Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Lỗi chính tả tiếng việt của học sinh dân tộc mông tại huyện điện biên đông, tỉnh điện biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 120 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hiện nay, hiện tƣợng viết sai chính tả rất phổ biến trong cả nƣớc. Có
thể nói không quá rằng, nhìn ở đâu cũng có lỗi chính tả: từ bài viết của học
sinh đến các biển hiệu trên phố, thậm chí là các ấn phẩm là văn bản viết bằng
tiếng Việt xét về phƣơng diện chính tả, chữ viết (các chữ cái ghi âm, vần, vị
trí các dấu thanh, viết hoa, ...) dƣờng nhƣ đều có vấn đề cần phải bàn.
“Lỗi là những điều sai sót do không thực hiện đúng quy tắc”. Lỗi chính tả
là do viết chính tả không đúng chuẩn. "Chuẩn chính tả bao gồm chuẩn viết các
âm (phụ âm, nguyên âm, bán âm) và các thanh; chuẩn viết tên riêng (viết hoa);
chuẩn viết phiên âm từ và thuật ngữ vay mượn" [27, tr 125]. Chính tả trƣớc hết là
sự quy định có tính chất xã hội, nó không cho phép vận dụng quy tắc một cách
linh hoạt có tính chất sáng tạo cá nhân. Do đó nó có một vị trí rất quan trọng. Nó
không chỉ quan trọng đối với mỗi cá nhân mà còn quan trọng với toàn xã hội. Viết
đúng chính tả và thực hành tốt các kĩ năng viết chữ không chỉ có ý nghĩa trong
giao tiếp mà còn thể hiện năng lực tƣ duy và trình độ văn hóa của mỗi ngƣời.
Đối với các trƣờng Trung học cơ sở, viết đúng chính tả là một trong
bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết cần hoàn thiện cho học sinh, góp phần giữ
gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Điện Biên là một tỉnh thuộc vùng núi phía Bắc, có nhiều cộng đồng dân
tộc khác nhau sinh sống, nhƣ Thái, Mông, Kinh, Khơ Mú, Xinh Mun, Lào, ...
Đây là vùng có núi non hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn, khí hậu khắc
nghiệt, kinh tế còn gặp nhiều khó khăn. Trƣớc đây do hoàn cảnh xã hội, tùy
thuộc điều kiện địa hình, dân tộc Mông thƣờng sống quần tụ thành từng thôn
bản từ vài ba nóc nhà đến vài chục nóc nhà, ngƣời Mông ít có điều kiện đi
học, nhất là con gái lấy chồng rất sớm và đa số không đƣợc đi học. Điều này

1


ảnh hƣởng không nhỏ đến cách viết chính tả của học sinh nơi đây. Ở tỉnh


Điện Biên, không chỉ học sinh cấp Tiểu học mới viết sai chính tả, mà lỗi
chính tả còn phổ biến ở học sinh cấp Trung học cơ sở. Vì thế, nghiên cứu
khảo sát lỗi chính tả, những nguyên nhân ảnh hƣởng tới việc sai chính tả và
tìm ra giải pháp khắc phục là việc vô cùng cần thiết, nhằm giúp các em khắc
phục một số lỗi chính tả thƣờng gặp.
Qua thực tế giảng dạy ở trƣờng có nhiều học sinh Mông và qua quá
trình công tác trong ngành giáo dục, chúng tôi nhận thấy rằng, học sinh Mông
khi học Tiếng Việt gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt ở khía cạnh phát âm, viết
đúng chính tả. Có thể nói rằng, vấn đề dạy học sinh Mông phát âm đúng hay
viết đúng chính tả tiếng Việt đang là một trong những trở ngại rất đáng lƣu ý.
Hơn nữa, về lâu dài, trong công tác giáo dục ở miền núi, việc dạy tiếng
Việt cho con em dân tộc ít ngƣời không những góp phần nâng cao mặt bằng
dân trí, mà còn góp phần thắt chặt tình đoàn kết dân tộc, giữ vững an ninh
chính trị và bảo vệ vững chắc vùng biên cƣơng của Tổ quốc.
Trƣớc tình hình thực tế trên, chúng tôi chọn đề tài “Lỗi chính tả tiếng
Việt của học sinh dân tộc Mông tại huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên”
nhằm đóng góp ít nhiều vào quá trình dạy và học tiếng Việt cho học sinh
ngƣời Mông các trƣờng có con em ngƣời Mông học.
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề nghiên cứu tiếng Việt trong nhà trƣờng nói chung và chính tả
trong nhà trƣờng nói riêng từ lâu đã thu hút đƣợc sự quan tâm chú ý của
nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ. Các công trình đã bàn về vấn đề này từ
nhiều khía cạnh khác nhau. Việc biên soạn sách giáo khoa cho phân môn
tiếng Việt cũng đƣợc đặc biệt chú ý cải thiện và nâng cao chất lƣợng. Hàng
loạt sách tham khảo về tiếng Việt làm tài liệu giảng dạy cho giáo viên và tài
liệu hƣớng dẫn cho học sinh đã đƣợc xuất bản.

2



Trong quá trình học tập, chính tả có vai trò quan trọng không chỉ với
cá nhân mà còn đối với cả cộng đồng xã hội. Viết đúng chính tả, phát âm
chuẩn chính tả và thực hành tốt kĩ năng tạo lập văn bản sẽ đem lại hiệu quả
giao tiếp đồng thời thể hiện năng lực văn hóa của mỗi con ngƣời.
Nhiều công trình điều tra, khảo sát về thực trạng sử dụng ngôn ngữ
của học sinh phổ thông cũng đƣợc trình bày. Nhƣ Mấy gợi ý về việc phân
tích và sửa lỗi ngữ pháp cho học sinh (Nguyễn Minh Thuyết, Ngôn ngữ, số
3.1974). Hay của Phan Ngọc Chữa lỗi chính tả cho học sinh Hà Nội (NXB
Giáo dục, Hà Nội năm 1984); Hồ Lê – Lê Trung Hoa Sửa lỗi ngữ pháp
(NXB Giáo dục, Hà Nội năm 1990)... Những công trình này đã giúp cho giáo
viên giảng dạy ở trƣờng phổ thông có đƣợc những công cụ làm việc hữu ích.
Trong thời gian gần đây, vẫn có nhiều tác giả tiếp tục đi sâu nghiên
cứu một cách khá toàn diện về lỗi sử dụng ngôn ngữ của học sinh trong nhà
trƣờng và đã xuất bản các công trình của mình. Cụ thể là:
Nhóm tác giả Bùi Minh Toán, Lê A, Đỗ Việt Hùng (1997) trong cuốn
“Tiếng Việt thực hành” của NXB Giáo dục đã nêu lên tƣơng đối có hệ thống
về việc sử dụng ngôn ngữ từ chữ viết, chính tả đến việc dùng từ, đặt câu và
tạo lập văn bản. Các tác giả cũng phân tích, lí giải thuyết phục về lỗi sử dụng
ngôn ngữ mà học sinh thƣờng mắc phải và nêu lên cách khắc phục.
Các tác giả Lê Phƣơng Nga, Lê A, Đặng Kim Nga, Đỗ Xuân Thảo
trong cuốn Phương pháp dạy học tiếng Việt ở tiểu học, NXB Đại học sƣ
phạm 2009 đã đƣa ra những khái niệm về chính tả và chuẩn chính tả, xây
dựng đƣợc nội dung, yêu cầu và hình thức chính tả cho từng khối lớp học.
Trên cơ sở mục tiêu, nội dung chƣơng trình, cuốn sách cũng nêu phƣơng
pháp, hình thức dạy học chính tả ở cấp tiểu học hiện nay.
Tác giả Phan Ngọc trong sách Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và chữa lỗi
chính tả (NXB Thanh niên Hà Nội 2000), đã cung cấp cho chúng ta một số

3



biện pháp dễ làm có tính công cụ để sửa lỗi chính tả một cách khoa học cho
học sinh nói chung và học sinh tiểu học nói riêng. Những công cụ mà Phan
Ngọc nêu ra rất đa dạng.
Tác giả Hoàng Phê trong cuốn Chính tả tiếng Việt (NXB Đà Nẵng
năm 2003) và trƣớc đó nhóm tác giả Hoàng Tuyền Linh, Vũ Xuân Lƣơng
trong Từ điển chính tả mini (NXB Đà Nẵng 1995) đã biên soạn sách để
hƣớng dẫn viết đúng chính tả. Nguyễn Trọng Báu năm 2001 khi biên soạn
Từ điển chính tả tiếng Việt thông dụng (NXB Khoa học xã hội) cũng đã
nghiên cứu và hƣớng dẫn cách sử dụng từ điển chính tả tiếng Việt thông
dụng để giúp cho giáo viên và học sinh tra cứu nhanh, thuận tiện các âm tiết,
các từ dễ gây nhầm lẫn do phát âm không chuẩn hoặc do thói quen phát âm
theo phƣơng ngữ vùng miền phục vụ cho việc viết đúng chính tả tiếng Việt.
Đáng chú ý là cuốn sách “Các lỗi chính tả, từ vựng, ngữ pháp và cách
khắc phục” do tiến sĩ Lê Trung Hoa chủ biên (NXB Khoa học xã hội, năm
2002). Nội dung của cuốn sách này thể hiện các tác giả đã khảo sát lỗi sử
dụng ngôn ngữ trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh một cách toàn diện.
Ngoài ra, cũng có nhiều bài viết, công trình khoa học, luận văn Thạc
sĩ…vv nghiên cứu vấn đề dạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số ở
các địa phƣơng có ngƣời dân tộc trong cả nƣớc. Đó là những đề tài nhƣ
Hoàng Ngọc Hiển (2005) “Nghiên cứu thực trạng dạy học và những khó
khăn cơ bản trong quá trình học tiếng Việt của học sinh H’mông, tỉnh Thanh
Hóa” (Luận văn Thạc sĩ, ĐH Vinh). Luận văn đã tìm hiểu những khó khăn
trong việc học tiếng Việt của học sinh dân tộc, trong quá trình dạy tiếng Việt
của giáo viên; từ đó tìm ra nguyên nhân và cách khắc phục nhằm nâng cao
chất lƣợng môn tiếng Việt cho học sinh là ngƣời dân tộc thiểu số.
Tóm lại, các công trình tiêu biểu mà chúng tôi vừa liệt kê ở trên đã
phản ánh đƣợc tầm quan trọng của dạy học chính tả cũng nhƣ thực trạng và

4



giải pháp dạy học chính tả theo vùng phƣơng ngữ và việc dạy học viết cho
học sinh dân tộc. Tuy nhiên, các công trình trên đa phần còn mang tính định
hƣớng chung cho dạy học chính tả tiếng Việt chứ chƣa có tác giả nào đi sâu
nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục cho địa bàn cụ thể
là huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên. Chính vì vậy, tìm hiểu thực trạng
lỗi chính tả của học sinh dân tộc Mông ở địa bàn này và đƣa ra một số giải
pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lƣợng và hiệu quả giáo dục là vấn đề
cấp thiết đối với ngƣời làm công tác trong ngành giáo dục nhƣ chúng tôi.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là các lỗi chính tả tiếng Việt của
học sinh tại ba trƣờng THCS trên địa bàn huyện Điện Biên Đông.
Phạm vi khảo sát lỗi là các bài kiểm tra học kì môn Ngữ văn cũng nhƣ các
bài nghe (đọc) – viết chính tả của học sinh từ khối lớp 6 đến khối lớp 9 tại các
trƣờng: THCS Thị Trấn; PTDTBT THCS Sa Dung và PTDTBT THCS Tân Lập.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn hƣớng tới việc xác định những đặc điểm lỗi chính tả của học
sinh dân tộc Mông khi viết tiếng Việt. Trên cơ sở mục đích này, luận văn giải
quyết các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa lí thuyết về chính tả tiếng Việt.
- Khảo sát thực trạng lỗi chính tả của học sinh ba trƣờng THCS trên địa
bàn huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên.
- Phân tích các nguyên nhân dẫn đến lỗi chính tả của học sinh dân tộc Mông.
- Đề xuất các giải pháp và tiến hành thực nghiệm khắc phục lỗi chính tả
của học sinh dân tộc Mông.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu sau:
5.2.1. Phương pháp thống kê


5


Tập hợp bài kiểm tra học kỳ I kết hợp với hoạt động nghe (đọc) - viết
chính tả để khảo sát, phân tích, kết hợp với quan sát, phỏng vấn học sinh để
thu thập thông tin về chính tả. Trên cơ sở tài liệu thu thập đƣợc tiến hành lập
bảng các lỗi chính tả.
5.2.2. Phương pháp miêu tả
Sau khi có đƣợc tƣ liệu nguyên cứu, chúng tôi áp dụng phƣơng pháp
miêu tả để có cái nhìn khách quan về thực trạng mắc lỗi chính tả của học sinh.
5.2.3. Những thủ pháp nghiên cứu khác
Ngoài hai phƣơng pháp nghiên cứu nói trên, để thực hiện luận văn,
chúng tôi còn sử dụng thủ pháp nghiên cứu khác. Đó là các thủ pháp luận giải
bên trong và luận giải bên ngoài nhƣ phân loại, tổng hợp tài liệu, miêu tả, đối
lập, so sánh... các kiểu loại lỗi ở các trình độ khác nhau, chất lƣợng học tập
khác nhau của các em học sinh.
6. Những đóng góp của Luận văn
- Lần đầu tiên, lỗi chính tả của học sinh ba trƣờng huyện Điện Biên
Đông, tỉnh Điện Biên đƣợc thu thập, khảo sát, phân tích, miêu tả.
- Lần đầu tiên, nguyên nhân các lỗi này đƣợc chỉ ra.
- Từ đó, đề xuất ra giải pháp khắc phục lỗi chính tả của học sinh giúp
các em nói và viết tốt hơn, hƣớng tới chuẩn chính tả chung.
7. Cấu trúc Luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung luận văn đƣợc triển khai
thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
Chƣơng 2: Thực trạng và nguyên nhân lỗi chính tả của học sinh
dân tộc Mông huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên
Chƣơng 3: Đề xuất cách chữa lỗi chính tả tiếng Việt cho học sinh
dân tộc Mông huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên


6


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Những nét chính liên quan đến lịch sử vấn đề
Vấn đề nghiên cứu tiếng Việt trong nhà trƣờng nói chung và chính tả
trong nhà trƣờng nói riêng từ lâu đã thu hút đƣợc sự quan tâm chú ý của
nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ. Các công trình đã bàn về vấn đề này từ
nhiều khía cạnh khác nhau. Việc biên soạn sách giáo khoa cho phân môn
tiếng Việt cũng đƣợc đặc biệt chú ý cải thiện và nâng cao chất lƣợng. Hàng
loạt sách tham khảo về tiếng Việt làm tài liệu giảng dạy cho giáo viên và tài
liệu hƣớng dẫn cho học sinh đã đƣợc xuất bản.
Trong quá trình học tập, chính tả có vai trò quan trọng không chỉ với
cá nhân mà còn đối với cả cộng đồng xã hội. Viết đúng chính tả, phát âm
chuẩn chính tả và thực hành tốt kĩ năng tạo lập văn bản sẽ đem lại hiệu quả
giao tiếp đồng thời thể hiện năng lực văn hóa của mỗi ngƣời.
Nhiều công trình điều tra, khảo sát về thực trạng sử dụng ngôn ngữ
của học sinh phổ thông cũng đƣợc trình bày. Nhƣ Mấy gợi ý về việc phân
tích và sửa lỗi ngữ pháp cho học sinh (Nguyễn Minh Thuyết, Ngôn ngữ, số
3.1974). Hay của Phan Ngọc Chữa lỗi chính tả cho học sinh Hà Nội (NXB
Giáo dục, Hà Nội năm 1984); Hồ Lê – Lê Trung Hoa Sửa lỗi ngữ pháp
(NXB Giáo dục, Hà Nội năm 1990)... Những công trình này đã giúp cho giáo
viên giảng dạy ở trƣờng phổ thông có đƣợc những công cụ làm việc hữu ích.
- Nhóm tác giả Bùi Minh Toán, Lê A, Đỗ Việt Hùng (1997) trong
cuốn “Tiếng Việt thực hành” của NXB Giáo dục đã nêu lên tƣơng đối có hệ
thống về việc sử dụng ngôn ngữ từ chữ viết, chính tả đến việc dùng từ, đặt
câu và tạo lập văn bản. Các tác giả cũng phân tích, lí giải thuyết phục về lỗi
sử dụng ngôn ngữ mà học sinh thƣờng mắc phải và nêu lên cách khắc phục.


7


- Các tác giả Lê Phƣơng Nga, Lê A, Đặng Kim Nga, Đỗ Xuân Thảo
trong cuốn Phương pháp dạy học tiếng Việt ở tiểu học, NXB Đại học sƣ
phạm 2009 đã đƣa ra những khái niệm về chính tả và chuẩn chính tả, xây
dựng đƣợc nội dung, yêu cầu và hình thức chính tả cho từng khối lớp học.
- Tác giả Hoàng Phê trong cuốn Chính tả tiếng Việt (NXB Đà Nẵng
năm 2003) và trƣớc đó nhóm tác giả Hoàng Tuyền Linh, Vũ Xuân Lƣơng
trong Từ điển chính tả mini (NXB Đà Nẵng 1995) đã biên soạn sách để
hƣớng dẫn viết đúng chính tả. Nguyễn Trọng Báu năm 2001 khi biên soạn
Từ điển chính tả tiếng Việt thông dụng (NXB Khoa học xã hội) cũng đã
nghiên cứu và hƣớng dẫn cách sử dụng từ điển chính tả tiếng Việt thông
dụng để giúp cho giáo viên và học sinh tra cứu nhanh, thuận tiện các âm tiết,
các từ dễ gây nhầm lẫn do phát âm không chuẩn hoặc do thói quen phát âm
theo phƣơng ngữ vùng miền phục vụ cho việc viết đúng chính tả tiếng Việt.
- Đáng chú ý là cuốn sách “Các lỗi chính tả, từ vựng, ngữ pháp và
cách khắc phục” do tiến sĩ Lê Trung Hoa chủ biên (NXB Khoa học xã hội,
năm 2002). Nội dung của cuốn sách này thể hiện các tác giả đã khảo sát lỗi
sử dụng ngôn ngữ trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh một cách toàn diện.
- Ngoài ra, cũng có nhiều bài viết, công trình khoa học, luận văn Thạc
sĩ…vv nghiên cứu vấn đề dạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số ở
các địa phƣơng có ngƣời dân tộc trong cả nƣớc. Đó là những đề tài nhƣ
Hoàng Ngọc Hiển (2005) “Nghiên cứu thực trạng dạy học và những khó
khăn cơ bản trong quá trình học tiếng Việt của học sinh H’mông, tỉnh Thanh
Hóa” (Luận văn Thạc sĩ, ĐH Vinh). Luận văn đã tìm hiểu những khó khăn
trong việc học tiếng Việt của học sinh dân tộc, trong quá trình dạy tiếng Việt
của giáo viên; từ đó tìm ra nguyên nhân và cách khắc phục nhằm nâng cao
chất lƣợng môn tiếng Việt cho học sinh là ngƣời dân tộc thiểu số.


8


Tóm lại, các công trình tiêu biểu mà chúng tôi vừa liệt kê ở trên đã
phản ánh đƣợc tầm quan trọng của dạy học chính tả cũng nhƣ thực trạng và
giải pháp dạy học chính tả theo vùng phƣơng ngữ và việc dạy học viết cho
học sinh dân tộc. Tuy nhiên, các công trình trên đa phần còn mang tính định
hƣớng chung cho dạy học chính tả tiếng Việt chứ chƣa có tác giả nào đi sâu
nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục cho địa bàn cụ thể
là huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên. Chính vì vậy, tìm hiểu thực trạng
lỗi chính tả của học sinh dân tộc Mông ở địa bàn này và đƣa ra một số giải
pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lƣợng và hiệu quả giáo dục là vấn đề
cấp thiết đối với ngƣời làm công tác trong ngành giáo dục nhƣ chúng tôi.
1.2. Vấn đề chính tả và chính tả tiếng Việt
Để làm cơ sở cho việc thực hiện nhiệm vụ của luận văn, ở đây chúng
tôi sẽ trình bày những thu nhận của mình về chính tả và chính tả tiếng Việt.
1.2.1. Chính tả
Theo “Từ điển tiếng Việt” chính tả là “cách viết chữ đƣợc coi là
chuẩn” [Hoàng Phê, 1992, tr173]. Nhƣ vậy, theo nghĩa gốc của từ này, chính
tả là phép viết đúng, là cách viết hợp với chuẩn và những quy định mang tính
quy ƣớc xã hội, đƣợc mọi ngƣời trong một cộng đồng chấp nhận và tuân thủ.
Ở Việt Nam, trên đại thể hệ thống quy tắc chính tả là những quy định mang
tính quy ƣớc xã hội về cách viết các từ, viết các chữ hoa, cách dùng dấu câu,
cách viết các từ phiên âm hoặc chuyển tự. Do đó, chính tả trƣớc hết là sự quy
định có tính chất xã hội bắt buộc gần nhƣ tuyệt đối, nó không cho phép con
ngƣời vận dụng quy tắc một cách linh hoạt có tính chất sáng tạo cá nhân.
Nhƣ vậy, nói về chính tả chúng ta phải nói về cách viết chữ của một
ngôn ngữ cụ thể nào đó. Cách viết này là sự quy định có tính chất xã hội bắt
buộc gần nhƣ tuyệt đối. Khi đó, nó không cho phép cá nhân vận dụng quy tắc

một cách linh hoạt có tính chất sáng tạo riêng một cách tùy tiện.

9


1.2.2. Một số nội dung của chính tả tiếng Việt
1.2.2.1. Chính âm - chính tả
“Chính âm là khái niệm dùng để chỉ một mặt của vấn đề chuẩn hóa
ngôn ngữ trên phương diện ngữ âm” [12, tr.98]. Nội dung của chính âm bao
gồm nhiều vấn đề nhƣng cơ bản là những vấn đề: lấy ngữ âm của vùng
phƣơng ngữ nào làm chuẩn, xác lập hình thức ngữ âm thống nhất cho một số
hình vị và một số từ còn chƣa có sự thống nhất (Ví dụ: nề nếp hay nền nếp,
cách mạng hay cách mệnh, tướng lĩnh hay tướng lãnh...).
Tiếng Việt là ngôn ngữ thống nhất toàn dân. Tiếng Việt nói chung và
ngữ âm tiếng Việt nói riêng, vào thời điểm nào cũng vậy, luôn luôn ở trong
quá trình chƣa thật ổn định nhìn từ góc độ chuẩn hóa.
Chuẩn ngữ âm bao gồm chuẩn chính âm và chuẩn chính tả. Nhiều ý
kiến cho rằng phải có chuẩn chính âm trƣớc rồi mới có chuẩn chính tả, đấy là
nguyên lí. Nhƣng, với tiếng Việt, chuẩn chính âm là sự phát âm, còn chuẩn
chính tả đã hình thành và tƣơng đối ổn định trong một thời gian dài. Để góp
phần cho ngôn ngữ có chính âm, chuẩn chính tả giữ vai trò quan trọng.
1.2.2.2. Chuẩn chính tả
“Chính tả được hiểu là quy tắc viết từ (từ thường, từ hoa, từ vay mượn, từ
viết tắt, số từ, con số ngày, giờ, tháng, năm, v.v. hay cách thức dùng dấu chấm
câu (dấu: chấm, phẩy, than, hỏi, chấm hỏi, chấm lửng, hai chấm, ba chấm
(chấm lửng); dấu ngoặc: đơn, kép, vuông; dấu gạch: ngang, dưới, chéo và cách
thức ghi dấu thanh như thanh ngang, huyền, hỏi, ngã, sắc, nặng. Chuẩn chính tả
được hiểu là chuẩn áp dụng cho văn phong quy phạm, được dùng làm thước đo
trong ngôn ngữ nhà trường, áp dụng chính thống trong ngôn ngữ truyền thống
và ngôn ngữ của các văn bản quản lí nhà nước” [17, tr.109].

"Chuẩn chính tả bao gồm chuẩn viết các âm (phụ âm, nguyên âm, bán
âm) và các thanh; chuẩn viết tên riêng (viết hoa); chuẩn viết phiên âm từ và

10


thuật ngữ vay mượn" [29, tr.125].
Nhƣ vậy, có thể hiểu chuẩn chính tả là cách viết đúng, hợp với chuẩn
và những quy tắc về cách viết chuyển từ dạng thức ngôn ngữ nói sang dạng
thức ngôn ngữ viết. Đó là những quy định mang tính xã hội cao, đƣợc mọi
ngƣời trong cộng đồng chấp nhận và mọi ngƣời đều phải tuân theo. Những
cách viết chữ không đúng so với chuẩn đƣợc coi là sai chính tả.
a) Quy tắc chữ cái ghi âm vị trong âm tiết
Đó là xác định cách viết đúng cho các âm vị trong âm tiết. Trong tiếng
Việt về chữ i/y, có quy tắc nhƣ sau:
Khi đứng liền sau phụ âm đầu trong âm tiết mở, âm chính /i/ đƣợc viết
là i, trừ trƣờng hợp đứng liền sau các phụ âm h, k, l, m, s, t hoặc trong các tên
riêng có thể viết là i hay y tùy theo ý muốn chủ quan của ngƣời viết hay ngƣời
đƣợc mang tên riêng đó (Ví dụ: Tẩn Mí Khé; Tống Mỹ Linh hay Tống Mĩ
Linh;...). Năm 1980, để đảm bảo thống nhất chính tả trong sách giáo khoa, Bộ
Giáo dục đã phối hợp với Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam quy định các
trƣờng hợp âm chính /i/ đứng liền sau phụ âm đều viết là i. Tuy nhiên, quy
định này chỉ áp dụng đối với sách giáo khoa phổ thông. Trong các loại văn
bản khác (văn bản quy phạm pháp luật, sách báo,...) mỗi ngƣời viết một khác.
Do thẩm mĩ, có ngƣời thích viết y vì cho rằng y đẹp hơn.
Có nghiên cứu cho rằng: /i/ viết là i đối với các từ thuần Việt: ỉ thác,
ầm ĩ...; viết y đối với các từ gốc Hán (y tá, hội ý,...). Tuy nhiên, các từ Hán
Việt nhƣ hi hữu, trí tuệ, thống trị, thi vị, hùng vĩ... âm /i/ thƣờng chỉ viết là i.
b) Quy tắc ghi dấu thanh
Trong tiếng Việt, các dấu huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng đƣợc đặt trên đầu

chữ cái ghi âm chính, còn dấu nặng đặt dƣới chữ cái ghi âm chính. Căn cứ
khoa học của quy định này là sự gắn bó giữa thanh điệu với phần vần, đặc biệt
là với âm chính. Điều còn chƣa thống nhất là vị trí của dấu thanh trong trƣờng

11


hợp âm chính là nguyên âm đôi, đƣợc ghi bằng hai chữ cái.
- Đối với các kí hiệu ia, ua, ưa tức là trƣờng hợp nguyên âm đôi đứng
trong các âm tiết không có âm cuối (âm tiết mở) thì đặt dấu thanh ở chữ cái
thứ nhất ghi âm chính. Ví dụ: bìa, lụa, lửa,...
- Đối với các kí hiệu iê, uô, ươ, tức là trƣờng hợp nguyên âm đôi đứng
trong những âm tiết có âm cuối (âm tiết khép hoặc nửa khép) thì đặt dấu thanh ở
chữ cái thứ hai ghi âm chính. Ví dụ: biển, chiều, thuyền, nhuộm, lượn,...
c) Quy tắc viết tên riêng
* Quy tắc viết tên riêng Việt Nam:
Trƣớc năm 60 của thế kỉ XX khá phức tạp. Cụ thể nhƣ sau:
- Chữ cái đầu của họ và tên ngƣời đƣợc viết hoa, còn tên đệm (nếu có)
không viết hoa. Đối với họ kép hoặc tên kép thì bộ phận đƣợc nối với nhau
bằng gạch nối và viết hoa chữ cái đầu tiên của tiếng đầu tiên. Ví dụ: Bạch Cưdị, Hồ Xuân- hương, Hồ Chí minh,...
- Chữ cái đầu của tên địa lí đƣợc viết hoa, nếu tên gồm hai tiếng trở lên
thì giữa các tiếng có gạch nối, ví dụ: Hà- nam, Thiên- mụ, Vũng- chùa...
Từ những năm 60, ngƣời ta đã thống nhất viết hoa chữ cái đầu của mỗi
bộ phận tạo thành tên riêng, kể cả tên ngƣời lẫn tên địa lí, đồng thời bỏ gạch
nối giữa các bộ phận ấy, trừ tên riêng là tiếng dân tộc thiểu số có các bộ phận
cấu tạo gồm nhiều âm tiết. Ví dụ: Tôn Thất Thuyết, Khơ - mú, Ê- đê, ...
* Quy tắc viết tên riêng nước ngoài: Trên sách báo và các văn bản nói
chung thƣờng có 4 cách viết tên riêng nƣớc ngoài:
(1) Dịch nghĩa sang tiếng Việt và viết hoa theo quy tắc viết hoa tên
riêng tiếng Việt. Ví dụ: Hồ Chết, Hội Chữ Thập Đỏ Quốc Tế, ...

(2) Phiên âm qua âm Hán Việt. Ví dụ: Đỗ Phủ, Luân Đôn,...
(3) Phiên âm trực tiếp, theo cách phát âm của nguyên ngữ. Ví dụ: Víchto Hu-gô, Crix-tô-phô-rô, Cô-lôm-bô, Pa-ri, Mát-xcơ-va, ...

12


(4) Giữ nguyên dạng nếu nguyên ngữ sử dụng chữ La tinh hoặc chuyển tự
nếu nguyên ngữ sử dụng hệ chữ khác. Ví dụ: Victor Hugo, UNICEP, ASEAN,...
1.2.3. Đặc điểm của chính tả tiếng Việt
a. Chính tả tiếng Việt là chính tả ngữ âm. Về cơ bản, chính tả tiếng Việt
là chính tả ngữ âm, nghĩa là mỗi âm vị đƣợc ghi bằng một con chữ. Nói cách
khác, giữa cách đọc và cách viết về cơ bản thống nhất với nhau. Đọc nhƣ thế
nào sẽ viết nhƣ thế ấy. Từ việc xác định chính xác âm thanh của lời nói sẽ giúp
viết đúng chính tả. Khi viết chính tả tiếng Việt cần tuân thủ nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc ngữ âm học. Tức là, cách viết của từ phải biểu hiện đúng
ngữ âm của từ: phát âm thế nào thì viết thế ấy. Bởi vì tiếng Việt là chữ ghi âm
vị nên nguyên tắc này là nguyên tắc cơ bản nhất. Nó thể hiện ở chỗ cách viết
của mỗi từ thể hiện đúng âm cần đọc của từ. Nguyên tắc ngữ âm học chi phối
hầu hết cách viết các chữ trong bộ chữ tiếng Việt. Chẳng hạn: /b/ ghi là b, /t/
ghi là t, /m/ ghi là m v.v. Quan hệ giữa âm và chữ về cơ bản là quan hệ 1 - 1.
- Nguyên tắc truyền thống. Có nghĩa là chính tả không thay đổi thói
quen từ lâu đời. Trong chữ viết tiếng Việt có những cách viết chấp nhận quy
định từ xa xƣa để lại nhƣ là cách viết các chữ c, k, q cho một âm đầu /k/. Âm
đầu /k/ khi đứng trƣớc các chữ ghi nguyên âm /i, iê, e/ trong âm tiết th́ viết là
chữ k; nhƣng khi đứng trƣớc các chữ ghi nguyên âm /a, ă, o/...vv thì lại viết
bằng con chữ c. Nguyên tắc truyền thống trong chính tả tiếng Việt khiến cho
chữ viết không còn phản ánh ngữ âm đƣơng đại một cách trung thực, tiết
kiệm, gây nhiều rắc rối cho việc học chữ, nhất là đối với trẻ em.
b. Chính tả tiếng Việt là chính tả ngữ nghĩa. Trong thực tế, muốn viết
đúng chính tả, việc nắm nghĩa của từ rất quan trọng. Hiểu nghĩa của từ là một

trong những cơ sở giúp ngƣời đọc viết đúng chính tả. Ví dụ: giáo viên đọc
một từ có hình thức ngữ âm là “za” thì học sinh có thể lúng túng trong việc
xác định hình thức của từ này. Nhƣng nếu đọc gia đình, da thịt hay ra vào thì

13


học sinh dễ dàng viết đúng chính tả. Từ thực tế đó, chúng tôi nhận thấy
chuẩn chính tả có những đặc điểm chính sau đây:
1. Chuẩn chính tả là tính chất bắt buộc gần nhƣ tuyệt đối, đòi hỏi
ngƣời viết bao giờ cũng phải viết đúng chính tả. Chữ viết có thể chƣa hợp lý
nhƣng khi đã đƣợc thừa nhận là chuẩn chính tả thì ngƣời cầm bút không
đƣợc tự ý viết khác đi. Trong chính tả không có sự phân biệt hợp lí – không
hợp lí, hay – dở mà chỉ có sự phân biệt đúng – sai, không lỗi – có lỗi.
2. Do chuẩn chính tả có tính chất bắt buộc gần nhƣ tuyệt đối cho nên ít
bị thay đổi nhƣ các chuẩn mực khác của ngôn ngữ (nhƣ chuẩn ngữ âm, từ
vựng, ngữ pháp). Sự tồn tại nhất nhất hàng thế kỉ của nó đã tạo nên ấn tƣợng
về một cái gì “bất di bất dịch”, một tâm lí ổn định mang tính bảo thủ, cố hữu.
3. Ngữ âm phát triển, nhƣng chính tả không thể giữ mãi tính chất cố
hữu của mình. Do vậy, nếu không có quy định mang tính chất pháp lệnh kịp
thời chính tả dần dần cũng có một sự biến động nhất định, điều đó đƣợc thể
hiện ở chỗ, bên cạnh chuẩn mực chính tả hiện có lại có thể xuất hiện một
cách viết mới tồn tại song song với nó, ví dụ “phẩm zá” bên cạnh “phẩm
giá”, “xinh đẹp” bên cạnh “sinh đẹp”,… Với một tình trạng có nhiều cách
viết nhƣ vậy đòi hỏi chữ viết của một ngôn ngữ phải tiến hành chuẩn hóa.
1.3. Lỗi chính tả
1.3.1. Khái niệm lỗi và lỗi chính tả
1.3.1.1. Khái niệm lỗi
Do tính chất là luận văn Thạc sĩ, chúng tôi chỉ đƣa ra khái niệm “lỗi”
để làm việc. Theo đó, chúng tôi sử dụng quan niệm chung về lỗi mà nhiều

“Từ điển ngôn ngữ học ứng dụng và dạy tiếng” đều sử dụng, cụ thể là:
Lỗi mà người học (trong khi nói hoặc viết một ngôn ngữ, có thể là
tiếng mẹ đẻ, ngôn ngữ thứ hai hay một ngoại ngữ) là tình trạng người học sử
dụng một đơn vị ngôn ngữ (chẳng hạn viết một từ, cùng một đơn vị ngữ

14


pháp, thực hiện một hoạt động nói năng v.v..) theo cách mà người bản ngữ
hoặc người giỏi thứ tiếng đó cho là sai hoặc cho là chưa đầy đủ với chuẩn
đã được cộng đồng nói thứ tiếng đó chấp nhận và tôn trọng.
1.3.1.2. Đôi nét về ngữ âm tiếng Việt và chữ viết
a) Đặc điểm ngữ âm của tiếng Việt
Trong tiếng Việt, âm tiết (hay tiếng) là đơn vị phát âm tự nhiên, rất dễ
nhận biết. Khi nói cũng nhƣ khi viết, mỗi âm tiết đƣợc tách bạch rõ ràng. F.de
Saussure nhận xét rằng trong ngôn ngữ không chỉ có các âm mà có cả các
đoạn âm. L.R. Zinder thì cho rằng sự phân chia lời nói tự nhiên thành những
đơn vị nhỏ hơn là không thể xảy ra. Âm tiết chính là nơi giao nhau giữa kích
thƣớc của việc phân đoạn lời nói và khái niệm nội dung ngữ âm.
Ví dụ: Tôi đang học bài. Chúng ta nghe đƣợc những khúc đoạn tự nhiên
trong chuỗi lời nói đó nhƣ sau: Tôi/ đang/ học/ bài. Câu này có 4 âm tiết.
- Âm tiết tiếng Việt có cấu trúc chặt chẽ rõ ràng. Mỗi âm tiết ở dạng tối
đa thƣờng gồm ba phần: phụ âm đầu, vần và thanh điệu. Phần vần tối đa lại
bao gồm ba âm: âm đệm, âm chính và âm cuối. Còn tối thiểu, âm tiết tiếng
Việt phải có âm đầu, âm chính và thanh điệu. Âm chính luôn luôn phải là một
nguyên âm. Cấu tạo của âm tiết chia thành hai bậc nhƣ sau:
Bậc 1: Âm đầu
Bậc 2: Vần (bao gồm âm đệm, âm chính và âm cuối).
Thanh điệu
Phụ âm đầu


Vần
âm đệm

âm chính
ÂM TIẾT

I ..................
II .................

Âm đầu
Âm đệm

Vần
Âm chính

15

Thanh điệu
Âm cuối

âm cuối


- Mỗi âm tiết luôn mang một thanh điệu nhất định (có sáu thanh điệu).
Về mặt nghĩa, âm tiết tƣơng ứng với một hình vị, có thể dùng độc lập nhƣ một
từ đơn, hoặc đƣợc dùng nhƣ một thành tố cấu tạo nên từ (hình vị). Trên chữ
viết, cách xác định kí hiệu ghi âm tiết nhƣ sau:
Vần


Âm

Âm

tiết

đầu

âm đệm

âm chính

âm cuối

á

ze ro

ze ro

a

ze ro

sắc

ồn

ze ro


ze ro

ô

n

huyền

ta

t

ze ro

a

ze ro

Ngang

mua

m

ze ro

ua

ze ro


Ngang

tận

t

ze ro

â

n

nặng

quyển

q

U



n

hỏi

khuya

kh


U

ya

ze ro

Ngang

t

O

a

n

sắc

toán

Thanh điệu

Dấu thanh điệu ghi trên hoặc dƣới con chữ ghi âm chính. Trong trƣờng
hợp âm chính là nguyên âm đôi, ngƣời ta thƣờng ghi thanh điệu lên trên hoặc
dƣới con chữ thứ hai, ví dụ: tiền, luyến, thuyền. Âm tiết gồm các âm vị sau:
1. Âm vị âm đầu (phụ âm)
Trong âm tiết tiếng Việt, âm đầu là âm đứng ở vị trí thứ nhất của âm
tiết. Âm đầu đƣợc xác định trong các âm tiết sau: hà, mai, hài, bàn, ghế...
* Số lượng và phân loại âm vị âm đầu: Phần lớn các nhà nghiên cứu có
quan điểm giống nhau về số lƣợng âm vị âm đầu là 22 âm vị. Có quan điểm

cho rằng âm đầu gồm 23 âm khi thêm phụ âm /p/.
Trƣờng hợp phụ âm /p/, có tác giả cho rằng, âm vị này chỉ xuất hiện
trong các âm tiết là từ phiên âm (đèn pin) nên không thừa nhận là phụ âm đầu
tiếng Việt. Tuy nhiên, có thể thấy sự xuất hiện của /p/ trong các từ địa danh và
tên riêng (Sa Pa, Pa Cá,...). Vì vậy /p/ cũng đƣợc coi là phụ âm đầu của tiếng

16


Việt. Toàn bộ số lƣợng âm vị âm đầu tiếng Việt đƣợc trình bày nhƣ sau:
Vị trí
Phƣơng thức

Tắc Ồn

Đầu lƣỡi

Mặt

Gốc

Thanh

Bẹt quặt lƣỡi

lƣỡi

hầu

Bật hơi


t'

Không Vô thanh

t

bật hơi Hữu thanh

ʈ

c

k

ɲ

ŋ

b

d

m

n

Vô thanh

f


s

ş

χ

Hữu thanh

v

z

ʐ

γ

Vang
Xát Ồn

Môi

Vang

H

l

Để phân biệt phụ âm trong hệ thống phụ âm ngƣời ta phân biệt dựa vào
ba tiêu chí:

Thứ nhất, dựa vào phƣơng thức phát âm: Ngƣời ta phân biệt:
- Phƣơng thức tắc: là phƣơng thức phát âm mà theo đó luồng hơi trƣớc
khi phát ra bị chặn đứng hoàn toàn hay bế tắc hoàn toàn. Dựa vào vị trí luồng
hơi thoát ra ngoài, ngƣời ta phân biệt: Phụ âm tắc mũi: luồng hơi thoát ra
đằng mũi: /m, n, ŋ/; Phụ âm tắc: luồng hơi thoát ra đằng miệng. Trong đó
phân biệt hai loại phụ âm bật hơi /t`/ và phụ âm không bật hơi /t/.
- Phƣơng thức xát: Là phƣơng thức phát âm mà luồng hơi trƣớc khi
thoát ra ngoài bị chặn đứng không hoàn toàn hay bị cản trở không hoàn toàn.
Dựa vào vị trí luồng hơi đi ra chính giữa miệng hay hai bên mà ngƣời ta phân
biệt: Phụ âm xát tức là luồng hơi đi ra giữa miệng /f, v, s, z/; Phụ âm bên tức
là luồng hơi đi ra hai bên miệng /l/.
- Phƣơng thức rung: theo phƣơng thức này phát âm bị rung lên /ʐ/.
Thứ hai, dựa vào bộ phận cấu âm: Có các loại phụ âm sau:
- Phụ âm môi: dùng môi để phát âm. Dựa vào tiêu điểm cấu âm ta có:
17


Phụ âm hai môi /b, m/; Phụ âm môi - răng /f, v/.
- Phụ âm lƣỡi. Trong đó ta phân biệt: Nhóm phụ âm đầu lƣỡi: đầu lƣỡi
quặt /ʈ, ş, ʐ/ và đầu lƣợt bẹt /d, t, t`, s, z, n, l/; Nhóm phụ âm mặt lƣỡi /c, ɲ /;
Nhóm phụ âm cuối lƣỡi hay gốc lƣỡi /k, χ, γ, ŋ/.
- Phụ âm họng hay thanh hầu /h/.
Thứ ba, dựa vào thanh tính, tức là độ rung động của dây thanh: Phụ âm
hữu thanh: khi phát âm có độ rung nhẹ: /b, d, v, z, ʐ, γ/; Phụ âm vô thanh: khi
phát âm dây thanh không rung động: /t, ʈ, c, k, f, s, ş, χ, h/
* Chữ viết của âm vị âm đầu (phụ âm)
Các âm vị phụ âm đầu trong tiếng Việt có hình thức chữ viết nhƣ sau:
Số TT

Âm vị


Chữ viết

âm đầu

Ví dụ

1

/b/

B

bàn, bánh, ...

2

/m/

M

mình, mành, ...

3

/f/

Ph

phim, pháo, ...


4

/v/

V

vẻ vang, vinh, ...

5

/t`/

Th

thướt tha, thành, ...

6

/t/

T

toán, ta, ...

7

/d/

Đ


đang, đo đỏ, ...

8

/n/

N

nó, nắng, ...

9

/s/

X

xinh xắn, xin, ...

10

/z/

d, gi, g (gì)

dao, dỗ dành, gia, giang, gió, gì, gìn,

11

/l/


L

lo lắng, long lanh, ...

12

/ʈ/

Tr

cây tre, đằng trước, ...

13

/ş/

S

so sánh, se, ...

18


14

/ʐ/

R


rõ ràng, rổ, ...

15

/c/

Ch

cha, chú, ...

16

/ɲ/

Nh

nhớ nhung

17

/k/

k, c, q

kẻ, kể, kiếp, cá, cờ, cốm, quân, quanh, ...

18

/ŋ/


ng, ngh

nghĩ, nghe, nghề, nghiệp, nga, ngó, ...

19

/χ/

Kh

khi, khấp khểnh, ...

20

/γ/

g, gh

ghi, ghế, gà gô, gỗ, ...

21

/a/

a, ă

ăn, áo, anh, ...

22


/h/

H

hoa huệ, hoa hồng, ...

Trong 22 phụ âm đầu, những âm vị có nhiều hình thức chữ viết là
những trƣờng hợp đáng chú ý:
- Âm vị âm đầu đƣợc ghi bằng hai chữ cái là 9 /f, t`,ʈ , z, c, ɲ, ŋ, χ, γ /.
- 3 âm vị / k, ŋ, γ/ có hai hình thức chữ viết, nhƣng không đƣợc sử dụng
một cách tự do, mà phải sử dụng theo quy tắc ngữ âm. Âm vị âm đầu /k/ có
lúc viết là “k”, có lúc viết là “c”, lúc khác lại viết là “q”. Hoặc nhƣ âm vị /γ/
tùy từng trƣờng hợp có thể ghi bằng hai cách là “g”, “gh”. Hoặc nhƣ âm vị /ŋ/
có lúc ghi “ng”, có lúc ghi “ngh”. Quy tắc kết hợp nhƣ sau:
Âm vị

Chữ viết
k (kiến, kí...)

/k/

/γ/

Nguyên tắc kết hợp
Khi kết hợp với nguyên âm hàng trƣớc / i, e, ε,
εˇ, ie/
Khi kết hợp với nguyên âm hàng sau: /ɤ, ɤˇ, a,

c (có, ca, cù...)


ă, o, ɔ, ɔˇ, ɯɤ, uo /

q (quả, quê, ...)

khi đứng trƣớc bán âm /-w-/

gh (ghế, ghi...)

Khi kết hợp với nguyên âm hàng trƣớc / i, e, ε,
εˇ, ie/

19


Khi kết hợp với nguyên âm hàng sau: /ɤ, ɤˇ, a,
g (gà, gánh, gù...)

ă, o, ɔ, ɔ, ɯɤ, uo /

ngh (nghĩ, nghe, Khi kết hợp với nguyên âm hàng trƣớc / i, e, ε,
nghề, nghiệp...)
/ŋ/
ng (ngành, ngủ...)

εˇ, ie/
Khi kết hợp với nguyên âm hàng sau: /ɤ, ɤˇ, a,
ă, o, ɔ, ɔˇ, ɯɤ, uo /

- Âm vị /z/ có ba hình thức chữ viết (d, gi, g), nhƣng không có một căn
cứ ngữ âm nào cho sự khác biệt này về chữ viết. Ví dụ: hai từ “dâu da” và

“giâu gia”, viết “dâu da” hay “giâu gia”? Theo thói quen, nhiều ngƣời thƣờng
viết là “dâu da”, chứ ít khi viết “giâu gia”. Nhƣng khi tìm trong quyển “Từ
điển tiếng Việt” của Hoàng Phê, mục từ “dâu da” [22, tr.249] thì thấy viết:
“dâu da x. giâu gia” (x. viết tắt từ xem). Lật tiếp sang mục từ “giâu gia” [22,
tr.298] thì lại thấy ghi: “giâu gia cv. dâu da. d. Cây to cùng họ với trẩu, lá
hình bầu dục, quả tròn, mọc từng chùm, ăn hơi chua.” (cv: cũng viết).
Nhƣ vậy, hai từ “dâu da” và “giâu gia” đều cùng tồn tại, đều có thể sử
dụng trong khi viết và nói, không có từ nào là sai, ngƣời dùng muốn viết cách
nào cũng đƣợc. Một số (cặp) từ tiêu biểu thuộc loại này nhƣ: dàn/ giàn
(mướp), (trôi) dạt/ giạt, dẫm /giẫm (đạp), dong/ giong (buồm)...
* Khả năng kết hợp của âm vị âm đầu: Kết hợp với tất cả các nguyên
âm và âm đầu vần. Tuy nhiên, có một số trƣờng hợp cần lƣu ý nhƣ sau:
Nhóm phụ âm môi /p, b, m, f, v/ không kết hợp với âm đầu vần (trƣờng
hợp thùng phuy, khăn voan là hãn hữu). Nhóm phụ âm đầu lƣỡi /t`, t, d, n, ʈ,
s, z, l, ş, ʐ/ có thể kết hợp với tất cả nguyên âm và âm đầu vần (riêng phụ âm
/n/ và /ʐ/ kết hợp hạn chế với âm đầu vần (trƣờng hợp noãn bào, ruy băng là

20


hãn hữu). Nhóm phụ âm mặt lƣỡi /c/ và /ɲ/ kết hợp đƣợc với tất cả các
nguyên âm và âm đầu vần. Nhóm phụ âm cuối lƣỡi /k, ŋ, χ, γ/ có thể kết hợp
với tất cả nguyên âm và âm đầu vần, trừ phụ âm /γ/ kết hợp hạn chế với âm
đầu vần (chỉ có một trƣờng hợp: góa). Nhóm phụ âm thanh hầu /q/, và /h/:
Kết hợp đƣợc với các nguyên âm và âm đầu vần.
2. Âm đầu vần (âm đệm)
Trong cấu tạo âm tiết tiếng Việt, âm đệm đứng ở vị trí thứ hai của âm
tiết, vị trí thứ nhất của phần vần. Âm đệm còn gọi là âm nối, tiền chính âm.
Không giống nhƣ phụ âm đầu, âm đệm có thể khuyết (zêrô).
* Số lượng âm đầu vần: Trong tiếng Việt chỉ có một bán âm /-w-/ làm

âm đệm. Âm vị này có đặc điểm gần giống nguyên âm /u/ (nguyên âm hàng
sau, tròn môi, có độ há hẹp) nhƣng phát âm rất lƣớt.
* Chữ viết của âm vị âm đầu vần: Âm đệm /-w-/ có hai hình thức thể
hiện trên chữ viết là o và u.
Viết o khi đứng trƣớc các nguyên âm có độ há rộng và hơi rộng /ε, a, ă/
(loan, ngoằn nghoèo, oách, choắt...). Viết u khi đứng trƣớc nguyên âm có độ
há hẹp và hơi hẹp /i, ε, ie/ và sau phụ âm /q/ (huệ, huy, quang, huyền...)
* Khả năng kết hợp của âm đầu vần:
Âm đệm /-w-/ không xuất hiện sau phụ âm môi /p, b, m, f, v/ và trƣớc
nguyên âm tròn môi /u, o, ɔ, uo/ (ngoại lệ: thùng phuy, khăn voan, xe buýt);
xuất hiện hạn chế sau các phụ âm /n, ʐ/ (noãn bào, ruy băng).
3. Âm chính (nguyên âm)
Âm chính đứng ở vị trí thứ ba trong âm tiết, vị trí thứ hai trong phần vần.
* Số lượng và phân loại âm vị âm chính
Âm vị đảm nhiệm vị trí này là các nguyên âm đơn và nguyên âm đôi,
bao gồm 13 nguyên âm đơn và 3 nguyên âm đôi. Cụ thể nhƣ sau: Nguyên âm

21


đơn: /i, e, ε, ɤ, ɤˇ, a, ɯ, ă, u, o, ɔ, ɔˇ, εˇ/. Nguyên âm đôi: /ie, ɯɤ, uo /.
Nguyên âm tiếng Việt nhƣ sau:

9 nguyên âm dài
13 nguyên âm đơn

i

ɯ


u

e

ɤ

o

ε

a

ɔ

ɤˇ

4 nguyên âm ngắn
3 nguyên âm đôi

εˇ

ă

ɔˇ

ie

ɯɤ

uo


Âm chính là âm hạt nhân của âm tiết, âm mang “đƣờng nét” cơ bản của
thanh điệu. Trong cấu tạo âm đoạn của âm tiết tiếng Việt, âm đầu có thể
khuyết, nhƣng vần không bao giờ khuyết; trong cấu tạo của vần, âm đầu vần và
âm cuối vần có thể khuyết, nhƣng âm chính không bao giờ khuyết. Âm chính
có mặt trong tất cả các loại âm tiết, từ âm tiết gồm một yếu tố đến âm tiết gồm
bốn yếu tố đoạn tính. Ví dụ: Trong âm tiết à âm chính là nguyên âm /a/. Trong
âm tiết huệ thì âm chính là /e/. Trong âm tiết hoan thì âm chính là /a/. Số lƣợng
âm chính hệ thống nguyên âm tiếng Việt đƣợc trình bày nhƣ sau:
Âm sắc

Cố định

Vị trí của lƣỡi,
Trƣớc,
hình dáng môi
không
Độ mở
tròn môi
của miệng
Nhỏ
i
Lớn vừa
Lớn
Không cố định

22

Sau
Không

tròn môi

Tròn môi

ɯ

u

e

ɤ/ ɤˇ

o

ε/ εˇ

a/ ă

ɔ/ ɔˇ

ie

ɯɤ

uo


Để phân biệt nguyên âm trong bảng hệ thống nguyên âm, ngƣời ta dựa
vào 4 tiêu chí:
- Chiều hƣớng của lƣỡi: khi phát ra một nguyên âm, lƣỡi có thể dịch

chuyển qua ba vị trí, đó là đƣa về phía trƣớc, lùi về phía giữa, kéo hẳn về phía
sau. Theo đó ta có: Nguyên âm dòng trƣớc. Ví dụ: /i, e, ε/; Nguyên âm dòng
giữa. Ví dụ: /ɯ, ɤ, a/; Nguyên âm dòng sau. Ví dụ: /u, o, ɔ/.
- Độ mở của miệng: khi phát ra một nguyên âm, miệng có thể mở theo
4 độ mở tạo ra 4 loại nguyên âm khác nhau: Nguyên âm rộng: /a, ă/; Nguyên
âm hơi rộng: /ε, ɔ/; Nguyên âm hơi hẹp: /e,ɤ, a/; Nguyên âm hẹp: /i, ɯ, u/.
- Hình dáng của môi: môi có thể chúm tròn hoặc không để tạo ra hai
loại nguyên âm, đó là: Nguyên âm tròn môi. Ví dụ: / u, o, ɔ, uo/; Nguyên âm
không tròn môi. Ví dụ: /i, e, ε , ɯ , ɤ/.
- Trƣờng độ của nguyên âm: nguyên âm phát ra có thể kéo dài hay rút
ngắn. Theo đó dựa vào trƣờng độ, nguyên âm đƣợc chia thành hai loại:
Nguyên âm dài /i, ɯ, u, e, ɤ, o, ε, a, ɔ/; Nguyên âm ngắn / ɤˇ, ɔˇ, εˇ, ă/.
* Sự thể hiện của âm vị âm chính bằng chữ viết
Các âm vị nguyên âm làm âm chính trong tiếng Việt có các hình thức
thể hiện trên chữ viết nhƣ sau:
Số TT

Âm vị

Chữ viết

1

/i/

i, y (y tế)

2

/e/


Ê

3

/ε/

E

4

/εˇ/

a (anh, ach)

5

/ie/

iê, ia, yê, ya

6

/ɯ/

Ƣ

23



7

/ɤ/

Ơ

8

/ɤˇ/

Â

9

/a/

A

10

/ă/

ă, a (ay, au, ăn)

11

/ɯɤ/

12


/u/

U

13

/o/

Ô

14

/ɔ/

o(on), oo(oong, ooc)

15

/ɔˇ/

o (ong oc)

16

/uo/

uô, ua

ƣơ, ƣa


Những trƣờng hợp mỗi âm vị có một hình thức chữ viết dễ nhận biết,
dễ nhớ. Những trƣờng hợp âm vị có hai hay nhiều hơn hai hình thức chữ viết
cần lƣu ý để tránh nhầm lẫn:
Âm Chữ
vị

viết

Nguyên tắc kết hợp
- Khi không có âm đệm nhƣ: lía, kia, chia, tim, tin …
- Trƣờng hợp viết i/y đều đúng trong trƣờng hợp có âm tiết

i

mở, khuyến khích học sinh viết i: châu Mĩ/ châu Mỹ, địa lí/
địa lý, bác sĩ/ bác sỹ,…).
+ Căn cứ vào nghĩa: tai

/i/

+ Trƣờng hợp âm tiết có độ cao bằng nhau: ỉ eo, ầm ĩ...
- Trƣờng hợp âm tiết có một nguyên âm (y trong y tế)
y

- Âm tiết có âm đệm (đứng sau âm đệm) nhƣ: tuy, thúy,…
- Đứng sau nguyên âm ngắn /a/ nhƣ (ây)
- Đứng trƣớc ê khi chữ đó không có âm đầu nhƣ: yêu, yết, yếm

24



- Căn cứ vào nghĩa: tay
/ă/

/ie/

ă

Trong các âm tiết ăn, chăn...

a

Các âm tiết có vần ay và au nhƣ tay, hay, cau, cháu...



Khi âm tiết chỉ có phụ âm đầu, âm chính, âm cuối (tiền, tiêu...)

ia

Khi âm tiết không có âm cuối (chia, bịa, phía...)



Khi có âm đệm và âm cuối (tuyến, khuyên...) hoặc khi mở đầu
âm tiết (yến, yên...)

ya

Khi âm tiết có âm đệm, không có âm cuối (khuya)




ƣơ

Khi âm tiết có âm cuối (mượn, tươi, nước, lượng, ...)

ɤ/

ƣa

Khi âm tiết không có âm cuối (mưa, tựa...)

ua

Khi âm tiết không có âm cuối (mua, búa...)



Khi âm tiết có âm cuối (tuổi, muộn, suối...)

/uo/

* Khả năng kết hợp của âm vị âm chính
- Khả năng kết hợp của nguyên âm với phụ âm cũng có tính quy luật:
Các âm vị nguyên âm tiếng Việt đều có khả năng kết hợp với tất cả các
âm vị phụ âm đầu, trừ nguyên âm đôi /uo/ không kết hợp với phụ âm /p/, /f/
và nguyên âm đôi /ie/ không kết hợp với phụ âm đầu /γ/.
- Khả năng kết hợp của nguyên âm với âm đầu vần hạn chế hơn. Các
nguyên âm tròn môi /u, o, ɔ, uo/ và các nguyên âm /ɔˇ, ɯɤ / không kết hợp

với âm đầu vần. Các nguyên âm còn lại đều có khả năng kết hợp với âm đầu
vần (trƣờng hợp âm tiết có phụ âm đầu và âm đầu vần, ví dụ: hoa, huyền, ...).
4. Âm vị âm cuối
Âm vị âm cuối đứng ở vị trí cuối vần và cũng là vị trí cuối âm tiết. Đó
là âm kết thúc âm tiết. Âm đảm nhiệm vị trí này là bán nguyên âm cuối hoặc
phụ âm cuối. Vị trí của âm vị âm cuối có thể khuyết.
* Số lượng âm vị âm cuối

25


×