Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Phân định thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng của cơ quan người tiến hành tố tụng trong tố

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.96 KB, 20 trang )

Phân định thẩm quyền hành chính và thẩm
quyền tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố
tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam
Nông Xuân Trường
Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Luật Hình sự; Mã số: 60 38 40
Người hướng dẫn: PGS.TS. Võ Khánh Vinh
Năm bảo vệ: 2007
Abstract: Một số vấn đề chung về thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng trong
hoạt động tố tụng hình sự trong pháp luật tố tụng hình sự ở Việt Nam. Tìm hiểu thực
trạng về việc phân định thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng của cơ quan tiến
hành tố tụng trong hoạt động tố tụng hình sự cũng như việc phân định thẩm quyền hành
chính và thẩm quyền tố tụng của người tiến hành tố tụng. Nêu một số giải pháp - kiến
nghị về phân định thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng trong hoạt động tố tụng
hình sự: hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến việc phân
định thẩm quyền; đổi mới về tổ chức hệ thống các cơ quan tư pháp trong hoạt động tố
tụng hình sự
Keywords: Luật hình sự; Pháp luật Việt Nam; Thẩm quyền hành chính; Thẩm quyền tố
tụng; Tố tụng hình sự

Conten
MỞ ĐẦU
1. Tớnh cấp thiết của Đề tài
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, cùng với công cuộc đổi mới toàn
diện của đất nước, cải cách tư pháp ngày càng được Đảng và Nhà nước chú trọng đẩy mạnh, đặc
biệt là trong lĩnh vực tố tụng hình sự, nhằm đảm bảo một nền tư pháp minh bạch, vì con người,
tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân, đồng thời đấu tranh có hiệu quả đối với các
hành vi vi phạm và tội phạm.
Trong hoạt động tố tụng hình sự, thẩm quyền của những người tiến hành tố tụng trong
quá trình giải quyết vụ án có vai trò rất quan trọng. Thực hiện đúng thẩm quyền theo luật định sẽ
làm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được minh bạch, chính xác, đảm




bảo xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân. Ngược lại, thẩm quyền được quy định không rõ ràng sẽ dẫn đến tình trạng lạm quyền, chồng
lấn về thẩm quyền tố tụng, đặc biệt là giữa thẩm quyền tố tụng với thẩm quyền hành chính, gây
ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình giải quyết vụ án và xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân, làm mất niềm tin của công chúng đối với nền tư pháp quốc gia và tính đúng đắn của
công lý.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, Đảng và Nhà nước đã có những Nghị quyết
về cải cách tư pháp đề cập đến vấn đề này. Nghị quyết số 08 ngày 2/1/2001 của Bộ Chính trị về
“Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã nêu: “…mỗi đơn vị, bộ
phận thuộc cơ quan điều tra cần được tổ chức, phân công chuyên sâu về từng lĩnh vực và quy
định rõ quyền hạn, trách nhiệm, đặc biệt là quyền hạn, trách nhiệm của từng chức danh trong cơ
quan điều tra; kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động điều tra và trinh sát…”.
Tiếp đó, ngày 2/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49 về “Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020” trong đó nêu rõ: “Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với
trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng quyền và trách
nhiệm cho điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán để họ chủ động trong việc thực thi nhiệm vụ,
nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng
của mình…”.
Như vậy, có thể thấy rằng trong các nội dung cải cách tư pháp, vấn đề phân định thẩm
quyền tố tụng của những người tiến hành tố tụng với thẩm quyền hành chính là một vấn đề có
tầm quan trọng đặc biệt có ý nghĩa to lớn rất được Đảng và Nhà nước cũng như các cơ quan tư
pháp quan tâm đến để đáp ứng mục tiêu của tố tụng hình sự là giải quyết vụ án một cách đúng
đắn, công bằng, tránh sự lạm dụng quyền lực từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng, đồng thời xử
lý nghiêm minh, kịp thời những hành vi phạm tội.
Nhằm đạt hiệu quả cao trong cuộc đấu tranh chống tội phạm, các cơ quan bảo vệ pháp
luật cần có những thẩm quyền cần thiết để có thể thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Các thẩm quyền này có thể là thẩm quyền hành chính, thẩm quyền tố tụng kết hợp với các
phương pháp phát hiện các quy luật phát sinh, phát triển và điều kiện tồn tại của tội phạm từ đó

mới có thể đề ra các biện pháp, bố trí lực lượng, phương tiện và các chi phí cần thiết khác nhằm
giải quyết triệt để vấn đề tội phạm trong xã hội nói chung cũng như trong quá trình giải quyết
một vụ án cụ thể.


Thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự có
hai loại thẩm quyền cơ bản, thứ nhất là thẩm quyền hành chính áp dụng trong một số trường hợp
như: quản lý, phân công cán bộ tham gia vào việc giải quyết vụ án, bố trí công tác và điều hành
công việc chung. Các thẩm quyền này chủ yếu liên quan đến công tác nội bộ của các cơ quan
tiến hành tố tụng….Loại thứ hai là thẩm quyền tố tụng do người tiến hành tố tụng có thẩm quyền
theo luật định tiến hành và chỉ liên quan đến quá trình giải quyết vụ án hình sự như: Ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; phê chuẩn quyết định khởi tố của cơ quan điều tra,
thẩm quyền ra quyết định bắt người (bắt khẩn cấp, bắt bình thường…), thẩm quyền ra quyết định
tạm giữ, tạm giam; phê chuẩn quyết định tạm giữ, tạm giam, quyết định triệu tập bị can, người
làm chứng, quyết định trưng cầu giám định v.v…Nói chung, các thẩm quyền tố tụng thường do
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng đối với các đối tượng là người tham gia tố tụng
trong quá trình xử lý vụ án hình sự.
Tuy nhiên, việc phân định thẩm quyền tố tụng và thẩm quyền hành chính trong các quy
định của luật tố tụng hình sự Việt Nam vẫn chưa thật rõ ràng, chặt chẽ. Điều này đã gây ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, nhất là
trong quá trình thực thi nhiệm vụ của những người tiến hành tố tụng mà chỉ có một số quyền
năng hạn chế, phụ thuộc nhiều vào các quyết định, phân công mang tính hành chính của thủ
trưởng cơ quan và không có nhiều thực quyền trong hoạt động tố tụng thực tế. Do đó, dẫn đến
tình trạng phải thỉnh thị, xin ý kiến và chờ quyết định của cấp trên, thiếu chủ động trong hoạt
động đấu tranh chống tội phạm và trong hoạt động tác nghiệp chuyên môn. Đôi khi, chính những
vấn đề chưa rõ ràng về phương diện thẩm quyền là những tác nhân gây tác động tiêu cực đến
việc giải quyết án và làm chậm tiến độ, quá thời hạn hoặc gây ra những bị động, lúng túng không
đáng có của những nhân viên thực thi pháp luật trực tiếp đấu tranh với tội phạm trước các diễn
biến phức tạp, đa dạng của tội phạm .
Nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm là trách nhiệm của toàn xã hội nói chung, trực

tiếp đấu tranh với các loại tội phạm là nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng mà nòng cốt
của các cơ quan này là những người tiến hành tố tụng có thẩm quyền theo luật định. Để đạt được
hiệu quả tối đa trong công tác này, những người tiến hành tố tụng cần có đầy đủ thẩm quyền
trong hoạt động nghiệp vụ. Mặc dù các quy định của pháp luật tố tụng hình sự đã có những quy
định về vấn đề này nhưng có thể nói pháp luật tố tụng hiện hành vẫn còn một số quy định chưa
đầy đủ và rõ ràng về thẩm quyền cũng như phân định thẩm quyền hành chính trong hoạt động tố
tụng và thẩm quyền tố tụng của người tiến hành tố tụng. Trong thời gian qua, việc đấu tranh


phòng chống tội phạm ở Việt Nam đã có thành tựu đáng khích lệ, nhưng để công tác này đạt hiệu
quả cao hơn cần có thêm những yếu tố tích cực tác động vào, trong đó có yếu tố pháp luật quy
định và phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể hơn nữa cho các cơ quan và người tiến hành tố
tụng để các cơ quan này có thêm cơ sở pháp lý trong hoạt động tố tụng hình sự.
Trước yêu cầu đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về thực trạng về phân định thẩm
quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng để phân tích một
cách sâu sắc những bất cập trong thực tế do thiếu các quy định của pháp luật từ đó đề ra những
giải pháp, kiến nghị về hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự đối với vấn đề này
có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu
Trong những năm gần đây, cùng với chính sách đổi mới và hội nhập, nền kinh tế Việt
Nam đã ổn định và có sự phát triển đáng khích lệ. Các lĩnh vực trong đời sống kinh tế-văn hóaxã hội từng bước được cải cách, đổi mới, đời sống của nhân dân dần được nâng cao. Bên cạnh
những thành tựu đã đạt được, mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng bộc lộ những mặt tiêu cực
và tác động không nhỏ tới đời sống xã hội làm cho tình hình an ninh-chính trị và tội phạm có
nhiều diễn biến phức tạp với những phương thức, thủ đoạn hoạt động mới ảnh hưởng nghiêm
trọng tới sự phát triển lành mạnh của xã hội và quốc gia. Mặc dù các cơ quan bảo vệ pháp luật đã
có những nỗ lực to lớn trong cuộc chiến chống tội phạm, đề ra nhiều chương trình nghiên cứu
phòng chống tội phạm, nhưng kết quả vẫn chưa được như mong muốn. Trong những hạn chế của
cuộc đấu tranh chống tội phạm có nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân quan
trọng là các quy định pháp luật về thẩm quyền của những cơ quan, người tiến hành tố tụng chưa
đầy đủ và chặt chẽ, do đó, thiếu cơ sở pháp lý cần thiết cho các lực lượng chuyên trách trực tiếp

đấu tranh chống tội phạm, thậm chí, trên thực tế đôi khi còn chồng lấn giữa thẩm quyền hành
chính và thẩm quyền tố tụng trong các cơ quan tiến hành tố tụng và với những người tiến hành tố
tụng.
Thời gian qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học pháp lý trong lĩnh vực tố tụng
hình sự. Tuy nhiên, chỉ có một số chuyên đề đề cập tới vấn đề thẩm quyền của một cơ quan hay
một loại người tiến hành tố tụng hình sự cụ thể như đối với Điều tra viên, Kiểm sát viên…chưa
có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu vấn đề phân định thẩm quyền hành chính và thẩm
quyền tố tụng của các cơ quan và người tiến hành tố tụng với thực tế hoạt động tố tụng hình sự ở
Việt Nam để từ đó đề ra những phương hướng, kiến nghị lập pháp về vấn đề này trên phương
diện tổng thể cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện của Việt Nam.


3. Mục đớch, phạm vi nghiờn cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm đề xuất một số giải pháp và kiến nghị để phân định
rõ hơn từng loại thẩm quyền của các cơ quan và người tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự,
góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Về phạm vi nghiên cứu, đề tài tập trung chủ yếu vào phân tích, nêu lên thực trạng về vấn
đề phân định thẩm quyền tố tụng với thẩm quyền hành chính của các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng hình sự, những người tiến hành tố tụng trong hoạt động tố tụng hình sự. Cụ thể là
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án cũng như những người trong các cơ quan này có chức
danh và thẩm quyền tiến hành hoạt động tố tụng hình sự. Tuy nhiên, đề tài không nghiên cứu vấn
đề này trong hệ thống tư pháp quân đội như cơ quan An ninh quân đội, các Viện kiểm sát quân
sự và hệ thống Toà án quân sự các cấp.
Nghiên cứu pháp luật thực định (có so sánh với trước đây) và tham khảo pháp luật nước
ngoài về thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng trong tố tụng hình sự.
4. Nhiệm vụ nghiờn cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của Đề tài nhằm làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn một số nội
dung cơ bản về thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng của các cơ quan, người tiến hành
tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, khái quát thực trạng phân định và thực hiện các
thẩm quyền trên trong hoạt động thực tiễn ở Việt Nam, phân tích và đưa ra một số nhận định về

những thành tựu cũng như các mặt còn hạn chế trong các quy định hiện hành của pháp luật tố
tụng hình sự ở nước ta:
+ Nghiên cứu về phương diện lý luận bao gồm cả những quy định của pháp luật và một
số quan điểm của các học giả cũng như những người làm công tác thực tiễn trong hoạt động tố
tụng hình sự về phân định thẩm quyền hành chính với thẩm quyền tố tụng.
+ Đánh giá thực trạng việc phân định thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng
trong hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng từ khi có Nghị quyết 08 của
Bộ Chính trị đến nay (2001-2006).
+ Phân tích, đánh giá khái quát thực trạng việc phân định thẩm quyền hành chính và thẩm
quyền tố tụng của các cơ quan và người tiến hành tố tụng. Những khác biệt cơ bản giữa hai loại
thẩm quyền này, hiệu quả trong công tác đấu tranh chống tội phạm khi áp dụng các thẩm quyền
này. Quan niệm của một số nhà nghiên cứu về sự cần thiết phải phân định rõ hai loại thẩm quyền
hành chính và thẩm quyền tố tụng khi tiến hành giải quyết vụ án hình sự.


+ Nêu lên những đặc trưng pháp lý, mối liên hệ giữa hai loại thẩm quyền hành chính và
tố tụng. Những bất cập trong thực tế khi chưa có sự phân định rạch ròi hai loại thẩm quyền trong
quá trình tiến hành giải quyết án hình sự. Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị lập pháp về tố
tụng hình sự nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên.
5. Phương phỏp nghiờn cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở các phương pháp sau:
+ Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử;
+ Phương pháp nghiên cứu hệ thống;
+ Phương pháp lịch sử, logic;
+ Phương pháp phân tích, so sánh;
+ Phương pháp thống kê, tổng hợp.
6. Những cỏi mới về mặt khoa học
- Đây là luận văn cao học đề cập tới vấn đề phân định thẩm quyền hành chính và thẩm
quyền tố tụng trong hoạt động tố tụng hình sự, khái niệm pháp lý của các loại thẩm quyền này,
rút ra những yếu tố hợp lý trong việc áp dụng các thẩm quyền hành chính, thẩm quyền tố tụng

trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Đồng thời, nêu lên những bất cập, hạn chế trong thực
tiễn hoạt động tiến hành tố tụng của các cơ quan, người tiến hành tố tụng do sự phân định chưa
rạch ròi của những loại thẩm quyền này gây ra, đưa ra một số kiến nghị, giải pháp để phân định
các thẩm quyền này.
- Rút ra một số kết luận mang tính khoa học về hiệu quả của việc áp dụng các loại thẩm
quyền trên trong hoạt động tố tụng hình sự, những đóng góp của nó trong cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm. Đề xuất những kiến giải về những biện pháp khắc phục những hạn chế của việc
phân định thẩm quyền không rõ ràng giữa hành chính và tố tụng để góp phần nâng cao hơn nữa
hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và công tác giải quyết vụ án hình sự nói
riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 99 trang. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,
Luận văn có 3 chương, 11 mục.
REFERENCES
CÁC VĂN KIỆN CỦA ĐẢNG
1. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII.


2. Nghị quyết số 08 ngày 2/1/2001 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới”.
3. Nghị quyết số 48 ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”.
4. Nghị quyết số 49 ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020”.
CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT
5. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988.
6. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003.
7. Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004.
8. Bộ luật tố tụng hình sự Italy .
9. Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa Pháp.

10. Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga.
11. Bộ luật tố tụng hình sự Na uy.
12. Luật truy tố tội phạm 1985 của Vương quốc Anh.
13. Luật về cảnh sát và chứng cứ hình sự Vương quốc Anh
14. NXB Sự thật- Hà Nội, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm1946.
15. NXB Sự thật - Hà Nội, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1959.
16. NXB Sự thật - Hà Nội, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1980.
17. NXB Sự thật - Hà Nội, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992.
18. NXB Sự thật - Hà Nội, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
19. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960.
20. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981.
21. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992.
22. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.
23. Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960.
24. Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1981.


25. Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992.
26. Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002.
27.Pháp lệnh về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 1993.
28. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 1993.
29. Pháp lệnh về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.
30. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm của Toà án nhân dân năm 2002.
31. Luật về Cơ quan Công tố Hoàng gia Anh và xứ Wales.
32. Nghị định số 32/CP/1973 của Hội đồng Chính phủ Về việc sửa đổi tổ chức, bộ máy

của Bộ Công an.
33. Sắc lệnh số 13/SL ngày 24 tháng 1 năm 1946 Về tổ chức Toà án và các ngạch Thẩm
phán.
34. Sắc lệnh số 23/SL ngày 21 tháng 2 năm 1946 Về việc thành lập Việt Nam Công an vụ.
35. Sắc lệnh số 51/SL ngày 17 tháng 4 năm 1946 Về ấn định thẩm quyền của các Toà án
và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa
36. Sắc lệnh số 131/SL ngày 20 tháng 7 năm 1946 Về tổ chức Tư pháp công an.
37. Sắc lệnh số 35/SL- CP ngày 22 tháng 5 năm 1950 Về cải cách bộ máy tư pháp và luật
tố tụng.
38. Sắc lệnh số 141/SL ngày 16 tháng 2 năm 1953 Về việc thành lập Thứ Bộ Công an.
39. Sắc lệnh số 103/SL ngày 5/6/1950 quy định Về sự liên hệ giữa UBKCHC và các cơ
quan chuyên môn.
40. Thông tư số 4018-TTC ngày 9/5/1959 của Bộ Tư pháp Về việc hướng dẫn kiện toàn
các Toà án nhân dân địa phương.
41. Nghị định số 381-TTg ngày 20/10/1959 của Thủ tướng Chính phủ quy định Về nhiệm
vụ, quyền hạn của Toà án nhân dân tối cao.
42. Thông tư liên ngành số 427/TTLN ngày 28/6/1963 của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao và Bộ Công an Về việc phân công thẩm quyền điều tra giữa Viện kiểm sát nhân dân và cơ
quan Công an.
43. Thông tư số 1840-P/4 ngày 10 tháng 6 năm 1946 của Bộ Tư pháp Về sửa đổi sự phân
công trong Toà án.
CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
44. TS. Nguyễn Ngọc Chí - Giáo trình Luật tố tụng hình sự, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội (2004).


45. TSKH. Lê Cảm - TS. Nguyễn Ngọc Chí (đồng chủ biên), “Cải cách tư pháp ở Việt
Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền”. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội (2004).
46. Trường Đại học Luật Hà Nội- Nhà xuất bản Công an nhân dân (1998), Giáo trình
Luật tố tụng hình sự .

47. PGS.TS. Võ Khánh Vinh- Giáo trình Luật tố tụng hình sự, ĐHTH Huế (2003).
48. PGS.TS. Võ Khánh Vinh - Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự.
49. PGS.TS. Võ Khánh Vinh - Cải cách tư pháp và việc hoàn thiện các cơ quan tư pháp Hội thảo về chiến lược cải cách tư pháp trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước do
TW Hội luật gia và Ban Nội chính TW tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh.
50. PGS.TS. Võ Khánh Vinh - Chuyên đề Chức danh tư pháp - Một số vấn đề lý luận.
51. GS.TSKH. Đào Trí Úc, TS. Đinh Văn Mậu,TS. Đinh Ngọc Vượng: “Xây dựng Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Chương trình khoa học
xã hội 05. Đề tài KHXH. 05.05. Hà Nội 2001.
52. PGS.TS. Võ Khánh Vinh- Viện kiểm sát nhân dân- Hệ thống tư pháp và cải cách tư
pháp ở Việt Nam hiện nay. NXB khoa học xã hội, (2002).
53. Khái quát hệ thống pháp luật Hoa Kỳ.
54. Anthony Didrick Castberg: The effective administration of police and prosecution the
United States.
55. How U.S courts work. Tạp chí điện tử - Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Tập 4, số 2 (1999).
56. John Hatchard, Barbara Huber and Richard Vogler- Comparative Criminal
Procedure. The British Institute of International and Comparative Law (1996).
57. Bộ Nội vụ - Tổng cục cảnh sát nhân dân (1996): Cơ sở khoa học và thực tiễn xây
dựng chương trình quốc gia phòng chống tội phạm.
58. Đề tài cấp Nhà nước KX 07.07 nhánh 1: Nhận thức chung về tội phạm có tổ chức và
đấu tranh chống tội phạm có tổ chức- Tổng cục cảnh sát nhân dân (2003).
59. NXB CAND, Hà Nội (2004): Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
60. Đề tài khoa học cấp Bộ: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của việc sửa
đổi Bộ luật tố tụng hình sự” - Viện khoa học kiểm sát -VKSNDTC. Hà Nội (1998).
61. Bộ Tư pháp - Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (1999): Tư pháp hình sự so sánh.
62. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Viện khoa học kiểm sát (2001), Đề tài khoa học cấp
Bộ: “Hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự trong điều kiện thi hành Bộ luật hình sự năm 1999”.


63. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Viện khoa học kiểm sát (2003). Đề tài khoa học cấp
Bộ: “Hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự trong điều kiện cải cách tư pháp hiện nay”.

25. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1995): Tìm hiểu xét xử hành chính ở một số nước và
lãnh thổ trên thế giới.
64. Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa (2005), Từ điển luật học.
65. Toà án nhân dân tối cao (1995-2002), Các văn bản hướng dẫn, giải đáp một số vấn
đề về hình sự, dân sự, hành chính, lao động và tố tụng.
66. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2003), Một số quy định pháp luật về cơ quan tư
pháp.
67. Bộ Tư pháp (2003), Các văn bản pháp luật về công tác tư pháp.
68. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Dự án cải cách pháp luật DANIDA (2005), Quy chế
tạm thời về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
điều tra các vụ án hình sự.
69. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Dự án cải cách pháp luật DANIDA (2005), Quy chế
tạm thời về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự.
70. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Các văn bản hướng dẫn áp dụng Bộ luật hình
sự năm 1999.
71. Bộ Tư pháp - Viện khoa học pháp lý(2005): Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003.
72. Báo cáo tổng kết công tác của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác kiểm sát
các năm 2002, 2003, 2004 2005 và 2006.
73. Báo cáo tổng kết công tác của Toà án nhân dân tối cao các năm 2002, 2003, 2004
2005 và 2006.


Phân định thẩm quyền hành chính và thẩm
quyền tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố
tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam
Nông Xuân Trường
Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Luật Hình sự; Mã số: 60 38 40
Người hướng dẫn: PGS.TS. Võ Khánh Vinh

Năm bảo vệ: 2007
Abstract: Một số vấn đề chung về thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng trong
hoạt động tố tụng hình sự trong pháp luật tố tụng hình sự ở Việt Nam. Tìm hiểu thực
trạng về việc phân định thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng của cơ quan tiến
hành tố tụng trong hoạt động tố tụng hình sự cũng như việc phân định thẩm quyền hành
chính và thẩm quyền tố tụng của người tiến hành tố tụng. Nêu một số giải pháp - kiến
nghị về phân định thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng trong hoạt động tố tụng
hình sự: hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến việc phân
định thẩm quyền; đổi mới về tổ chức hệ thống các cơ quan tư pháp trong hoạt động tố
tụng hình sự
Keywords: Luật hình sự; Pháp luật Việt Nam; Thẩm quyền hành chính; Thẩm quyền tố
tụng; Tố tụng hình sự

Conten
MỞ ĐẦU
1. Tớnh cấp thiết của Đề tài
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, cùng với công cuộc đổi mới toàn
diện của đất nước, cải cách tư pháp ngày càng được Đảng và Nhà nước chú trọng đẩy mạnh, đặc
biệt là trong lĩnh vực tố tụng hình sự, nhằm đảm bảo một nền tư pháp minh bạch, vì con người,
tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân, đồng thời đấu tranh có hiệu quả đối với các
hành vi vi phạm và tội phạm.
Trong hoạt động tố tụng hình sự, thẩm quyền của những người tiến hành tố tụng trong
quá trình giải quyết vụ án có vai trò rất quan trọng. Thực hiện đúng thẩm quyền theo luật định sẽ
làm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được minh bạch, chính xác, đảm


bảo xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân. Ngược lại, thẩm quyền được quy định không rõ ràng sẽ dẫn đến tình trạng lạm quyền, chồng
lấn về thẩm quyền tố tụng, đặc biệt là giữa thẩm quyền tố tụng với thẩm quyền hành chính, gây
ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình giải quyết vụ án và xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của

công dân, làm mất niềm tin của công chúng đối với nền tư pháp quốc gia và tính đúng đắn của
công lý.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, Đảng và Nhà nước đã có những Nghị quyết
về cải cách tư pháp đề cập đến vấn đề này. Nghị quyết số 08 ngày 2/1/2001 của Bộ Chính trị về
“Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã nêu: “…mỗi đơn vị, bộ
phận thuộc cơ quan điều tra cần được tổ chức, phân công chuyên sâu về từng lĩnh vực và quy
định rõ quyền hạn, trách nhiệm, đặc biệt là quyền hạn, trách nhiệm của từng chức danh trong cơ
quan điều tra; kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động điều tra và trinh sát…”.
Tiếp đó, ngày 2/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49 về “Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020” trong đó nêu rõ: “Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với
trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng quyền và trách
nhiệm cho điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán để họ chủ động trong việc thực thi nhiệm vụ,
nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng
của mình…”.
Như vậy, có thể thấy rằng trong các nội dung cải cách tư pháp, vấn đề phân định thẩm
quyền tố tụng của những người tiến hành tố tụng với thẩm quyền hành chính là một vấn đề có
tầm quan trọng đặc biệt có ý nghĩa to lớn rất được Đảng và Nhà nước cũng như các cơ quan tư
pháp quan tâm đến để đáp ứng mục tiêu của tố tụng hình sự là giải quyết vụ án một cách đúng
đắn, công bằng, tránh sự lạm dụng quyền lực từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng, đồng thời xử
lý nghiêm minh, kịp thời những hành vi phạm tội.
Nhằm đạt hiệu quả cao trong cuộc đấu tranh chống tội phạm, các cơ quan bảo vệ pháp
luật cần có những thẩm quyền cần thiết để có thể thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Các thẩm quyền này có thể là thẩm quyền hành chính, thẩm quyền tố tụng kết hợp với các
phương pháp phát hiện các quy luật phát sinh, phát triển và điều kiện tồn tại của tội phạm từ đó
mới có thể đề ra các biện pháp, bố trí lực lượng, phương tiện và các chi phí cần thiết khác nhằm
giải quyết triệt để vấn đề tội phạm trong xã hội nói chung cũng như trong quá trình giải quyết
một vụ án cụ thể.


Thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự có

hai loại thẩm quyền cơ bản, thứ nhất là thẩm quyền hành chính áp dụng trong một số trường hợp
như: quản lý, phân công cán bộ tham gia vào việc giải quyết vụ án, bố trí công tác và điều hành
công việc chung. Các thẩm quyền này chủ yếu liên quan đến công tác nội bộ của các cơ quan
tiến hành tố tụng….Loại thứ hai là thẩm quyền tố tụng do người tiến hành tố tụng có thẩm quyền
theo luật định tiến hành và chỉ liên quan đến quá trình giải quyết vụ án hình sự như: Ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; phê chuẩn quyết định khởi tố của cơ quan điều tra,
thẩm quyền ra quyết định bắt người (bắt khẩn cấp, bắt bình thường…), thẩm quyền ra quyết định
tạm giữ, tạm giam; phê chuẩn quyết định tạm giữ, tạm giam, quyết định triệu tập bị can, người
làm chứng, quyết định trưng cầu giám định v.v…Nói chung, các thẩm quyền tố tụng thường do
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng đối với các đối tượng là người tham gia tố tụng
trong quá trình xử lý vụ án hình sự.
Tuy nhiên, việc phân định thẩm quyền tố tụng và thẩm quyền hành chính trong các quy
định của luật tố tụng hình sự Việt Nam vẫn chưa thật rõ ràng, chặt chẽ. Điều này đã gây ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, nhất là
trong quá trình thực thi nhiệm vụ của những người tiến hành tố tụng mà chỉ có một số quyền
năng hạn chế, phụ thuộc nhiều vào các quyết định, phân công mang tính hành chính của thủ
trưởng cơ quan và không có nhiều thực quyền trong hoạt động tố tụng thực tế. Do đó, dẫn đến
tình trạng phải thỉnh thị, xin ý kiến và chờ quyết định của cấp trên, thiếu chủ động trong hoạt
động đấu tranh chống tội phạm và trong hoạt động tác nghiệp chuyên môn. Đôi khi, chính những
vấn đề chưa rõ ràng về phương diện thẩm quyền là những tác nhân gây tác động tiêu cực đến
việc giải quyết án và làm chậm tiến độ, quá thời hạn hoặc gây ra những bị động, lúng túng không
đáng có của những nhân viên thực thi pháp luật trực tiếp đấu tranh với tội phạm trước các diễn
biến phức tạp, đa dạng của tội phạm .
Nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm là trách nhiệm của toàn xã hội nói chung, trực
tiếp đấu tranh với các loại tội phạm là nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng mà nòng cốt
của các cơ quan này là những người tiến hành tố tụng có thẩm quyền theo luật định. Để đạt được
hiệu quả tối đa trong công tác này, những người tiến hành tố tụng cần có đầy đủ thẩm quyền
trong hoạt động nghiệp vụ. Mặc dù các quy định của pháp luật tố tụng hình sự đã có những quy
định về vấn đề này nhưng có thể nói pháp luật tố tụng hiện hành vẫn còn một số quy định chưa
đầy đủ và rõ ràng về thẩm quyền cũng như phân định thẩm quyền hành chính trong hoạt động tố

tụng và thẩm quyền tố tụng của người tiến hành tố tụng. Trong thời gian qua, việc đấu tranh


phòng chống tội phạm ở Việt Nam đã có thành tựu đáng khích lệ, nhưng để công tác này đạt hiệu
quả cao hơn cần có thêm những yếu tố tích cực tác động vào, trong đó có yếu tố pháp luật quy
định và phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể hơn nữa cho các cơ quan và người tiến hành tố
tụng để các cơ quan này có thêm cơ sở pháp lý trong hoạt động tố tụng hình sự.
Trước yêu cầu đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về thực trạng về phân định thẩm
quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng để phân tích một
cách sâu sắc những bất cập trong thực tế do thiếu các quy định của pháp luật từ đó đề ra những
giải pháp, kiến nghị về hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự đối với vấn đề này
có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu
Trong những năm gần đây, cùng với chính sách đổi mới và hội nhập, nền kinh tế Việt
Nam đã ổn định và có sự phát triển đáng khích lệ. Các lĩnh vực trong đời sống kinh tế-văn hóaxã hội từng bước được cải cách, đổi mới, đời sống của nhân dân dần được nâng cao. Bên cạnh
những thành tựu đã đạt được, mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng bộc lộ những mặt tiêu cực
và tác động không nhỏ tới đời sống xã hội làm cho tình hình an ninh-chính trị và tội phạm có
nhiều diễn biến phức tạp với những phương thức, thủ đoạn hoạt động mới ảnh hưởng nghiêm
trọng tới sự phát triển lành mạnh của xã hội và quốc gia. Mặc dù các cơ quan bảo vệ pháp luật đã
có những nỗ lực to lớn trong cuộc chiến chống tội phạm, đề ra nhiều chương trình nghiên cứu
phòng chống tội phạm, nhưng kết quả vẫn chưa được như mong muốn. Trong những hạn chế của
cuộc đấu tranh chống tội phạm có nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân quan
trọng là các quy định pháp luật về thẩm quyền của những cơ quan, người tiến hành tố tụng chưa
đầy đủ và chặt chẽ, do đó, thiếu cơ sở pháp lý cần thiết cho các lực lượng chuyên trách trực tiếp
đấu tranh chống tội phạm, thậm chí, trên thực tế đôi khi còn chồng lấn giữa thẩm quyền hành
chính và thẩm quyền tố tụng trong các cơ quan tiến hành tố tụng và với những người tiến hành tố
tụng.
Thời gian qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học pháp lý trong lĩnh vực tố tụng
hình sự. Tuy nhiên, chỉ có một số chuyên đề đề cập tới vấn đề thẩm quyền của một cơ quan hay
một loại người tiến hành tố tụng hình sự cụ thể như đối với Điều tra viên, Kiểm sát viên…chưa

có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu vấn đề phân định thẩm quyền hành chính và thẩm
quyền tố tụng của các cơ quan và người tiến hành tố tụng với thực tế hoạt động tố tụng hình sự ở
Việt Nam để từ đó đề ra những phương hướng, kiến nghị lập pháp về vấn đề này trên phương
diện tổng thể cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện của Việt Nam.


3. Mục đớch, phạm vi nghiờn cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm đề xuất một số giải pháp và kiến nghị để phân định
rõ hơn từng loại thẩm quyền của các cơ quan và người tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự,
góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Về phạm vi nghiên cứu, đề tài tập trung chủ yếu vào phân tích, nêu lên thực trạng về vấn
đề phân định thẩm quyền tố tụng với thẩm quyền hành chính của các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng hình sự, những người tiến hành tố tụng trong hoạt động tố tụng hình sự. Cụ thể là
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án cũng như những người trong các cơ quan này có chức
danh và thẩm quyền tiến hành hoạt động tố tụng hình sự. Tuy nhiên, đề tài không nghiên cứu vấn
đề này trong hệ thống tư pháp quân đội như cơ quan An ninh quân đội, các Viện kiểm sát quân
sự và hệ thống Toà án quân sự các cấp.
Nghiên cứu pháp luật thực định (có so sánh với trước đây) và tham khảo pháp luật nước
ngoài về thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng trong tố tụng hình sự.
4. Nhiệm vụ nghiờn cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của Đề tài nhằm làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn một số nội
dung cơ bản về thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng của các cơ quan, người tiến hành
tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, khái quát thực trạng phân định và thực hiện các
thẩm quyền trên trong hoạt động thực tiễn ở Việt Nam, phân tích và đưa ra một số nhận định về
những thành tựu cũng như các mặt còn hạn chế trong các quy định hiện hành của pháp luật tố
tụng hình sự ở nước ta:
+ Nghiên cứu về phương diện lý luận bao gồm cả những quy định của pháp luật và một
số quan điểm của các học giả cũng như những người làm công tác thực tiễn trong hoạt động tố
tụng hình sự về phân định thẩm quyền hành chính với thẩm quyền tố tụng.
+ Đánh giá thực trạng việc phân định thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng

trong hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng từ khi có Nghị quyết 08 của
Bộ Chính trị đến nay (2001-2006).
+ Phân tích, đánh giá khái quát thực trạng việc phân định thẩm quyền hành chính và thẩm
quyền tố tụng của các cơ quan và người tiến hành tố tụng. Những khác biệt cơ bản giữa hai loại
thẩm quyền này, hiệu quả trong công tác đấu tranh chống tội phạm khi áp dụng các thẩm quyền
này. Quan niệm của một số nhà nghiên cứu về sự cần thiết phải phân định rõ hai loại thẩm quyền
hành chính và thẩm quyền tố tụng khi tiến hành giải quyết vụ án hình sự.


+ Nêu lên những đặc trưng pháp lý, mối liên hệ giữa hai loại thẩm quyền hành chính và
tố tụng. Những bất cập trong thực tế khi chưa có sự phân định rạch ròi hai loại thẩm quyền trong
quá trình tiến hành giải quyết án hình sự. Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị lập pháp về tố
tụng hình sự nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên.
5. Phương phỏp nghiờn cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở các phương pháp sau:
+ Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử;
+ Phương pháp nghiên cứu hệ thống;
+ Phương pháp lịch sử, logic;
+ Phương pháp phân tích, so sánh;
+ Phương pháp thống kê, tổng hợp.
6. Những cỏi mới về mặt khoa học
- Đây là luận văn cao học đề cập tới vấn đề phân định thẩm quyền hành chính và thẩm
quyền tố tụng trong hoạt động tố tụng hình sự, khái niệm pháp lý của các loại thẩm quyền này,
rút ra những yếu tố hợp lý trong việc áp dụng các thẩm quyền hành chính, thẩm quyền tố tụng
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Đồng thời, nêu lên những bất cập, hạn chế trong thực
tiễn hoạt động tiến hành tố tụng của các cơ quan, người tiến hành tố tụng do sự phân định chưa
rạch ròi của những loại thẩm quyền này gây ra, đưa ra một số kiến nghị, giải pháp để phân định
các thẩm quyền này.
- Rút ra một số kết luận mang tính khoa học về hiệu quả của việc áp dụng các loại thẩm
quyền trên trong hoạt động tố tụng hình sự, những đóng góp của nó trong cuộc đấu tranh phòng

chống tội phạm. Đề xuất những kiến giải về những biện pháp khắc phục những hạn chế của việc
phân định thẩm quyền không rõ ràng giữa hành chính và tố tụng để góp phần nâng cao hơn nữa
hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và công tác giải quyết vụ án hình sự nói
riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 99 trang. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,
Luận văn có 3 chương, 11 mục.
REFERENCES
CÁC VĂN KIỆN CỦA ĐẢNG
1. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII.


2. Nghị quyết số 08 ngày 2/1/2001 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới”.
3. Nghị quyết số 48 ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”.
4. Nghị quyết số 49 ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020”.
CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT
5. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988.
6. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003.
7. Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004.
8. Bộ luật tố tụng hình sự Italy .
9. Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa Pháp.
10. Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga.
11. Bộ luật tố tụng hình sự Na uy.
12. Luật truy tố tội phạm 1985 của Vương quốc Anh.
13. Luật về cảnh sát và chứng cứ hình sự Vương quốc Anh
14. NXB Sự thật- Hà Nội, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm1946.

15. NXB Sự thật - Hà Nội, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1959.
16. NXB Sự thật - Hà Nội, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1980.
17. NXB Sự thật - Hà Nội, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992.
18. NXB Sự thật - Hà Nội, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
19. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960.
20. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981.
21. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992.
22. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.
23. Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960.
24. Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1981.


25. Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992.
26. Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002.
27.Pháp lệnh về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 1993.
28. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 1993.
29. Pháp lệnh về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.
30. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm của Toà án nhân dân năm 2002.
31. Luật về Cơ quan Công tố Hoàng gia Anh và xứ Wales.
32. Nghị định số 32/CP/1973 của Hội đồng Chính phủ Về việc sửa đổi tổ chức, bộ máy
của Bộ Công an.
33. Sắc lệnh số 13/SL ngày 24 tháng 1 năm 1946 Về tổ chức Toà án và các ngạch Thẩm
phán.
34. Sắc lệnh số 23/SL ngày 21 tháng 2 năm 1946 Về việc thành lập Việt Nam Công an vụ.
35. Sắc lệnh số 51/SL ngày 17 tháng 4 năm 1946 Về ấn định thẩm quyền của các Toà án
và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa

36. Sắc lệnh số 131/SL ngày 20 tháng 7 năm 1946 Về tổ chức Tư pháp công an.
37. Sắc lệnh số 35/SL- CP ngày 22 tháng 5 năm 1950 Về cải cách bộ máy tư pháp và luật
tố tụng.
38. Sắc lệnh số 141/SL ngày 16 tháng 2 năm 1953 Về việc thành lập Thứ Bộ Công an.
39. Sắc lệnh số 103/SL ngày 5/6/1950 quy định Về sự liên hệ giữa UBKCHC và các cơ
quan chuyên môn.
40. Thông tư số 4018-TTC ngày 9/5/1959 của Bộ Tư pháp Về việc hướng dẫn kiện toàn
các Toà án nhân dân địa phương.
41. Nghị định số 381-TTg ngày 20/10/1959 của Thủ tướng Chính phủ quy định Về nhiệm
vụ, quyền hạn của Toà án nhân dân tối cao.
42. Thông tư liên ngành số 427/TTLN ngày 28/6/1963 của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao và Bộ Công an Về việc phân công thẩm quyền điều tra giữa Viện kiểm sát nhân dân và cơ
quan Công an.
43. Thông tư số 1840-P/4 ngày 10 tháng 6 năm 1946 của Bộ Tư pháp Về sửa đổi sự phân
công trong Toà án.
CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
44. TS. Nguyễn Ngọc Chí - Giáo trình Luật tố tụng hình sự, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội (2004).


45. TSKH. Lê Cảm - TS. Nguyễn Ngọc Chí (đồng chủ biên), “Cải cách tư pháp ở Việt
Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền”. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội (2004).
46. Trường Đại học Luật Hà Nội- Nhà xuất bản Công an nhân dân (1998), Giáo trình
Luật tố tụng hình sự .
47. PGS.TS. Võ Khánh Vinh- Giáo trình Luật tố tụng hình sự, ĐHTH Huế (2003).
48. PGS.TS. Võ Khánh Vinh - Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự.
49. PGS.TS. Võ Khánh Vinh - Cải cách tư pháp và việc hoàn thiện các cơ quan tư pháp Hội thảo về chiến lược cải cách tư pháp trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước do
TW Hội luật gia và Ban Nội chính TW tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh.
50. PGS.TS. Võ Khánh Vinh - Chuyên đề Chức danh tư pháp - Một số vấn đề lý luận.
51. GS.TSKH. Đào Trí Úc, TS. Đinh Văn Mậu,TS. Đinh Ngọc Vượng: “Xây dựng Nhà

nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Chương trình khoa học
xã hội 05. Đề tài KHXH. 05.05. Hà Nội 2001.
52. PGS.TS. Võ Khánh Vinh- Viện kiểm sát nhân dân- Hệ thống tư pháp và cải cách tư
pháp ở Việt Nam hiện nay. NXB khoa học xã hội, (2002).
53. Khái quát hệ thống pháp luật Hoa Kỳ.
54. Anthony Didrick Castberg: The effective administration of police and prosecution the
United States.
55. How U.S courts work. Tạp chí điện tử - Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Tập 4, số 2 (1999).
56. John Hatchard, Barbara Huber and Richard Vogler- Comparative Criminal
Procedure. The British Institute of International and Comparative Law (1996).
57. Bộ Nội vụ - Tổng cục cảnh sát nhân dân (1996): Cơ sở khoa học và thực tiễn xây
dựng chương trình quốc gia phòng chống tội phạm.
58. Đề tài cấp Nhà nước KX 07.07 nhánh 1: Nhận thức chung về tội phạm có tổ chức và
đấu tranh chống tội phạm có tổ chức- Tổng cục cảnh sát nhân dân (2003).
59. NXB CAND, Hà Nội (2004): Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
60. Đề tài khoa học cấp Bộ: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của việc sửa
đổi Bộ luật tố tụng hình sự” - Viện khoa học kiểm sát -VKSNDTC. Hà Nội (1998).
61. Bộ Tư pháp - Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (1999): Tư pháp hình sự so sánh.
62. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Viện khoa học kiểm sát (2001), Đề tài khoa học cấp
Bộ: “Hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự trong điều kiện thi hành Bộ luật hình sự năm 1999”.


63. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Viện khoa học kiểm sát (2003). Đề tài khoa học cấp
Bộ: “Hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự trong điều kiện cải cách tư pháp hiện nay”.
25. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1995): Tìm hiểu xét xử hành chính ở một số nước và
lãnh thổ trên thế giới.
64. Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa (2005), Từ điển luật học.
65. Toà án nhân dân tối cao (1995-2002), Các văn bản hướng dẫn, giải đáp một số vấn
đề về hình sự, dân sự, hành chính, lao động và tố tụng.
66. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2003), Một số quy định pháp luật về cơ quan tư

pháp.
67. Bộ Tư pháp (2003), Các văn bản pháp luật về công tác tư pháp.
68. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Dự án cải cách pháp luật DANIDA (2005), Quy chế
tạm thời về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
điều tra các vụ án hình sự.
69. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Dự án cải cách pháp luật DANIDA (2005), Quy chế
tạm thời về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự.
70. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Các văn bản hướng dẫn áp dụng Bộ luật hình
sự năm 1999.
71. Bộ Tư pháp - Viện khoa học pháp lý(2005): Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003.
72. Báo cáo tổng kết công tác của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác kiểm sát
các năm 2002, 2003, 2004 2005 và 2006.
73. Báo cáo tổng kết công tác của Toà án nhân dân tối cao các năm 2002, 2003, 2004
2005 và 2006.



×