Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (626.85 KB, 93 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tòa án là cơ quan có chức năng đặc biệt trong bộ máy nhà nước Nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan duy nhất có quyền xét xử. Tòa án xét
xử và giải quyết những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh
thương mại, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật.
Trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ
tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân
phẩm của công dân.
Các quyền và lợi ích chính đáng hợp pháp của công dân cụ thể có thể bị vi
phạm từ nhiều phía: đó có thể là sự vi phạm bởi hành vi trái pháp luật của các cơ
quan nhà nước nói chung (cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan hành
chính nhà nước và các cán bộ công chức của các cơ quan này) cũng như bởi hành
vi trái pháp luật của các tổ chức xã hội, kinh tế hoặc bởi công dân khác. Nhưng sự
vi phạm Hiến pháp và pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước và các cán
bộ công chức làm thiệt hại quyền và lợi ích hợp pháp của công dân gây nên các vụ
khiếu kiện là một vấn đề bức thiết đòi hỏi phải có sự giải quyết hiệu quả. Qua đó,
nhằm bảo vệ quyền con người, tạo dựng lòng tin của quần chúng nhân dân đối với
Nhà nước.
Nguyên tắc "Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật" trong tố tụng hành chính là một trong những nguyên tắc cơ bản để Tòa án
thực hiện nhiệm vụ xét xử nhằm thực hiện các mục tiêu đó. Nguyên tắc này là sự
thể hiện quan điểm của Nhà nước trong hoạt động xét xử các vụ án hành chính,
Hội thẩm và Thẩm phán có quyền đưa ra phán quyết trên cơ sở quy định của pháp
luật để giải quyết vụ án hành chính một cách khách quan và chính xác mà không
phải phụ thuộc vào bất cứ sự tác động nào khác, kể cả tác động của các cơ quan
Đảng hay cơ quan hành chính nhà nước. Đây là một nguyên tắc Hiến định được
ghi nhận từ rất sớm và phát triển cùng Hiến pháp và pháp luật, được ghi nhận cụ


thể trong Luật tố tụng hành chính. Mặc dù được quy định trong Hiến pháp và nhiều
văn bản pháp luật khác nhưng trên thực tế việc áp dụng nguyên tắc này trong giải
quyết các vụ án hành chính còn nhiều bất cập, chưa thực sự đem lại hiệu quả thiết
thực trong quá trình khiếu kiện của công dân tại Tòa án. Đặc biệt theo tinh thần


2

Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02/06/2005 về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020 với trọng tâm là đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ
quan tư pháp nói chung và hệ thống Tòa án nói riêng thì việc đi sâu nghiên cứu
nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong
xét xử các vụ án hành chính là vấn đề có ý nghĩa thiết thực phục vụ cho quá trình
nghiên cứu về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Chính vì những lý do đó, tác giả
chọn đề tài "Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật trong tố tụng hành chính Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ
luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
"Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" không
còn là vấn đề mới, trong thời gian qua đã có rất nhiều những bài viết, những công
trình nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề này, như: Khóa luận tốt nghiệp: "Khi xét xử
Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", của Hàn Mạnh Thắng,
Trường Đại học Luật Hà Nội, 1997; Luận văn "Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán
và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự", của Trần Thị
Nhung San, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1995; "Bảo đảm nguyên tắc khi xét xử
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật", của Trần
Văn Kiểm, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 1(186), 2011; "Nguyên tắc Thẩm
phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của tòa án", của Đỗ Thị Phương,
Đề tài nghiên cứu khoa học, Viện Khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao; các

sách chuyên khảo của các tác giả cũng đã đi sâu nghiên cứu về vấn đề này như
“Độc lập xét xử trong nhà nước pháp quyền ở Việt Nam” của Tiến sĩ, luật sư Lưu
Tiến Dũng, 2012; “Tính độc lập của tòa án...” của Tiến sĩ Tô Văn Hòa,
2007;...cùng nhiều những bài viết được đăng trên các tạp chí chuyên ngành khác.
Tuy nhiên, các đề tài nghiên cứu và các sách báo chuyên ngành cũng chỉ dừng lại ở
việc nghiên cứu nguyên tắc độc lập trong tố tụng nói chung, chưa có đề tài nào đi
sâu nghiên cứu về nguyên tắc độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm trong tố tụng
hành chính. Vì vậy, việc đi sâu nghiên cứu về nguyên tắc này trong bối cảnh tố
tụng hành chính có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng.
Trên cơ sở tiếp thu, tổng hợp những đề tài, bài viết trước, cùng với sự tìm tòi,
và quá trình nghiên cứu của mình, tác giả đi vào phân tích nguyên tắc "Thẩm phán,


3

Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính", để
thấy rằng, việc áp dụng nguyên tắc này trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập và
đưa ra những giải pháp thích hợp để nguyên tắc được thực thi có hiệu quả hơn.
Đề tài lựa chọn của tác giả cũng nhằm mục đích khẳng định đường lối chủ trương
của Đảng trong cải cách tư pháp là đúng đắn, kịp thời và nên được thống nhất thực
hiện.
3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài là nhằm nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ
bản về nguyên tắc "Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật" trong hoạt động xét xử các vụ án hành chính nhằm làm rõ khái niệm, nội
dung, ý nghĩa và những tồn tại khi áp dụng nguyên tắc để từ đó đưa ra các giải
pháp nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc trong thực tiễn xét xử các vụ án hành
chính.
3.2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài

Luận văn đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của nguyên tắc
"Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" trong tố tụng
hành chính. Nguyên tắc được ghi nhận trong Hiến pháp và được cụ thể hóa trong
rất nhiều các văn bản luật: Luật tố tụng hành chính, Luật tổ chức tòa án, Pháp lệnh
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, các Thông tư liên tịch giữa Tòa án với các bộ
ngành có liên quan…
3.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến nguyên tắc độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, cụ thể
là các tác động, ảnh hưởng đến sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử
các vụ án hành chính, có sự phân tích, đối chiếu số liệu từ thực tiễn xét xử các vụ
án hành chính trong phạm vi Toàn quốc trong khoảng thời gian từ năm 2008 đến
nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp; những thành tựu của khoa học
Luật hành chính của một số nước trong khu vực và trên thế giới; các học thuyết


4

chính trị và pháp lý về tố tụng được các tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu. Đề
tài cũng được trình bày trên cơ sở nghiên cứu Luật tố tụng hành chính, và các văn
bản pháp luật có liên quan.
4.2. Các phương pháp cụ thể
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, đề tài đặc biệt coi trọng các phương pháp: So sánh, thống kê,
phân tích, tổng hợp.
Kết hợp với phương pháp khảo sát thực tiễn, nghiên cứu số liệu thực tế để làm

sáng tỏ những nội dung cần nghiên cứu của đề tài. Tùy từng chương, mỗi một
phương pháp sẽ được sử dụng kết hợp với các phương pháp khác hoặc được sử
dụng với vai trò chủ đạo phù hợp nội dung nghiên cứu.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Do nghiên cứu đề tài ở phạm vi hẹp nên luận văn có điều kiện đi sâu xem xét
nguyên tắc "Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật"
trong tố tụng hành chính ở Việt Nam, đồng thời nêu lên thực tế áp dụng nguyên tắc
này của ngành tư pháp nói chung và trong hoạt động xét xử của Tòa án nói riêng.
Trên cơ sở đó luận văn đưa ra một số giải pháp, kiến nghị mang tính xây dựng
nhằm hoàn thiện hơn quy định của pháp luật về vấn đề này góp phần vào quá trình
cải cách tư pháp trong thời gian tới tại Việt Nam.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật.
Chương 2: Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật trong tố tụng hành chính.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng nguyên tắc và một số giải pháp nâng cao hiệu
quả thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật trong tố tụng hành chính.


5

Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN, HỘI THẨM NHÂN
DÂN ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật
Nguyên tắc là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong lý luận và thực

tiễn, chi phối nhiều lĩnh vực, quá trình hoạt động của con người. Theo từ điển
Tiếng Việt, nguyên tắc là “những quy định, phép tắc, tiêu chuẩn làm cơ sở, chỗ
dựa để xem xét, làm việc”1. Nói cách khác, nguyên tắc là “điều cơ bản định ra,
nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm”. Như vậy, nguyên tắc là điều
không thể thiếu trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người, đảm bảo
cho những hoạt động đó đi đúng hướng nhất định và đạt hiệu quả. Sự cần thiết phải
có và tuân thủ nguyên tắc gần như là một đòi hỏi tất yếu.
Nguyên tắc “Khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật” là một nguyên tắc Hiến định được qui định trong các bản Hiến pháp của Việt
Nam kể từ Hiến pháp 1946. Lịch sử phát triển của Nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn với 04 bản Hiến pháp được ban hành vào
những thời điểm lịch sử khác nhau. Nguyên tắc này khẳng định trong hoạt động
xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm không phụ thuộc vào bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào
khi đưa ra các nhận định đánh giá và phán quyết của mình về vụ án. Mọi cá nhân,
tổ chức không được can thiệp vào các hoạt động xét xử của Tòa án. Mặc dù về
mặt câu chữ qua từng bản Hiến pháp có thay đổi nhưng nội dung ý nghĩa của
nguyên tắc không vì thế mà khác đi, trái lại nó ngày càng được quy định một cách
hoàn thiện rõ ràng và chặt chẽ hơn và quan trọng hơn những quy định này đã thật
sự phát huy mạnh mẽ về tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm trong quá trình
xét xử và ra bản án. Quy định này được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 vừa nhằm
mục đích bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa vừa thể hiện tính chất độc lập không
phụ thuộc vào các cơ quan tổ chức, cá nhân nào trong hoạt động của tòa án nhân
dân.
Vậy “độc lập” đề cập trong nguyên tắc là gì? Ai là người phải độc lập? Theo
Đại từ điển tiếng Việt “độc lập” là tự mình tồn tại, hoạt động, không nương tựa
hoặc phụ thuộc vào ai. Theo nguyên tắc này, các chủ thể có quyền độc lập xét xử là
1

Đại từ điển Tiếng Việt, Nguyễn Như Ý chủ biên, NXB Văn hóa – Thông tin 1998, Tr.1217



6

Thẩm phán và Hội thẩm chứ không phải là Tòa án nói chung- bởi vì tổ chức bộ
máy nhà nước ta theo nguyên tắc tập quyền, có sự phân công và phối hợp giữa ba
nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp chứ không theo nguyên tắc phân
quyền như các nước tư bản. Theo đó, độc lập của Tòa án Việt Nam được hiểu một
cách phổ biến là sự độc lập của cá nhân Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Thẩm
phán là một chức danh tư pháp đồng thời là ngạch chức danh trung tâm của hệ
thống tư pháp, bởi lẽ đó là người thay mặt và nhân danh nhà nước trực tiếp thực
hiện quyền tư pháp. Trước hết, họ là người có thẩm quyền đưa ra các quyết định
mang tính chất bắt buộc chung, trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến quyền tự do
cơ bản và các lợi ích hợp pháp của công dân, của các cơ quan nhà nước, của các tổ
chức xã hội, tổ chức kinh tế. Những giá trị xã hội cần thiết cho mọi nhà nước dân
chủ như: sự khẳng định và duy trì công lý, công bằng, việc thiết lập và củng cố
pháp chế, trật tự pháp luật tùy thuộc rất nhiều vào phán quyết của Thẩm phán tại
Tòa án.
Ở Việt Nam việc xét xử còn do các Hội thẩm nhân dân thực hiện. Xuất phát từ
đặc trưng cơ bản của nhà nước ta “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”,
để đảm bảo tính công bằng, bình đẳng của pháp luật thì việc xét xử không chỉ có
những người chuyên môn mà còn có đại diện từ phía nhân dân tham gia. Hội thẩm
nhân dân là người đại diện cho nhân dân trong việc tham gia xét xử vụ án, vừa đảm
bảo tính khách quan, công bằng, dân chủ trước tòa, vừa thay mặt cho nhân dân
giám sát hoạt động xét xử của Tòa án. Mặc dù Hội thẩm nhân dân và Thẩm phán
có địa vị pháp lý và có nền tảng kiến thức khác nhau, nhưng về nguyên tắc tính độc
lập của họ là không có sự khác biệt. 2
Với ý nghĩa đó, các Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân dân phải độc lập với
nhau và độc lập với các yếu tố tác động bên ngoài. Độc lập với các yếu tố bên
ngoài là khi nghiên cứu hồ sơ cũng như khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân không bị phụ thuộc vào kết luận của Viện kiểm sát cũng như quyết định của

các cơ quan có thẩm quyền. Quá trình nghiên cứu hồ sơ và tại phiên tòa, Hội đồng
xét xử phải xem xét, thẩm tra đánh giá chứng cứ và các tình tiết khác của vụ án
một cách thận trọng, tỉ mỉ, khoa học, toàn diện, kể cả chứng cứ có trong hồ sơ và
chứng cứ tại phiên tòa. Bản án của Tòa án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã
2

Nguyễn Như Ý (Chủ biên), Nguyễn Văn Khang, Vũ Quang Hào và Phan Xuân Thành (2008), Đại từ điển Tiếng
Việt, Nxb. Đại học Quốc gia, tr.1811, 545.


7

được xem xét tại phiên tòa. Độc lập với các yếu tố bên trong là khi xét xử, các
thành viên của Hội đồng xét xử độc lập với nhau trong việc nghiên cứu hồ sơ, xem
xét đánh giá chứng cứ và đưa ra kết luận sự việc phạm tội, người phạm tội, mức xử
phạt mà không bị phụ thuộc vào quan điểm của các thành viên khác trong Hội
đồng xét xử. Tuy nhiên, khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập
không có nghĩa là xét xử tùy tiện mà độc lập trong khuôn khổ pháp luật. Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân phải dựa vào các quy định của pháp luật để giải quyết
vụ án, chứ không được áp đặt ý chí chủ quan của mình. Điều này là đòi hỏi có tính
chất bắt buộc đối với Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
Nguyên tắc độc lập xét xử của thẩm phán và hội thẩm nhân dân còn đòi hỏi sự
độc lập của hội đồng xét xử với các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các cá
nhân. Theo Mác “cấp trên của quan tòa là luật pháp”, có nghĩa là, khi xét xử, Tòa
án không có cấp trên, cấp trên của hội đồng xét xử chính là pháp luật. Khi xét xử,
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không bị ràng buộc, không bị chi phối bởi bất kỳ
ý kiến của ai. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân không được can thiệp hoặc tác động
vào các thành viên của Hội đồng xét xử để ép họ phải xét xử vụ án theo ý chủ quan
của mình. Mọi hành động can thiệp dưới bất kỳ hình thức nào đều làm ảnh hưởng
tới tính khách quan của vụ án và đều bị coi là bất hợp pháp. Trong quan hệ giữa

các cấp xét xử, Tòa án cấp trên quản lý Tòa án cấp dưới cả về tổ chức, tài chính và
chỉ đạo chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa Tòa án cấp trên và
Tòa án cấp dưới là mối quan hệ tố tụng, chứ không phải là mối quan hệ quản lý
hành chính. Tòa án cấp trên hướng dẫn Tòa án cấp dưới về áp dụng thống nhất
pháp luật, đường lối xét xử, nhưng không được quyết định hoặc gợi ý cho Tòa án
cấp dưới trước khi xét xử một vụ án cụ thể. Ngoài ra, trong hoạt động xét xử,
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân có thể tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên
môn, của bất kỳ ai và phải nắm bắt dư luận xã hội, nhưng khi quyết định, Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân phải thể hiện bản lĩnh nghề nghiệp của mình, xem xét
mọi vấn đề một cách độc lập, không được để cho ý kiến bên ngoài làm ảnh hưởng
tới tính khách quan của vụ án. Điều này cho thấy khái niệm này về mặt nội dung
tập trung chủ yếu vào việc bảo đảm mục đích cuối cùng của hoạt động xét xử, có
nghĩa là việc xét xử phải nghiêm minh và chỉ tuân thủ pháp luật. Vì vậy, có thể nói
khái niệm đó về mặt nội dung gần như trùng lặp với khái niệm tính khách quan khi
xét xử.


8

Vậy, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nghĩa là phải tự mình đưa ra kết luận
giải quyết vấn đề trên cơ sở quy định của pháp luật mà không phụ thuộc vào bất kỳ
yếu tố nào khác. Đó là những tư tưởng chủ đạo, định hướng trở thành xử xự bắt
buộc chung đối với thẩm phán và hội thẩm khi được phân công xét xử vụ án. Độc
lập là điều kiện cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân khi xét xử chỉ tuân
theo pháp luật. Tuy nhiên sự độc lập của Thẩm phán là độc lập để tuân theo pháp
luật. Sự độc lập này đòi hỏi Thẩm phán phải tuân theo pháp luật, không có bất kỳ
sự lẩn tránh nào đối với pháp luật, không bỏ lọt bất kỳ một hành vi vi phạm pháp
luật nào. Xixeron một luật sư, nhà hùng biện nổi tiếng của La Mã thời cổ đại từng
nói: “quan tòa, đó là một đạo luật biết nói, còn đạo luật là một vị quan tòa câm”.
Với những điều phân tích trên thì thẩm phán và hội thẩm là ai và vấn đề độc

lập, tuân theo pháp luật của thẩm phán và hội thẩm quy định trong nguyên tắc phần
nào đã được sáng tỏ. Tuy nhiên một vấn đề không kém phần quan trọng trong
nguyên tắc “khi xét xử Thẩm phán, hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” là
giới hạn của “xét xử” được hiểu như thế nào, và trong khoảng thời gian nào thì
nguyên tắc này được áp dụng đối với thẩm phán và hội thẩm. Trước hết, theo đại
từ điển tiếng việt thì “xét xử” là “xem xét và xử các vụ án” 3. Do cụm từ “khi xét
xử” của nguyên tắc dẫn đến cách hiểu sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân ở Việt Nam bị giới hạn về mặt thời gian tức là trong quá trình xét xử. Trong
khi đó, “xét xử” không chỉ có giai đoạn ngồi tòa mà còn cả giai đoạn nghiên cứu
hồ sơ. Theo TANDTC, quá trình này bao gồm các giai đoạn: chuẩn bị xét xử, trong
khi xét xử và xét xử xong vụ án theo thẩm quyền của cấp xét xử đó. Các quan điểm
rộng rãi hơn thì cho rằng phải hiểu khoảng giới hạn về thời gian đó phải kéo dài
trong suốt quá trình thụ lý một vụ án kể từ khi đơn được nộp cho đến khi vụ án giải
quyết xong, có nghĩa là không phải chỉ là khoảng thời gian trước và sau phiên toà
mà phải hiểu là toàn bộ quá trình thụ lý vụ án của Thẩm phán và Hội thẩm. Như
vậy, theo quan điểm này thì Thẩm phán hay Hội thẩm được coi là độc lập khi đang
thụ lý vụ án. Nói cách khác, cụm từ “khi xét xử” của thẩm phán và hội thẩm được
hiểu là các hoạt động kể từ thời điểm họ được giao nhiệm vụ xét xử vụ án cho đến
khi giải quyết xong vụ án. Tức là bất cứ khi nào thẩm phán, hội thẩm làm nhiệm vụ
của họ. Quan điểm này được cho là phù hợp, bởi lẽ hoạt động tố tụng là hoạt động
3

Nguyễn Như Ý (Chủ biên), Nguyễn Văn Khang, Vũ Quang Hào và Phan Xuân Thành (2008), Đại từ điển Tiếng
Việt, Nxb. Đại học Quốc gia, tr.1811, 545.


9

nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, quá trình xét xử là quá trình
xem xét toàn bộ các yếu tố liên quan của vụ án trên cơ sở các quy định của pháp

luật, nhằm giải quyết vụ án một cách vô tư, khách quan. Tuy nhiên, quá trình tố
tụng bao giờ cũng đặt trong một khoảng thời gian giới hạn theo quy định của pháp
luật, vì thế, nguyên tắc độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm được hiểu trong phạm
vi như trên là hợp lý.
Như vậy, nguyên tắc Thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật được hiểu là những tư tưởng chủ đạo có tính bắt buộc chung thể hiện
quan điểm của nhà nước trong hoạt động xét xử, được quy định trong pháp luật tố
tụng, theo đó, chỉ có thẩm phán và hội thẩm mới có quyền đưa ra phán quyết trên
cơ sở quy định của pháp luật để giải quyết vụ án một cách khách quan và chính
xác mà không chịu chi phối bởi bất kỳ một sự tác động nào khác.
Trong đó, cụm từ “khi xét xử” của thẩm phán và hội thẩm được hiểu là các
hoạt động kể từ thời điểm họ được giao nhiệm vụ xét xử vụ án cho đến khi giải
quyết xong vụ án.
1.2. Nội dung nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật.
1.2.1. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập khi xét xử
* Độc lập với các yếu tố khách quan:
- Độc lập với các chủ thể khác của Tòa án: giữa Thẩm phán, Hội thẩm và
nội bộ ngành Tòa án có mối quan hệ ràng buộc nhất định được thể hiện cụ thể ở:
quan hệ giữa Thẩm phán và Tòa án cấp trên; quan hệ giữa Thẩm phán và Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao; quan hệ giữa Hội thẩm và chánh án Tòa án nơi Hội thẩm
tham gia xét xử. Những mối quan hệ này không đơn thuần là quan hệ về tổ chức
hành chính, càng không đơn thuần là quan hệ tố tụng. Trong quan hệ hành chính có
mối quan hệ tố tụng và trong quan hệ tố tụng có mối quan hệ hành chính nhất định
không có sự tách bạch rõ ràng. Ví dụ như: tiêu chí để có thể được tuyển chọn bổ
nhiệm Thẩm phán phải có phẩm chất đạo đức, năng lực, liêm khiết, do cơ quan nơi
người được tuyển chọn đánh giá thông qua việc bỏ phiếu tín nhiệm. Chánh án là
người đứng đầu cơ quan vừa sử dụng cán bộ nhưng đồng thời cũng là người quản
lí cán bộ trong đơn vị mình, ngoài việc bỏ phiếu tín nhiệm như các cán bộ công
chức khác, chánh án còn có tiếng nói quan trọng trong việc lựa chọn, định hướng

công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ. Sau khi có phiếu tín nhiệm, người được lựa


10

chọn phải qua hội đồng tuyển chọn Thẩm phán mà chánh án cấp trên là thành viên
của hội đồng, sau đó mới đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm. Có
thể nói Thẩm phán và Hội thẩm là người chịu sự quản lí của chánh án và Tòa án
cấp trên. Thông qua công tác tổ chức xét xử như họp bàn trước khi xét xử, phân
công Thẩm phán, Hội thẩm xét xử vụ án, chánh án có tác động đến hoạt động xét
xử của Thẩm phán và Hội thẩm. Ngoài ra, việc quy định “Tòa án cấp trên” có thể
hủy án “Tòa án cấp dưới” cũng ảnh hưởng đến tính độc lập của Thẩm phán và Hội
thẩm. Chính vì vậy Thẩm phán và Hội thẩm phải có chính kiến, quan điểm của
mình trong việc đánh giá chứng cứ, xác định tội danh, mức hình phạt và giải quyết
các vấn đề khác dựa trên quy định của pháp luật, đảm bảo xét xử công bằng khách
quan.
- Độc lập với sự chỉ đạo của của cấp ủy Đảng: Nhà nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Nhà nước công
khai nguyên tắc Đảng lãnh đạo tại Điều 4 Hiến pháp 1992 và được quy định cụ thể
trong các nghị quyết của đảng như: Nghị quyết 08/ NQ-TW,...Ngoài ra giữa tổ
chức đảng và Thẩm phán còn có mối quan hệ khác ngoài mối quan hệ giữa đảng
viên và tổ chức đảng qua thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán. Theo quy định hiện hành
thì cùng với việc lấy phiếu tín nhiệm của cán bộ công chức trong cơ quan người
được đề nghị còn phải lấy ý kiến của cấp ủy đảng. Chính vì những lý do này mà
yêu cầu được đặt ra là Thẩm phán và Hội thẩm phải nhận thức đúng đắn sự lãnh
dạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp để đảm bảo sự độc lập trong xét xử.
Khoản 1 điều 4 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cũng đã quy định:
“Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành
lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa

Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội”. Như vậy, một lần nữa chúng ta khẳng định nguyên tắc “Đảng
lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội” là tất yếu, là nguyên tắc tối cao và được bảo
đảm bằng Hiến pháp. Thực tiễn cách mạng nước ta cho thấy, nguyên tắc “Đảng
lãnh đạo” chính là yếu tố quan trọng nhất, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam, dân tộc Việt Nam.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, tổ chức và hoạt động của ngành
Tòa án luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hoạt động xét xử của cơ quan Tòa án


11

là hoạt động đặc thù, nhân danh Nhà nước để giải quyết các vụ án, vụ việc. Các
bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà
nước, các tổ chức và cá nhân trong xã hội tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành.
Không như hoạt động của các cơ quan khác, kết quả xét xử của Tòa án là những
phán quyết liên quan trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, của các tổ chức xã hội,
đến sinh mệnh chính trị và lợi ích của công dân. Do vậy hoạt động xét xử của Tòa
án phải luôn bảo đảm tính khách quan, công bằng và chính xác. Một trong những
điều kiện bảo đảm tính công bằng, khách quan và đúng pháp luật đó là sự độc lập
của Tòa án trong công tác xét xử. Chính vì vậy, nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” luôn là nguyên tắc kiên định được quy
định rõ trong các bản Hiến pháp của nước ta và trong Luật tổ chức TAND.
Bằng lý luận khoa học pháp lý cũng như qua thực tiễn cần phải hiểu rõ và
đúng đắn bản chất và mối quan hệ của nguyên tắc “Đảng lãnh đạo” cũng như “tính
độc lập” trong xét xử của Tòa án. Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp nêu rõ: “Cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của
Đảng, bảo đảm sự ổn định chính trị, bản chất Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quyền lực Nhà nước là thống nhất,
có sự phân công, phối hợp giữa cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền

lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Nghị quyết 49 cũng ghi nhận “…Đảng lãnh đạo
chặt chẽ hoạt động tư pháp và các cơ quan tư pháp và chính trị, tổ chức và cán bộ;
khắc phục tình trạng cấp ủy đảng buông lỏng lãnh đạo hoặc can thiệp không đúng
vào hoạt động tư pháp”.
Như vậy, mục tiêu lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp nói chung, với
tòa án nói riêng nhằm hướng tới bảo đảm ổn định, vững vàng của chế độ, giữ gìn
bản chất nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Trong đó “quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (điều 2 Dự
thảo). Bản chất này của nhà nước chính là yếu tố cơ bản tạo nên tính độc lập của
Tòa án. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Tòa án không phải là sự chỉ đạo, can thiệp
vào công tác xét xử, giải quyết từng vụ án cụ thể của cơ quan Tòa án các cấp mà
Đảng lãnh đạo thông qua việc ban hành Nghị quyết, chủ trương, đường lối và hoạt
động của cá nhân mỗi đảng viên.


12

Trong vai trò của người đảng viên, các cán bộ, Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân, thư ký tòa án các cấp là lực lượng nòng cốt góp phần tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng cũng như bảo đảm tính độc lập của tòa án. Việc thực hiện Nghị quyết,
Chỉ thị của các cấp ủy Đảng chính là sự bảo đảm hữu hiệu ngăn cản sự tác động từ
bên ngoài làm ảnh hưởng đến tính độc lập của Tòa án trong quá trình xét xử vụ án.
Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, xã hội nói chung, với Tòa án nói
riêng là tất yếu, là một trong những tiền đề quan trọng bảo đảm tính độc lập của
Tòa án.4
- Độc lập với các quan điểm có trong hồ sơ vụ án: hồ sơ vụ án là tài liệu đầu
tiên để Thẩm phán và Hội thẩm tiến hành xem xét, đánh giá. Việc xét xử của Tòa
án dựa trên những thông tin cần thiết, đáng tin cậy đó là chứng cứ vụ án. Bản án,
quyết định của Tòa án dựa trên cơ sở phân tích đánh giá thông tin đã được cơ quan

chức năng hoặc đương sự thu thập. Chính vì vậy, các thông tin ban đầu có ảnh
hưởng nhất định đến nhận định của hội đồng xét xử. Vì vậy, độc lập với tài liệu
trong hồ sơ vụ án là việc Thẩm phán và Hội thẩm trên cơ sở đánh giá tính chính
xác của các thông tin, kiểm tra lại tính xác thực, đúng đắn của quyết định truy tố,
từ đó đưa ra quan điểm của hội đồng xét xử, các tình tiết thu thập được phải phù
hợp với hiện thực khách quan.
- Độc lập với yêu cầu của người tham gia tố tụng, với dư luận và với cơ
quan báo chí: phán quyết của Tòa án bao giờ cũng làm xuất hiện những mâu thuẫn
về lợi ích giữa các bên tham gia tố tụng ví dụ như giữa bị cáo và người bị hại, giữa
nguyên đơn dân sự và bị đơn dân sự, giữa nhà nước và người phạm tội...bởi vì ai
cũng có nhu cầu kết quả xét xử đưa lại lợi ích tối ưu cho họ. Sau phán quyết của
Tòa án sẽ có rất nhiều bình luận từ quần chúng nhân dân, từ cơ quan báo chí rằng
tòa xét xử như vậy đúng hay không, có công bằng hay không, nặng hay nhẹ. Đặc
biệt là các vụ án bị cấp trên hủy án, những vụ án xét xử lưu động và các vụ án lớn
được dư luận quan tâm. Những vấn đề đó đều tác động mạnh mẽ đến tâm lý của
Thẩm phán và Hội thẩm khi thực hiện nhiệm vụ xét xử. Vì vậy, mới đặt ra yêu cầu
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập với yêu cầu của người tham gia tố tụng, với
báo chí, với dư luận nghĩa là việc xét xử chỉ dựa trên những chứng cứ, những quy
định của pháp luật, không phụ thuộc vào yêu cầu khách của những người nói trên.
4

Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 11/12/2003, Chất lượng xét xử của chúng ta cao hay thấp?: Nâng
cao chất lượng xét xử.


13

* Độc lập với các yếu tố chủ quan (giữa các thành viên trong hội đồng xét
xử)
Cơ sở của việc độc lập xét xử giữa Thẩm phán và Hội thẩm được ghi nhận

thành một trong những nguyên tắc của tố tụng. Ví dụ, Khoản 2 Điều 161, Luật
TTHC năm 2010, quy định “Chỉ có các thành viên của Hội đồng xét xử mới có
quyền nghị án. Khi nghị án, các thành viên của Hội đồng xét xử phải giải quyết tất
cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề. Hội thẩm
nhân dân biểu quyết trước, Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Trường hợp Hội đồng
xét xử gồm năm thành viên thì Thẩm phán Chủ toạ phiên toà là người biểu quyết
sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn
bản và được đưa vào hồ sơ vụ án.”
Quy định này đã loại trừ việc Thẩm phán lạm quyền, tác động đến hoạt động
xét xử của Hội thẩm. Đồng thời, điều này cũng ngăn cấm thái độ ỷ lại vào Thẩm
phán của Hội thẩm mà cũng buộc Hội thẩm phải tích cực chủ động và có trách
nhiệm trong hoạt động chứng minh tội phạm.
1.2.2. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử chỉ tuân theo pháp luật
Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập không có nghĩa là xét
xử tùy tiện mà việc xét xử phải tuân theo quy định của pháp luật và điều này được
thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Tuân theo pháp luật nội dung (bao gồm cả luật thực định và khoa học về
pháp luật). Vì muốn áp dụng đúng các quy định của pháp luật buộc Thẩm phán và
Hội thẩm phải có kiến thức về pháp luật.
- Tuân theo pháp luật hình thức (pháp luật tố tụng): có thể chia hoạt động xét
xử của Thẩm phán và Hội thẩm thành 2 giai đoạn, thứ nhất là từ khi có quyết định
đưa vụ án ra xét xử đến trước ngày mở phiên tòa và thứ hai là tại phiên tòa:
• Ở giai đoạn thứ nhất là giai đoạn mà Thẩm phán và Hội thẩm nghiên cứu hồ
sơ để xem xét các tài liệu có trong vụ án, từ đó xây dựng kế hoạch xét hỏi và
những tình huống xảy ra tại phiên tòa để có kế hoạch ứng phó thích hợp và những
công việc cần thiết khác cho phiên tòa.
• Tại phiên tòa, hội đồng xét xử cần nắm chắc các quy định của pháp luật tố
tụng từ thủ tục bắt đầu phiên tòa cho đến kết thúc phiên tòa, trong đó phần xét hỏi,
tranh luận và nghị án là quan trọng nhất.



14

1.2.3. Mối quan hệ giữa tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt
động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm
Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là hai yêu cầu trong quá trình xét xử của
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân có mối quan hệ chặt chẽ và ràng buộc với nhau.
Từ tính độc lập giúp cho Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật
khi xét xử, tạo ra tính khách quan và tạo nên độ chính xác công bằng. Từ việc tuân
theo pháp luật, giúp hạn chế việc áp đặt ý chí chủ quan của Thẩm phán và Hội
thẩm để họ dựa vào những quy định của pháp luật để giải quyết vụ án. Cụ thể, mối
quan hệ giữa tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong quá trình xét xử của
Thẩm phán và Hội thẩm được thể hiện như sau:
- Độc lập là biểu hiện của tuân theo pháp luật. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử
độc lập là một phần nội dung của nguyên tắc. Thẩm phán và Hội thẩm độc lập với
nhau và độc lập với các yếu tố khác. Nếu Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập,
không chịu bất kì sự tác động nào thì phán quyết của hội đồng xét xử mới có tính
khách quan, vô tư, quyết định của hội đồng xét xử mới đảm bảo đúng pháp luật.
Độc lập là điều kiện cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm tuân theo pháp luật.
- Tuân theo pháp luật là cơ sở để thể hiện tính độc lập trong xét xử. Xét ở khía
cạnh thuần túy của tính độc lập, để có thể tự mình đưa ra phán quyết, Thẩm phán
và Hội thẩm phải có kiến thức pháp luật và phải chấp hành quy định của pháp luật.
Khi nắm chắc kiến thức pháp luật, Thẩm phán và Hội thẩm có điều kiện để thể
hiện sự độc lập trong phán quyết của mình. Xét ở khía cạnh khác thì tuân theo
pháp luật là đã loại trừ các tác động khác đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và
Hội thẩm, bởi vậy họ mới có được sự độc lập.
- Độc lập trong việc thống nhất với chỉ tuân theo pháp luật: độc lập nhưng
phải dựa trên những quy định của pháp luật. Mọi kết luận của bản án, quyết định
của hội đồng xét xử phải phù hợp các tình tiết khách quan của vụ án. Bản án phải
xác định đúng người, đúng tội và đúng với các thiệt hại do hành vi phạm pháp luật

gây ra. Mỗi nhận định của bản án đều phải dựa trên những chứng cứ và tình tiết
xác thực được thẩm tra tại phiên tòa có lập luận chặt chẽ, không kết luận dựa trên ý
nghĩ chủ quan, cảm tính cá nhân của mỗi thành viên hội đồng xét xử. Yếu tố độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật không thể tách rời nhau.


15

Từ những phân tích trên có thể thấy rằng yếu tố độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật có mối quan hệ biện chứng với nhau, độc lập trong sự thống nhất với việc tuân
theo pháp luật.
1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật
Thứ nhất, độc lập xét xử là một nguyên tắc hiến định cho mọi thủ tục tố tụng
ở nước ta nhưng ở mỗi thủ tục tố tụng của mỗi ngành luật khác nhau thì nguyên tắc
này lại có những đặc điểm khác nhau. Cụ thể, trong tố tụng hành chính, nguyên tắc
độc lập xét xử mang tính chất tuyệt đối. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm sẽ
dựa vào những căn cứ hợp lý để dưa ra quyết định hoặc bản án mà không phụ
thuộc vào ý kiến của Viện kiểm sát hay kết quả của các giai đoạn giải quyết vụ
việc trước đó... Chỉ có Tòa án mới có quyền ra các quyết định nhằm giải quyết
VAHC.
Thứ hai, về ý nghĩa chính trị, xã hội: Nguyên tắc này đảm bảo cho Thẩm
phán và Hội thẩm trong quá trình giải quyết vụ án không bị ràng buộc bởi bất kỳ
yếu tố nào khác ngoài pháp luật, loại trừ mọi sự can thiệp từ các cơ quan nhà nước
khác, các tổ chức xã hội và mọi công dân vào hoạt động xét xử của Tòa án.
Nguyên tắc này cũng là một trong những yếu tố để thực hiện công bằng xã
hội, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mọi công dân đều sống và
làm việc theo hiến pháp và pháp luật. Các quyền cơ bản của mỗi con người trong
xã hội sẽ được đảm bảo khi những người cầm cân nảy mực thực sự độc lập xét xử
những hành vi vi phạm các quyền đó. Độc lập xét xử cũng là một điều quan trọng

để đảm bảo sự thành công trong việc phòng chống tham nhũng bởi lẽ những kẻ
tham nhũng sẽ không có cơ hội được bao che dưới sự can thiệp hay tác động vào
quá trình xét xử của Tòa án.
Ngoài ra, khi được trao quyền xét xử các VAHC, HĐXX đã thay mặt Nhà
nước Việt Nam phán quyết về tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành
vi hành chính một cách chính xác, khách quan. Qua đó, góp phần đem lại lòng tin
cho người khiếu kiện nói riêng và toàn thể nhân dân nói chung, trong một số
trường hợp đã có ý nghĩa đặc biệt để chấp dứt tình trạng khiếu kiện đông người,
vượt cấp, ngăn ngừa tình huống phát sinh những “điểm nóng” về chính trị, xã hội;
góp phần ổn định tình hình kinh tế, xã hội của đất nước trong quá trình hội nhập
quốc tế.


16

Thứ ba, về ý nghĩa pháp lý, nguyên tắc: “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” là cơ sở đảm bảo cho hiến pháp và pháp luật
được thực thi một cách nghiêm túc trong đời sống bởi những người thi hành pháp
luật và những người xét xử hành vi vi phạm pháp luật
Thứ tư, về ý nghĩa với hoạt động thực tiễn: Việc nghiên cứu và tìm hiểu
nội dung của nguyên tắc này cho thấy nó không chỉ xác định được nhiệm vụ và
nâng cao tinh thần trách nhiệm của hội đồng xét xử, buộc họ phải khách quan, vô
tư, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, mà còn tạo tiền đề quan trọng cho
việc thực hiện các nguyên tắc khác.

Chương 2


17


NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN, HỘI THẨM NHÂN DÂN ĐỘC LẬP VÀ
CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VIỆT
NAM
2.1. Khái niệm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính
Luật tố tụng hành chính là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật
nước ta, bởi vậy nó cũng có những nguyên tắc xuyên suốt trong tất cả các chế định
pháp luật. Các nguyên tắc của luật tố tụng hành chính Việt Nam là những tư tưởng
pháp lý chỉ đạo, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ hệ thống các chế định tố
tụng và biểu thị những nội dung đặc trưng nhất của ngành luật này.
Việc thực hiện các nguyên tắc của luật tố tụng hành chính mang tính chất bắt
buộc chung đối với tất cả mọi người, mọi cơ quan và tổ chức. Việc tuân thủ triệt để
các nguyên tắc của luật tố tụng hành chính trước hết tạo điều kiện cho cơ quan xét
xử tiến hành tố tụng một cách thuận lợi và nhanh chóng; đồng thời nó còn bảo đảm
cho đương sự có điều kiện để thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của
mình, trên cơ sở đó mà các lợi ích hợp pháp của bản thân đương sự được tôn trọng.
Ngoài ra, việc quán triệt các nguyên tắc của luật tố tụng hành chính trong tất
cả các giai đoạn tố tụng có tác dụng ngăn chặn mọi hành vi vi phạm pháp luật và
những biểu hiện tiêu cực trong quá trình giải quyết vụ án hành chính.
Việc phân loại các nguyên tắc của luật tố tụng hành chính thành từng nhóm
chỉ có tính chất tương đối. Bởi vì, các nguyên tắc của luật tố tụng hành chính đều
có vai trò chỉ đạo toàn bộ hệ thống các chế định của luật tố tụng hành chính và đều
liên hệ mật thiết với nhau.
Căn cứ vào nội dung và ý nghĩa của các nguyên tắc, có thể chia chúng thành
hai nhóm: nhóm nguyên tắc chung và nhóm nguyên tắc điều chỉnh các hoạt động
riêng biệt của tố tụng hành chính.
Một nguyên tắc chung của luật tố tụng hành chính là khi xét xử vụ án hành
chính, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Nghiêm cấm mọi hành vi can thiệp, cản trở Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân thực
hiện nhiệm vụ.

Như trên đã phân tích, nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một nguyên tắc chung trong tổ chức và


18

hoạt động của tòa án. Trong tố tụng hành chính nguyên tắc này được thể hiện ở các
mặt:
- Thứ nhất: khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm không bị ràng buộc bởi kết
luận của Viện Kiểm sát; không bị chi phối bởi ý kiến của nhau; hay bị chi phối bởi
các quyết định ở giai đoạn tiền tố tụng. Thẩm phán, Hội thẩm phải chịu trách
nhiệm đối với ý kiến của mình về từng vấn đề của vụ án.
- Thứ hai: Thẩm phán và Hội thẩm độc lập cũng có nghĩa là không một cơ
quan, tổ chức nào can thiệp trái pháp luật vào hoạt động xét xử của Thẩm phán và
Hội thẩm. Sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử phải gắn liền với việc
tuân thủ pháp luật. Ðiều đó có nghĩa là khi xét xử các vụ án hành chính, Thẩm
phán và Hội thẩm phải căn cứ vào các quy định của pháp luật để đưa ra ý kiến,
quyết định của mình về từng vấn đề của vụ án hành chính, chứ không được tùy tiện
hay bằng cảm tính, và không một tác động nào từ phía cơ quan hành chính được
dùng làm căn cứ để ra các quyết định giải quyết vụ án.5
Quy định này một lần nữa được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 vừa nhằm
mục đích bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa vừa thể hiện tính chất độc lập, không
phụ thuộc vào các cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào trong hoạt động của Tòa án
nhân dân. Trong thực tế có thể có những vi phạm đối với nguyên tắc độc lập xét xử
này. Song, đó là những vi phạm mang tính chất cá nhân, tư lợi, họ lợi dụng danh
nghĩa cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, hoặc sự ảnh hưởng của mình nhằm tác
động vào cơ quan xét xử, ép buộc cơ quan xét xử thực hiện theo yêu cầu của họ.
Như vậy, từ sự phân tích ở trên, ta có thể thấy được rằng nguyên tắc khi xét
xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố
tụng hành chính là một nguyên tắc vừa mang những đặc điểm là nguyên tắc chung

của tố tụng được ghi nhận trong hiến pháp, vừa mang nét đặc thù riêng xuất phát từ
đối tượng cần giải quyết trong VAHC.
Từ đó, nguyên tắc Thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật trong tố tụng hành chính được hiểu là những tư tưởng chủ đạo có tính bắt
buộc chung thể hiện quan điểm của Nhà nước Việt Nam trong hoạt động xét xử
hành chính, được quy định trong pháp luật tố tụng hành chính, theo đó, chỉ có
thẩm phán và hội thẩm mới có quyền đưa ra phán quyết trên cơ sở quy định của
5

Đoàn Tấn Minh, Nguyễn Ngọc Điệp (2011), Bình luận khoa học luật tố tụng hành chính và các văn bản áp dụng
giải quyết các khiếu kiện hành chính tại tòa án, NXB Lao động, Hà Nội, tr 34.


19

pháp luật để giải quyết vụ án hành chính một cách khách quan và chính xác mà
không chịu chi phối bởi bất kỳ một sự tác động nào.
2.2. Đặc điểm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính
Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
trong tố tụng hành chính ngoài việc thể hiện nội dung một nguyên tắc được ghi
nhận trong hiến pháp, thì nó còn có những nét riêng đặc thù. Bởi lẽ, pháp luật tố
tụng hành chính là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam nên nó cũng
mang những đặc điểm chung của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra là một bộ
phận riêng biệt trong hệ thống pháp luật Việt Nam, nên pháp luật TTHC cũng có
đặc trưng riêng, khác biệt so với các lĩnh vực pháp luật khác như: pháp luật tố
tụng, hình sự, dân sự, kinh tế, lao động. Nếu như trong các loại hình tố tụng này
“người bị kiện” có thể là cá nhân, tổ chức nhưng không liên quan đến “công
quyền”, vị trí của họ luôn là “thế yếu” trước các cơ quan tiến hành tố tụng thì tố
tụng hành chính nó xuất hiện khi các quyền và lợi ích cơ bản của công dân, tổ chức

bị xâm phạm mà “người” xâm phạm là các cơ quan nhà nước, là cơ quan đại diện
cho “công quyền”, thay mặt Nhà nước trong việc ra các quyết định hay thực hiện
các hành vi hành chính áp dụng lên các đối tượng cụ thể. Do đó, đối tượng bị kiện
trong các vụ án hành chính nó cũng mang tính đặc thù. Đó là các quyết định hành
chính và hành vi hành chính do những người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan
nhà nước ban hành hoặc thực hiện. Và vì vậy, “người bị kiện” bao giờ cũng là
những những người có thẩm quyền và trực tiếp trong việc ban hành các quyết định
hành chính hay thực hiện các hành vi hành chính, là người theo quy định của pháp
luật giữ vai trò đại diện cơ quan “công quyền” trong việc thực hiện các hoạt động
quản lý nhà nước - trong đó có việc ra các quyết định hành chính và thực hiện các
hành vi hành chính, là người luôn có vị trí “xứng tầm” với các cơ quan tiến hành tố
tụng.
Như vậy, đối tượng xét xử của vụ án hành chính là các tranh chấp phát sinh
liên quan đến luật công, một bên là Nhà nước thực thi công vụ, vì lợi ích chung và
với các phương tiện mang tính quyền lực, tính cưỡng chế, còn bên kia là các công
dân với các lợi ích được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ. Một Nhà nước pháp quyền
phải là một Nhà nước mà trong đó các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
phải được tôn trọng một cách tuyệt đối, không cho phép bất kỳ một hành vi nào


20

xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cho dù đó là cơ quan công
quyền. Với tính đặc thù về bảo vệ lợi ích của công dân trước cơ quan công quyền,
khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm phải khách quan nhất, công tâm nhất, trách
nhiệm nhất và phải tuyệt đối tuân thủ các quy định của Hiến pháp và pháp luật để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân một cách triệt để nhất. Do đó, vai
trò độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử các VHAC trở nên bức thiết
hơn bao giờ hết.
Do có những đặc thù về đối tượng như trên, cho nên, trong quá trình giải

quyết các vụ án hành chính có nhiều nguy cơ tiềm ẩn ảnh hưởng đến sự vô tư,
khách quan của Thẩm phán và Hội thẩm nói riêng cũng như sự độc lập của Tòa án
nói chung. Các biểu hiện tác động đến sự khách quan ấy trên thực tế có rất nhiều,
phức tạp, đa dạng, và xuất phát từ các chủ thể khác nhau. Cho dù xuất phát từ chủ
thể nào và với bất kỳ mục đích gì thì chúng cũng đều gây ảnh hưởng nghiêm trọng
đến quá trình xét xử các VAHC, làm cho quá trình giải quyết vụ án thiếu khách
quan từ đó các quyền và lợi ích chính đáng và hợp pháp của công dân không được
bảo vệ một cách thỏa đáng – một trong những điều kiện tiên quyết trong quá trình
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Mức độ nghiêm trọng của các
nguy cơ ảnh hưởng đến sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử các
VAHC biểu hiện ở các khía cạnh như sau:
- Thứ nhất, về nguồn tác động đến sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm
trong tố tụng hành chính.
Theo quy định của Luật tố tụng hành chính hiện hành, thì điểm chung về đối
tượng bị kiện trong TTHC chính là các quyết định, hành vi thuộc về cơ quan “công
quyền”. Vì vậy, “nguồn nguy hiểm” cho tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm
có một vị trí hết sức đặc biệt. Người ra các quyết định hành chính hay có các hành
vi hành chính đa số là những người có chức vụ, quyền hạn cao trong các cơ quan
nhà nước. Không ít trường hợp người ra các quyết định hành chính bị khiếu kiện là
“cấp trên” của Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân dân.
Về mặt pháp lý Tòa án nhân dân nói chung và Tòa hành chính nói riêng không
có bất kỳ sự phụ thuộc nào vào cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Theo
như các số liệu thống kê, thì đa số các vụ khiếu kiện hành chính ở Việt Nam đều
liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến cơ quan quản lý hành hính nhà nước ở địa
phương – Ủy ban nhân dân. Theo quy định của pháp luật, thẩm quyền của cơ quan


21

hành chính nhà nước, cụ thể là Ủy ban nhân dân các cấp rất rộng lớn, là cơ quan có

trách nhiệm trực tiếp tổ chức quản lý các lĩnh vực kinh tế - xã hội nhằm xây dựng
và phát triển địa phương về mọi mặt, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, là nhân tố quan trọng nhất tác động đến quá trình hình thành ý thức pháp
luật của cán bộ, công chức cũng như các tầng lớp nhân dân địa phương. Với vị trí,
vai trò to lớn như vậy, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương có tầm ảnh
hưởng lớn lao đến đội ngũ cán bộ công chức nói chung và đội ngũ Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân trong địa phương mình nói riêng. 6
Một đặc trưng của xét xử các vụ án hành chính là phán quyết về tính hợp pháp
của quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, của người có
chức vụ, quyền hạn trong cơ quan nhà nước, nhiều trường hợp là người có chức vụ
rất cao. Vì vậy, rất nhiều trường hợp Thẩm phán “e ngại”, nể nang, né tránh, không
dám ra phán quyết khẳng định tính bất hợp pháp của quyết định hành chính, hành
vi hành chính. Điều này là khó tránh khỏi, bởi vì trên thực tế hiện nay, tính độc lập
của Tòa án chưa được đảm bảo. Thẩm phán bị chi phối bởi nhiều quan hệ, trong đó
chủ yếu là quan hệ giữa Thẩm phán với cấp ủy, chính quyền địa phương như: liên
quan đến vấn đề bổ nhiệm, bỡi lẽ khi bổ nhiệm hay tái bổ nhiệm Thẩm phán đều
phải lấy ý kiến của chính quyền địa phương; do hạn chế về kinh phí hoạt động và
trang thiết bị làm việc của ngành Tòa án nên hầu hết các tòa án địa phương đều
phải xin chính quyền địa phương hỗ trợ, giúp đỡ về tài chính để phục vụ các hoạt
động của mình…Những điều này tạo nên tâm lý lệ thuộc, mất tính độc lập khi xét
xử. Do vậy, khi ngưởi dân khởi kiện yêu cầu hủy bỏ quyết định trái pháp luật của
chính quyền địa phương thì tâm lý e ngại, nể nang, né tránh là tất yếu.7
Bên cạnh đó, trong giải quyết các VAHC các phán quyết của Thẩm phán và
Hội thẩm căn cứ chủ yếu vào các văn bản pháp luật. Pháp luật TTHC quy định tố
tụng hành chính là “tố tụng viết” mà theo đó chứng cứ các bên đưa ra trong tố tụng
hành chính được trao đổi công khai, các bên có quyền và nghĩa vụ chứng minh
bằng văn bản. Do các tranh chấp chủ yếu là việc xác định tính hợp pháp của
QĐHC, HVHC bị khởi kiện nên nguyên tắc “tố tụng viết” đòi hỏi mọi sự tranh
luận, giải trình giữa các bên phải được thể hiện bằng văn bản. Do vậy, giai đoạn
6


7

Tạ Quang Ngọc, Một số ý kiến về cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân ở nước ta hiện nay, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, Số 3, năm 2006, tr.11-14.
Đỗ Quý Bình (2012), Tìm hiểu luật tố tụng hành chính & văn bản hướng dẫn thi hành , NXB Lao động, Hà Nội,
tr 56.


22

xác minh, thu thập chứng cứ đặc biệt được coi trọng, toàn bộ hồ sơ vụ kiện cũng
như căn cứ pháp luật cho việc giải quyết tranh chấp phải được chuẩn bị khá hoàn
chỉnh trước khi mở phiên toà. Luật tố tụng hành chính cũng quy định cụ thể quyền
và nghĩa vụ của các đương sự trong việc cung cấp những tài liệu, chứng cứ cho
Hội đồng xét xử. Trong điều kiện thực tế Việt Nam hiện nay, với số lượng các văn
bản quy phạm pháp luật trên lĩnh vực hành chính có dung lượng “khổng lồ” thì
việc nghiên cứu các văn bản pháp luật liên quan nhằm giải quyết vụ án theo đúng
quy định pháp luật không hề dễ dàng. Trong trường hợp này, Tòa án có quyền yêu
cầu “người bị kiện” cung cấp các hồ sơ, tài liệu, các văn bản pháp luật có liên quan
nhằm đánh giá tính hợp pháp của các quyết định, hành vi hành chính bị kiện. Với
vai trò là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, trên thực tế “người bị kiện”
thường có những hoạt động gây khó khăn cho việc thu thập các tài liệu liên quan
đến vụ án theo hướng kéo dài thời gian cung cấp tài liệu hoặc cung cấp tài liệu
không chính xác, hay kèm những thư tay có những nhận định của cá nhân lãnh
đạo, và không loại trừ những lời lẽ nhằm khơi gợi “tình cảm” ở Thẩm phán, hoặc
những lời lẽ “gợi ý” thỏa thuận giải quyết vụ án, thậm chí là “răn đe” Thẩm phán
thụ lý vụ án…
Về phía Hội thẩm, từ thực tiễn chúng ta thấy, nguồn của các Hội thẩm nhân
dân ở nước ta hiện nay thường là các cán bộ, công, viên chức của các cơ quan nhà

nước hoặc đương chức hoặc đã về hưu, do Mặt trận tổ quốc giới thiệu nên
tính nhân dân trong đó cũng không quá nhiều. Vì là cán bộ, công chức và nhiều khi
trong số đó là những người chưa được đào tạo chuyên sâu về pháp lý, nên quá trình
giải quyết còn mang tính chủ quan, và không tránh khỏi “cả nể” các cơ quan nhà
nước.
- Thứ hai, về động cơ của các tác động đến tính độc lập của Thẩm phán và
Hội thẩm trong tố tụng hành chính.
Như đã nói ở trên, các vụ án hành chính đều là “dân kiện quan”, “người” bị
khiếu kiện là các cơ quan nhà nước có vị trí, vai trò quan trọng, có quyền hạn lớn,
và có uy tín đối với nhân dân. Uy tín của cơ quan nhà nước được bảo đảm bằng
chính sách, pháp luật và bằng hành động thực tiễn của cơ quan công quyền, trong
đó, đội ngũ cán bộ công chức giữ vai trò nòng cốt. Trong đội ngũ cán bộ ấy, thì vai
trò của người lãnh đạo cơ quan nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng, nó quyết
định nên sự vận hành của cả một “bộ máy” có nhiệm vụ điều hành mọi hoạt động


23

của địa phương. Ngoài ra, với vai trò, vị trí của mình, lãnh đạo các cơ quan nhà
nước có một “uy quyền” nhất định trong xã hội. “Uy quyền” ấy được quy định bởi
những nhiệm vụ và quyền hạn mà nhà nước giao cho những người đứng đầu các cơ
quan ấy. Khi không tuân thủ các quy định của pháp luật thì với “uy quyền” ấy rất
dễ gây nên những xâm phạm về quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân
dân. Bất kể một xâm phạm bất hợp pháp nào gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân cũng đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, dù người lãnh
đạo đó là ai, và cơ quan đó là cơ quan nào. Chính vì lẽ ấy, mà vấn đề trách nhiệm
đặt ra rất nặng nề đối với những hành vi bất hợp pháp của cán bộ, công chức nói
chung, và lãnh đạo các cơ quan nhà nước nói riêng. Như vậy, có thể thấy rằng,
trong các vụ án hành chính, một khi có các tác động từ phía cơ quan nhà nước đối
với Thẩm phán và Hội thẩm, thì động cơ của các tác động ấy nếu có là nhằm loại

trừ những khả năng ảnh hưởng đến uy tín cá nhân, cơ quan và né tránh vấn đề trách
nhiệm một khi phán quyết của Tòa án gây bất lợi cho người bị kiện.
Trong trường hợp một cơ quan hành chính địa phương hay lãnh đạo cơ quan
hành chính ấy là “người bị kiện”, chưa kể đến kết quả phán quyết của tòa án như
thế nào sau khi kết thúc vụ án, thì uy tín của cơ quan, lãnh đạo đó sẽ bị ảnh hưởng
nghiêm trọng bởi nhiều dư luận trái chiều. Theo quy định tại Khoản 7, Điều 3, Luật
TTHC năm 2010, thì người bị kiện có thể bao gồm cá nhân, cơ quan hay tổ chức.
Đối với cơ quan, tổ chức thì quyết định bị kiện có thể là quyết định theo thẩm
quyền tập thể được pháp luật quy định như các quyết định về nâng lương, kỷ luật
buộc thôi việc, điều chuyển công tác hay danh sách cử tri, quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh…(ngoại trừ những quyết định không thuộc đối tượng khởi kiện tại Tòa
án). Kết quả giải quyết các vụ khiếu kiện có thể là bác đơn khởi kiện hoặc tuyên
hủy một phần hoặc toàn bộ quyết định bị khiếu kiện. Nếu trường hợp yêu cầu của
người khởi kiện được chấp nhận, Tòa án tuyên hủy một phần hoặc toàn bộ các
quyết định bị kiện của cơ quan, tổ chức thì có nghĩa là quyết định ấy là bất hợp
pháp. Do đó, lẽ dĩ nhiên cơ quan Nhà nước đó đã không tuân thủ theo các quy định
của pháp luật mà ra các quyết định không đúng nhiệm vụ và quyền hạn của mình,
vi phạm các quy định của pháp luật do Nhà nước đặt ra. Một cơ quan đại diện Nhà
nước, thay mặt Nhà nước trong quản lý kinh tế - xã hội, thay mặt Nhà nước chăm
lo cho đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương mà lại có những
quyết định đi ngược lại các nguyên tắc tổ chức của Nhà nước, cụ thể là nguyên tắc


24

pháp quyền xã hội chủ nghĩa, gây thiệt hại đến quyền lợi của công dân - người làm
chủ đất nước, thì uy tín của Nhà nước nói chung và của cơ quan ra quyết định nói
riêng khó lòng được giữ vững, và sự ủng hộ của người dân đối với Nhà nước
đương nhiên sẽ giảm sút nghiêm trọng. Ngoài ra, khi quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân bị cơ quan nhà nước xâm phạm bởi các quyết định hay hành vi trái

pháp luật đó thì theo quy định, cơ quan ấy có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại.
Thiệt hại do cơ quan nhà nước gây ra thì nhà nước có trách nhiệm bồi thường.
Thiệt hại gây ra cho công dân càng lớn thì thiệt hại cho ngân sách nhà nước cũng
tăng lên và uy tín của Nhà nước càng giảm sút. Chính vì vậy, tâm lý của tất cả mọi
người trong cơ quan nhà nước nói chung và với lãnh đạo cơ quan nói riêng là
không mong muốn có một nguy cơ nào gây ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan
mình, nhất là liên quan đến tính hợp pháp của các quyết định từ phía cơ quan. Với
tâm lý chung ấy thì việc “tìm mọi cách” để gây tác động, ảnh hưởng đến Thẩm
phán và Hội thẩm, nhằm làm cho các phán quyết của tòa án nghiêng về hướng “có
lợi” cho mình là điều không tránh khỏi.
Đối với cá nhân, một khi người có nhiệm vụ và quyền hạn ra các quyết định
hành chính hay có những hành vi hành chính trái pháp luật gây thiệt hại cho lợi ích
của công dân thì vấn đề đặt ra trong trường hợp này không chỉ đơn thuần là uy tín
của cá nhân hay của cơ quan đó. Vấn đề đặt ra ở đây khiến nhiều lãnh đạo cơ quan
nhà nước “lo sợ” chính là vấn đề trách nhiệm. Trách nhiệm ở đây là trách nhiệm
đối với nội bộ cơ quan và trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Khi cá nhân
lãnh đạo có những quyết định hay hành vi bất hợp pháp gây thiệt hại đến quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân, thì ngoài việc bị kiểm điểm, phê bình trong nội bộ
cơ quan, cá nhân lãnh đạo ấy có thể phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, không
loại trừ khả năng chịu trách nhiệm hình sự nếu các hành vi đó cấu thành tội phạm.
Vì thế, bằng mọi sự tác động có thể, cá nhân người lãnh đạo cũng gây ra các ảnh
hưởng nhằm tác động đến các Thẩm phán và Hội thẩm trong Hội đồng xét xử các
VAHC mà cá nhân lãnh đạo ấy là người bị kiện.
Có thể thấy rằng, về mặt nguyên tắc, HĐXX các VAHC không liên quan gì
đến quá trình ban hành các quyết định hành chính, các hành vi hành chính bị kiện.
Vì thế, HĐXX độc lập với cơ quan hành chính và cá nhân lãnh đạo cơ quan ấy,
không có quyền lợi thực chất nào liên quan tới kết quả của vụ việc nên sẽ bảo đảm
tính khách quan, công bằng khi phán quyết. Nhưng theo quy định của pháp luật



25

hiện hành, Tổ chức Tòa án nước ta tương ứng với các cấp hành chính địa phương.
Chế độ bổ nhiệm Thẩm phán phải theo danh sách do Hội đồng Tuyển chọn cấp
tỉnh lựa chọn. Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn này là Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh, một trong các thành viên của Hội đồng là Lãnh đạo Sở
Nội vụ - cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh. Chánh án TAND có
trách nhiệm phải báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân, trả lời chất vấn của
Đại biểu Hội đồng nhân dân cùng cấp. Trên thực tế, các quyết định bị khiếu kiện
đa số xuất phát từ cơ quan quản lý hành chính nhà nước trong đó ủy ban nhân dân
đóng vai trò nòng cốt. Vì vậy, thực chất TAND địa phương không hoàn toàn độc
lập cả về tổ chức và hoạt động. Do đó, ít nhiều ảnh hưởng đến tính độc lập khách
quan của Tòa án khi xét xử các VAHC liên quan đến UBND cùng cấp.8
Như vậy, sự tác động đến nguyên tắc độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm có
thể diễn ra từ nhiều phía và có nhiều động cơ khác nhau. Do đặc thù của các
VAHC là “dân kiện quan”, nên nguồn tác động đến sự độc lập này đa phần xuất
phát từ các cơ quan hành chính nhà nước – cơ quan có nhiệm vụ quản lý địa
phương trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, cơ quan có tầm quan trọng và tầm
ảnh hưởng lớn lao đến toàn thể cán bộ công chức nói chung và cán bộ, công chức
toà án nói riêng, hơn nữa còn có tầm ảnh hưởng lớn lao đến toàn bộ đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân địa phương. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, sự tác
động này nếu có sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sự độc lập của Thẩm phán và Hội
thẩm và trong nhiều trường hợp có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự bất khả
xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Cũng có thể nói rằng, khi giải
quyết các VAHC, sẽ có những quyết định “khó xử” nhất đối với các Thẩm phán và
Hội thẩm so với các vụ án khác.
2.3. Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật trong lịch sử tố tụng hành chính Việt Nam
Trong Hiến pháp Việt Nam, tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Thẩm
phán là một trong số ít những nguyên tắc hoạt động của bộ máy nhà nước nói

chung và của hệ thống tư pháp nói riêng được quy định từ ngay trong bản hiến
pháp đầu tiên và ở trong tất cả các bản hiến pháp sau đó. Ở hiến pháp 1946,
nguyên tắc này được quy định là “trong khi xét xử, các viên Thẩm phán chỉ tuân
8

Thùy Linh, Việt Trinh (2011), Tìm hiểu hướng dẫn thi hành pháp lệnh thẩm phán và hội thẩm tòa án nhân dân,
NXB Lao động, Hà Nội, tr 123.


×