụ thể ở mỗi quốc
gia, tuỳ thuộc vào những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội trong nước và
tình hình quốc tế trong mỗi thời kỳ lịch sử nhất định mà ở đó người ta có
những biện pháp, hình thức và cách làm cụ thể thích hợp.
Đối với nước ta, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, cả nước thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ta chủ trương
thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng trong quá trình xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Chủ trương đó được xác định là một nội dung trong đường lối
xây dựng và phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và
đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng thông qua, được
tổ chức chỉ đạo nhất quán trong tất cả các ngành, các cấp trong cả nước.
Những năm sau đó việc thực hiện chủ trương kết hợp kinh tế với quốc
phòng đã thu được những thành tựu quan trọng, tạo nên sự chuyển biến
vững chắc từ cả hai phía kinh tế và quốc phòng và niềm tin vào tính đúng
đắn của chủ trương đó. Trên cơ sở tổng kết rút ra những bài học từ những
kết quả đạt được đã tái khẳng định thực hiện chủ trương kết hợp kinh tế
2
với quốc phòng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa trong điều kiện lịch sử mới.
1. Quan điểm của chủ nghiã Mác-Lênin về quốc phòng, kinh tế
và mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng – cơ sở khoa học của kết
hợp kinh tế với quốc phòng
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quốc phòng và kinh tế
là những hoạt động của con người trên những lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội, mỗi lĩnh vực vận động và phát triển tuân theo những quy luật
riêng, nhưng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau. Chúng vừa có mặt thống
nhất, vừa có mặt không đồng nhất và mâu thuẫn với nhau, quy định, chế
ước, phụ thuộc và tác động lẫn nhau.
Quốc phòng, nói một cách tổng quát, là tổng thể các hoạt động thuộc
công cuộc giữ nước của mỗi quốc gia, phản ánh đặc trưng nhất sức mạnh
quân sự của mỗi nước gắn với những điều kiện xã hội - lịch sử nhất định.
Đặc trưng của quốc phòng là hoạt động quân sự mà quân đội là lực lượng
nòng cốt. Ngày nay, quốc phòng được hiểu là: “Công cuộc giữ nước của
mỗi quốc gia, gồm tổng thể hoạt động đối nội và đối ngoại về quân sự,
chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học…của Nhà nước và nhân dân để phòng
thủ đất nước, tạo nên sức mạnh toàn diện, cân đối, trong đó sức mạnh quân
sự là đặc trưng, nhằm giữ vững hoà bình, đẩy lùi, ngăn chặn các hoạt động
gây chiến của kẻ thù và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới
mọi hình thức, quy mô. Quốc phòng trở thành hoạt động của cả nước,
trong đó lực lượng vũ trang là nòng cốt. Quốc phòng phải kết hợp chặt chẽ
với an ninh để bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ. Quốc phòng, an ninh phải
kết hợp chặt chẽ với kinh tế để bảo vệ xã hội, truyền thống dân tộc và
hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước.
Kinh tế, nói một cách tổng quát nhất thì đó là toàn bộ các hoạt động
của con người trong sản xuất và tái sản xuất ra của cải xã hội (cả vật chất
và tinh thần) nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất và văn hoá của con người.
3
Đây là hoạt động cơ bản nhất, hoạt động đầu tiên nhưng cũng là hoạt động
thường xuyên và liên tục của con người, gắn với sự tồn tại của con người
với tư cách là con người và với tư cách là loài người.
Sở dĩ phải kết hợp kinh tế với quốc phòng là vì, trước hết hai mặt đó
có quan hệ hữu cơ với nhau, làm tiền đề cho nhau. Trong mối quan hệ giữa
kinh tế với quốc phòng, kinh tế là nhân tố giữ vai trò quyết định, chi phối
quốc phòng cả ở mặt vật chất- kỹ thuật và chính trị - xã hội. Tiềm lực, sức
mạnh của nền quốc phòng mạnh hay yếu phụ thuộc vào tiềm lực và sức
mạnh của nền kinh tế. Một đất nước có nền kinh tế phát triển, tiềm lực
kinh tế mạnh sẽ là tiền đề, cơ sở để xây dựng một nền quốc phòng có tiềm
lực mạnh. Và một nền quốc phòng mạnh sẽ tạo điều kiện, môi trường
chính trị để phát triển kinh tế và bảo vệ được nền kinh tế đó.
Ngược lại, với một nền kinh tế kém phát triển, nghèo nàn, lạc hậu
năng suất lao động thấp, tổng mức GDP nhỏ, khả năng tích luỹ từ nội bộ
kém, thì khó có thể nói có cơ sở để xây dựng một nền quốc phòng có tiềm
lực lớn. Quốc phòng chịu sự chi phối của kinh tế nhưng lại có tác động trở
lại đối với kinh tế, cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Sự tác động
tích cực được biểu hiện ở việc quốc phòng bảo đảm môi trường chính trịxã hội ổn định để kinh tế phát triển; quốc phòng là thị trường của kinh tế,
tiêu thụ các sản phẩm của kinh tế đáp ứng các nhu cầu hoạt động thuộc
lĩnh vực quốc phòng. C. Mác đã nói đến điều này khi ông nghiên cứu vai
trò của quân đội trong đời sống xã hội. Trong bức thư gửi Ph.Ăngghen ở
Dai-nơ ngày 25 tháng 9 năm 1857, C.Mác viết: “Lịch sử quân đội đã xác
nhận một cách rõ ràng hơn hết sức đúng đắn quan điểm của chúng ta về
mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ xã hội. Nói chung quân
đội là quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế”.
Mặc dù quốc phòng là lĩnh vực tiêu tốn một khối lượng lớn vật chất
kỹ thuật do nền kinh tế tạo ra, song đó là lĩnh vực, là hoạt động cần thiết
trong đời sống xã hội của mỗi quốc gia. Khi xã hội còn tồn tại chế độ tư
4
hữu, giai cấp và Nhà nước thì nguồn gốc làm nảy sinh chiến tranh vẫn
chưa bị xoá bỏ, vì vậy nhu cầu củng cố sức mạnh quốc phòng ở mỗi nước
là đòi hỏi khách quan. Nhờ có hoạt động quốc phòng mà môi trường hoà
bình, ổn định cho xây dựng và phát triển kinh tế được đảm bảo, nền kinh tế
và thành quả kinh tế được bảo vệ. Do đó, có thể khẳng định sự tồn tại của
quốc phòng (mặc dù là hoạt động tốn kém) nhưng đó là một đòi hỏi khách
quan nhất thiết phải có trong điều kiện còn đối kháng giai cấp và Nhà
nước. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa hoặc định hướng phát triển theo
chủ nghĩa xã hội, vấn đề xây dựng nền quốc phòng vững mạnh để ngăn
ngừa, đối phó với chiến tranh xâm lược lại càng bức thiết hơn bao giờ hết.
Điều đó bắt nguồn từ quy luật vũ trang bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
khi trong đời sống nhân loại xuất hiện Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Vấn đề
này đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin nói đến từ lâu.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, sau khi Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên
thế giới xuất hiện, lập tức 14 nước đế quốc đã hiệp sức lại tiến công nhằm
tiêu diệt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết Nga non trẻ. V.I.Lênin
đã kêu gọi phải vũ trang để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa: "Kể từ ngày
25 tháng 10 năm 1917, chúng ta là những người chủ trương bảo vệ Tổ
quốc. Chúng ta tán thành bảo vệ Tổ quốc, nhưng cuộc chiến tranh giữ
nước mà chúng ta đang đi tới, là một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa", "bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tính cách là Tổ quốc, bảo vệ
nước Cộng hoà Xô-viết, với tính cách là một đơn vị trong đạo quân thế
giới của chủ nghĩa xã hội". Như vậy, vũ trang bảo vệ Tổ quốc, tăng cường
sức mạnh quốc phòng để bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là
đòi hỏi bức thiết, nếu không tiến hành điều đó thì mọi thành quả của cách
mạng sẽ tiêu tan. Các Đảng Cộng sản và công nhân cầm quyền sẽ phải
chịu trách nhiệm trước giai cấp, dân tộc và lịch sử. Do đó, trong mối quan
hệ tương tác giữa kinh tế với quốc phòng thì quốc phòng không chỉ là sự
5
tiêu tốn của cải vật chất mà còn tạo ra những điều kiện cần thiết cho công
cuộc phát triển kinh tế.
Để khắc phục những mâu thuẫn giữa kinh tế và quốc phòng, để khai
thác mặt tích cực của quốc phòng, giảm thiểu những chi phí kinh tế khi sự
tồn tại của quốc phòng là tất yếu khách quan, để vừa phát triển được kinh
tế, vừa củng cố được sức mạnh quốc phòng của đất nước. Lời giải cho bài
toán đó không gì khác hơn là cần phải tạo ra sự kết hợp trong các hoạt
động giữa hai lĩnh vực kinh tế và quốc phòng với nhau theo một phương
thức và bước đi phù hợp với điều kiện của đất nước. Theo đó Nhà nước
chủ động gắn bó hai quá trình kinh tế và quốc phòng lại với nhau thành
một thể thống nhất, thúc đẩy nhau cùng phát triển đảm bảo cả hai lĩnh vực
cùng đạt được chất lượng và hiệu quả cao.
Kết hợp kinh tế với quốc phòng là hoạt động chủ động và tích cực
của Nhà nước trên cơ sở nhận thức những quy luật kinh tế và quy luật đấu
tranh vũ trang, nhằm gắn bó hai lĩnh vực xây dựng kinh tế và củng cố quốc
phòng trong một quá trình thống nhất, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển,
đảm bảo cho mọi hoạt động của xã hội đều dẫn đến sự mạnh lên cả kinh tế
và quốc phòng, làm cho mỗi bước phát triển kinh tế đều có tác động đến sự
tăng lên của tiềm lực quốc phòng, và mỗi bước củng cố quốc phòng đều
tạo thuận lợi cho phát triển và bảo vệ kinh tế trước sự tàn phá của các hoạt
động phá hoại do kẻ thù gây ra cả trong thời bình và khi đất nước có chiến
tranh. Sự kết hợp đó được thể hiện trong một chiến lược chung thống nhất,
được cụ thể hoá trong mỗi lĩnh vực của đời sống xã hội ở cả tầm vĩ mô và
vi mô. Mục đích là nhằm đạt được đồng thời cả lợi ích kinh tế và lợi ích
quốc phòng trong cùng một quá trình, Theo đó, mỗi hoạt động trong các
lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng đều phải chú ý đến cả lợi ích kinh tế
và quốc phòng, không vì lợi ích này mà làm tổn hại đến lợi ích kia, mà
phải kết hợp cả hai để cả kinh tế và quốc phòng đều mạnh lên. Vì vậy, nói
kết hợp kinh tế với quốc phòng tuy là hoạt động chủ động, tích cực của
6
Nhà nước, song hoạt động đó phải được tiến hành trên cơ sở nhận thức và
vận dụng đúng đắn những quy luật khách quan chứ hoàn toàn không thể và
không phải là hoạt động mang tính chất chủ quan duy ý chí, bất chấp quy
luật. Nếu ở đâu đó có sự nhân danh kết hợp kinh tế với quốc phòng, song
vì những lợi ích cá nhân cục bộ, hoặc một chiều mà để cho tính chất chủ
quan duy ý chí trong các hoạt động kết hợp đó diễn ra thì hậu quả sẽ khó
lường hết, thậm chí là không thể kiểm soát được.
Trước thời kỳ đổi mới, trong tư duy cũ người ta cho rằng kết hợp
kinh tế với quốc phòng là vấn đề mang tính quy luật riêng của cách mạng
xã hội chủ nghĩa, là hoạt động mang tính đặc thù của các nước xã hội chủ
nghĩa. Thực ra vấn đề không phải như vậy, ngày nay, dưới ánh sáng của tư
duy chính trị, tư duy kinh tế và tư duy quân sự mới người ta nhận ra rằng,
kết hợp kinh tế với quốc phòng là vấn đề mang tính quy luật chung cho
mọi quốc gia có chế độ chính trị – xã hội khác nhau.
2. Vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng ở Việt Nam và việc
thực hiện chủ trương đó trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc giai đoạn
cách mạng mới.
Trung thành với tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, xuất phát từ
tình hình thực tiễn của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam coi vấn đề kết hợp kinh tế với
quốc phòng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là vấn đề có tính nguyên tắc trong chỉ
đạo mọi hoạt động kinh tế, quốc phòng của đất nước.
Ngay từ sau ngày miền Bắc được giải phóng, đất nước ta tiến hành
đồng thời 2 nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đảng
ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có chủ trương kết hợp kinh tế với quốc
phòng. Tháng 11 năm 1958, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) tại
kỳ họp thứ 14 đã khẳng định: "Phải kết hợp củng cố quốc phòng với xây
dựng hậu phương vững chắc”. Hai năm sau, tháng 9 năm 1960 tại Đại hội
7
đại biểu toàn quân lần thứ III, Đảng ta tiếp tục khẳng định: "Phải giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng kinh tế và củng cố quốc
phòng". Thời kỳ này Đảng và Nhà nước đã chuyển 8 vạn quân sang làm
nhiệm vụ phát triển kinh tế đất nước. Hoạt động kết hợp kinh tế với quốc
phòng, quốc phòng với kinh tế giai đoạn này đã góp phần tích cực vào
công cuộc xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, trở thành hậu phương
chiến lược vững mạnh của cả nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp bảo
vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.
Sau đại thắng mùa Xuân 1975, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IV của Đảng (12/1976) một lần nữa, Đảng ta lại khẳng định quan điểm kết
hợp kinh tế với quốc phòng, coi vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng,
quốc phòng với kinh tế là một bộ phận cấu thành đường lối xây dựng kinh
tế của Đảng (7). Trong thời kỳ này, một lần nữa Đảng, Nhà nước ta lại giao
cho quân đội sử dụng một bộ phận lực lượng thực hiện chủ trương kết hợp
kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế thông qua việc giao nhiệm
vụ cho quân đội tham gia xây dựng kinh tế với một lực lượng không nhỏ –
thời điểm cao nhất 40 vạn, với gần 3 vạn cán bộ. Với lực lượng lớn, lại
được tổ chức chặt chẽ, quân đội đã tham gia tích cực và có hiệu quả trên
mặt trận xây dựng kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kết hợp kinh tế với
quốc phòng thông qua việc sử dụng lực lượng quân đội làm kinh tế, một
mặt tạo ra năng lực sản xuất mới đóng góp vào sự phát triển của nền kinh
tế quốc dân, mặt khác duy trì lực lượng cần thiết sẵn sàng đối phó với
những biến động xảy ra.
Thực tiễn những thành tựu về quân đội ta tham gia xây dựng kinh tế
trong thời kỳ từ sau Đại hội IV đến trước Đại hội VI của Đảng và việc
chúng ta đối phó thắng lợi với hai cuộc chiến tranh ở hai đầu biên giới Tổ
quốc đã chỉ rõ tính đúng đắn của quan điểm chủ trương cùng những biện
pháp chỉ đạo thực tiễn về thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng của
Đảng và Nhà nước ta.
8
Bước vào thời kỳ đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, Đại hội lần
thứ VI một lần nữa Đảng lại đã chỉ ra sự kiên định chủ trương thực hiện sự
kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng nhưng được phát triển thêm trên cơ sở
đổi mới tư duy về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Tư duy mới về bảo vệ Tổ
quốc được hình thành từ Đại hội VI, phát triển trong các Đại hội VII, VIII
và IX và đến nay Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định đã đặt cơ sở
khoa học cho nhận thức về bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. Theo đó,
vấn đề bảo vệ Tổ quốc bao chứa trong lòng nó sự bảo vệ độc lập dân tộc
gắn với bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo vệ Tổ quốc gắn liền với bảo vệ chế
độ, bảo vệ Đảng, bảo vệ sự nghiệp xây dựng công nghiệp hoá đất nước. Rõ
ràng vấn đề ổn định kinh tế - xã hội đã trở thành một trong những mục tiêu
của bảo vệ an ninh quốc gia. Tư duy mới này đã làm xuất hiện phạm trù
kép quốc phòng - an ninh. Chính vì vậy Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng đã coi kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh trở thành một
trong sáu quan điểm lớn của Đảng và đến Đại hội IX vấn đề kinh tế được mở
rộng thành kinh tế - xã hội, kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh.
Một mặt tư duy về bảo vệ Tổ quốc từ chủ yếu là tư duy về quân sự, về
chiến tranh, về xây dựng quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang đề
phòng chiến tranh đã chuyển sang tư duy một cách toàn diện hơn về nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc thời bình, chủ động ứng phó trong mọi tình huống
chiến tranh, sẵn sàng tiến hành thắng lợi chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ
quốc. Mặt khác, tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc đã cho phép chúng ta ngày
càng thấy rõ hơn vai trò của an ninh và đối ngoại, sự kết hợp chặt chẽ giữa
quốc phòng - an ninh và đối ngoại, giữa quốc phòng - an ninh - đối ngoại
với xây dựng kinh tế là không thể tách rời, cho phép ta có những giải pháp
cụ thể trong thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và củng cố
quốc phòng - an ninh của đất nước.
Thực tiễn phong trào cách mạng thế giới cả những bài học thành công
và không thành công của các nước XHCN trong bảo vệ Tổ quốc từ mấy
9
thập kỷ qua cho thấy, để bảo vệ Tổ quốc XHCN không chỉ lo đối phó với
vũ trang xâm lược của kẻ thù, quan trọng hơn là phải chăm lo xây dựng và
giữ nước từ bên trong, biết đối phó có hiệu quả với các thủ đoạn phi vũ
trang của kẻ thù. Sức mạnh để bảo vệ Tổ quốc phải là tổng hợp của cả
quốc gia và của cả khối đại đoàn kết dân tộc chứ không thuần tuý chỉ là
sức mạnh quân sự, sức mạnh của lực lượng vũ trang.
Vào những năm cuối của thế kỷ XX, sau sự sụp đổ của Đông Âu và
Liên Xô, hệ thống XHCN tan rã, phong trào XHCN thế giới lâm vào thoái
trào, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ do nắm những ưu thế về
vốn, khoa học - công nghệ, nguồn nhân lực trình độ cao, nên có điều kiện
để phát triển kinh tế. Mặt khác, chúng lợi dụng thành quả của khoa học công nghệ hiện đại, của kinh tế tri thức để tiếp tục củng cố vị trí siêu
cường, biến nó thành công cụ để áp đặt những giá trị Mỹ đối với các nước
khác. Sử dụng con bài kinh tế (hợp tác, trao đổi thương mại, vốn, công
nghệ...) để tiếp tục đẩy mạnh chiến lược "diễn biến hoà bình", kết hợp với
bạo loạn lật đổ và can thiệp vũ trang khi cần thiết nhằm tấn công các lực
lượng cách mạng trên thế giới, xoá bỏ các nước XHCN còn lại, trong đó có
Việt Nam. Mỹ và phương Tây luôn tìm mọi cách can thiệp, chi phối các
nước, các khu vực có vị trí chiến lược về kinh tế, chính trị, quân sự, làm
cho thế giới và nhiều khu vực luôn tiềm ẩn nguy cơ xung đột, chiến tranh,
mất ổn định, nhằm "đục nước béo cò" có lợi cho chúng. Vấn đề Trung
Đông, Đông Nam Á và Nam Á luôn là trung tâm của các mưu đồ đen tối
đó. Đặc biệt, chúng vẫn xem Việt Nam là một trong những trọng điểm cần
chống phá quyết liệt, tiến tới lật đổ chế độ XHCN ở Việt Nam. Sự kiện
Tây Nguyên tháng 2/2001 và tháng 3/2004 gây mất ổn định tại địa bàn đều
có bàn tay của Mỹ.
Tình hình phức tạp trên đây, cho phép chúng ta rút ra những nhận
thức hết sức sâu sắc rằng trong điều kiện quốc tế và khu vực đầy biến động
hiện nay, an ninh sinh tồn và an ninh phát triển của Tổ quốc XHCN đã đặt
10
ra yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới không chỉ bảo vệ độc lập
dân tộc, thống nhất đất nước và chủ quyền quốc gia mà quan trọng ngày
nay là bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ nhân dân
và bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ thành quả cách mạng chống kẻ thù xâm
lược bên ngoài và bọn phản động bên trong cấu kết với nhau, chống tự
diễn biến đi chệch sang chủ nghĩa tư bản từ nội bộ ta. "Bảo vệ Tổ quốc
XHCN là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và
lợi ích của quốc gia dân tộc. Bảo vệ ổn định chính trị và môi trường hoà
bình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa", "Tăng cường
quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ
trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân" "Kết hợp
chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh, quốc phòng và an ninh với
kinh tế trong các chiến lược, qui hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội".
Như thế, tình hình quốc tế, khu vực và trong nước trong thời kỳ mới,
tư duy mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN mà vấn đề nổi lên cấp
bách hàng đầu hiện nay chúng ta cần tập trung sức giải quyết là chống
"diễn biến hoà bình" kết hợp chặt chẽ với bảo vệ vùng biển, vùng trời,
vùng biên giới của Tổ quốc, đồng thời sẵn sàng ứng phó với các tình
huống khác, như tinh thần và nghị quyết Đại hội VIII và IX của Đảng, đã
làm cho nội dung bảo vệ Tổ quốc có sự phát triển mới. Tình hình đó đặt ra
một hệ quả tất yếu là phải kết hợp chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng Việt Nam là xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN;
phải kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng. Nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc, củng cố quốc phòng bao gồm cả xây dựng tiềm lực, xây dựng lực
lượng và xây dựng thế trận phải gắn bó chặt chẽ 3 nội dung xây dựng đó
với nhau. Vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế
11
hiện nay đã có sự phát triển mới; kết hợp giữa quốc phòng - an ninh với
phát triển kinh tế - xã hội. Đây là vấn đề quan trọng, là sự phát triển về
quan điểm của Đảng ta về kết hợp kinh tế với quốc phòng trong điều kiện
lịch sử mới đồng thời cũng là giải pháp chiến lược quan trọng để thực hiện
sự kết hợp đó một cách có hiệu quả, đi vào chiều sâu và đạt ý nghĩa toàn
diện hơn.
3. Một số giải pháp thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3.1. Kết hợp kinh tế với quốc phòng trong công tác hoạch định các
chiến lược phát triển kinh tế và chiến lược quốc phòng mà trước hết
phải bắt đầu ngay từ khâu quy hoạch.
Trong thời đại ngày nay, mọi quốc gia trong quá trình phát triển của
mình đều phải tiến hành hoạch định các chiến lược phát triển dài hơi đối
với những lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm tạo thế chủ động trước
những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế. Đặc biệt, trước xu hướng
toàn cầu hoá và phát triển kinh tế tri thức diễn ra hết sức nhanh chóng như
hiện nay, việc hoạch định các chiến lược về phát triển kinh tế xây dựng
nền quốc phòng luôn được ưu tiên trong quá trình quản lý xã hội. Trong
quá trình hoạch định các chiến lược đó, người ta phải tính toán đến tất cả
các yếu tố, trong đó quốc phòng, an ninh là hướng được ưu tiên. Như thế,
việc kết hợp kinh tế với quốc phòng được thực hiện ngay trong hoạch định
các chiến lược kinh tế và chiến lược quốc phòng. Để thực hiện điều đó
phải bắt đầu từ khâu quy hoạch. Khi tiến hành quy hoạch phát triển các
ngành, vùng kinh tế phải tính toán đến các yếu tố quốc phòng, an ninh.
Đối với nước ta những năm qua, khi quy hoạch chúng ta đã chú ý đến các
yêu cầu nội dung kết hợp kinh tế với quốc phòng. Điều này thể hiện rõ
nhất khi quy hoạch hệ thống giao thông, quy hoạch hệ thống thuỷ lợi, cảng
biển…Luật tổ chức Hội đồng nhân dân, và Uỷ ban nhân dân đã quy định
rất cụ thể quyền hạn, nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân,
12
Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp trong lĩnh
vực quốc phòng an ninh, tạo cơ sở pháp lý cho các địa phương thực hiện
quy hoạch phát triển kinh tế xã hội gắn với quốc phòng, an ninh. Pháp lệnh
về quy hoạch cũng đã xác định những điều như vậy. Tuy nhiên theo đánh
giá của các cơ quan chức năng của Quốc hội và của Chính phủ thì đây vẫn
là khâu yếu, cần có giải pháp thích hợp để khắc phục đáp ứng yêu cầu tiếp
tục thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng trong thời gian sắp tới.
3.2. Kết hợp kinh tế với quốc phòng trong chuẩn bị đất nước sẵn
sàng đối phó với chiến tranh xâm lược, trong đó trọng điểm là thực hiện
tốt việc chuẩn bị và động viên kinh tế đặc biệt là chuẩn bị và động viên
công nghiệp.
Để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhất định
chúng ta phải tiến hành chuẩn bị đất nước về mọi mặt nhằm đối phó thắng
lợi với chiến tranh xâm lược. Chuẩn bị đất nước bao gồm nhiều nội dung:
chuẩn bị động viên kinh tế (gồm cả công nghiệp, nông nghiệp, giao thông
vận tải….), chuẩn bị động viên chính trị tinh thần, chuẩn bị động viên quân
đội, chuẩn bị phòng thủ dân sự…Nếu không có kế hoạch chuẩn bị trước,
khi tình thế đòi hỏi không thể động viên được toàn bộ sức mạnh của đất
nước để đánh giặc. Trong chuẩn bị động viên kinh tế, vấn đề chuẩn bị
động viên công nghiệp có tầm quan trọng đặc biệt, giữ vị trí then chốt.
Chuẩn bị động viên công nghiệp tốt tức là đã thực hiện kết hợp kinh tế với
quốc phòng ở một trong những khâu quan trọng nhất của chuẩn bị đối phó
với chiến tranh (khả năng sản xuất vũ khí đáp ứng yêu cầu của chiến tranh
đã được chủ động chuẩn bị - dự trữ lạnh trong nền kinh tế). Nhiều quốc gia
trên thế giới đã xây dựng luật động viên công nghiệp để có thể huy động
mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế tham gia sản xuất vũ khí, trang
bị cho quân đội và phục vụ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc nếu xảy ra chiến
tranh. ở nước ta, năm 2002, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua
Pháp lệnh động viên công nghiệp, các cơ quan chức năng của quân đội và
13
Nhà nước đã phối hợp lắp đặt được một số dây chuyền động viên công
nghiệp. Song vấn đề quan trọng là ở một số doanh nghiệp chưa nhận thức
đầy đủ và thật sự đúng đắn về động viên công nghiệp. Để dáp ứng yêu cầu
vũ khí, trang bị cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc cần có cơ chế thích hợp để
các doanh nghiệp có các công nghệ lưỡng dụng, nghĩa là trong thời bình
thì sản xuất hàng dân sinh, khi chiến tranh nổ ra thì sản xuất vũ khí, đây là
việc làm cấp thiết không thể chậm trễ.
3.3. Kết hợp kinh tế với quốc phòng trong các hoạt động quân sự
trong đó nổi lên là tổ chức có hiệu quả việc quân đội làm kinh tế.
Trong thực hiện chủ trương kết hợp kinh tế với quốc phòng, xét từ
phía quân đội thì việc kết hợp đó được thực hiện ngay trong các hoạt động
quân sự thông qua việc sử dụng tiết kiệm các nguồn lực Nhà nước giao cho
Quốc phòng. Tuy nhiên, việc kết hợp có hiệu quả nhất vẫn là tổ chức một
bộ phận quân đội làm kinh tế. Các đơn vị quân đội làm kinh tế là nơi dự
trữ tiềm lực quốc phòng đồng thời có thể sử dụng lực lượng này đáp ứng
những nhiệm vụ đột xuất, quan trọng của nền kinh tế. Thực tế trong thời
gian qua lưc lượng quân đội làm kinh tế, nhiều thương hiệu nổi tiếng của
quân đội gắn với tên tuổi các Công ty Trường Sơn, Thành An, Lũng Lô,
Công ty Hông Hà, Công ty Bay dịch vụ, Công ty May 20…đã có vị trí nhất
định trên thị trường. Một số sản phẩm kinh tế do quân đội sản xuất đã cạnh
tranh được với các sản phẩm cùng loại trên thị trường trong nước và quốc
tế như: vật liệu nổ công nghiệp, cơ khí, hoá chất, may mặc, quạt điện, vật
liệu xây dựng…. Để tiếp tục thực hiện chủ trương kết hợp kinh tế với quốc
phòng có chất lượng và hiệu quả mới, ở hướng nội dung này cần tìm
những giải pháp mới như liên doanh, liên kết, sáp nhập… giữa các đơn vị
làm kinh tế của quân đội với nhau, đổi mới thiết bị công nghệ, đổi mới cơ
chế chính sách v.v. nhằm tạo ra bước đột phá trong thời gian tới.
14
3.4. Tiếp tục quán triệt để mọi cán bộ, chiến sĩ nhận thức đầy đủ
về chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng kinh tế kết hợp với quốc
phòng
Đây là vấn đề vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn và là yêu cầu
khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
3.5. Phải xây dựng vững mạnh toàn diện theo các nội dung,
nhiệm vụ là kết hợp kinh tế với quốc phòng.
Mạnh về xây dựng kinh tế là mạnh về vốn, mạnh về thiết bị công
nghệ, mạnh về chất lượng đội ngũ cán bộ, mạnh về khả năng tổ chức điều
hành quản lý... Đây là yếu tố đi trước, có trước để có điều kiện làm tốt
nhiệm vụ kết hợp quốc phòng.
3.6. Nhận thức và thực hiện trọn vẹn hiệu quả hai nhiệm vụ trong
xây dựng kinh tế thì lấy hiệu quả làm thước đo nhưng không riêng gì
hiệu quả kinh tế mà còn là hiệu quả chính trị, hiệu quả về xã hội.
Đó cũng chính là nhiệm vụ quốc phòng, khi đạt được hiệu quả chính
trị xã hội tốt thì an ninh địa bàn tốt, trật tự xã hội sẽ tốt, để từ đó không
đơn điệu trong hiệu quả chỉ là hiệu quả kinh tế.
KẾT LUẬN
Kết hợp kinh tế với quốc phòng là vấn đề mang tính quy luật trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ở nước ta hiện nay
hơn lúc nào hết càng đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải thực
hiện tốt hơn nữa, có chất lượng và hiệu quả hơn nữa chủ trương kết hợp
kinh tế với quốc phòng làm cho hoạt động ấy được hiện thực hoá trong tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan
trọng đó những năm qua cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân đã nỗ lực cố gắng
để xứng đáng với niềm tin của Đảng và Nhà nước. Tới đây, trước những
đòi hỏi cao của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, Quân đội sẽ còn phải nỗ lực cố
gắng nhiều hơn nữa mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Những
15
quan điểm chỉ đạo, những giải pháp đã được xác định sẽ là những cơ sở để
quân đội hoàn thành nhiệm vụ tốt hơn trong giai đoạn cách mạng mới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb QĐND, H. 2004, tr. 848.
2. C.Mác, Thư gửi Ph.Ăngghen ở Dai- nơ ngày 25 tháng 9 năm 1857,
C.Mác – Ph. Ăngghen, toàn tập, tập 29, Nxb CTQG, H. 1996, tr.245.
3. V.I Lênin, Toàn tập, tập 36, Bản tiếng Việt, Nxb Tiến bộ
Mát-xcơ-va, 1978, tr. 102.
4.V.I Lênin, Toàn tập, tập 36, Bản tiếng Việt, Nxb Tiến bộ
Mát-xcơ-va, 1978, tr. 102
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng, Nxb Sách giáo
khoa Mác - Lênin, H.1979, tr.3.
6. Đảng Lao động Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ 3, BCHTW, Tập 1, Nxb Sự thật, H.1960, tr.57.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, XI, XII, Nxb Sự thật, H, 2006, 2011, 2016.
8. Công tác cán bộ trong quân đội quá trình hình thành và phát triển,
Tập 2, quyển 1, Nxb QĐND, H. 2002, tr. 116
9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001.
10. Nghị quyết số: 06/ NQ- ĐUQSTW ngày 10/01/ 1995 của Đảng uỷ
quân sự Trung ương về lãnh đạo quân đội làm kinh tế trong tình hình mới.
11. Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm
đổi mới, Nxb CTQG, H , 2015.