Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Tội phản bội tổ quốc trong luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.88 KB, 20 trang )

Tội phản bội tổ quốc trong luật hình sự Việt Nam
Trần Thu Hằng
Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Luật Hình sự; Mã số: 60 38 40
Người hướng dẫn: TS. Trần Quang Tiệp
Năm bảo vệ: 2009
Abstract: Nghiên cứu, làm sáng tỏ một số vấn đề chung về tội phản bội Tổ quốc trong
luật hình sự Việt Nam. Tìm hiểu về khái niệm, ý nghĩa của việc quy định tội phản bội Tổ
quốc trong pháp luật hình sự, đồng thời phân tích các quy định của pháp luật hình sự một
số nước trên thế giới về tội phạm này. Phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật
hình sự hiện hành về tội phản bội Tổ quốc và làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng, nêu lên
những vướng mắc trong điều tra, truy tố, xét xử, đòi hỏi khoa học hình sự phải nghiên
cứu giải quyết. Đề xuất các giải pháp: giải pháp phòng ngừa; chủ động và kịp thời phát
hiện, đấu tranh chống tội phản bội Tổ quốc; nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự
đối với tội phản bội Tổ quốc; tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về an ninh quốc
gia, an ninh đất nước nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp luật
hình sự hiện hành về tội phản bội Tổ quốc
Keywords: Luật hình sự; Pháp luật Việt Nam; Tội phạm; Tội phản bội Tổ quốc

Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới trong 20 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch
sử, khẳng định đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực
tiễn Việt Nam. Đảng, Nhà nước ta luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, trung thành
với giai cấp, dân tộc, kiên định, vững vàng trước mọi thách thức, sáng suốt lãnh đạo đưa sự
nghiệp cách mạng của dân tộc ta tiến lên. Hiện nay, trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng và Nhà nước ta vẫn
quyết tâm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng và phát huy dân chủ trong
các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Để thực hiện mục tiêu trên, cần có sự thống nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cùng


đồng lòng, nhất trí thực hiện mục tiêu mà Đảng, Nhà nước đề ra. Những diễn biến phức tạp của
tình hình kinh tế thế giới, âm mưu của các thế lực thù địch, nhất là trên lĩnh vực chính trị tư


tưởng đã tác động không nhỏ đến công tác bảo vệ an ninh quốc gia. Các thế lực thù địch vẫn tìm
mọi cách thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" nhằm lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước
ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã đề cập đến vấn đề xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh sự cần thiết của việc "tăng cường an ninh,
mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập". Vì vậy, cần nắm vững đường lối, chính sách
đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước để xử lý các vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia.
Trong số các tội xâm phạm an ninh quốc gia, chúng ta không thể không đề cập tội phản bội Tổ
quốc, vì đây là loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm đã được pháp luật hình sự Việt Nam quy định từ
những ngày đầu Cách mạng tháng Tám thành công. Từ năm 1945 đến nay, tình hình tội phản bội
Tổ quốc diễn biến phức tạp, nhưng xu hướng chung là giảm dần. Thực tiễn xét xử tội phản bội
Tổ quốc đã đặt ra không ít vướng mắc đòi hỏi khoa học luật hình sự cần phải nghiên cứu giải
quyết như khái niệm Tổ quốc, khái niệm tội phản bội Tổ quốc, hình phạt được áp dụng đối với
loại tội phạm này... Tuy nhiên, dưới góc độ lý luận, xung quanh những vấn đề trên còn nhiều ý
kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: "Tội phản bội Tổ quốc trong luật hình sự Việt Nam" là vấn
đề mang tính cấp thiết, không những về mặt lý luận mà còn là đòi hỏi thực tiễn, góp phần nâng
cao hiệu quả trong công tác phòng ngừa, đấu tranh loại tội phạm này hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tội phản bội Tổ quốc là loại tội phạm có tính chất đặc biệt nguy hiểm và phức tạp trong các
tội xâm phạm an ninh quốc gia, được một số nhà luật học đề cập trong Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam, tập II, của Trường Đại học Luật Hà Nội (Nxb Công an nhân dân, 1998), Giáo trình Luật hình
sự Việt Nam (phần các tội phạm) của Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội (Nxb Đại học quốc
gia Hà Nội, 1997, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý
thuộc Bộ Tư pháp (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1987 (tái bản 1997).
Bên cạnh đó, PGS.TS Kiều Đình Thụ cũng đã có bài viết: "Các tội xâm phạm an ninh quốc
gia, lịch sử, thực trạng và phương hướng hoàn thiện", trong đó có đề cập tội phản bội Tổ quốc

(Tạp chí Thông tin khoa học pháp lý của Bộ Tư pháp), TSKH.PGS Lê Cảm chủ biên cuốn sách:
"Bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh quốc tế và các quyền con người bằng pháp luật hình sự trong
giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền", (Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2007), trong đó có đề cập tội
phản bội Tổ quốc.
Sau khi Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999 được ban hành, tội phản bội Tổ quốc tiếp tục
được đề cập trong Giáo trình Luật hình sự, của Trường Đại học Luật Hà Nội (Nxb Công an nhân
dân năm 2000), Giáo trình Luật hình sự (phần các tội phạm), của Khoa Luật - Đại học Quốc gia
Hà Nội (Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2002), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự (phần các tội
phạm), của Nguyễn Mai Bộ, Phùng Thế Vắc, Nguyễn Đức Mai, LS.ThS Phạm Thanh Bình, ThS.
Nguyễn Sĩ Đại,... (Nxb Công an nhân dân, 2001).
Tuy nhiên, trong các công trình trên, các nhà luật học chỉ đề cập một cách khái quát về tội phản
bội Tổ quốc dưới góc độ luật hình sự hoặc tội phạm học, chưa có công trình nào nghiên cứu về tội
phản bội Tổ quốc một cách toàn diện và có hệ thống.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:


Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội phản bội Tổ quốc, tác giả đề xuất
những giải pháp hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự về tội phản bội Tổ quốc và
kiến nghị những giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp luật về tội
phạm này.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đặt ra, tác giả đặt ra cho mình những nhiệm vụ phải giải quyết sau
đây:
- Phân tích, làm rõ lịch sự hình thành và phát triển những quy định về tội phản bội Tổ quốc
trong luật hình sự Việt Nam.
- Làm sáng tỏ khái niệm, ý nghĩa của việc quy định tội phản bội Tổ quốc trong pháp luật
hình sự; phân tích các quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về tội phạm này.
- Phân tích, làm rõ những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội phản bội Tổ quốc;
làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng loại tội phạm này, nêu lên những vướng mắc trong điều tra, truy

tố, xét xử, đòi hỏi khoa học luật hình sự phải nghiên cứu giải quyết.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp luật
hình sự hiện hành về tội phản bội Tổ quốc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu tội phản bội Tổ quốc.
Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu tội phản bội Tổ quốc dưới góc độ pháp lý hình sự, trong thời gian 33
năm từ năm 1975 đến năm 2008.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân và về xây dựng pháp luật
Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án về tội phản bội Tổ
quốc; số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của các cơ quan bảo vệ pháp luật về tội phạm này.
Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử.
Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp: hệ thống, lịch sử, lôgíc, thống
kê, phân tích, tổng hợp, kết hợp với các phương pháp khác như so sánh pháp luật, điều tra xã
hội...
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt Nam ở cấp độ luận văn
thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và tương đối có hệ thống về tội phản
bội Tổ quốc dưới góc độ pháp lý hình sự. Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp
mới về khoa học của luận văn:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về tội phản bội Tổ quốc trong luật hình sự Việt
Nam.
- Phân tích, đánh giá những quy định về tội phản bội Tổ quốc trong pháp luật hình sự một số
nước trên thế giới nhằm rút ra những giá trị hợp lý về lập pháp hình sự, để vận dụng có chọn lọc,



bổ sung cho những luận cứ và giải pháp được đề xuất trong luận văn.
- Phân tích, làm rõ những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội phản bội Tổ quốc
và thực tiễn áp dụng, nêu lên những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng những quy định của
pháp luật hình sự về tội phạm này.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng những
quy định của pháp luật hình sự về tội phản bội Tổ quốc.
7. ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất của luận văn có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng
cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội phản bội Tổ
quốc ở nước ta. Thông qua kết quả nghiên cứu và các đề xuất, tác giả mong muốn đóng góp phần
nhỏ bé của mình vào việc phát triển khoa học luật hình sự nói chung, về tội phản bội Tổ quốc nói
riêng.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm công tác nghiên cứu,
giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự nói riêng và cho các cán bộ thực
tiễn đang công tác tại Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 96 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 9 mục.
Chương 1
Một Số Vấn Đề CHUNG Về Tội Phản Bội Tổ Quốc
TRONG Luật Hình Sự Việt NAM
1.1. Khái niệm tội phản bội Tổ quốc và ý nghĩa của việc ghi nhận tội phản bội Tổ quốc
trong luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm tội phản bội Tổ quốc trong luật hình sự Việt Nam
Trước khi tìm hiểm khái niệm tội phản bội Tổ quốc, ta cần hiểu rõ khái niệm an ninh quốc
gia và khái niệm các tội xâm phạm an ninh quốc gia.
Khái niệm An ninh quốc gia được ghi nhận lần đầu tiên trong Luật An ninh quốc gia năm
2004 tại khoản 1 Điều 2. Từ khái niệm trên và nghiên cứu thực tiễn áp dụng các qui phạm pháp
luật hình sự về các tội xâm phạm an ninh quốc gia ở Việt Nam, chúng ta có thể đưa ra định nghĩa

khoa học của khái niệm an ninh quốc gia dưới góc độ luật hình sự như sau: An ninh quốc gia là
sự ổn định của chế độ Hiến pháp, sự tồn tại và bền vững của hệ thống chính trị và bộ máy chính
quyền từ trung ương đến các địa phương trong một nhà nước, cũng như sự bất khả xâm phạm về
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhà nước đó trên cơ sở một trật tự pháp luật nhất
định, đồng thời là nhóm khách thể loại được đặc biệt bảo vệ bằng pháp luật hình sự tránh khỏi
sự xâm hại của tội phạm.
Từ khái niệm trên ta có thể nghiên cứu khái niệm các tội xâm phạm an ninh quốc gia: Các tội
xâm phạm an ninh quốc gia là những hành vi đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm sự
ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.


Như vậy, các tội xâm phạm an ninh quốc gia xâm phạm đến các quan hệ xã hội đặc biệt, tội
phản bội Tổ quốc là một trong những tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm đến các quan hệ xã hội
đó.
Trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam, tội phản bội Tổ quốc là một trong những tội được
quy định sớm. Nhưng để hiểu đúng và đủ về tội phản bội Tổ quốc phải có đủ 3 dấu hiệu: a) bình
diện khách quan: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; b) bình diện pháp lý: tội phạm là hành vi
trái pháp luật hình sự; c) bình diện chủ quan: tội phạm là hành vi do người có năng lực trách
nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi.
Trên cơ sở phân tích các khái niệm trên, chúng tôi xin đưa ra khái niệm tội phản bội Tổ quốc
như sau: tội phản bội Tổ quốc là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự của công
dân Việt Nam có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, cấu kết với
nước ngoài nhằm gây nguy hại cho các quan hệ xã hội: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, lực lượng quốc phòng và chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.1.2. ý nghĩa của việc ghi nhận tội phản bội Tổ quốc trong luật hình sự Việt Nam
Ngay từ khi tuyên bố độc lập, tội phản bội Tổ quốc đã được xem xét và được quy định rất sớm
trong các văn bản pháp luật ban hành thời kỳ đầu. Việc sớm quy định tội phản bội Tổ quốc trong các

văn bản pháp luật (Sắc lệnh 133/SL ngày 20/01/1953 và Sắc luật số 03/SL ngày 15/03/1976) và áp
dụng những hình phạt nặng nhất với những hành vi phản bội Tổ quốc cho thấy ý nghĩa và tầm quan
trọng của tội danh này. Nó không chỉ góp phần ổn định an ninh chính trị trong nước từ đó giành lại
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, mà nó còn mang lại sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội,
nâng cao đời sống về mọi mặt cho toàn thể nhân dân.
Hơn nữa, việc ghi nhận tội phản bội Tổ quốc trong luật hình sự Việt Nam còn thể hiện sự
quan tâm của Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam bằng các
biện pháp pháp lý hình sự, tạo điều kiện cho công cuộc xây dựng đất nước phát triển.
Việc ghi nhận tội phản bội Tổ quốc trong luật hình sự còn tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho
cuộc đấu tranh phòng chống các loại tội phạm nói chung và tội phản bội Tổ quốc nói riêng.
Ngoài ra, việc quy định tội phản bội Tổ quốc trong luật hình sự Việt Nam còn góp phần nâng
cao nhận thức của nhân dân nói chung, cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng về sự cần
thiết phải tuân thủ các quy định của pháp luật trong việc bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời việc hướng
dẫn chi tiết về việc áp dụng tội phản bội Tổ quốc của các cơ quan có thẩm quyền còn giúp các cơ
quan bảo vệ pháp luật nắm vững nội dung, bản chất pháp lý, từ đó thực hiện đúng đắn những quy
định về tội phạm này trong thực tiễn.
1.2. Khái lược lịch sử hình thành và phát triển những quy định về tội phản bội Tổ quốc
trong luật hình sự Việt Nam
Ngay từ thời kỳ đầu dựng nước và giữ nước cho đến nay, nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia
và chống xâm phạm đất nước luôn là nhiệm vụ quan trọng và ưu tiên hàng đầu, nhất là từ sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, nhiệm vụ này càng được khẳng định. Nghiên cứu lịch
sử pháp luật hình sự mỗi thời kỳ không thể không nghiên cứu các đặc điểm kinh tế, chính trị, văn
hóa của từng thời kỳ ban hành các văn bản pháp luật đó.
1.2.1. Các qui phạm pháp luật hình sự Việt Nam về tội phản bội Tổ quốc trong thời kỳ
phong kiến đến trước thời kỳ Pháp thuộc


Trong thời kỳ phong kiến, nhìn chung về mặt kỹ thuật lập pháp, các Bộ luật ra đời trong thời
kỳ này chưa quy định rõ ràng về tội phản bội Tổ quốc nhưng trong các Bộ luật đều có hành vi
giống với hành vi phản bội Tổ quốc được quy định trong BLHS năm 1999 cụ thể:

Pháp luật thời kỳ Lê sơ: Nghiên cứu pháp luật thời kỳ Lê sơ, điển hình là Bộ luật Hồng Đức, ta
có thể thấy rõ sự tiến bộ về kỹ thuật lập pháp so với các triều đại trước. Bộ luật Hồng Đức được soạn
thảo dưới triều vua Lê Thánh Tông và hoàn thành năm 1483, gồm 6 quyển với 13 chương với 722
điều quy định tất cả các mối quan hệ xã hội có thời bấy giờ. Trong Bộ luật Hồng Đức, đã đề cập tội
phản bội Tổ quốc, nếu có âm mưu phản quốc cũng bị xử phạt với hình phạt nặng nhất.
Tuy nhiên, tội mưu phản gồm những hành vi phạm tội cụ thể nào thì chưa được liệt kê mà
chỉ quy định chung chung "là mưu làm nguy hại đến xã tắc".
Bộ luật Hồng Đức mặc dù chưa đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm tội phản bội Tổ quốc,
nhưng cũng đã quy định về những hành vi nguy hại đến quyền lợi của giai cấp thống trị Nhà nước
phong kiến tập quyền thì bị xử tội nghiêm khắc nhất.
Pháp luật thời kỳ nhà Nguyễn: Sang đến thế kỷ 16, vào năm 1802, sau khi Nguyễn ánh lên ngôi
Vua, lấy hiệu là Gia Long, đặt kinh đô ở Phú Xuân, và giao cho Tiền quân Bắc thành tổng trấn
Nguyễn Văn Thành là Tổng tài soạn thảo Bộ luật có tên Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long). Bộ
luật được soạn thảo trong một thời gian dài, đến năm 1811 thì hoàn tất, và năm 1812 được khắc in
lần đầu ở Trung Quốc, có hiệu lực từ năm 1813 trên phạm vi toàn quốc. Bộ luật gồm hai phần, 22
quyển với 398 điều. Trong đó, tội mưu phản hay mưu phản đại nghịch thuộc nhóm tội "Đạo tặc
thượng: hay còn gọi là nhóm tội "Giặc trộm ở bậc cao" gần giống với nhóm tội xâm phạm an ninh
quốc gia ở BLHS năm 1999. Với quan niệm trên, tội mưu phản (mưu làm sụp đổ xã tắc) xã tắc là
vua, mưu làm sụp đổ xã tắc lật đổ ngôi vua, lật đổ triều đình là một trong những tội phạm thập ác (10
tội ác).
Về hình phạt với đối với tội mưu phản đại nghịch và mưu phản, Bộ luật này đều quy định
hình phạt cao nhất là chém đầu. Tuy nhiên, tại một số điều luật về mưu phản lại có quy định thi
hành hình phạt tử hình bằng lăng trì. Đây có thể nói là mâu thuẫn ngay trong một Bộ luật và bị
coi là một trong những nhược điểm về kỹ thuật lập pháp hình sự thời kỳ nhà Nguyễn.
Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long) mặc dù chịu ảnh hưởng của pháp luật hình sự phong kiến
Trung Quốc rất nặng nề, nhưng nó cũng đã kế thừa và tiếp thu những giá trị lập pháp hình sự của thời
kỳ Lê sơ và bên cạnh đó, có những sáng tạo nhất định, thể hiện kỹ thuật lập pháp hình sự ở trình độ
cao so với các nước trong khu vực.
1.2.2. Các qui phạm pháp luật hình sự Việt Nam về tội phản bội Tổ quốc trong thời kỳ
Pháp thuộc

Sau khi cùng Anh, Mỹ buộc triều đình Mãn Thanh (Trung Quốc) ký Hiệp ước Thiên Tân,
thực dân Pháp kéo quân viễn chinh từ Trung Quốc đánh chiếm Việt Nam. Thực dân Pháp thực
hiện chính sách "chia để trị" chia đất nước Việt Nam thành ba xứ với ba chế độ chính trị khác
nhau:
Nam Kỳ là đất nước thuộc địa, không còn quan hệ phụ thuộc vào triều đình Huế, nếu phạm tội sẽ
bị xét xử theo Bộ luật Gia Long theo quy định tại Điều 11 Sắc luật ngày 25/7/1884. Trong Sắc luật
ngày 16/3/1890, thực dân Pháp quy định từ thời điểm này, các Tòa án ở Nam Kỳ phải áp dụng pháp
luật hình sự của Pháp thay cho Bộ luật Gia Long, ngoại trừ trường hợp pháp luật hình sự của Pháp


chưa dự liệu được. Đến ngày 31/12/1912, Toàn quyền Đông Dương ban hành Sắc luật đã sửa đổi 56
điều của BLHS Pháp thành Hình luật canh cải và cho áp dụng tại Nam Kỳ.
Khác hẳn với Nam Kỳ ở Bắc Kỳ là đất "nửa bảo hộ" đặt dưới quyền cai trị của một viên
thống sứ người Pháp và người phạm tội sẽ chịu áp dụng Luật hình An Nam theo nghị định ngày
1/12/1921 của Toàn quyền Đông Dương. Luật hình An Nam gồm 40 chương và 233 điều.
Còn ở Trung Kỳ, triều đình bù nhìn vẫn còn được duy trì với danh hiệu "Chính phủ Nam
triều", nhưng quyền hành thực tế nằm trong tay viên khâm sứ người Pháp là Chủ tịch Hội đồng
bảo hộ Trung Kỳ. ở Trung kỳ bằng Dụ 43 ngày 31/7/1933 của Bảo Đại, Hoàng Việt hình luật
được ban hành và áp dụng.
Như vậy, pháp luật thời kỳ thực dân Pháp xâm lược chịu ảnh hưởng nặng nề của pháp luật
hình sự Pháp, thực sự là công cụ để thực dân Pháp và bọn tay sai duy trì chế độ thực dân xâm lược
và đàn áp dã man nhân dân ta. Pháp luật thời kỳ này cũng là một trong những tài liệu tham khảo,
rút ra những giá trị hợp lý về việc bảo vệ Tổ quốc, an ninh quốc gia phục vụ hoạt động lập pháp
hình sự hiện nay
1.2.3. Các qui phạm pháp luật hình sự Việt Nam về tội phản bội Tổ quốc từ sau Cách
mạng tháng Tám cho đến trước khi Bộ luật Hình sự năm 1985 được ban hành
Giai đoạn từ 1945-1954:
Ngay từ khi mới hình thành, pháp luật hình sự của chính quyền nhân dân đã tập trung ban
hành một loạt các Sắc lệnh, trong đó các văn bản pháp luật quy định các tội xâm phạm an ninh
quốc gia, trong đó có tội phản bội Tổ quốc, được Nhà nước ta rất chú trọng và luôn có những sửa

đổi, bổ sung cho phù hợp với nhiệm vụ chung của sự nghiệp cách mạng. Trong các sắc lệnh ban
hành thời kỳ này có Sắc lệnh 133/SL quy định về các tội xâm phạm an ninh, an toàn Nhà nước,
mà để đảm bảo việc thi hành chính sách cải cách ruộng đất, giữ gìn trật tự xã hội củng cố chính
quyền nhân dân.
Giai đoạn 1954-1975:
Giai đoạn này Nhà nước ta ban hành nhiều văn bản pháp luật với mục đích trừng trị các tội
phạm xâm phạm an ninh quốc gia, trong đó có tội phản bội Tổ quốc. Ngày 30/10/1967, ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng. Lần đầu tiên trong
lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam, Pháp lệnh này đã quy định rõ ràng đầy đủ tiêu đề của từng
tội phạm trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia.
Giai đoạn 1975-1985:
Giai đoạn này ban hành Thông tư số 03 giải thích Sắc luật số 03 ngày 13/03/1976, cho thấy
tính chất và mức độ nghiêm trọng của tội phản bội Tổ quốc vẫn được nhà làm luật của chính
quyền cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam đề cao và coi trọng. Sắc luật này là sự kế thừa
kỹ thuật lập pháp hình sự trong Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng năm 1967, nhưng đã
có sự sáng tạo cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của các vùng mới giải phóng.
1.2.4. Các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội phản bội Tổ quốc từ khi Bộ
luật Hình sự năm 1985 được ban hành cho đến nay
Ngày 27-06-1985, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa VII, đã thông qua BLHS, có hiệu lực từ ngày 01-01-1986 (sau đây gọi tắt là BLHS năm
1985). Việc ban hành BLHS năm 1985, đánh dấu bước tiến bộ lớn trong hoạt động lập pháp hình
sự của Nhà nước ta, thể hiện sự phát triển liên tục, có kế thừa kinh nghiệm quý báu của cả quá
trình hình thành và phát triển pháp luật hình sự Việt Nam.


So với tội phản bội Tổ quốc quy định tại Điều 3 Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày
30/10/1967, thì chủ thể của tội phản bội Tổ quốc ở BLHS năm 1985 không bị giới hạn bởi những
đặc điểm nhân thân nào khác, miễn là công dân Việt Nam có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ
tự chịu trách nhiệm hình sự.
Trải qua 15 năm thi hành với bốn lần sửa đổi, bổ sung, BLHS năm 1985 với vị trí rất quan

trọng trong hệ thống pháp luật nước ta, đã thực sự là một công cụ sắc bén của Nhà nước để bảo
vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược là: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, BLHS năm 1985 đã bộc
lộ những mặt hạn chế. Đó là chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng,
chống tội phạm trong tình hình mới.
Trước yêu cầu đó, tại kỳ họp thứ 6 (từ ngày 18/11 đến ngày 21/12/1999) Quốc hội khóa X
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua BLHS năm 1999. Đây là Bộ luật lớn
trong hệ thống pháp luật nước ta. BLHS năm 1999 của đất nước ta được hoàn thiện và ban hành
trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Là căn cứ pháp lý quan
trọng nhất trong việc giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự, BLHS còn là công cụ sắc bén, hữu
hiệu của Đảng, Nhà nước và của nhân dân ta để đấu tranh phòng và chống tội phạm trong giai
đoạn hiện nay và những năm sắp tới.
BLHS năm 1999 ra đời đánh dấu một bước phát triển mới cao hơn của hoạt động lập pháp
hình sự nước ta trong suốt một thời gian dài. Về cơ bản, BLHS năm 1999 vẫn giữa nguyên
nguyên tắc xây dựng so với BLHS năm 1985, có chỉnh sửa và bổ sung thêm cho phù hợp với
tình hình mới.
1.3. Những quy định về tội phản bội tổ quốc trong pháp luật hình sự ở một số nước trên
thế giới
1.3.1. Vương quốc Thụy Điển
BLHS Vương quốc Thụy Điển gồm ba phần: Phần I: Những quy định chung; Phần II: Các
Tội phạm; Phần III: Hình phạt.
Trong phần các tội phạm có dành hẳn một chương 22 quy định về Tội phản bội Tổ quốc và một
số điều luật quy định về phản bội Tổ quốc ở những chương khác.
Điều luật trên đã liệt kê ra các hành vi được coi là phản bội Tổ quốc, trong đó, có hành vi cản
trở, lừa dối những người tích cực trong việc bảo vệ Vương quốc, hay hành vi đem nộp, hoặc cung
cấp tài liệu cho kẻ thù, nhân lực, quốc phòng,... đều bị coi là phản bội Tổ quốc và bị phạt tù từ 4 năm
đến chung thân đối với trường hợp nghiêm trọng. Ngoài ra, Bộ luật cũng có quy định về trường hợp
ít nghiêm trọng, lỗi vô ý và trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự đối với tội phản bội Tổ quốc.
BLHS Vương Quốc Thụy Điển tuy ra đời từ rất lâu, nhưng nó vẫn là một trong những tài

liệu quan trọng tham khảo cho nhiều quốc gia khi xây dựng BLHS của mình, trong đó có Việt
Nam.
1.3.2. Liên bang Nga
Ngày 25/12/1958, Xô viết tối cao của nước Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết thông
qua BLHS và có hiệu lực năm 1960. BLHS năm 1960 có quy định các tội quốc sự đặc biệt nguy
hiểm gồm 10 tội được quy định từ Điều 64 đến Điều 73, trong đó, tội phản bội Tổ quốc được quy
định tại Điều 64: "Những hành vi do công dân Liên bang Xô viết thực hiện một cách cố ý gây thiệt
hại tới chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và khả năng phòng thủ của Liên bang Xô viết


được biểu hiện dưới các hình thức: chạy sang hàng ngũ của kẻ địch, chuyển giao bí mật nhà nước và
bí mật quân sự cho nước ngoài thực hiện các hoạt động thù địch chống Liên bang Xô viết cũng như
âm mưu chiếm chính quyền".
Sau khi Liên bang Xô viết và các nước Đông Âu sụp đổ, ngày 24/05/1996, Duma quốc gia Liên
bang Nga đã thông qua BLHS mới, trong đó giá trị pháp lý cơ bản của luật hình sự mới vẫn tiếp tục
được thừa kế các giá trị pháp lý của luật cũ, nhưng các tội quốc sự đặc biệt nguy hiểm được thay thế
bởi tên gọi: "Các tội phạm chống cơ sở chế độ Hiến pháp và An ninh quốc gia". Tội phản bội nhà
nước được quy định tại Điều 275 BLHS năm 1996 có nhiều điểm khác so với tội phản bội Tổ quốc ở
Điều 64 BLHS năm 1960.
Như vậy, BLHS năm 1996 về cơ bản vẫn giữ nguyên giá trị pháp lý của BLHS năm 1960. Tuy
nhiên, chỉ thay đổi một số từ ngữ và khái niệm để phù hợp hơn với sự thay đổi của xã hội lúc bấy
giờ. BLHS năm 1960 của nước Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết và BLHS năm 1996
của Liên bang Nga cũng là tài liệu quan trọng cho các quốc gia tham khảo khi xây dựng BLHS của
quốc gia mình.
1.3.3. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
BLHS năm 1979 của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thông qua ngày 01/07/1979 và có
hiệu lực ngày 01/01/1980. BLHS Trung Quốc năm 1979 gồm hai phần: Phần chung và Phần các
tội phạm với 12 chương và 192 điều. Trong giai đoạn này, mục tiêu của bộ luật là trừng trị
những người phạm tội phản cách mạng và tội hình sự để bảo vệ chế độ chuyên chính vô sản, bảo
vệ sở hữu toàn dân,... và cái đích cuối cùng là bảo đảm tiến hành thắng lợi sự nghiệp cách mạng

xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Do đó, trong phần các tội phạm có quy định các tội phản cách mạng, là một trong những
nhóm tội đặc biệt nguy hiểm và được quy định ngay trong Chương I phần các tội phạm. Điều 90
BLHS năm 1979 quy định: "Những hành vi nhằm lật đổ chính quyền chuyên chính vô sản và chế
độ xã hội chủ nghĩa, làm hại nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đều là tội phản cách mạng".
Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, tháng 3/1997 tại
kỳ họp thứ 5, Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa khóa 8
đã thảo luận để sửa đổi BLHS năm 1979 và BLHS mới có hiệu lực từ ngày 01/10/1997.
Bộ luật mới năm 1997 vẫn giữ nguyên làm hai phần: Phần chung và Phần các tội phạm: Về
tội phản cách mạng: để phù hợp với tình hình và điều kiện mới: chương các tội phản cách mạng đã
được quy định lại thành các tội xâm phạm an ninh quốc gia và bản thân các tội phản cách mạng
được quy định riêng biệt so với các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Một bổ sung quan trọng trong
các tội phạm thuộc nhóm này là "hành vi câu kết với các cá nhân, tổ chức nước ngoài" để thực hiện
tội phạm đã được nhà làm luật Trung Hoa nghiên cứu và đưa vào luật.
Như vậy, nghiên cứu BLHS Trung Hoa ta thấy rõ trong BLHS năm 1979 cũng như BLHS
năm 1997 không có quy định tên tội danh, mà chỉ quy định các hành vi, nếu vi phạm sẽ bị xét xử
tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia.
1.3.4. Nhật Bản
BLHS Nhật Bản được xây dựng và ban hành năm 1097 quy định các tội xâm phạm an ninh
quốc gia thành ba nhóm tội: Các tội liên quan đến nổi loạn (Chương II); các tội liên quan đến
ngoại xâm (Chương III); các tội liên quan đến quan hệ đối ngoại (Chương IV)


Tuy không có quy định cụ thể về phản bội Tổ quốc nhưng BLHS Nhật Bản cũng có định
nghĩa khái niệm nổi loạn: "Người nào gây nổi loạn nhằm lật đổ chính quyền, xâm phạm toàn vẹn
lãnh thổ quốc gia hoặc có hành vi khác phá vỡ thiết chế quốc gia thì phạm tội nổi loạn". Như
vậy, tuy không có khái niệm cụ thể, nhưng hành vi được miêu tả trong chương này liên quan đến
nổi loạn cũng gần giống với phản bội Tổ quốc ở Việt Nam.
Như vậy, tuy BLHS của Nhật Bản không quy định tên hành vi chống đối lại nhà nước, nhằm
lật đổ chính quyền là phản bội Tổ quốc như luật hình sự ở các nước khác nhưng cũng có những

quy định khá cụ thể và những hình phạt nghiêm khắc nhất đối với hành vi trên.
Chương 2
Tội phản bội tổ quốc trong pháp luật hình sự việt nam và thực tiễn áp dụng
2.1. Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phản bội Tổ quốc trong pháp luật hình
sự Việt Nam
2.1.1. Khách thể của tội phản bội Tổ quốc
Trong các tội xâm phạm an ninh quốc gia, phản bội Tổ quốc là tội nguy hiểm nhất, nó xâm
hại đến quan hệ xã hội, có tầm quan trọng đặc biệt đó là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xâm hại đến lực lượng quốc phòng, chế độ xã hội chủ nghĩa và đến sự
tồn tại của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Như vậy, khách thể của tội phản bội
Tổ quốc được Nhà nước bảo vệ là: "Độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lực
lượng quốc phòng, chế độ xã hội chủ nghĩa".
2.1.2. Mặt khách quan của tội phạm
Được thể hiện ở hành vi của công dân Việt Nam câu kết với nước ngoài nhằm gây nguy hại
cho độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chế độ chính trị, cơ sở quốc phòng, sự
tồn tại và vững mạnh của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hành vi câu kết với nước ngoài được hiểu là quan hệ qua lại chặt chẽ giữa người phạm tội
với người nước ngoài và thường được thể hiện ở một trong những hành vi sau:
+ Bàn bạc với nước ngoài về âm mưu chính trị nhằm chống phá Nhà nước hoặc các vấn đề
khác như: chủ trương, phương thức, kế hoạch hoạt động trước mắt cũng như lâu dài gây phương
hại cho nền độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
+ Nhận sự giúp đỡ của nước ngoài về vật chất như tiền bạc, vũ khí, đạn dược, phương tiện
kỹ thuật, và các lợi ích vật chất khác phục vụ cho việc chống phá Nhà nước.
+ Hoạt động dựa vào các thế lực nước ngoài, hoặc tiếp tay cho nước ngoài chống lại Tổ quốc
như dùng lãnh thổ nước ngoài làm hậu phương, căn cứ địa bàn để hoạt động hoặc tiếp tay, tạo
điều kiện cho nước ngoài tiến hành các hoạt động chống lại độc lập chủ quyền, thống nhất toàn
vẹn lãnh thổ của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Như vậy, mặt khách quan của tội phản bội Tổ quốc là một yếu tố quan trọng trong cấu thành
tội phạm, nhờ đó mà có thể phân biệt được tội phản bội Tổ quốc với các tội danh khác trong
nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia.

2.1.3. Chủ thể của tội phản bội Tổ quốc
Chủ thể của tội phản bội Tổ quốc phải là công dân Việt Nam, tức là người có quốc tịch Việt
Nam theo quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam. Người nước ngoài không phải là chủ thể của tội


phản bội Tổ quốc (đây là một trong những điểm khác biệt so với tội hoạt động nhằm lật đổ chính
quyền nhân dân - Điều 79 BLHS năm 1999).
Theo quy định tại Điều 49 Hiến pháp năm 1992: "Quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ
pháp lý giữa người mang quốc tịch với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đối với Nhà nước". Những người không phải là
công dân Việt Nam (người nước ngoài, người không quốc tịch) không thể là chủ thể của tội phản
bội Tổ quốc.
Chủ thể của tội phản bội Tổ quốc là chủ thể đặc biệt, người phạm tội phải là công dân Việt
Nam, mang quốc tịch Việt Nam.
2.1.4. Mặt chủ quan của tội phản bội Tổ quốc
Tội phản bội Tổ quốc được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp với mục đích gây nguy hại cho độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa, khả năng quốc phòng, sự
tồn tại và vững mạnh của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là dấu hiệu bắt
buộc phải xác định rõ, người thực hiện hành vi nghiêm trọng có thể chỉ nhằm vào một vài mục tiêu
nói trên, nhưng nói chung là thay đổi chế độ kinh tế - xã hội của đất nước, lật đổ chính quyền nhân
dân, nội dung quan trọng nhất của mục đích chống chính quyền nhân dân.
Mục đích phạm tội là chống chính quyền nhân dân, thay đổi chế độ chính trị, kinh tế của đất
nước, lật đổ chính quyền nhân dân. Tuy nhà làm luật không nêu ra dấu hiệu mục đích chống chính
quyền nhân dân hoặc chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhưng việc thực hiện
hành vi phạm tội được quy định trong điều luật đã thể hiện rõ ràng mục đích chống chính quyền
nhân dân.
2.2. Hình phạt đối với tội phản bội Tổ quốc
Hình phạt là biện pháp chế tài nghiêm khắc nhất, được áp dụng phổ biến và có lịch sử lâu
đời. Nhà nước quy định và áp dụng hình phạt để bảo vệ lợi ích của nhà nước, của công dân và lợi
ích chung của xã hội. Tính chất và mức độ nghiêm khắc của hình phạt được quy định xuất phát

từ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của từng loại tội phạm, phản ánh sự phân hóa trách
nhiệm hình sự và hình phạt tạo cơ sở để áp dụng pháp luật hình sự một cách hợp lý và công
bằng, tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm càng cao thì hình phạt tương ứng được quy
định càng nghiêm khắc.
Đối với nước ta, hình phạt quy định đối với tội phản bội Tổ quốc luôn là những hình phạt
nặng nhất, nghiêm khắc nhất nhằm trừng trị những người phạm tội phản bội Tổ quốc.
Điều 78 BLHS năm 1999 quy định hai khung hình phạt đối với tội phạm này.
Khung cơ bản quy định hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Khung giảm nhẹ quy định hình phạt tù từ 7 năm đến 15 năm. Đó là khung hình phạt được áp
dụng đối với trường hợp có nhiều tiết tiết giảm nhẹ như người phạm tội đã tự thú, thật thà khai
báo, tích cực giúp đỡ các cơ quan có thẩm quyền ngăn chặn tác hại của tội phạm, phát hiện và xử
lý tội phạm.
Ngoài các hình phạt chính còn có các hình phạt bổ sung: Bị tước một số quyền công dân từ
1đến 5 năm; bị tước quản chế hoặc cấm cư trú từ 1 đến 5 năm; bị tịch thu một phần hay toàn bộ tài
sản.
So với khung hình phạt về tội phạm này được quy định trước đây (Pháp lệnh trừng trị các tội
phản cách mạng năm 1967), hình phạt về tội phản bội Tổ quốc hiện nay có hai khung hình phạt,


có hạ thấp mức hình phạt tối thiểu cho phù hợp với tình hình mới, tạo điều kiện cho việc phân
hóa các đối tượng phạm tội và với yêu cầu của cuộc đấu tranh và phòng chống tội phạm hiện
nay.
2.3. Thực tiễn xét xử tội phản bội Tổ quốc ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay
Sau năm 1975, tình hình an ninh chính trị đã xuất hiện những vấn đề mới, cấp bách cần giải
quyết. Hơn một triệu ngụy quân, ngụy quyền, hơn hai triệu đảng viên thuộc các đảng phái chính
trị phản động tan rã tại chỗ. Một số di tản ra nước ngoài, một số ra trình diện và học tập cải tạo,
số còn lại trà trộn trong dân, thay đổi địa bàn hoặc chạy vào rừng lẩn trốn. Chúng dần dần co
cụm, tập hợp lực lượng, hình thành các tổ chức chống đối.
Đặc điểm chung của các tổ chức chống đối thời kỳ này là hình thành và hoạt động có tính chất tự
phát, manh động. Trong 1.359 tổ chức chống đối bị ta phát hiện trong giai đoạn 1975-1978 có 1.348

tổ chức ở các tỉnh phía Nam với 36.140 đối tượng tham gia, trong đó có 520 toán có vũ trang với
5.000 tên. Chúng đã gây ra 17 vụ bạo loạn, 1.506 vụ tập kích vào chính quyền cấp xã, 1.348 vụ gài
mìn, lựu đạn, làm chết 376 người, làm bị thương 243 người. Ta đã tiến hành truy quét tiêu diệt 2.447
tên, bắt 2.200 tên, buộc 1.200 tên ra đầu thú, thu 3.000 súng các loại và nhiều phương tiện tài liệu
phản động, xóa sổ toàn bộ các toán phản động có vũ trang.
Từ năm 1978, bọn phản động bên ngoài câu kết với những phần tử phản động trong nước tiến
hành chống phá cách mạng, đặc biệt chúng tiến hành nhiều hành vi nhằm mục đích lật đổ chính
quyền nhân dân. Chúng tiến hành xây dựng trên đất Thái Lan những căn cứ huấn luyện, kho vũ khí,
bãi biển... làm bàn đạp lật đổ chính quyền.
Nghiên cứu tình hình xét xử tội phản bội Tổ quốc trong giai đoạn từ năm 1975 đến nay cho
thấy: số vụ án phản bội Tổ quốc đều là những vụ án diễn biến phức tạp, khó khăn trong công tác
phát hiện, xử lý. Tuy nhiên, số vụ án ngày càng giảm dần, nhất là từ khi ban hành BLHS năm
1985 cho đến nay. Theo thống kê của ngành Tòa án cho thấy:
Từ năm 1980-1984, có 17 vụ án phản bội Tổ quốc, chiếm 4,4% trong số các vụ đặc biệt
nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia.
Từ năm 1985-1989, có 2 vụ án phản bội Tổ quốc, chiếm 0,9% trong số các vụ đặc biệt nguy
hiểm xâm phạm an ninh quốc gia, giảm hẳn so với thời kỳ trước.
Từ năm 1990 đến nay, không có vụ án phản bội Tổ quốc nào được đưa ra xét xử.
Nghiên cứu việc áp dụng pháp luật hình sự năm 1999 đối với tội phản bội Tổ quốc cho thấy,
về cơ bản các quy định của Bộ luật đã phản ánh được tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phản bội Tổ quốc, cần phải trừng trị. Các quy định đó đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng
cho việc đấu tranh, xử lý những hành vi, đối tượng nguy hiểm phản bội Tổ quốc. Bên cạnh đó,
thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội phản bội Tổ quốc cho thấy, những quy
định này cũng đã bộc lộ một số hạn chế nhất định làm ảnh hưởng đến hoạt động áp dụng pháp luật
hình sự về tội phản bội Tổ quốc, thể hiện dưới một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, về khách thể trực tiếp của tội phạm. Khách thể của tội phản bội Tổ quốc được quy định
trong Điều 78 BLHS năm 1999 mang tính khái quát cao như: gây nguy hại cho độc lập chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ, lực lượng quốc phòng, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Thứ hai, về hành vi khách quan trong cấu thành tội phạm Quy định về hành vi
khách quan trong cấu thành tội phạm cụ thể của tội phản bội Tổ quốc còn khái quát, sự giao thoa của



hành vi khách quan giữa tội phản bội Tổ quốc và một số tội phạm khác còn gây khó khăn cho việc
chứng minh, xác định đối tượng chứng minh, phạm vi chứng minh và định tội danh.
Chương 3
Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự
việt nam
về tội phản bội tổ quốc
3.1. Những yêu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội
phản bội Tổ quốc trong thời kỳ hiện nay
Trên thế giới quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra sôi động nhưng cũng tiềm ẩn nhiều yếu tố bất trắc
khó lường. Thêm vào đó, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột biên giới, những
tranh chấp về lãnh thổ, biên giới và các tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất
ngày càng phức tạp, càng gay gắt.
Trong nước, nền kinh tế cũng đang đứng trước những diễn biến phức tạp, nhiều thách thức lớn,
đan xen nhau. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới
vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ
đảng viên vẫn chưa được khắc phục. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến
hòa bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài: dân chủ, nhân quyền, hòng làm thay đổi chế
độ chính trị ở nước ta, xâm phạm độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Trước những yêu cầu đó, đòi hỏi chúng ta phải nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của
pháp luật hình sự về tội phản bội Tổ quốc, hoàn thiện các quy định về các tội xâm phạm an ninh
quốc gia nói chung và tội phản bội Tổ quốc nói riêng. Đây cũng chính là mục tiêu, nhiệm vụ đã được
Đảng, Nhà nước ta đặt lên hàng đầu trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, đưa pháp luật Việt Nam cùng hòa nhập với pháp luật khu vực và pháp luật quốc tế.
3.2. Hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự về tội phản bội Tổ quốc
Thứ nhất, về khách thể trực tiếp của tội phạm
Khách thể của tội phản bội Tổ quốc được quy định trong Điều 78 BLHS năm 1999 mang
tính khái quát cao như: gây nguy hại cho độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, lực
lượng quốc phòng, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thứ hai, về hành vi khách quan trong cấu thành tội phạm
Quy định về hành vi khách quan trong cấu thành tội phạm cụ thể của tội phản bội Tổ quốc
còn khái quát, sự giao thoa của hành vi khách quan giữa tội phản bội Tổ quốc và một số tội phạm
khác còn gây khó khăn cho việc chứng minh, xác định đối tượng chứng minh, phạm vi chứng
minh và định tội danh.
Thứ ba, quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Thực tiễn xét xử cho thấy, ngoài tội phản bội Tổ quốc, những kẻ phạm tội còn bị xử lý về
các tội khác rồi áp dụng nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội. Theo
chúng tôi, kết luận nhiều tội trong các vụ án nói trên là không cần thiết, bởi lẽ cấu thành tội phản
bội Tổ quốc có tính chất bao trùm, kẻ phản bội Tổ quốc cấu kết với nước ngoài có thể thực hiện
bất cứ hoạt động phá hoại nào nhằm gây nguy hại cho độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ, cuối cùng lật đổ chính quyền nhân dân.
Vì vậy, Nghị quyết số 04 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 29/11/1986
quy định: "Công dân Việt Nam cấu kết với nước ngoài, hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân


dân thì bị xử lý về tội phản bội Tổ quốc". Theo Nghị quyết trên, mặt khách quan của tội phản bội
Tổ quốc đã bao gồm hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, có trường hợp còn hoạt động
gián điệp hoặc trốn đi nước ngoài nhằm chống chính quyền. Vì vậy, người phạm tội phản bội Tổ
quốc không bị xử lý thêm về các tội đó nữa.
Thứ tư, về căn cứ miễn trách nhiệm hình sự
Điều kiện (căn cứ) để được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 25
BLHS năm 1999 là "do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội
không còn nguy hiểm cho xã hội nữa". Về mặt lý luận, như thế nào là chuyển biến của tình hình
là một phạm trù rất chung chung, trừu tượng và nhất là đối với tội phản bội Tổ quốc, thì phạm trù
do chuyển biến của tình hình, mà tội phạm không còn nguy hiểm rất ít khi xảy ra. Thực tiễn áp
dụng các qui phạm pháp luật hình sự về tội phản bội Tổ quốc cho thấy, việc chứng minh căn cứ
miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 25 nêu trên là một vấn đề rất khó khăn
và phức tạp.
Như vậy, việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện những quy định của pháp luật về tội phản bội Tổ

quốc trong pháp luật hình sự Việt Nam là hết sức quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên, để thực hiện tốt
vai trò đó, đòi hỏi chúng ta phải có những giải pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả việc áp dụng
pháp luật hình sự về tội phản bội Tổ quốc, có như vậy mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật,
có tác dụng phòng ngừa và đấu tranh với những tội phạm nguy hiểm như tội phản bội Tổ quốc.
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng quy định của pháp luật hình sự việt
nam về tội phản bội Tổ quốc
3.3.1. Giải pháp phòng ngừa
Thứ nhất, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân thực hiện có hiệu
quả nghị quyết của Bộ Chính trị về an ninh quốc gia, chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm
của Chính phủ. Thứ hai, hoàn thiện các hình thức và nội dung tuyên truyền giáo dục pháp luật nói
chung và tội phản bội Tổ quốc nói riêng nhằm thu hút sự quan tâm của xã hội vào cuộc đấu tranh
chống tội phạm. Thứ ba, thực hiện chính sách xã hội với đồng bào theo đạo, đồng bào dân tộc ít
người: vì đây là hai thành phần xã hội hết sức quan trọng trong xã hội, tuy họ chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng
các thế lực thù địch thường lợi dụng tôn giáo, lợi dụng các đồng bào dân tộc ít người để chống lại
cách mạng, nhằm pháp vỡ chính sách đại đoàn kết dân tộc, phá vỡ sự toàn vẹn lãnh thổ, ổn định của
đất nước. Thứ tư, các cơ quan bảo vệ pháp luật cần tăng cường công tác nghiệp vụ cơ bản, nắm chắc
tình hình từng địa bàn, từng loại đối tượng lên quan đến an ninh quốc gia. Thứ năm, thường xuyên bổ
sung, điều chỉnh tổ chức, bộ máy cán bộ đấu tranh với các tội xâm phạm an ninh quốc gia nói chung,
tội phản bội Tổ quốc nói riêng cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ mới. Chủ động phòng ngừa các
tội xâm phạm an ninh quốc gia nói chung, tội phản bội Tổ quốc nói riêng đòi hỏi ta không những làm
tốt công tác nghiệp vụ cơ bản nắm chắc tình hình địa bàn mà còn phải xây dựng các phương án đấu
tranh, các kế hoạch sử dụng, các biện pháp nghiệp vụ với loại tội phạm này, với sự thay đổi của mỗi
thời kỳ.
3.3.2. Giải pháp chủ động và kịp thời phát hiện, đấu tranh chống tội phản bội Tổ quốc
Thứ nhất, phải chủ động tấn công các đối tượng phạm tội phản bội Tổ quốc. Chủ động tấn
công tội phạm là việc cơ quan An ninh chủ động phát hiện và đấu tranh với tổ chức và hoạt động
của bọn phạm tội nhằm làm thất bại, tê liệt vô hiệu hóa hoạt động chống phá cách mạng của
chúng. Thứ hai, nâng cao chất lượng điều tra tội phạm nói chung và tội phản bội Tổ quốc nói
riêng. Hoạt động điều tra nói chung, điều tra tội phản bội Tổ quốc nói riêng muốn đạt hiệu quả



cao phải được tổ chức khoa học, hợp lý, có định hướng điều tra đúng đắn với kế hoạch điều tra
cụ thể, phương pháp điều tra phù hợp.
3.3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với tội phản bội Tổ
quốc
Thứ nhất, các cơ quan bảo vệ pháp luật phải nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước trong từng giai đoạn, từ đó vận dụng linh hoạt vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm
nói chung, tội phản bội Tổ quốc nói riêng. Thứ hai, các cơ quan bảo vệ pháp luật phải có sự thống
nhất về quan điểm trong việc lựa chọn các qui phạm pháp luật hình sự. Thứ ba, việc điều tra, truy tố,
xét xử tội phản bội Tổ quốc phải lựa chọn đúng các qui phạm pháp luật để áp dụng một cách mềm
dẻo linh hoạt. Thứ tư, tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng trong công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm. Thứ năm, các cơ quan bảo vệ pháp luật cần phải xây dựng chế độ báo cáo với
các tổ chức Đảng, quy định rõ những vấn đề phải xin ý kiến chỉ đạo của cấp ủy Đảng địa phương,
những vấn đề ban cán sự Đảng các cơ quan tư pháp phải xin ý kiến Bộ Chính trị. Thứ sáu, các cơ
quan bảo vệ pháp luật cần phải thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/02/2002
và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về định hướng cải cách tư pháp đến
năm 2020, trong đó đưa ra nhiệm vụ "Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ
thuộc vào đơn vị hành chính.
3.3.4. Giải pháp tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về an ninh quốc gia, an ninh
đất nước
Ngoài các giải pháp đã nêu ở trên, giải pháp tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về an ninh
quốc gia, an ninh Tổ quốc cũng là một giải pháp cần phải được coi trọng trong giai đoạn hiện nay.
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia nói chung, về tội
phản bội Tổ quốc nói riêng là trách nhiệm của các tổ chức Đảng, chính quyền, các tổ chức kinh tế xã
hội. Công tác này phải được tiến hành sinh động kết hợp nhiều loại hình khác nhau để đến với dân.
Kết luận
1. Lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm an ninh quốc gia nói chung và tội phản
bội Tổ quốc nói riêng từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay đã không ngừng phát triển, kế thừa những
giá trị pháp lý truyền thống của dân tộc, vận dụng có chọn lọc những kinh nghiệm và thành tựu trong
hoạt động lập pháp hình sự về tội phản bội Tổ quốc của các nước trên thế giới. Những quy phạm pháp

luật hình sự về tội phản bội Tổ quốc đã tổng kết thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung,
tội phản bội Tổ quốc nói riêng, từng bước được hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống
loại tội phạm này và bám sát vào các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam.
Sự ghi nhận tội phản bội Tổ quốc trong pháp luật hình sự Việt Nam là một bước tiến về kỹ thuật
lập pháp hình sự, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng và chống tội phạm nói chung, tội phản
bội Tổ quốc nói riêng trong tình hình mới của đất nước và phù hợp với thông lệ quốc tế, pháp luật
quốc tế về lĩnh vực an ninh quốc gia.
2. Nghiên cứu tình hình xét xử tội phản bội Tổ quốc trong giai đoạn từ năm 1975 đến nay cho
thấy: số vụ án phản bội Tổ quốc đều là những vụ án diễn biến phức tạp, khó khăn trong công tác phát
hiện, xử lý. Tuy những năm gần đây, số vụ án về phản bội Tổ quốc có giảm đi, nhưng sự phức tạp và
tính nguy hiểm của tội phạm này vẫn đòi hỏi các cơ quan bảo vệ pháp luật phải chú ý đấu tranh. Trong
xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực hiện nay, chúng ta đang mở rộng quan hệ hợp tác, hữu nghị


với các nước trên thế giới, nhằm tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhưng các thế lực thù địch vẫn luôn tìm mọi cách lật đổ chế độ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta, vì vậy phải nắm vững đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng để xử lý các
vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia, các tội xâm phạm an ninh quốc gia nói chung và tội phản bội
Tổ quốc nói riêng.
Nghiên cứu việc áp dụng pháp luật hình sự năm 1999 đối với tội phản bội Tổ quốc cho thấy, về cơ
bản các quy định của Bộ luật đã phản ánh được tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phản bội Tổ quốc, cần phải trừng trị. Các quy định đó đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng cho việc đấu
tranh, xử lý những hành vi, đối tượng nguy hiểm phản bội Tổ quốc. Bên cạnh đó, thực tiễn áp dụng các
quy định của pháp luật hình sự về tội phản bội Tổ quốc cho thấy, những quy định này cũng đã bộc lộ một
số hạn chế nhất định làm ảnh hưởng đến hoạt động áp dụng pháp luật hình sự về tội phản bội Tổ quốc.
Đây là những vấn đề cần được xem xét, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện trong thời gian tới.
3. Trước yêu cầu của xu thế hội nhập quốc tế, đồng thời bảo đảm an ninh quốc gia, chúng ta phải
nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội phản bội Tổ quốc, hoàn thiện
các quy định về các tội xâm phạm an ninh quốc gia nói chung và tội phản bội Tổ quốc nói riêng. Đây
cũng chính là mục tiêu, nhiệm vụ đã được Đảng, Nhà nước ta đặt lên hàng đầu trong công cuộc xây

dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đưa pháp luật Việt Nam cùng hòa nhập với
pháp luật khu vực và pháp luật quốc tế. Có như vậy, chúng ta mới có thể đảm bảo vững chắc độc lập
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, chống các thế lực thù địch và những âm mưu đen tối của chúng nhằm
lật đổ chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa.
Hướng hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự về tội phản bội Tổ quốc như sau:
Thứ nhất, tăng cường công tác hướng dẫn của cơ quan chức năng về những quy định của pháp
luật hình sự về tội phản bội Tổ quốc; thứ hai, sửa đổi, bổ sung Điều 78 BLHS năm 1999; thứ ba,
mở rộng diện miễn trách nhiệm hình sự đối với tội phản bội Tổ quốc.
Phản bội Tổ quốc là loại tội phạm phản ánh trực tiếp và rõ rệt nhất cuộc đấu tranh giai cấp của các
cơ quan bảo vệ pháp luật. Vì vậy, để có thể hội nhập kinh tế quốc tế mà vẫn giữ vững độc lập chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ, chúng ta không những phải ngày càng hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn
áp dụng các giải pháp phòng ngừa một cách triệt để, từ đó phát hiện đấu tranh, xử lý những người phạm
tội phản bội Tổ quốc.

References
1. Bộ luật Hình sự nước cộng nhân dân Trung Hoa năm 1997 (2007), Nxb Tư pháp, Hà Nội.
2. Bộ Tư pháp (1957), Tập luật lệ về tư pháp, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
3. Lê Cảm (chủ biên) (2003), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần chung), Nxb Đại học quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.
4. Lê Cảm (chủ biên) (2003), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm), Nxb Đại
học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.


5. Lê Cảm (chủ biên) (2003), "Hệ thống pháp luật hình sự Liên bang Nga". Nghiên cứu Châu
Âu, (1).
6. Lê Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (phần chung), Nxb Đại
học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
7. Lê Cảm (chủ biên), Phạm Mạnh Hùng, Trịnh Tiến Việt (2005), Trách nhiệm hình sự và miễn
trách nhiệm hình sự, (Sách chuyên khảo), Nxb Tư pháp, Hà Nội.
8. Lê Cảm (chủ biên) (2007), Bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh quốc tế và các quyền con người

bằng pháp luật hình sự trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, (Sách chuyên
khảo), Nxb Tư pháp, Hà Nội.
9. Chính phủ (1998), Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP ngày 31/7 về tăng cường công tác phòng,
chống tội phạm trong tình hình mới, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1980), Nghị quyết số 31 ngày 02/12 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ
bảo vệ an ninh chính trị giữ gìn trật tự an toàn xã hội tình hình mới, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01 của Bộ Chính trị về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ Chính trị về
chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
14. Đảng Lao động Việt Nam (1962), Nghị quyết số ngày 39 ngày 20/01 của Bộ Chính trị về
tăng cường đấu tranh chống các bọn phản cách mạng để phục vụ tốt công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh nhằm thực hiện hòa bình thống nhất
nước nhà, Hà Nội.
15. Nguyễn Ngọc Hòa (2001), Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội.


16. Nguyễn Ngọc Hòa - Lê Thị Sơn, Từ điển pháp luật hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
17. Trần Ngọc Khuê (chủ biên) (1998), Xu hướng biến đổi tâm lý xã hội trong quá trình chuyển
sang kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Nguyễn Vạn Nguyên (1989), Trách nhiệm hình sự về tội phản bội Tổ quốc, Tòa án nhân dân
tối cao, Hà Nội.
19. Trần Ngọc Quang (1996), Tăng cường quản lý nhà nước về an ninh quốc gia ở nước ta hiện
nay. Luận án phó tiến sĩ khoa học Luật học.
20. Đỗ Ngọc Quang (1999), Giáo trình Tội phạm học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
21. Đinh Văn Quế (2001), Tìm hiểu tội phạm trong luật hình sự


Việt Nam

năm 1999, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
22. Quốc hội (1985), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
23. Quốc hội (1988), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.
24. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
25. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
26. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.
27. Quốc hội (2004), Luật An ninh quốc gia, Hà Nội.
28. Quốc hội (2008), Luật quốc tịch (dự thảo), Hà Nội.
29. Quốc triều hình luật (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Kiều Đình Thụ (1995), "Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm hình sự đối với các tội đặc
biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia", Nhà nước và pháp luật, (3).
31. Kiều Đình Thụ (1996), Tìm hiểu luật hình sự Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
32. Trần Quang Tiệp (2003), Lịch sử Luật hình sự Việt Nam (sách tham khảo), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
33. Trần Quang Tiệp (2005), "Một số vấn đề lý luận về tội phản bội Tổ quốc trong luật hình sự
Việt Nam", Tòa án nhân dân, (4).


34. Tòa án nhân dân tối cao (1986), Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội
phạm của Bộ luật Hình sự năm 1985, Hà Nội.
35. Tòa án nhân dân tối cao (1976), Hệ thống hóa luật lệ về hình sự, Hà Nội.
36. Tòa án nhân dân tối cao (1979), Hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập II, Hà Nội.
37. Tòa án nhân dân tối cao (1992), Hệ thống hóa các văn bản về hình sự, dân sự, tố tụng hình
sự, Hà Nội.
38. Tòa án nhân dân tối cao (2000), Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 04/08 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần

chung Bộ luật Hình sự năm 1999, Hà Nội.
39. Trịnh Quốc Toản (2007), Tìm hiểu hình phạt và các biện pháp tư pháp trong luật hình sự
Việt Nam, những văn bản hướng dẫn thi hành hình phạt trong Bộ luật Hình sự 1999,
Nxb Lao động, Hà Nội
40. Tội phạm trong Hoàng Việt Luật lệ (2007), Nxb Tư Pháp, Hà Nội.
41. Trường Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam. Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.
42. Từ điển Bách Khoa Việt Nam (2003), quyển 3, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
43. ủy ban Thường vụ Quốc hội (1967), Pháp lệnh Trừng trị các tội phản cách mạng, Hà Nội.
44. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1987), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ luật Hình sự Nhật Bản, (Bản dịch tiếng Việt), Tài liệu
tham khảo, Hà Nội.
46. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ luật Hình sự Vương quốc Thụy Điển, (Bản dịch tiếng
Việt), Tài liệu tham khảo, Hà Nội.
47. Nguyễn Như ý (Chủ biên) (1996), Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb Văn hóa thông tin, Hà
Nội.


48. Nguyễn Như ý (chủ biên) (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
trang web
49. www.bbc.co.uk/vietnamese
50. www.google.com.vn
51. www.wikipedia.org.vn



×