Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.13 KB, 30 trang )

MỞ ĐẦU
Phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất của toàn nhân loại. Đây cũng
là quốc sách hàng đầu trong công cuộc xây dựng nước ta thành một nước giàu
đẹp, văn minh. Trong thời kỳ hiện nay có khơng ít các tư tưởng khác nhau về sự
nghiệp phát triển Con người Việt Nam. Mỗi người có nhận thức và đi theo con
đường riêng để phát triển bản thân. Có những người đi tìm khả năng phát triển
trong chủ nghĩa tư bản. Khơng ít người trở về phục sinh và tìm sự hồn thiện
Con người trong các tơn giáo và hệ tư tưởng truyền thống. Tuy nhiên khi nhìn
nhận một cách khách quan chúng ta không thể phủ nhận vai trò quan trọng trong
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự nghiệp phát triển Con người.
Vận dụng một cách sáng tạo những quan điểm của Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về Con người, Đảng ta trong thời kỳ đổi mới đã hết sức coi
trọng vấn đề con người và chiến lược phát triển Con người, đặt Con người ở
trung tâm của mọi sự phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên một luận
điểm có tính nền tảng của chiến lược con người trong sự nghiệp đổi mới hiện
nay: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ
nghĩa”. Báo cáo Chính trị Đại hội XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh tầm quan
trọng của việc xây dựng, phát triển con người Việt Nam: “Xây dựng nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển
toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa”. Vậy quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về con
người như thế nào? Vấn đề xây dựng con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa
và của Quân đôi trong giai đoạn hiện nay ra sao?
NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI
1. Quan điểm của các nhà triết học trước Mác về con người.
Có thể nói vấn đề con người là một trong những vấn đề quan trọng nhất
của thế giới từ trước đến nay. Đó là vấn đề ln được các nhà khoa học các nhà

1



nghiên cứu phân tích một cách sâu sắc nhất. Đặc biệt, đối với Triết học, con
người là đối tượng nghiên cứu của mọi trào lưu triết học. Các học thuyết triết
học từ thời cổ đại cho đến nay đã đặt ra và tìm cách lí giải bằng nhiều cách khác
nhau về những vấn đề chung nhất, cơ bản nhất của con người. Triết học Mác –
Lênin là triết hoc xuất phát từ con người và vì con người. Thực chất, chủ nghĩa
Mác – Lênin nói chung và triết học Mác – Lênin nói riêng là học thuyết giải
phóng con người, vì sự phát triển tồn diện của con người.
Khi đề cập đến con người, các nhà triết học tự hỏi: Thực chất con người là
gì và để tìm cách trả lời câu hỏi đó phải giải quyết hàng loạt mâu thuẫn trong
chính con người. Khi phân tích các nhà triết học cổ đại coi con người là một tiểu
vũ trụ, là một thực thể nhỏ bé trong thế giời rộng lớn, bản chất con người là bản
chất vũ trụ. Con người là vật cao quý nhất trong trời đất, là chúa tể của mn
lồi, chỉ đứng sau thần linh. Con người được chia làm hai phần là phần xác và
phần hồn. Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cho rằng phần hồn là do thượng đế
sinh ra, quy định chi phối mọi hoạt động của phần xác, linh hồn con người tồn
tại mãi mãi. Chủ nghĩa duy vật thì ngược lại, họ cho rằng phần xác quyết định
và chi phối phần hồn, khơng có linh hồn nào là bất tử. Q trình nhận thức đó
khơng ngừng được phát hiện. Càng ngày các nhà triết học tìm ra bản chất con
người và khơng ngừng khắc phục lý luận trước đó.
Triết học thế kỷ XV- XVIII phát triển quan điểm triết học về con người
trên cơ sở khoa học tự nhiên đã khắc phục và bắt đầu phát triển. Chủ nghĩa duy
vật máy móc coi con người như một bộ máy vận động theo quy luật cổ. Chủ
nghĩa duy tâm chủ quan và thuyết không thể biết một mặt coi cái tôi và cảm giác
của cái tôi là trung tâm sáng tạo ra cái không tôi, mặt khác cho rằng cái tôi
không thể vượt q cảm giác của mình nên nó nhỏ bé phụ thuộc vào đấng tối
cao. Các nhà triết học một mặt đề cao vai trò sáng tạo của lý tính người, mặt
khác coi con người là sản phẩm của tự nhiên, hoàn cảnh.
Các nhà triết học cổ điển đức từ Canto đến Heghen đã phát triển quan điểm
về con người theo hướng chủ nghĩa duy tâm. Heghen quan niệm con người là


2


hiện thân của ý niệm tuyệt đối do đó đời sống của con người chỉ được xem xét
về mặt tinh thần. Song, ông cũng là người đầu tiên xem xét cơ chế hoạt động
của đời sống tinh thần mà phát hiện ra sự phát triển của đời sống tinh thần cá
nhân. Đồng thời ông cũng nghiên cứu bản chất quá trình tư duy khái quát các
quy luật cơ bản của q trình đó. Sau khi đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm
Heghen, Phơ Bách đã phê phán tính siêu tự nhiên, phi thể xác trong quan niệm
triết học Heghen, ông quan niệm con người là sản phẩm của tự nhiên, là con
người sinh học trực quan. Ông đã sử dụng thành tựu của khoa học tự nhiên để
chứng minh mối liên hệ không thể chia cắt của tư duy với những quá trình vật
chất diễn ra trong cơ thể con người. Nhưng khi giải thích mối quan hệ của con
người với cộng đồng ông lại rơi vào lập trường của chủ nghĩa duy tâm.
Nhìn chung trước Mác có rất nhiều các nhà triết học cả phương Đông và
phương Tây đề cập đến vấn đề con người. Tuy nhiên dù đứng trên nền tảng thế
giới quan duy tâm, nhị nguyên luận hoặc duy vật siêu hình, các quan niệm của
các nhà triết học trước Mác đều không phản ánh được đúng bản chất con người.
Các quan điểm đó có những hạn chế là tuyệt đối hóa phần linh hồn thành con
người trừu tượng, tự ý thức hay tuyệt đối hóa phần xác thành con người trừu
tượng sinh học, ngoài ra chưa ý thức được đầy đủ bản chất của xã hội con
người. Tuy vậy một số trường phái vẫn đạt được những thành tựu trong việc
phân tích, quan sát con người, đề cao lý tính, xác lập các giá trị về nhân bản học
để hướng con người tới tự do. Đó là tiền đề hình thành tư tưởng về con người
của triết học Mác – Lênin.
2. Quan điểm của triết học Mác –Lênin về con người.
Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử xã hội và về con
người, triết học Mác – Lênin đã đem lại một quan niệm hoàn chỉnh về con
người. Theo quan điểm chung nhất, con người là thực thể sinh học xã hội.

Con người là một sinh vật có tính xã hội, vừa là sản phẩm cao nhất trong
q trình tiến hóa của tự nhiên và lịch sử xã hội, vừa là chủ thể sáng tạo mọi

3


thành tựu văn hóa trên Trái đất. Từ quan điểm của triết học Mác – Lênin, có thể
hiểu về con người trên các nôi dung cơ bản sau:
* Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội.
Kế thừa các quan điểm tiến bộ trong lịch sử triết học, dựa trên những thành
tựu của khoa học tự nhiên, trực tiếp là thuyết tiến hóa và thuyết tế bào, triết học
Mác khẳng định con người vừa là sản phẩm hoạt động của chính bản thân con
người. Con người là thực thể thống nhất giữa các yếu tố sinh vật và xã hội.
Là thực thể sinh vật, vì con người dù phát triển đến đâu cũng là một
động vật. Ph. Ăngghen khẳng định: “Bản thân cái sự kiện là con người từ loài
động vật mà ra, cũng đã quyết định việc con người không bao giờ hồn tồn
thốt ly khỏi những đặc tính vốn có của con vật”. Do đó, bản tính tự nhiên của
con người bao hàm trong nó tất cả bản tính sinh học, tính lồi của nó. Yếu tố
sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người.
Vì vậy, có thể nói: Giới tự nhiên là "thân thể vô cơ của con người", con người là
một bộ phận của tự nhiên, là kết quả của q trình phát triển và tiến hóa lâu dài
của mơi trường tự nhiên. Tuy nhiên, con người khác với động vật vì con người
cịn là một thực thể xã hội.
Là thực thể xã hội vì các hoạt động xã hội, trước hết và quan trọng nhất là
hoạt động lao động sản xuất ra của cải vật chất. "Có thể phân biệt con người với
súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được.
Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người
bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình – đó là một bước tiến do tổ chức
cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế
con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình".

Thơng qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến
giới tự nhiên: "Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, cịn con người thì tái sản
xuất ra tồn bộ giới tự nhiên".
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất, qua
đó, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, hình thành và phát triển ngơn ngữ

4


và tư duy, xác lập quan hệ xã hội. Theo Mác, xã hội suy cho cùng là sản phẩm của sự tác
động qua lại giữa những con người. Con người tạo ra xã hội, là thành viên của xã hội.
Như vậy con người là một thực thể sinh vật- xã hội. Thực thể sinh vật và
thực thể con người không tách khỏi nhau, trong đó, mặt sinh học là cơ sở tất yếu
tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con
ngườ với loài vật, thực thể sinh vật là tiền đề mà cái trên cái tiền đề đó thực thể
xã hội tồn tại và phát triển.
* Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hịa những
mối quan hệ xã hội.
Sự tổng hòa các mới quan hệ xã hội là trong cuộc sống hiện thực thông qua
các quan hệ xã hội cụ thể như quan hệ với gia đình, anh em, bạn bè, giai cấp,
cộng đồng,... Các quan hệ này tác động vào bản thân mỗi người theo những
chiều hướng khác nhau, ở những mức độ khác nhau, từ đó mà định hình phát
triển nhân cách con người.
Luận điểm của Mác coi "Bản chất của con người là tổng hịa các mối quan
hệ xã hội", Mác hồn tồn khơng có ý phủ nhận vai trị của các yếu tố và đặc
điểm sinh học của con người, ông chỉ đối lập với luận điểm coi con người đơn
thuần như một phần của giới tự nhiên, bỏ qua, khơng nói gì đến mặt xã hội của
con người. Khi xác định bản chất của con người trước hết Mác nêu bật cái
chung, cái khơng thể thiếu và có tính chất quyết định làm cho con người trở
thành một con người. Sau, khi nói đến "Sự định hướng hợp lý về mặt sinh học",

Lênin cũng chỉ bác bỏ các yếu tố xã hội tường xuyên tác động và ảnh hưởng to
lớn đối với bản chất và sự phát triển của con người. Chính Lênin cũng đã khơng
tán thành quan điểm cho rằng mọi người đều ngang nhau về mặt sinh học.
Con người sở dĩ trở thành người là nhờ vào hoạt động thực tiễn xã hội, mà
trước hết là lao động và đồng thời với lao động là ngơn ngữ - đó là hai sức kích
thích chủ yếu để biến vượn người trở thành con người hiện thực (Ph.Ăngghen).
chính trong q trình lao động sản xuất, con người có quan hệ với tự nhiên (thể
hiện ở lực lượng sản xuất) và quan hệ với nhau (thể hiện ở quan hệ sản xuất).

5


C.Mác viết: "Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên.
Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách
nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất
được, người ta phải có quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất,
chỉ những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau". Hơn nữa, mỗi con người,
mỗi thế hệ ra đời khơng thể tự chọn cho mình những mối quan hệ theo ý muốn,
và dù muốn dù không cũng phải gia nhập vào những quan hệ đã có, đồng thời
trở thành "cái mang những quan hệ xã hội ấy" (C.Mác). Chính vì vậy, trong đời
sống thực tiễn, con người không thể hiện như là thực thể "sinh vật" mà bộc lộ là
thực thể xã hội, hơn nữa là thực thể xã hội sống động với muôn vàn những quan
hệ xã hội phong phú, đan xen và tác động biện chứng với nhau. Với tất cả ý
nghĩa đó, C.Mác nhấn mạnh: "bản chất con người không phải là một cái trừu
tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội".
Như vậy tất cả các quan hệ xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, pháp quyền,
dân tộc, đạo đức, tơn giáo, hơn nhân, gia đình,...) đều góp phần tạo nên bản chất
và biểu hiện bản chất của con người.
Thứ nhất, xét theo thời gian, đó là những quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại và

quan hệ tương lai, trong đó quan hệ hiện tại (suy đến cùng) giữ vai trò quyết định.
Thứ hai, xét theo loại quan hệ, đó là những quan hệ vật chất và quan hệ
tinh thần, trong đó quan hệ vật chất (suy đến cùng) giữ vai trò quyết định.
Thứ ba, xét theo tính chất, đó là những quan hệ trực tiếp và gián tiếp, tất
nhiên và ngẫu nhiên, trong đó những quan hệ trực tiếp, tất nhiên (suy đến cùng)
giữ vai trị quyết định.
Thứ tư, xét theo hình thức cụ thể, đó là những quan hệ (tình cảm, hơn nhân,
gia đình, kinh tế, chính trị, văn hóa, pháp quyền, đạo đức, tơn giáo,...), trong đó,
những quan hệ kinh tế (suy đến cùng) giữ vai trò quyết định. Trong quan hệ thì
quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò chủ đạo.

6


Tóm lại, bản chất con người khơng phải là cái bẩm sinh, không phải là tinh
thần trừu tượng, cũng không phải là cái tự nhiên tự phát, mà là cái hiện thực lịch
sử; khơng phải là cái vốn có trong mỗi cá thể, mà là tổng hòa những quan hệ xã
hội. Không hiểu hoặc hiểu không đúng luận điểm này, một số học giả đã vội cho
rằng, chủ nghĩa Mác chỉ nhấn mạnh mặt xã hội (quan hệ sở hữu, quan hệ giai
cấp,...) của con người, mà coi nhẹ hoặc quên đi mặt sinh vật và mặt tinh thần
của nó. Nên nhớ rằng, luận điểm "bản chất con người là tổng hòa những quan
hệ xã hội" đã bao hàm và thể hiện mặt tự nhiên và mặt tinh thần của con người ở
trong đó. Bởi lẽ, bản thân chúng ta, với tất cả "xương thịt, máu mủ và đầu óc"
chúng ta là thuộc về giới tự nhiên (Ph.Ăngghen); và ý thức của con người không
chỉ phản ánh thế giới, mà cịn sáng tạo ra nó (V.I.Lênin).
* Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử.
Khơng có thế giới tự nhiên, khơng có lịch sự xã hội thì không tồn tại con người. Bởi
vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh.
Song, điều quan trọng hơn cả, với tư cách là thực thể "sinh vật – xã hội –
tinh thần", con người không chỉ là sản phẩm của lịch sử mà còn trở thành

chủ thể của lịch sử - xã hội. Các Mác khẳng định: "Cái học thuyết duy vật chủ
nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và giáo dục... cái
học thuyết ấy qn rằng chính những con người làm thay đổi hồn cảnh và bản
thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục". Lịch sử thường được hểu là
các quá trình đan xen và nối tiếp nhau diễn ra với tất cả những bảo tồn và biến
đổi, Theo nghĩa này, cả động vật và con người đều có lịch sử. Tuy nhiên lịch sử
của con người khác về chất so với lịch sử của động vật. Trong tác phẩm Biện
chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cho rằng: "Thú vật cũng có một lịch sử, chính
là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới
trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và
trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn
ra mà chúng khơng hề biết và khơng phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con

7


người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con
người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý nghĩa bấy nhiêu".
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác
động vào tự nhiên, cải biến giớ tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát
triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự
nhiên. Con người thì trái lại, thơng qua hoạt động thực tiễn của mình để làm
phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích
của mình.
Trong q trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình.
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của
chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự
tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã
hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt
động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp

với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Khơng có hoạt động của con người
thì cũng khơng tồn tại quy luật xã hội, và do đó, khơng có sự tồn tại của tồn bộ
lịch sử xã hội lồi người.
Khơng có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai
đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người, trong mối
quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động, biến đổi, cũng phải
thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người khơng phải là một hệ thống đóng kín,
mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là
"tổng hòa các quan hệ xã hội", con người có vai trị tích cực trong tiến trình lịch
sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thơng qua đó, bản chất con người cũng vận
động, biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của
lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù không trùng khớp) với sự vận động và
biến đổi của bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm
cho hồn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hồn cảnh đó chính là

8


tồn bộ mơi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh
hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa
định hướng giáo dục. Thơng qua đó, con người tiếp cận hồn cảnh một cách tích
cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động
thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ
và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người đến hoạt động vật
chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất
kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.
2. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về giải phóng con người.
Triết học Mác – Lênin là triết học vì con người. Ngay từ năm 1835, trong những
suy tư của một chàng trai trong việc lựa chọn nghề nghiệp, C.Mác đã viết: "kim chỉ

nam chủ yếu phải định hướng cho chúng ta trong việc lựa chọn nghề nghiệp là phúc
lợi của loài người, là sự hoàn thiện của chúng ta; kinh nghiệm ca ngợi những ai đem
lại hạnh phúc cho một số lượng người nhiều nhất là người hạnh phúc nhất; bản thân
tôn giáo dạy chúng ta rằng cái lý tưởng mà mọi người hướng tới đã hi sinh bản thân
minh cho nhân loại, vậy ai dám bác bỏ những lời dạy bảo đó?".
Khi viết "Tun ngơn của Đảng Cộng sản", C.Mác và Ph.Ăngghen đã thể
hiện tư tưởng cơ bản và chủ đạo của Tuyên ngôn là: "vĩnh viễn giải phóng quan
hệ xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức". Song, "xã hội không thể nào giải phóng
cho mình được, nếu khơng giải phóng mỗi cá nhân riêng biệt".
Như vậy, cốt lõi của triết học Mác – Lênin là vấn đề con người và giải
phóng con người, từ giải phóng con người cụ thể tiến đến giải phóng nhân loại.
Tồn bộ các nội dung trả lời câu hỏi như: Con người là gì? Nguồn gốc của con
người? Bản chất con người?... đều nhằm mục đích hiểu đối tượng giải phóng để
xác định đúng đắn những vấn đề liên quan đến vấn đề giải phóng.
Triết học Mác – Lênin không phải là triết học đầu tiên đề cập đến vấn đề giải
phóng con người. Lịch sử đã ghi nhận nhiều học thuyết, nhiều quan điểm về giải phóng
con người, song do điều kiện lịch sử, do sự ràng buộc về giai cấp, do cách hiểu về con

9


người, nguồn gốc và bản chất của con người khác nhau nên xác định giải phóng con
người là giải phóng đối tượng nào? Giải phong như thế nào cũng rất khác nhau.
Theo các học thuyết triết học duy tâm và quan niệm tơn giáo, quan niệm
giải phóng con người là giải thoát về măt tâm linh để con người đạt được cuộc
sống cực lạc vĩnh cửu ở kiếp sau trong một thế giới khác ngoài thế giới tự nhiên.
Với quan niệm như vậy thì khơng thể đem lại sự giải phóng con người một cách
hiện thực mà chỉ giải phóng hư ảo – "thuốc phiện của nhân dân". Các nhà duy
vật trước Mác hoặc khơng thấy được tính xã hội của con người, không thấy các
quan hệ xã hội của con người, hoặc nhận thức về con người trừu tượng nên vẫn

xem những biểu hiện của bản chất con người trong cuộc sống hiện thực như bản
tính tự nhiên vốn có, bất biến của con người. Khơng hiểu đúng bản chất của con
người thì khơng thể xác định đúng những nội dung trong q trình giải phóng và
tất yếu khơng thể thực hiện được q trình giải phóng.
Lịch sử cũng ghi nhận giai cấp tư sản phương Tây đã thực hiện các cuộc
giải phóng con người do bản chất của chủ nghĩa tư bản do mục đích của phương
thức sản xuất của tư bản chủ nghĩa nên đồng thời với việc giải phóng con người khỏi
những ràng buộc của xã hội phong kiến, giai cấp tư sản đã trói chặt con người bằng
các ràng buộc khác nghiệp ngã hơn: ràng buộc kinh tế, phân hóa xã hội thành hai đối
cực là nhà tư bản bóc lột và người lao động bị bóc lột. Đến nay, ngay cả khi đời sống
của người lao động đã được cải thiện nhưng sự đối cực ấy vẫn không mất đi mà chỉ
tăng lên dưới nhiều hình thức, biểu hiện khác nhau.
Triết học Mác – Lênin xác định "bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao hàm ở
chỗ nó trả thế giới con người, những quan hệ của bản thân con người về với
con người", là giải phóng người lao động thốt khỏi lao động bị tha hóa.
Trong các tác phẩm của mình, C.Mác đã chỉ rõ những biểu hiện của lao
động bị tha hóa, nguyên nhân dẫn đến sự tha hóa, trên cơ sở đó, C.Mác cũng đã
có chỉ dẫn, xác định phương hướng và các lực lượng có thể thực hiện sự nghiệp
giải phóng con người thốt khỏi sự tha hóa và tiến tới một xã hội mà "sự phát
triển tự do của mỗi người là điều kiện để phát triển tự do của tất cả mọi người".

10


Theo C.Mác:
Lao động bị tha hóa là lao động làm người lao động đánh đánh mất mình
trong "hoạt động người" nhưng lại tìm thấy mình trong "hoạt động vật". Lao
động là hoạt động người nhưng ở lao động tha hóa nó đã là "một cái gì đó bề
ngồi" người lao động. Người lao động thực hiện hoạt động lao động không
phải là thỏa mãn nhu cầu lao động mà chỉ vì sự sinh tồn của thể xác. Đó là lao

động cưỡng bức. Điều này tất yếu dẫn đến việc người lao động cảm thấy mình
hành động tự do trong khi thực hiện chức năng động vật như: ăn, uống, sinh con đẻ
cái; còn trong những chức năng của con người thì người lao động cảm thấy mình
chỉ là con vật. Cái vốn có của súc vật trở thành chức phận của con người, cịn cái
có tính người lại biến thành cái vốn có của súc vật. "Tính bị tha hóa của lao động
biểu hiện rõ rệt ở chỗ một khi khơng cịn sự cưỡng bức lao động về thể xác hoặc về
mặt khác thì người ta trốn tránh lao động như trốn tránh dịch hạch vậy".
Lao động bị tha hóa là lao động làm đảo lộn các quan hệ của người lao động.
Trong lao động, người lao động thực hiện với tư liệu sản xuất là thực hiện
quan hệ với đồ vật. Song vì hồn tồn phụ thuộc vào tư liệu sản xuất nên không
phải con người sử dụng tư liệu sản xuất mà tư liệu sản xuất sử dụng con người.
Mặt khác, chỉ vì phải có sản phẩm để nhận thù lao mà người lao động phải
lao động nên con người đã bị sản phẩm của chính mình nơ dịch; người lao động
tạo ra sản phẩm nhưng sản phẩm không phải của người lao động mà của người
chủ nên nó trở nên xa lạ với người tạo ra nó.
Như vậy, quan hệ giữa con người với đồ vật (trực tiếp là quan hệ giữa tư
liệu sản xuất với sản phẩm của quá trình sản xuất) đã trở thành quan hệ giữa con
người và người thống trị xa lạ.
Lao động bị tha hóa là lao động làm cho người lao động bị phát triển quề
quặt. Đây là hệ quả của sự phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào việc sử
dụng thành tựu của nó vì lợi nhuận. Với mục đích sản xuất vì lợi nhuận nên
khoa học, cơng nghệ càng phát triển mạnh thì máy móc thay thế con người lao
động ngày càng nhiều, chun mơn hóa lao động ngày càng sâu, số người bị

11


máy móc thay thế ngày càng lớn, những lao động cịn lại bước vào q trình lao
động thuần túy thực hiện thao tác mà dây chuyền lao động sả xuất đã quy định.
Vì vậy, nền sản xuất máy móc vì lợi nhuận đã "ném một bộ phận công nhân về

với lao động dã man và biến bộ phận công nhân thành những cái máy".
C.Mác cho rằng nguyên nhân trực tiếp dẫn tới sự tha hóa là chế độ tư hữu
về tư liệu sản xuất. Sự ra đời của phương thức sản xuất chủ nghĩa với chế độ tư bản
về chế độ sản xuất đã tập trung những tư liệu sản xuất cơ bản của xã hội vào tay
một số nhà tư bản, một số tập đoàn tư bản làm tuyệt đại đa số người lao động thành
vô sản. Nhu cầu sinh tồn đã buộc những con người khơng có tư liệu sản xuất tự
nguyện một cách cưỡng bức đến với các nhà tư sản và họ làm thêm cho nhà tư bản.
Và do q trình người bóc lột người, q trình lao động bị tha hóa đã diễn ra.
Để xóa bỏ tha hóa và giải phóng con người, triết học Mác – Lênin đưa ra
phương thức và lực lượng giải phóng con người:
Thứ nhất, cần phải xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản. Bởi lẽ, nguyên nhân sản
sinh ra tha hóa là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất nên "xóa bỏ một cách tích
cực chế độ tư hữu với tính cách là sự khẳng định sinh học của con người, là sự
xóa bỏ một cách tích cực sự tha hóa".
Thứ hai, sự nghiệp xóa bỏ tha hóa, giải phóng con người nhất thiết là sự
nghiệp của quần chúng lao động, trong đó giai cấp cơng nhân là lực lượng nòng cốt
và giữ vai trò quyết định. Bởi vì, giai cấp cơng nhân, những người vơ sản chính là
những người bị tước đoạt tư liệu sản xuất, chịu "sự mất đi hoàn toàn của con
người". Và theo C.Mác, cũng chỉ giai cấp cơng nhân mới có khả năng bảo đảm tự
do và bình đẳng thực sự cho tất cả mọi người và toàn xã hội. Sức mạnh giải phóng
dân tộc của họ khơng phải là sức mạnh của cá nhân đơn độc mà như C.Mác đã chỉ
rõ, chỉ khi nào họ nhận thức được và tổ chức được "những lực lượng của bản thân"
thành những lực lượng xã hội – cũng chính là thành lực lượng chính trị - thì giải
phóng con người mới được thực hiện. Lênin đã nhận định: Điểm chủ yếu trong học
thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trị của lịch sử thế giới của giai cấp vô
sản, là người thực hiện sứ mệnh giải phóng con người.

12



Thứ ba, sự nghiệp giải phóng con người gắn liền với giải phóng giai cấp,
giải phóng xã hội và nhân loại là một q trình lâu dài. Nó phụ thuộc chủ yếu
vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, vào điều kiện vật chất bắt buộc
phải có sụ nghiệp giải phóng con người. C.Mác viết: Người ta mỗi lần đều giành
được tự do chừng nào việc đó khơng phải do lý tưởng về con người mà do lực
lượng sản xuất hiện hành quyết định và cho phép.

CHƯƠNG II:
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC XÂY DỰNG
CON NGƯỜI MỚI VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây dựng phát triển con
người Việt Nam.
a. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, vấn đề con người và giải phóng con
người , đem lại hạnh phúc cho con người là mục đích cao nhất của Hồ Chí Minh.
Người khái quát: "Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề... là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời
và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp
bức". Tuy Hồ Chí Minh khơng đưa ra khái niệm hồn chỉnh về con người, nhưng tư
tưởng của Người có thể khái quát lại là: Con người là một chỉnh thể thống nhất giữa
mặt sinh học và mặt xã hội, chủ thể của các mối quan hệ xã hội – lịch sử, chủ thể
sáng tạo và hưởng thụ các giá trị vật chất và tinh thần của xã hội.
Trong quan niệm Hồ Chí Minh, con người là một thực thể mang tính xã
hội. Tính xã hội đó được hình thành trong tổng hịa các quan hệ xã hội với nhiều
cấp độ khác nhau. "Chữ Người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bạn bè.
Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng hơn nữa là cả loài người". Con người ở
đây vừa là mỗi thành viên cụ thể, vừa là những cộng đồng người trong xã hội.
Trong cộng đồng người Việt Nam, rõ ràng quan hệ gia đình, anh em, họ hàng là

13



rất quan trọng. Hơn nữa, nét độc đáo trong cộng đồng người Việt Nam là quan
hệ "đồng bào", cùng một nguồn gốc "con Rồng, cháu Tiên".
Hồ Chí Minh đã tiếp thu quan điểm Mác – Lênin đặt con người trong lịch
sử sản xuất vật chất để xem xét, Người khẳng định con người là chủ thể sáng
tạo mọi giá trị vật chất, tinh thần, sáng tạo lịch sử xã hội, lao động sáng tạo là
giá trị nhân bản, giá trị cao nhất của con người. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
con người trước hết là người lao động, nhân dân lao động. Ở Việt Nam, Hồ Chí
Minh đề cập đến cơng nhân, nơng dân, trí thức, bộ đơi,... Họ chính là chủ thể sáng
tạo xã hội mới. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng "trong bầu trời khơng có gì
q bằng nhân dân". Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân lao động là chủ thể sáng
tạo lịch sử xã hội là một trong những cơ sở lý luận để Đảng Cộng sản Việt Nam
xác định mơ hình chủ nghĩa xã hội của Việt nam với đặc trưng cơ bản hàng đầu là
"một xã hội do nhân dân làm chủ" mà trước hết là nhân dân lao động.
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh cịn là sự thống nhất giữa con
người cá nhân và con người xã hội, thống nhất biện chứng giữa cái chung với
cái riêng và cái đặc thù. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh khẳng địnhchủ nghĩa xã hội
không hề phủ nhận cá nhân, chà đạp lên lợi ích cá nhân, mà ngược lại, hơn hẳn
bất kỳ một chế độ nào trong lịch sử, chủ nghĩa xã hội ln ln tơn trọng lợi ích
cá nhân, tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển tự do và toàn diện của cá nhân.
Để giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa con người cá nhân và con người xã
hội, Hồ Chí Minh quan tâm giải quyết mối quan hệ lợi ích. Người đã biết kết hợp hài
hịa lợi ích cá nhân và lợi íc tập thể, lợi ích gần và lợi ích xa, lợi ích vật chất và lợi
ích tinh thần,... tạo nên động lực nhằm tích cực hóa nhân tố con người. Đây là cơ sở
khoa học để trong thời kỳ mới của cách mạng, Đảng Cộng sản quan tâm đến các
chính sách xã hội vì lợi ích con người, coi trọng việc tập hợp, tổ chức, đoàn kết rộng
rãi mọi tầng lớp nhân dân trong mặt trận dân tộc thống nhất, tạo sức mạnh tổng hợp
để đẩy nhanh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh được xem xét trong sự thống nhất

giữa thuộc tính giai cấp, dân tộc và nhân loại. Khi đề cập đến con người, Hồ

14


Chí Minh đều đề cập đến "người phương Đơng", "người châu Âu", "người da
vàng", "người da trắng",... Con người bao giờ cũng thuộc về một dân tộc, chủng
tộc, sắc tộc, một quốc gia nhất định. Bên cạnh việc nói đến con người dân tộc,
Người đặc biệt chú ý đến con người giai cấp. Người thường nói "người bị áp
bức", "người bị bóc lột", "cơng nhân",... Người khẳng đinh trên thế giới này chỉ
có hai giống người: người bóc lột - người bị bóc lột và nhấn mạnh tình hữu ái
giai cấp. Đối với Hồ Chí Minh, đấu tranh giai cấp là phương tiện để giải phóng
con người, nhưng Người khơng tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp mà tùy điều
kiện cụ thể để có thể đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích giai cấp. Trong tư tưởng
của Người, giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc lột, xây dưng xã hội
xã hội chủ nghĩa – một xã hội dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh – luôn là mục tiêu cao nhất, xuyên suốt, trở thành hoài bão phấn đấu suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của Người.
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới với tư cách là chủ thể của
cách mạng, chủ thể xây dựng xã hội mới được khái quát trong một số luận điểm sau:
Trước hết, cách mạng Việt Nam muốn đi đến thắng lợi phải có những
người tiên tiến đi đầu lơi cuốn quần chúng vào con đường cách mạng, tạo thành
phong trào cách mạng ngày càng rộng lớn.
Để cứu nước, giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã tập hợp những người
tiên tiến lúc bấy giờ để tạo nên một lực lượng nòng cốt của cách mạng, từ đó đi
vào quần chúng, đưa phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam
phát triển, tiêu biểu là tổ chức Việt Nam cách mạng thanh niên được thành lập
từ năm 1925. Khi chuẩn bị thành lập Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, Người
rất chú ý đến việc xây dựng người đảng viên với tính chất là người cách mạng

kiểu mới, khác với tất cả những người cách mạng lớp trước ở Việt Nam. Phải có
những người ấy thì đường lối cách mạng mới đi vào quần chúng, mới dẫn đến
thắng lợi của cách mạng.

15


Thứ hai, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ
nghĩa. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ II của Đảng (02 -1951), Chủ
tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Xúc tiến cơng tác văn hóa để đào tạo con người mới
và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc". Lần đầu tiên, Người nêu
lên khái niệm con người mới trong bài nói tại trường Chu Văn An ngày 13 – 12
– 1958: "Muốn xã hội chủ nghĩa phải có: người xã hội chủ nghĩa". Tháng 6 –
1961, nói chuyện với lớp bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo các cấp toàn miền Bắc,
Người đi đến luận điểm quan trọng: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước
hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa". Có thể hiểu luận điểm trên với
những nội dung chủ yếu sau:
- Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa – chủ thể
của toàn bộ sự nghiệp xây dưng chủ nghĩa xã hội.
- Việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa phải được đặt ra từ đầu và
được quan tâm trong suốt tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Trước hết cần phải có những người tiên tiến, tiêu biểu để làm gương cho
người khác, lôi cuốn mọi người xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
Tiêu chuẩn chung của con người mới xã hội chủ nghĩa:
- Có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa.
- Có đạo đức xã hội chủ nghĩa: trung với nước, hiếu với dân, yêu thương con
người, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư, có tinh thần quốc tế trong sáng.
- Có tác phong xã hội chủ nghĩa: lao động có kế hoạch, có quyết tâm, có tổ
chức, năng suất, chất lượng, khơng sợ khó, khơng sợ khổ.
- Có năng lực để làm chủ bản thân và cơng việc, khơng ngừng nâng cao

trình độ chính trị, văn hóa, khoa học – kỹ thuật,... để làm chủ.
Người còn nêu những tiêu chuẩn cụ thể với từng giới, từng ngành như:
công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, quân đội, cơng an, nhi đồng,...
Ngày nay, chúng ta nói con người mới xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa là
chủ thể, vừa là sản phẩm của nền văn hóa mới, của chế độ xã hội mới – xã hội
chủ nghĩa là hoàn toàn đúng với quan điểm với quan điểm của chủ nghĩa Mác –

16


Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực tiễn đã và đang chứng minh tính đúng
đắn của các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người mới xã hội chủ nghĩa.
2. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng con người mới Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Từ khi Đảng ra đời, vấn đề văn hố và con người ln được Đảng ta hết
sức coi trọng và khái niệm con người mới xã hội chủ nghĩa được sử dụng trong
các văn kiện, nghị quyết của Đảng. Trước hết được thể hiện trong Đề cương văn
hóa Việt Nam năm 1943 với chủ trương xây dựng nền văn hoá mới. Đến Đại hội
IV, Đảng nêu rõ về con người mới XHCN: "Con người mới xã hội chủ nghĩa là
con người Việt Nam mới mà những đặc trưng nổi bật là: làm chủ tập thể, lao
động, yêu xã hội chủ nghĩa và tinh thần quốc tế vô sản".
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định nhiệm vụ trọng tâm của văn hóa là
tập trung xây dựng con người và nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết Trung ương 2 và Nghị quyết Trung ương 5 (khóa
VIII) đều nhấn mạnh đến những phẩm chất cơ bản của con người mới Việt Nam xã
hội chủ nghĩa trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Đó là những con người phát triển
toàn diện cả đức và tài, phát triển về thể lực, trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ, có kỹ năng lao
động giỏi, ý chí, bản lĩnh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chiến lược xây dựng con ngườ và phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp

CNH, HĐH có liên quan chặt chẽ với nhau. Nguồn nhân lực là yếu tố quyết đinh
việc sử dụng các nguồn lực khác. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định: "Con người là
trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển". Đồng thời Đại
hội XI của Đảng cũng chỉ rõ: "Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi; đội ngũ cán bộ khoa học, cơng nghệ văn hóa
đầu đàn, đội ngũ doanh nhân và lao động lành nghề..."
Kế thừa, bổ sung và phát huy kết quả đạt được của các Đại hội trước, Đại hội
XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng, phát triển văn
17


hoá, con người Việt Nam, đồng thời khẳng định: “Xây dựng con người Việt Nam
phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết
và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời
kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện
để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn,
trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật”.
3. Xây dựng con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
a. Đặc điểm con người Việt Nam hiện nay.
Dựa vào kết quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, Nghị quyết
Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng về văn hóa, có thể rút ra những nhận xét
chung về những điểm mạnh, điểm yếu của con người Việt Nam hiện nay:
* Về điểm mạnh:
Thứ nhất, con người Việt Nam nổ bật với tinh thần yêu nước, ý thức độc
lập dân tộc, tự lực, tự cường, đoàn kết vì đại nghĩa dân tộc.
Thứ hai, lao động cần cù, sáng tạo là một giá trị đặc trưng cho truyền thống
dân tộc, tạo nên giá trị nhân cách con người Việt Nam.
Thứ ba, truyền thống cộng đồng, lòng nhân ái, những tình cảm vị tha, bao
dung, những giá trị nhân văn truyền thống của con người Việt Nam vẫn tiếp tục

được giữ vững và phát huy.
Thứ tư, truyền thống hiếu học, tơn sư trọng đạo và sự hình thành các giá trị
mới của văn hóa và con người Việt Nam hiện nay, nhất là trong sự nghiệp đổi
mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức.
Thứ năm, gia đình, tế bào của xã hội và chất lượng gia đình là nhân tố quan
trọng bảo đảm cho ổn định và phất triển bền vững của xã hội.
* Về điểm yếu:
Thứ nhất, những thói quen, tập quán, lối sống và cách ứng xử, nếp suy nghĩ
và những lề thói làm ăn của người Việt Nam dựa trên sản xuất tiểu nông và kinh
nghiệm đang là cản trở đối với sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước trước sự phát triển nhanh của khoa học và công nghệ hiện nay.

18


Thứ hai, những mặt trái của nền kinh tế thị trường đang tác động tiêu cực
dẫn tới sự suy giảm, tới những yếu kém của văn hóa và con người Việt Nam
hiện nay là đời sống gia đình, chất lượng giáo dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức,
lối sống trong gia đình, nhà trường và xã hội.
b. Một số phương hướng và giải pháp cơ bản trong việc xây dựng con
người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
* Một số phương hướng cơ bản trong việc xây dựng con người mới Việt
Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Tại Đại hội XII của Đảng, khi nói về phát triển con người Việt Nam, Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Xây dựng mơi trường văn hố lành
mạnh, tạo điều kiện để xây dựng con người Việt Nam đẹp về nhân cách, đạo
đức, tâm hồn; cao về trí tuệ, năng lực, kỹ năng sáng tạo; khoẻ về thể chất; nâng
cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp
luật”.
Xây dựng con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay là sự chuẩn

bị tích cực, chủ động nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp Đổi mới,
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa , cho tương lai và triển vọng của đất nước và dân
tộc trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ nhất, xây dựng con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa là xây dựng
nhân cách của con người Việt Nam với nội dung toàn diện:
Bồi dưỡng và phát triển thể lực, năng lực trí tuệ, với phương pháp tư duy
khoa học sáng tạo, không ngừng nâng cao học vấn và văn hóa trên cơ sở nâng
cao mặt bằng và đỉnh cao dân trí xã hội.
Bồi dưỡng và phát triển trình độ tư tưởng, thế giới quan và đạo đức cách
mạng, biểu hiện rõ rệt ở lao động, lối sống, kế thừa và phát huy được tinh thần
của truyền thống dân tộc, đáp ứng được những yêu cầu của con người mới xã
hội chủ nghĩa trong xã hội cơng nghiệp, văn minh, hiện đại.
Với những giá trị đó của thế giới quan, con người Việt Nam sé đáp ứng
được nhiệm vụ đặt ra của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã

19


hội chủ nghĩa, thực sự là mục tiêu, động lực phát triển của tiến bộ và văn minh,
của chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, xây dựng con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa hướng tới sự
phát triển vừa chất lượng cá thể con người vừa sự phát triển của cả cộng đồng
dân tộc Việt Nam, trước hết là chất lượng phát triển của giai cấp cơng nhân với
vai trị, sứ mệnh dẫn dắt xã hội của khối công nhân – nơng dân – trí thức, lực
lượng cơ bản của xã hội, biểu thị sự liên kết các năng lực xã hội, tình đồn kết
và hịa hợp dân tộc. Đó chính là tổng hợp nội lực phát triển của con người, đất
nước và dân tộc Việt Nam trong bối cảng hiện nay.
Thứ ba, xây dựng con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa theo quan
điểm phát triển nguồn nhân lực, cần tập trung đầu tư của toàn xã hội vào sự
nghiệp giáo dục – đào tạo thế hệ trẻ Việt Nam, thực sự coi giáo dục và đào tạo là

quốc sách hàng đầu. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Vì lợi ích mười năm thì
phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người". Chuẩn bị đầy đủ kiến
thức, kỹ năng cho thế hệ trẻ bước vào cuộc sống lập thân, lập nghiệp; có đủ sức
khỏe, tài năng, đạo đức, ý thức và bản lĩnh chính trị, xứng đáng là thế hệ kế tục
sự nghiệp cách mạng của cha anh, là rường cột của chế độ, xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thế hệ thanh, thiếu niên Việt Nam hiện nay sẽ là lực lượng chủ chốt để
đưa nước ta tiếp tục phát triển trong thế kỷ XXI. Thế hệ đó phải được giáo dục
một cách tồn diện, cơng phu để sống có văn hóa, có đạo đức cách mạng trong
sáng, có sự phát triển sâu sắc về ý thức và tinh thần dân tộc gắn liền với tính
kiên định và trung thành với lý tưởng cao cả của chủ nghĩa xã hội, là những
người kế thừa sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, là chủ nhân thực sự
của đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, văn minh, hiện đại. Thế hệ
đó là sự hiện diện xứng đáng của trí tuệ, lối sống, nhân cách Việt Nam. Những
định hướng giá trị phổ quát cho lẽ sống, lối sống của thế hệ trẻ và dân tộc Việt Nam
là Tổ quốc, dân tộc, thời đại và chủ nghĩa xã hội. Để xây dựng được con người Việt
Nam như vậy, bộ phận tiên tiến, ưu tú của dân tộc, của xã hội phải có sự vượt trội

20


đê nêu gương và dẫn dắt quần chúng, đó là cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản
Việt Nam, là đồn viên Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
* Một số giải pháp cơ bản trong việc xây dựng con người mới Việt Nam xã
hội chủ nghĩa hiện nay.
Thứ nhất, hết sức quan tâm đến lợi ích của con người. Lợi ích là động lực
tích cực hóa nhân tố con người. Quan tâm lợi ích con người, thỏa mãn nhu cầu
ngày càng cao của con người chính là hiện thực hóa quan điểm coi con người
vừa là mục đích, vừa là động lực phát triển của cách mạng Việt Nam. Mục đích
của chủ nghĩa xã hội là vì tự do, hạnh phúc con người, thỏa mãn nhu cầu ngày

càng cao của con người về cả vật chất và tinh thần, quan tâm tới lợi ích của con
người để con người trở thành chủ thể tích cực xây dựng xã hội mới. Con người
vừa là vốn quý, vừa là nguồn sức mạnh vô tận cho sự nghiệp cách mạng, sự
nghiệp đổi mới ở nước ta. Do đó, Đảng và Nhà nước ta cần thực hiện chính sách
xã hội nhằm kết hợp hài hịa các lợi ích, điều chỉnh các quan hệ xã hội. Các chế
độ chính sách, pháp luật Nhà nước phải được cụ thể hóa để thực sự trở thành
công cụ thực hiện công bằng xã hội, từng bước hiện thực hóa các giá trị xã hội
chủ nghĩa vào thực tiễn đời sống xã hội.
Thứ hai, tạo việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống và bảo đảm
an ninh, an ninh công dân trong một môi trường xã hội ổn định, lành mạnh với
các chuẩn mực về kỷ luật, trật tự, kỷ cương, pháp luật. Đây là tiền đề thiết yếu
để xây dựng con người và là vấn đề bức xúc của xã hội. Trong quá trình lãnh
đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã làm hết sức
mình để cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, được tự do đi lại, được quyền sống
xứng đáng của một nước tự do, độc lập. Hiện nay, đời sống nhân dân đã được
cải thiện nhưng số người thất nghiệp, mù chữ vẫn cịn, đặc biệt là ở nơng thơn,
miền núi, vùng sâu, vùng xa. Sự chênh lệch giàu nghèo vẫn còn tồn tại. Xóa đói,
giảm nghèo, chống thất nghiệp, thất học đã trở thành chương trình, chính sách
quốc gia. Cùng với đó là tình trạng sức khỏe của dân cư chưa tốt. Căn bệnh
AIDS, tệ nạn mại dâm, ma túy, lối sống lai căng trong sự phát triển mạng xã hội,

21


... đang hủy hoại sinh lực một bộ phận thế hệ trẻ và làm băng hoại đạo đức. Tội
phạm đang phát triển, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, cần phải có những
giải pháp đồng bộ và đủ mạnh mới giải quyết được và tạo tiền đề cho việc xây
dựng con người Việt Nam.
Thứ ba, thực hiện công bằng xã hội trong phát triển con người và xã hội
và thực hiện dân chủ hóa mọi mặt sống xã hội, nhất là phát huy dân chủ cơ sở để

tạo mơi trường xã hội tích cực nhằm giáo dục, đào tạo con người. Đây là nhu
cầu phổ biến của dân cư, đặc biệt là đối với thanh niên và trí thức. Gắn liền với
nó là cuộc đấu tranh đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí đang gây tổn hại
nghiêm trọng về vật chất và tinh thần cho xã hội và làm suy yếu chế độ. Đây là
một cuộc đấu tranh nhằm chỉnh đốn xã hội, có ảnh hưởng rất quan trọng tới con
người, lối sống và nhân cách.
Thứ tư, coi trọng phát triển giáo dục – đào tạo, tích cực cải cách giáo dục
trong nền giáo dục quốc dân từ giáo dục mầm non, phổ thông đến đại học,
chuyên nghiệp và dậy nghề. Đây là khâu cơ bản nhất để thực hiện quốc sách
hàng đầu, để lập lại trật tự đạo lý trong gia đình, nhà trường và xã hội.
Mục tiêu của giáo dục – đào tạo là nâng cao dân trí, phát triển nhân lực, đào tạo
nhân tài, trên nền tảng phát triển nhân cách con người Việt Nam vừa "hồng". vừa
"chuyên". Nhiệm vụ của giáo dục – đào tạo là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện;
đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện chuẩn hóa, hiện
đại hóa và xã hội hóa, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam, cụ thể là:
- Chuyển đổi mơ hình giáo dục: Mơ hình giáo dục cũ được xây dựng theo
hệ thống đóng kín từng cấp học, ngành học, theo niên chế, nặng về thi cử, thiếu
thực hành, thực tiễn, lấy bằng cấp, tín chỉ làm thước đo. Nhiệm vụ hiện nay là
chuyển đổi mơ hình giáo dục mở, mơ hình xã hội học tập với hệ thống học tập
suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các cấp học, bậc học, ngành học, xây
dựng hệ thống học tập cho mọi người với những hình thức học tập, thực hành
linh hoạt, đáp ứng yêu cầu học tập thường xuyên.

22


- Đổi mới mạnh mẽ giáo dục mần non và giáo dục phổ thông. Phát triển
giáo dục mầm non trên mọi địa bàn dân cư, đặc biệt là ở nông thơn và vùng khó
khăn. Đối với giáo dục phổ thơng cần khẩn trương điều chỉnh, khắc phục tình
trạng quá tải, thực hiện nghiêm túc chương trình giáo dục và sách giáo khoa phổ

thông đảm bảo cơ bản, khoa học; tổ chức phân ban kết hợp với tự chọn ở trung
học phổ thông; thực hiện phổ cập đúng độ tuổi và bảo đảm chất lượng toàn diện
cấp tiểu học; thực hiện chương trình kiên cố hóa trường học, lớp gắn với chuẩn
hóa về cơ sở vật chất.
- Phát triển hệ thống hướng nghiệp và dạy nghề. Đa dạng hóa các loại hình
dạy nghề, phát triển nhanh hình thức đào tạo nghề dài hạn theo hướng hiện đại.
- Đổi mới hệ thống giáo dục đại học, sau đại học. Đào tạo đại học phải thực
hiện tốt việc gắn đào tạo với sử dụng, trực tiếp phục vụ việc chuyển đổi cơ cấu lao
động, phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao; thiết kế cơ cấu hệ thống
giáo dục đại học hoàn chỉnh, đồng bộ với giáo dục phổ thông và giáo dục nghề
nghiệp...; chương trình đào tạo đại học phải thiết thực vừa đáp ứng yêu cầu thực
tiễn phát triển kinh tế - xã hội, vừa tiếp cận trình độ tiên tiến khu vực và thế giới.
- Bảo đảm số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở tất cả các cấp
học, bậc học. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
- Thực hiện xã hội hóa giáo dục. Huy động nguồn lực vật chất và trí tuệ
của xã hội, tham gia chăm lo cho sự nghiệp giáo dục
- Đổi mới cơ chế quản lý giáo dục. Phân cấp, tạo động lực và sự chủ động
của các cơ sở, các chủ thể tiến hành giáo dục.
- Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo. Tiếp cận chuẩn mực
giáo dục tiên tiến trên thế giới, tham gia đao tạo nhân lực khu vực và thế giới.
Thứ năm, xây dựng đời sống mới mà nền tảng là đời sống gia đình, giáo
dục văn hóa gia đình, tạo cơ sở bền vững cho việc xây dựng các thế hệ con
người Việt Nam. Đây là vấn đề xã hội phức tạp, liên quan trực tiếp đến hạnh

23


phúc hay bất hạnh của trẻ em. Nó để lại những dấu ấn hoặc tốt hoặc xấu trong
quá trình hình thành nhân cách con người.

Thứ sáu, giáo dục truyền thống đạo đức văn hóa của con người Việt Nam,
truyền thống lịch sử, truyền thống lịch sử, truyền thống cách mạng của dân tộc,
của Đảng, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Họ ngày càng xa cách với quá khứ, do
đó phải thường xuyên quan tâm giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Đây là vấn
đề cốt yếu để xây dựng con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Thứ bảy, giáo dục, rèn luyện đảng viên xứng đáng là những gương mặt
tiêu biểu cho con người Việt Nam. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về
mọi mặt để xứng đáng là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm
cua dân tộc và thời đại.
4. Vận dụng nhân tố con người trong xây dựng Quân đội nhân dân
Việt Nam trong thời kỳ mới.
Xây dựng QĐND Việt Nam chính quy là yêu cầu tất yếu trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam XHCN, là một quá trình biến đổi cách
mạng sâu sắc trong lĩnh vực quân sự làm cho Quân đội ta phát triển lên một
trạng thái mới về chất. Sự thành công của nhiệm vụ xây dựng quân đội chính
quy địi hỏi vừa phải có sự ổn định chính trị, cơ sở vật chất, VKTB kỹ thuật
được tranh bị đồng bộ, hiện đại, nguồn lực con người phải đủ về số lượng, chuẩn
hố về chất lượng, trong đó con người trong quân đội là động lực, là yếu tố tổ
chức tác động trực tiếp đến tiến trình xây dựng quân đội chính quy.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, con người vừa là điểm
khởi đầu vừa là sự kết thúc, là trung tâm của sự biến đổi lịch sử, là chủ thể chân
chính của q trình xã hội. Ở đây, yếu tố con người (quân nhân) để xây dựng
một đội quân cách mạng, chính quy với tư cách là chủ thể tập trung vào sự trung
thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, có tri thức khoa học quân sự và xã
hội, có sức khoẻ và có đạo đức trong sáng.
Sự nghiệp xây dựng quân đội chính quy là q trình biến đổi căn bản, sâu
sắc làm tăng cường sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta, nó địi hỏi phẩm chất

24



con người "Anh bộ đội Cụ Hồ” với tư cách là chủ thể nếu chỉ cần cù, trung
thành, quyết tâm cao chưa đủ, mà điều quan trọng là trí tuệ khoa học, ý chí
quyết thắng, năng động, thích ứng với hồn cảnh, có ý thức kỷ luật, có bản lĩnh
lãnh đạo, nghệ thuật quản lý, sáng tạo trong các hoạt động xây dựng qn đội
chính quy. Như vậy trong tình hình mới, xem xét đánh giá bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ để xây dựng quân đội phải xem xét trên bình diện con người cá nhân và
con người xã hội để lựa chọn đội ngũ.
Khi cuộc cách mạng KHCN hiện đại phát triển như vũ bão, bản chất của
nhiệm vụ xây dựng qn đội chính quy là hiện đại hố qn đội thì vai trị của
chủ thể, nguồn lực con người biểu hiện ở những điểm sau:
- Các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý quân sự
là sự tồn tại tiềm năng, chỉ có tác dụng khi có ý thức con người. Chỉ có những
qn nhân cách mạng có tư duy, trí tuệ, ý chí biết gắn kết các nguồn lực lại với
nhau, tạo thành sức mạnh tổng hợp tác động vào xây dựng chính quy quân đội.
Các nguồn lực khác là khách thể, chịu sự cải tạo của họ, do đó, yếu tố con người
trong quân đội là yếu tố quan trọng quyết định nhất.
- Các nguồn lực khác là có hạn, có thể ảnh hưởng tăng hoặc giảm, cạn kiệt
do nhiều lý do khác nhau trong quá trình vận động phát triển, nhưng nguồn lực
con người mà cốt lõi trí tuệ là nguồn lực vơ tận. Tính vơ tận, trí tuệ của con
người quân nhân cách mạng là có khả năng tái sinh và sản sinh khơng chỉ về
sinh học mà cịn cả tri thức khi có sự chăm lo, bồi dưỡng đào tạo, khai thác hợp
lý. Một đội ngũ được đào tạo chuẩn, có tri thức đạo đức, có kỷ luật nghiêm,
trung thành tuyệt đối với sự nghiệp, có ý chí vượt khó, khơng quản ngại hy sinh,
có khả năng hội nhập sẽ là động lực, là yếu tố tác động quyết định đến sự thành
công của xây dựng quân đội chính quy, có sức chiến đấu cao.
- Trí tuệ của con người, trí tuệ của một tập thể, một cộng đồng thống nhất ý
chí và hành động có sức mạnh to lớn khi được cụ thể hoá trong các nhiệm vụ
xây dựng quân đội chính quy, trở thành lực lượng quyết định xây dựng chính
quy của mỗi qn đội. Vì họ từng bước làm chủ nhiệm vụ, khám phá và sáng tạo


25


×