Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VÙNG NAM BỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.28 KB, 27 trang )

BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
VÙNG NAM BỘ

I. KHÁI QUÁT CHUNG:
1. Môi trường tự nhiên:
Chia 2 khu vực chính: Đông nam bộ và Tây nam bộ
Đặc điểm nổi bật:
Đông nam bộ: là vùng chuyển tiếp giữa cao nguyên và đồng bằng, vùng gò
đồi với vùng châu thổ. Địa hình thấp dần từ Tây bắc xuống Đông nam.
1. Bao gồm các tỉnh: Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Nai, Bà Rịa
- Vũng Tàu và Thành phố Hồ Chí Minh
2. Cấu tạo địa chất và thổ nhưỡng: cao nguyên đất đỏ núi lửa( phía nam cao
nguyên Trung Bộ). Dải đất xám nằm giáp đồng bằng châu thổ(hạ lưu sông Đồng
Nai). Có dải bờ biển và các đảo nhỏ
3. Khí hậu: nhiệt độ, độ ẩm cao đều trong năm. Sông ngòi có trữ lượng nước
lớn phụ thuộc vào mùa mưa
Tây nam bộ: gồm các tỉnh Long An, Sóc Trăng, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng
Tháp, Vĩnh Long….
1. Chia ra thành nhiều tiểu vùng môi sinh. Vd: vùng phù sa không ngập
nước, ngập nước, châu thổ sông Cửu Long….và 1 số vùng khác.
2. Khí hậu: á xích đạo
3. Thổ nhưỡng: nhiều loại đất: phù sa, phèn, mặn…
4. Sông ngòi nhiều, bị chia cắt
5. Rừng và biển: rừng ngập mặn, hải sản phong phú
2. Phân bố các dân tộc vùng Nam bộ
2.1 Đông Nam Bộ (Gồm cư dân tại chỗ và cư dân từ nơi khác đến)
 Cư dân tại chỗ thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơme, ngữ hệ Nam Đảo:
Xtiêng, M’nông, Chơro, Mạ, Chăm, Khơme, Hoa…
1



 Cư dân từ nơi khác đến: Kinh, Mường, Tày, Nùng, Thái, Dao…
2.2 Tây Nam Bộ chủ yếu là Chăm, Hoa, Khơ me.
Ngoài ra còn 1 số các dân tộc khác từ miền bắc, Tây Nguyên: Kinh, Tày, Thái,
Mường, Êđê..
3. Những giá trị văn hóa và sắc thái vùng
 Đông Nam bộ mang đặc điểm và giá trị văn hóa của các tộc người MônKhơme là chủ yếu
1. Đó là Văn hóa của cư dân bản địa, làm nương rãy ở vùng núi cao phía
Nam cao nguyên Trung bộ với trình độ phát triển khác với các tộc người ở miền
Tây nam bộ
2. Do vị trí địa lí nên văn hóa các tộc người khu vực miền Đông có mối
quan hệ nhiều chiều với văn hóa Việt
 Tây nam Bộ mang đặc điểm và giá trị văn hóa Chăm, Khơme, Hoa
Văn hóa các tộc người thiểu số miền Tây nam bộ bị chi phối bởi các tôn giáo
lớn trên thế giới: Phật giáo, Hồi giáo, Thiên chúa, Tin lành..bản sắc văn hóa người
chăm, Khơ me, Hoa tồn tại thích ứng với các nghi lễ, giáo luật của Phật giáo, Hồi
giáo…
 Văn hóa các tộc người thiểu số vùng Nam bộ là dấu ấn văn hóa của các thế
hệ tiền nhân thời sơ sử hàng ngàn năm trước.
Đó là dấu tích của các cường quốc thời sơ khai với các nhà nước Phù Nam ,
Chân lạp. đó là bằng chứng về 1 miền đất đã từng có nền Văn hóa phát triển rất
rực rỡ về kinh tế, nghệ thuật, tôn giáo tín ngưỡng


Văn hóa các tộc người thiểu số vùng Nam bộ là sự phản ánh những giá trị

tư duy và hoạt động trong sự thích ứng với môi trường: con người sống trên các
cao nguyên, đồng bằng châu thổ, sông suối, kênh rạch, biển cả trong hệ sinh thái
rừng, biển, hệ thực vật, động vật…
4. Những yếu tố văn hóa mới
2



Trong thời đại ngày nay, văn minh công nghiệp trên phạm vi toàn cầu tác
động mạnh mẽ vào nền kinh tế đất nước ta. Nhiều yếu tố văn hóa mới của thời đại,
quốc tế, quốc gia từng ngày, từng giờ tác động đến văn hóa dân tộc và văn hóa
vùng Năm bộ. sự xuất hiện yếu tố văn hóa mới là 1 xu thế tất yếu trong phát triển.
Tác động mạnh mẽ trên nhiều phương diện chính trị, kinh tế, xã hội trong thời
kỳ đổi mới đất nước đã làm cho các giá trị văn hóa truyền thống của các đơn vị
cộng đồng, gia đình và cá thể của các dân tộc có sự biến đổi ngày càng sâu sắc:
kinh tế , chính trị, hình thái gia đình và cơ cấu gia đình , tập tuc hôn nhân, văn hóa
vật thể các dân tộc vùng Nam bộ , ngoại trừ phong cách kiến trúc tôn giáo như
chùa Khơme, thánh đường Hồi giáo của người Chăm; đình , chùa, đền… Trang
phục, văn hóa ẩm thực phương tiện vận chuyển, văn hóa phi vật thể của các dân tộc
thiểu số: chữ viết, các loại hình nghệ thuật dân gian, tôn giáo tín ngưỡng, lễ hội
truyền thống, tri thức dân gian.
II. SỰ BIẾN ĐỔI VĂN HÓA:
Nước ta có 54 dân tộc anh em cùng chung sống hòa hợp trên cùng một lãnh
thổ.Với những nét truyền thống về văn hóa ,xã hội riêng biệt của từng dân tộc ,vì
vậy đã góp phần tạo nên sự đa dạng về bản sắc văn hóa của dân tộc Việt
Nam.Nhưng hiện nay bên cạnh sự phát triển của đời sống,kinh tế, xã hội và một số
nguyên nhân khác thì đã trực tiếp tác động vào một số lĩnh vực văn hóa của các dân
tộc khu vực Nam Bộ tạo nên những nét chuyển biến thay đổi rõ rệt giũa những nét
truyền thống cổ truyền và hiện đại:
1. NGÔN NGỮ VÀ CHỮ VIẾT:
Ngôn ngữ là một trong các thành tố trong văn hóa phi vật thể của các
dân tộc vùng Đông Nam Bộ nói riêng và cả đất nứơc ta nói chung.Không nằm
ngoài quy luật vận động tất yếu của các hiện tượng thuộc về bản chất của văn hóa.
Hiện nay về vấn đề ngôn ngữ đã có sự thay đổi chuyển biến đối với các
dân tộc, ví dụ cụ thể như:
3



Ở dân tộc Chăm: Nguồn gốc tiếng Chăm là ngôn ngữ của người Chăm ở Đông
Nam Á,Trước đây là ngôn ngữ của người ChămPa ở miền Trung Việt Nam.,đâylà
ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Mã Lai-Polynesia của hệ ngôn ngữ Nam Đảo.
Về truyền thống trước đây người dân tộc Chăm trong cuộc sống sinh
hoạt thường ngày giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ của dân tộc mình.
Nhưng hiện nay nhờ có quá trình giao lưu của các tộc người trong khu
vực trong quá trình cộng cư và quan hệ kinh tế,xã hội đã có quan hệ qua laị tác
động lẫn nhau.Nên ngôn ngữ phổ thông (tiếng việt) đã dần dần thâm nhập ,len lỏi
vào đời sống cộng đồng dân tộc Chăm.Được dân tộc Chăm sử dụng phổ biến song
song với ngôn ngữ dân tộc trong cuộc sống thường ngày.Bên cạnh đó thì một bộ
phận học sinh.sinh viên ở dân tộc này còn được học một số ngoại ngữ khác
như:Tiếng Anh,tiếng Ả Rập...và số người dân biết tiếng phổ thông ngày càng tăng.
-

Ở dân tộc Mạ: Nguồn gốc của ngôn ngữ dân tộc Mạ thuộc hệ Nam

Á,nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ me.
Trước đây do ít được tiếp xúc với người Kinh,.mà dân tộc Mạ lại cư
trú ở khu vực đóng kín vì vậy nên những người Mạ rất ít biết tiếng phổ thông,nhất
là đối với nữ giới và lứa tuổi từ 60 trở lên.
Hiện nay sau khi trải qua hai cuộc kháng chiến Pháp –Mỹ,vì quê
hương của người Mạ phần lớn là vùng căn cứ địa cách mạng ,một số khác là vùng
tạm chiếm nên việc tiếp xúc với người Kinh diễn ra được thường xuyên hơn,ngày
càng được mở rộng và trở thành nhu cầu trong cuộc sống.
Đến nay thì đa số người Mạ đã biết tiếng phổ thông và chữ quốc
ngữ .

Qua hơn 20 năm sau giải phóng người Mạ đã biết sử dụng tiếng phổ thông


và chữ quốc ngữ một cách thuần thục hơn trước,nhất là giới trẻ.
CHỮ VIẾT:

4


Cũng như về ngôn ngữ,chữ viết cũng là một trong các thành tố thuộc về lĩnh
vực văn hóa phi vật thể có sự chuyển biến một cách rõ rệt.được biểu hiện cụ thể ở
một số các dân tộc như:
Thứ nhất được thể hiện ở dân tộc Chăm:về nguồn gốc và truyền thống
thì dân tộc Chăm có chữ viết riêng,chữ viết chăm được sử dụng để viết tiếng
chăm,bộ chữ cái của dân tộc chăm bắt nguồn từ chữ Phạn thuộc hệ Bhrami,chữ
Chăm ghi lại âm tiết ( có chữ cái chỉ nguyên âm,nhưng các chữ cái ghi lại phụ âm
có nguyên âm đi kèm luôn trong đó),chữ này thi viết hàng ngang ,từ bên trái sang
bên phải.
Cộng đồng của người Chăm ngày nay có hai nhóm cách biệt
nhau:Người tây chăm ở Campuchia và người Đông chăm ở Việt Nam.chữ viết ở 2
nơi này thì cách xa nhau:
- Người tây chăm phần lớn theo đạo Hồi và ngày nay ưa chuộng dùng chữ Ả
Rập.
- Người Đông chăm ở Việt Nam theo đạo Hin Đu thì vẫn sử dụng chữ viết
riêng của họ.
Trước đây chữ viết chăm bị hạn chế vì vậy nên nhiều người trong dân
tộc không biết đến.Nhưng nay do các chính sách của Đảng và nhà nước thì chữ viết
chăm đã được phổ biến rộng rãi hơn, và đã được trực tiếp đưa vào giảng dạy ở các
trường của địa phương.
Thứ hai được thể hiện rõ qua dân tộc Hoa: Về nguồn gốc: Dân tộc Hoa
có nguồn gốc từ Trung Quốc nên chữ viết riêng gọi là chữ Hán.Ngoài ra chữ Hán
còn được gọi là chữ nho, chữ Trung Quốc.Là một dạng chữ viết biểu ý của tiếng

Trung Quốc.CHỮ Hán có nguồn gốc bản địa sau đó du nhập vào các nước lân cận
như: Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam.

5


Hiện nay dân tộc Hoa vẫn duy trì và bảo tồng được chữ viết của dân
tộc mình.hiện tại thì chữ viết của người Hoa đã được đưa vào giảng dạy trong các
trường học.
Thứ 3 là ở dân tộc Khơ me:Chữ viết cả người khơ me thuộc ngữ hệ
Nôm-Khơ me,theo như trên bia đá có lưu lại thì chữ người khơ me có từ thập kỷ
đầu sau công nguyên và dần dần được cải tiến thành chữ khơ me hoàn thiện như
ngày hôm nay.Nhưng qua thực tế cho thấy rằng,đồng bào người dân khơ-me ,hiện
có nhiều người chỉ nghe được tiếng nói mà không đọc được chữ viết của dân tộc
mình ,bên cạnh đó số người biết chữ còn rất ít,chủ yếu là những người từng tu học
trong chùa còn lại đa phần không biết chữ.trước tình hình đó Đảng và nhà nước ta
đã đưa ra chính sách nhằm bảo tồn và phát huy chữ viết của đồng bào các dân tộc
trong đó có dân tộc khơ-me. Hiện tại chữ viết của người Khơ- me được áp dụng
đưa vào giảng dạy ở các trường phổ thông, nơi có đông đồng bào khơ-me sinh
sống.Từ đó người dân biết viết tăng lên đáng kể.
2. LỄ HỘI:
Cũng là một trong những yếu tố của văn hóa phi vật thể.Như ta đã biết lễ hội
là sự kiện văn hóa được tổ chức mang tính chất cộng đồng:
Lễ là hệ thống những hành vi động tác nhằm biể hiện sự tôn kính của
con người với thần linh, qua đó phản ánh ước mơ chính đáng của con người trước
cuộ sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện.
Hội là sinh hoạt văn hó, tôn giáo, tín ngưỡng, nghệ thuật của cộng
đồng. Xuất phát từ nhu cầu của cuộc sống.
Hiện nay bên cạnh những biến động của nền kinh tế, văn hóa, xã hội
cùng đó là những nguyên nhân về chủ quan và khách quan đã tác động mạnh mẽ

đến các yếu tố giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa của các dân tộc.Một số đã làm
nên sự thay đổi rõ rệt trong yếu tố văn hóa như lễ hội. Nhưng bên cạnh đó thì ta
6


cũng phai tự hào vế bản sắc văn hóa dân tộc vẫn còn giữ vững những giá trị truyền
thống góp phần tạo nên sự đặc sắc của bản sắc văn hóa dân tộc.
Các dân tộc khu vực Nam Bộ có nhiều các lễ hội vẫn giữ được bản sắc
văn hóa không bị biến đổi .được thể hiện ở các dân tộc như:
Ở dân tộc Chăm: Thì lễ hội có ý nghĩa giáo dục rất lớn đối với các thế hệ
sau,hướng về cội nguồn tâm linh,hướng về nhiều giá trị văn hóa cha ông,thế hệ đi
trước ở trong đó.Lễ hôi chăm vô cùng phong phú và đa dạng,bên cạnh đó vẫn giữ
nguyên vẹn được bản sắc truyền tống dân tộc cho tới ngày nay như:Lễ hội cầu
mưa,lễ hội mở cửa tháp chăm,lễ hội Raya Phik Trok,lễ hội tháp bà Po Nagar...
Ở dân tộc Khơ-me như: Lễ hội:Đôn Ta,Lễ hội đua bò bảy núi,lễ hội Ók
Om Bok (lễ cúng trăng)...
Dân tộc x’tiêng thi có lễ hội Đâm Trâu, lễ hội cầu mưa…..
Trên đây là tiêu biểu cho những lễ hội của các dân tộc đang giữ đươc
những nét truyền thống, đặc sắc của bản sắc văn hóa dân tộc mình
Những lễ hội cổ truyền, truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc
thì nó bao gồm những yêu tố như:
Thứ nhất: Là lễ hội gắn liền với đời sống tâm linh,tôn giáo tìn
ngưỡng,nó mang tính thiêng vì vậy nó thuộc thế giới thần linh, thiêng liêng, đối lập
với đời sống trần gian, trần tục. Có nhiều sinh hoạt, trình diễn trong lễ hội nhìn bề
ngoài là trần tục, như các trò vui chơi giải trí, thi tài, các diễn xướng mang tính
phồn thực, nên nó mang tính “tục”, nhưng lại là cái trần tục mang tính phong tục,
nên nó vẫn thuộc về cái thiêng.
Thứ hai: - Lễ hội cổ truyền,truyền thống là một sinh hoạt văn hóa
mang tính hệ thống tính phức hợp một hiện tượng văn hóa dân gian tổng thể hiện
tượng bao gồm gần như tất cả các phương diện khác nhau của đời sống xã hội của

con người: sinh hoạt tín ngưỡng, nghi lễ, phong tục, giao tiếp và gắn kết xã hội, các
sinh hoạt diễn xướng dân gian (hát, múa, trò chơi..) các cuộc thi tài, vui chơi, giải
7


trí, ẩm thực, … Không có một sinh hoạt văn hóa truyền thống nào của nước ta lại
có thể sánh được với lễ hội cổ truyền truyền thống , trong đó chứa đựng đặc tính
vừa đa dạng vừa nguyên hợp này.
Thứ ba: Chủ thể của lễ hội cổ truyền thống là cộng đồng, Cộng đồng
chính là chủ thể sáng tạo, hoạt động và hưởng thụ các giá trị văn hóa của lễ hội.
 Đây là những yếu tố của một lễ hội truyền thống,cổ truyền ở các dân tộc.
Ngoài ra bên cạnh những nét bán sắc văn hóa truyền thống mà các dân tộc
còn giữ được thì có một số yếu rố đã làm thay đổi ,biến đổi ,cải thiện làm mất đi cái
gốc ban đầu.Như:ở lễ hội cúng Thần Lúa (Sayangva ) của dân tộc ChơRo:Lễ hội
nay diễn ra vào tháng 3 âm lịch,đây cũng là lễ hội lớn nhất trong năm của dân tộc
ChơRo,về truyền thống thì lễ hội này kéo dài trong nhiều ngày đêm ,thu hút các
cộng đồng tham gia,họ vui chơi, ca nhảy múa trong không khí náo nhiệt của lễ hội
sau nhiều ngày nhọc sức lên nương,làm rẫy,đi rừng săn bắt để lo cho cái ăn ,cái
mặc thường ngày.
Nhưng hiện nay ở một số nơi người ChơRo vẫn tổ chức lễ hội này
nhưng do tác động nhiều mặt của xã hội nên lễ hội này không còn kéo dài và quy
mô như xưa.
Ở dân tộc M’nông trong một thời gian dài do nhiều lý do khác nhau
nên một số những lễ hội đang ngày càng bị mai một dần trong đó một số lễ hội đã
không được đồng bào tổ chức nữa như:Lễ kết nghĩa, lễ đón khách...
NGUYÊN NHÂN:
Sự thay đổi của ngôn ngữ, chữ viết và lễ hội của các dân tộc vùng Nam Bộ
là:Sự biến đổi theo hai chiêu hướng :thứ nhất là biến đổi theo chiều hướng tích cực
thứ hai là biến đổi theo chiều hướng tiêu cực.với nguyên nhân chủ yếu là nguyên
nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan:

Về nguyên nhân chủ quan:
8


+ Thì những giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc vùng Nam Bộ
như:Ngôn ngữ ,chữ viết , và lễ hội .ta thấy được đây là những giá trị văn hóa truyền
thống không phải là những giá trị mang tính chất đóng kín,mà nó luân vận
động,tiếp biến cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội,chính sách phát triển
của nhà Đảng và nhà nước.
+ Nam Bộ là vùng đất có vị trí địa lí thuận lợi trong hoạt động giao thoa
văn hóa đối với các khu vưc khác.
+ Quan hệ giữa các tộc người trong khu vực và các dân tộc khác càng
ngày càng phát triển do các yếu tố tác động như :do nhu cầu hoạt động :kinh tế ,văn
hoa,chính trị,xã hội...là nguyên nhân tác động đến sự thay đổi các giá trị văn hóa
trong đó có ngôn ngữ ,chữ viết và lễ hội.
Về nguyên nhân khách quan:
+ Do chính sách của Đảng và nhà nước ta qua các thời kỳ.
+ Do sự phát triển của nền kinh tế, xã hội của đất nước ta.Nên giá trị
văn hóa truyền thống cũng thay đổi để phù hợp với nhu cầu của cuộc sống hiện
đại.
+ Sự phát triển của khoa học kỹ thuật công nghệ. Thời đại của công
nghệ thông tin đại chúng là nguyên nhân trực tiếp làm biến đổi gá trị văn hóa.
GIẢI PHÁP:
Các giá trị văn hóa truyền thống: ngôn ngữ, chữ viết và lễ hội thay đổi
theo hai hướng tích cực và tiêu cực.Thì có các giải pháp như sau:
- Về ngôn ngữ và chữ viết:
+ Đảng và nhà nước cần đưa ra những chính sách khuyến khích, trẻ em,
lứa tuổi đến trường để đi học.
+ Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động đến những người
dân.không để cho con, em nghỉ học vì các lý do.

- Về lễ hội:
9


+ Nhà nước ta cần hỗ trợ về kinh phí cho các dân tộc, đồng thời nâng
cao vấn đề tuyên truyền quảng bá hình ảnh của các lễ hội.
+ Không nên áp đặt một khuân khổ bất kỳ nào cho lễ hội mà để nó phát
triển diễn ra theo tự nhiên đúng bản chất của nó.
+ Ngoài phần lễ hội ra thì cần mở thêm các hoạt động khác: ẩm thực,
các trò chơi ....Để tạo nên sự thu hút với du khách tham gia.
+ Xây dựng các chương trình lễ hội ở các dân tộc ở phạm vi cấp tỉnh,
vùng và quốc gia định kỳ hàng năm.
+ Xây dựng cơ chế chính sách đặc thù cho việc bảo tồn và nâng cao
đời sống cho người dân đối với các vùng dân tộc thiểu số.
+ Tái tạo các lễ hội truyền thống đã bị mai một dần.bằng cách mời
những người trong khu vực những ngưới có kinh nghiệm tạo lại lễ hội đó.

3. TÔN GIÁO TÍN NGƯỠNG:
- dân tộc Chăm:
+ Thực trạng: trước kia người Chăm theo tín ngưỡng dân gian bản địa. nhưng
ngày nay dân tộc này theo hồi giáo, chia làm 3 nhóm chính (chăm bà là môn, chăm
bà ni, chăm islam)
+ Nguyên nhân:
+ Sự tác động của cuộc sống hiện đại cùng mặt trái của cơ chế thị trường đã
làm rạn nứt tôn giáo truyền thống và thúc đẩy xu hướng thế tục hóa trong xã hội
người chăm.
+ Nội bộ tu sĩ giáo lý, giáo lịch không thống nhất với nhau

10



+ Do tác động của các luồng văn hóa mới làm cho tư tưởng của người chăm
không còn tin theo tôn giáo truyền thống của họ, bắt đầu lìa bỏ tín ngưỡng dân gian
bản địa để đi tìm 1 đức tin khác. Một ý thức tôn giáo mới được xác lập.
+ Sự gia tăng, hiện diện của các tôn giáo khác làm cho diện mạo tín ngưỡng
tôn giáo của người chăm trước đây có xu hướng phát triển theo chiều hướng mới
-

Giải pháp:

+ Củng cố nội bộ, chức sắc và hội đồng tôn giáo truyền thống của người chăm
để tạo ra sự đoàn kết nhất trí, và vấn đề nầy cần có sự giúp sức của chính quyền địa
phương để tạo điều kiện cho các chức sắc, tu sĩ Chăm hướng dẫn tín đồ hành đạo
trong phạm vi lễ nghi tôn giáo, gắn bó hài hòa trong khối đai đoàn kết dân tộc.
+ Thống nhất lịch chăm, xóa bỏ sự chênh lệch ngày tháng, để tránh gây xáo
trộn trong cọc sống đồng bào Chăm.
+ Bảo tồn di sản văn hóa dân tộc, xóa bỏ hủ tục, tiếp thu tinh hoa văn hóa bên
ngoài góp phần làm giàu thêm bản sắc văn hóa cho dân tộc Chăm.
+ Giải quyết vấn đề tôn giáo ở vùng chăm, ngoài bản thân người chăm cần có
sự kết hợp của ngành, nhiều cấp chính quyền địa phương.
-Dân tộc xtiêng, mnông, chơro, mạ: trước đây, các dân tộc này đều theo tín
ngưỡng dân gian bản địa có từ lâu đời. đến nay các dân tộc này vẫn giữ được tín
ngưỡng truyền thống của dân tộc mình và không có gì thay đổi
-Dân tộc khơme:
-thực trạng: từ lâu đời, người khơ me có hệ thống tín ngưỡng dân gian bản địa.
sau đó, trước sự du nhập của đạo phật nên người khơme theo đạo phật và ngành
tiểu thừa chính là tôn giáo chính thống của người khơme nam bộ
-nguyên nhân:
+do phong tục tập quán truyền thống đã dần bị biến đổi, từ bối cảnh kinh tế xã
hội của đất nước

11


+các ngôi chùa khơme ngày càng ít dần và không được tu sửa nên không giữ
được tín ngưỡng truyền thống như trước
+sự du nhập của các đạo phật mạnh mẽ từ bên ngoài vào làm người khơme bị
ảnh hưởng sâu sắc dẫn đến tiếp thu các luồng văn hóa mới và dần dần bị thay đổi
-giải pháp:
+trùng tu sửa chữa các chùa khơme được cấp địa phương quan tâm, đầu tư hỗ
trợ
+hỗ trợ đồng bào dân tộc khơme bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống


Dân tộc hoa

-thực trạng: từ xa xưa, nguời hoa theo tín ngưỡng thờ “đa thần”. đến nay, họ
vẫn giữ được tín ngưỡng truyền thống của dân tộc mình và không thay đổi. ngoài ra
họ còn tiếp thu một số tôn giáo lớn như; phật giáo, đạo giáo, thiên chúa giáo, tin
lành,…
4. NGHỆ THUẬT DÂN GIAN:


dân tộc khơme

-thực trạng: trước đây, nghệ thuật dân gian của người khơme chủ yếu là các
hình thức dân gian bản địa do kinh nghiệm lao động sản xuất truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác mà sáng tạo ra như các làn điệu dân ca như sinh hoạt vui chơi, mĩ
nghệ dân gian,… ngày nay, các hình thức dân gian trên có sự cách tân 1 phần và
không còn nguyên vẹn như trước

-nguyên nhân:
+do ảnh hưởng sâu rộng trong văn hóa tinh thần của người campuchia nên
nghệ thuật dân gian bản địa bị pha trộn
+các nghệ nhân hoạt động trong các lĩnh vực nghệ thuật dân gian 1 phần đã
mất không truyền dạy đến được cho đời sau dẫn đến nghệ thuật dân gian bị mai
một.
12


-giải pháp
+khuyến khích các tầng lớp thanh niên phát huy bản sắc nghệ thuật dân gian
của dân tộc mình bằng cách theo học các nghệ nhân, nghệ sĩ có kinh nghiệm hoạt
động nghệ thuật dân gian.
+tổ chức quay phim lại những chủ đề nghệ thuật có nội dung mang tính truyền
thống, hát những bài hát của các nghệ nhân cao tuổi.
+sưu tầm các hiện vật dân gian do những nghệ nhân thế hệ trước để lại


dân tộc xtiêng, mnông, chơro, mạ:

-thực trạng: nghệ thuật dân gian của các dân tộc này khôn phong phú, đa dạng
như các cộng đồng khơme, chăm, hoa. Trước kia hoạt động nghệ thuật mang tính
dân gian bản địa song đến ngày nay, các dân tộc này vẫn giữ được đậm chất cá tính
và bản sắc riêng của dân tộc mình, không bị biến đổi.


dân tộc chăm

-thực trạng: nghệ thuật dân gian của người chăm từ lâu đời mang đậm nét tính
dân gian của vùng. Trước đây sự tồn tại các hình thức dân gian không phổ biến và

hầu như không phát triển. đến nay các hình thức nghệ thuật dân gian đuoẹc phục
hồi, phát triển và được cách tân lại rất nhiều so với trước.
- Nguyên nhân:
+ Do sự tác động của đời sống xã hội và nhu cầu của người thưởng thức nhiều
hơn trước dẫn đến cách tân nghệ thuật để đáp ứng nhu cầu của người dân.
+ Do ảnh hưởng về văn hóa của người nước ngoài du nhập vào.
-

Giải pháp:

+ Sưu tầm các sản phẩm nghệ thuật dân gian chăm truyền thống để bảo tồn và
phát huy nó
+ Tổ chức các hoạt động có nội dung mang tính dân gian nhằm bảo lưu truyền
thống của dân tộc chăm
13


+ Mở lớp dạy, các lớp học về lĩnh vực nghệ thuật dân gian cho các thế hệ con
cháu.
Dân tộc Hoa:
+ Thực trạng: nghệ thuật dân gian của người Hoa trước đây với các loại hình
truyền thống khá đồ sộ và phong phú. Ngày nay họ vẫn lưu giữ bản sắc riêng của
dân tộc mình trong lĩnh vực dân gian về nghệ thuật.
5. TRANG PHỤC
Trang phục các tộc người thiểu số ở Nam Bộ có vai trò rất lớn trong xã
hội. Tuy nhiên nó không phải là 1 thành tố bất biến. Là một thành tố vật chất trong
đời sống con người, trang phục cũng luôn biến đổi cùng với môi trường mà nó tồn
tại. Nó có thể biến đổi từ cái riêng đến cái chung, biến đổi theo hướng hiện đại hóa
theo hướng hiện đại hóa cả về chất liệu lẫn chủng loại, phương pháp kĩ thuật chế
tác. Xu hướng này phản ánh trình độ phát triển của 1 cộng đồng đân cư, 1 tộc

người, phản ánh sự giao thoa và giao lưu văn hóa trong quá trình sống, lao động
của các tộc người nơi đây.
Điều đấy được phản ánh như sau:
Đầu tiên, có thể nhận thấy trang phục trong lao động, trong cuộc sống thường
ngày của cư dân nơi đây có sự biến đổi, âu phục được sử dụng phổ biến trong nhân
dân, tỉ lệ trang phục ngày càng ít đi, nếu có thì chỉ ở phụ nữ hay trong các dịp lễ hội
truyền thống mà ngày càng chuyển sang mặc trang phục theo kiểu âu phục. Biểu
hiện cụ thể là trang phục của người Khơ-me, trước đây phụ nữ Khơ-me thường mặc
áo dài cổ tròn, mặc theo kiểu chui đầu, không xẻ tà. Nay họ ăn mặc giống bộ bà ba
đen giống với trang phục của phụ nữ kinh, để giản tiện trong sinh hoạt nhiều phụ
nữ khơ me ngày thường mặc giống như người Kinh nam bộ. Các cô gái mặc áo
cánh hoa hoặc áo sơ mi. Hay là với tập tục của người Chăm, phụ nữ Chăm khi ra
đường phải lấy khăn che mặt, nay thay vào đấy là khăn choàng phủ kín tóc.Dân tộc
Xtiêng với nghề dệt không phát triển, có sự giao thoa văn hóa với các tộc người
14


khác nên trang phục của họ cũng có sự biến đổi như thiếu nữ mặc áo chui đầu có
màu chàm có hoa văn ở cẩu vai, nách và gấu áo, đầu quấn dải bang nhỏ, mảnh, váy
dài quá bắp chân, có màu đỏ. Và được chia làm 3 phần ngang nhau. Bên cạnh đấy,
dân tộc Chơro, hầu như trang phục của họ cũng biến đổi, mặc theo lối người kinh.
Phụ nữ thường mang đồ trang sức là vòng cổ, vòng tay bằng hạt cườm ngũ sắc
hoặc bằng đồng, bạc , nhôm….Đối với người Mnông hiện nay, trang phục ưa thích
của họ là loại váy khâu kín hình ống, vải bình thường , không thêu hoa văn. Nam,
nữ thanh niên mặc áo sơ mi, nam giới măc quần âu.
Tiếp theo, trang phục 1 số tộc người còn bảo lưu tốt thông qua các lễ hội
truyền thống, các nghi lễ tôn giáo, cụ thể như đấy là trang phục của người Chăm
islam. Đối với phụ nữ Chăm trong ngày cưới: đầu đội mũ nhung đen, đính hạt
cườm ngũ sắc, tóc búi cao lên đầu trước khi đội, mặc áo dài đỏ không xẻ tà, cài
bằng vải to màu xanhlam chéo ẻ ngực, trong ngày cưới, chú rể đầu đội khăn sal phủ

kín lung, có quấn 2 vòng dây ykal màu đen thả xuống ngang ngực, mặc áo karung
trắng, dài và xà rông hoa văn quả trám hoặc ô vuông, mang nhẫn bạc ở ngón tay.
Chiếc xà rông của Chăm Nam Bộ có sự gần gũi với xà rông của người Khơ me.
Đặc biệt với người Hoa nam bộ, sự thay đổi trang phục có phần ít hơn. Trong ngày
cưới, cô dâu vẫn mặc áo tay dài, cổ đứng, váy màu đỏ, thêu hình rồng phượng. 1
dân tộc không thể không nới tới là dân tộc Khơ me, trang phục của cư dân nơi đây
vẫn được bảo lưu thông qua các nghi lễ tôn giáo phật giáo tiểu thừa. Tiêu biểu là
những mô típ trang trí đính hạt cườm hay kim sa sáng lấp lánh kết hợp hoa văn tinh
xảo. Các loai trang sức như vòng cổ, lắc tay hình trăng, lưỡi liềm, vẫn giữ được nét
đặc thù.
Cuối cùng chất liệu làm nên các bộ trang phục có sự biến đổi từ các chất liệu
làm từ cây bông sang các chất liệu làm từ 1 số chất liệ tổng hợp khác. Những kĩ
thuật như thêu, ghép vải… đã và đang chuyển sang sản xuất bằng máy may. Các
loại thuốc nhuộm lấy từ tự nhiên đã được thay bằng các sản phẩm màu công
15


nghiệp. Hiện nay, 1 số dân tộc còn duy trì dệt vải như dân tộc Mạ, nhưng đấy chỉ là
số ít, phần lớn các dân tộc không còn trồng bông dệt vải , thêu thùa, dệt hoa văn
dần mai một. Những bộ trang phục truyền thống trong cư dân không nhiều. Ví dụ
như các tộc người Chơ ro, Xtiêng trước đây không biết dệt vải về sau họ có du
nhập nghề dệt của người Gie- Triêng, Bana… lân cận nhưng hiện nay không 1
người nào biết dệt, họ ăn mặc như người Kinh, bằng nguồn vải hay trang phục bán
ở chợ. Dân tộc Mnông, trước đây trng nhà luôn có 1 khung cửi , có nhà có vài 3
chiếc để phụ nữ dệt vải lúc nông nhàn nhưng hiện nay số cò lại rất ít.
Nguyên nhân:
- Đường lối chính sách của đảng trên lĩnh vực văn hóa chi phối đến sự vân
động, biến đổi , phát triển của đồng bào dân tộc nơi đây.
- Sự phát triển kinh tế- xã hội đất nước và vùng Nam Bộ với trung tâm là
thành phố Hồ Chí Minh đã có sức lan tỏa sâu sắc và toàn diện đến đời sống văn hóa

truyền thống của cư dân nơi đây. Đòi hỏi chính họ cần có những nét chuyển biến
mới để phù hợp với quá trình vân đông của thời đại.
- Khoa học kĩ thuật cũng là 1 nguyên nhân làm biến đổi các giá trị văn hóa
truyền thống, làm xuất hiện các yếu tố văn hóa mới.
Bên cạnh đấy:
-Để dệt nên 1 sản phẩm đòi hỏi rất nhiều kĩ năng. Kĩ thuật nhiều công đoạn, từ
xe sợi, nhuộm sợi rất phức tạp mà mất nhiều công sức. Hơn thế nữa chính họ cũng
không muốn truyền nghề lại cho con cháu. Bởi lẽ trình độ dân trí họ đã cao hơn, họ
dành hết tiền bạc để con cái được đi học, mở mang tri thức, không còn vất vả.,
- Trang phục làm ra có giá thành đắt đỏ, kiểu dáng không đa dạng bằng trang
phục công nghiệp. Điều đó cũng góp phần làm mai một nghề dệt và trang phục tộc
người.
16


- Môi trường xã hội có ảnh hưởng lớn đến việc thay đổi trang phục tộc người.
Trước đây, ngoài trang phục truyền thống, trang phục của già làng, trưởng bản,
người có địa vị đều có quy định riêng. Đặc biệt là trang phục chức sắc của người
Khơ me đều có quy định nghiêm ngặt. Người ta tuân thủ các quy định ấy, vì họ sợ
bị công đồng xa lánh. Ngày nay, trừ 1 số chức sắc tôn giáo, việc quy định trang
phục không còn phù hợp, họ có thể mua thứ gì họ muốn.
- Hơn nữa trong tiềm thức của họ, họ cũng muốn thay đổi trang phục để phù
hợp với cuộc sống của họ. Như vậy, tính tiện ích của trang phục đã nhanh chóng
làm biến đổi chính nó, theo đà phát triển của xã hội.
BIỆN PHÁP
Với thực trạng và nguyên nhân biến đổi tng phục các tộc người nới trên,
có thể nhận thấy nghề trồng bông dệt vải cổ truyền và nghệ thuật tang trí trên vải
của của đồng bào nơi đây sẽ tiếp tục biến đổi và phủ nhận sạch trơn chính nó trong
vài chục năm tới.Vì vậy việc bảo tồn các gí trị trong trang phục là việc làm cấp
thiết và cấp bách.

+ Nâng cao nhận thức của chính quyền các cấp địa phương, các ban ngành
liên quan về vai trò của văn hóa tộc người trong tiến trình phát triển kinh tế văn hóa
xã hội.
+ Nâng cao nhận thức của đồng bào nơi đây trong việc giữ gìn trang phục
truyền thống của mình. Bởi lẽ ý thức của cộng đồng luôn là nền tảng thiết yếu để
bảo tồn rang phục nơi đây.
+ Muốn bảo tồn các giá trị trong trang phục truyền thống các tộc người phải đi
từ nhận thức, giữ gìn vùng nguyên liệu, duy trì nghề dệt theo phương pháp hiện đại
hóa, giải phóng sức lao động con người. Phải có thị trường tiêu thụ sản phẩm của
họ làm ra để lợi nhuận được duy trì và phát triển sản xuất.

17


+ Phục hồi và phát triển các làng nghề thủ công truyền thống của tộc người
nhằm khai thác thế mạnh của vùng về vùng nguyên liệu, lực lượng lao động, kỹ
năng truyền thống của địa phương.
+ Khôi phục các làng nghề thủ công không có nghĩa các sản phẩm làm ra
nhằm mang tính tự cung tự cấp mà dần làm cho nó trở thành 1 hoạt động kinh tế
quan trọng trong cơ cấu kinh tế chung của từng vùng và mang tính thương mại.
+ Trong điều kiện nước ta chưa đáp ứng các nhu cầu về sản xuất, tiêu dùng,
nhất là ở đồng bào dân tộc thiểu số, hệ thống giao thông kém, khó khăn, việc phát
triển nghề trồng bông , dệt vải trước hết đảm bảo nhu cầu vải mặc cho từng gia
đình, bước đầu tạo ra những sản phẩm dệt có thể bán cho khách du lịch, đô thị, xuất
khẩu. Ở đây cần có sự bố trí phối hợp hỗ trợ của nghề dệt gia đình cá thể với các cơ
sở dệt lớn của từng huyện
+ Hiện nay kĩ thuật nhuộm chưa cao nên vải dùng thuốc nhuộm truyền thống
thường nhanh phai màu. Do đó cần chú ý nghiên cưú tìm ra những biện pháp mới
nhằm tăng độ bền màu cho vải và phổ biến kinh nghiệm cho đồng bào.
+ Nghệ thuật trang trí hoa văn của đồng bào rất độc đáo, nhất là người Xtieng,

Chơro, … cần xây dựng 1 danh mục hoa văn cổ truyền của các tộc người nơi đây.
Lựa chọn hoa văn độc đáo nhất để đặt cho đồng bào sản xuất.
6. NHÀ Ở
Thực trạng.
Nhà ở truyền thống của các tộc người ngày nay càng chiếm tỉ lệ rất ít mà tiếp
thu nhiều phong cách kiến trúc mới:
Trước hết đấy là sự biến đổi các loại hình nhà dài của các tộc người Mônkhmer ở Đông Nam Bộ ngày càng hiếm thấy mà thay vào đó là loại nhà nhỏ và
nhà trệt, nhà đất theo kiểu của người Kinh.
Vùng miền Tây nhà sàn của người Khmer ngày càng ít mà chỉ còn nhà sàn ở 1
số bộ phận người Chăm ở ven sông Hậu ở An Giang.
Tại các trung tâm thị tứ, các thôn ấp, phum sóc, ngày càng xuất hiện nhà xây
lợp ngói hay mái bằng. Chất liệu làm nhà cũng có nhiều biến đổi, thay vì là nhà mái
18


lá lợp từ dừa, sử dụng gỗ, tre làm nhà nay họ dùng ngói lợp âm dương như người
kinh, xây nhà bằng cột bê tông ở người Khmer. Đối với nhà người Xtiêng, trong
quá trình phát triển, nhà ở của họ độc lập trong từng hộ gia đình hạt nhân, tiện nghi
sinh hoạt ngày càng đầy đủ
Một số dân tộc vẫn giữ được nét truyền thống trong ngôi nhà của mình nhưng
chủ yếu là trong các kiến trúc tôn giáo, tiêu biểu là chùa người Khmer, thánh đường
hồi giáo của người Chăm…
Sự biến đổi trong kiến trúc nhà ở 1 mặt làm biến đổi nét đặc trưng văn
hóa truyền thống của dân tộc nơi đây, theo hướng hiện đại hóa hơn, 1 mặt đánh mất
dần không gian văn hóa sinh hoạt trong ngôi nhà. Nhà là hiện thân của không gian
sinh hoạt của các thành viên trong gia đình, trong cộng đồng, là nơi diễn ra các hoạt
động tín ngưỡng như cúng ông lúa, bà lúa, lễ cúng đặt tên, lễ thôi nôi…,nay đã mất
dần tính nguyên sơ vốn có của nó.
Nguyên nhân:
- Do giao lưu văn hóa của các tộc người trong quá trình sống và cùng làm

việc
-

Chính sách phát triển kinh tế văn hóa- xã hội của Đảng và nhà nước, giao

lưu kinh tế, văn hóa giữa các tộc người.
- Trong tiềm thức của ngay bản thân các tộc người, họ muốn sống đầy đủ
tiện nghi hơn trong sinh hoạt gia đình và trình độ nhận thức của họ đã cao hơn so
với trước.
- Các nguyên vật liệu để làm nên ngôi nhà nay đã hiếm hơn so với trước, giá
thành lại đắt, tốn kém nên họ đã chọn xây nhà theo người kinh là chủ yếu.
BIỆN PHÁP
- Cơ quan chính quyền địa phương cần có biện pháp cụ thể như: tuyên
truyền nâng cao ý thức người dân trong việc gìn giữ trang phục của mình.
- Hỗ trợ kinh phí cho đồng bào dân tộc nơi đây,để họ tu sửa hệ thống nhà
cửa.

19


-

Củng cố tổ chức, bộ máy, đội ngũ làm công tác văn hóa thong tin vùng

Nam bộ (biết rõ đặc điểm văn hóa tộc người, trang bị các chính cách chủ trương
của Đảng kịp thời để phổ biến tới đồng bào).
- Thành lập bảo tàng, mời những người trong cộng đồng các dân tộc có
trình độ tay nghề về để tạo dựng những ngôi nhà truyền thống của họ.
- Xây dựng các khu du lịch cộng đồng ngay tại phum, sóc, của công đồng ,
mang tính giới thiệu cho du khách trong và ngoài nước thăm quan về nét độc đáo

trong kiến trúc nhà ở nơi đây, kết hợp giới thiệu cho du khách về trang phục, ẩm
thực độc đáo của đồng bào nơi đây.
7.ẨM THỰC:
Có rất nhiều món ăn miền Nam là kết quả được tổng hợp và biến hóa từ nhiều
nền văn hóa cũng như vùng miền khác nhau, trải qua chiều dài lịch sử kéo dài hàng
mấy trăm năm. Khi đất nước ta phát triển giao lưu văn hóa, cũng chính là bắt nguồn
cho sự biến hóa tiếp theo của món ăn. Tuy nhiên, các món ăn này vẫn giữ được bản
chất của nó dù rằng nguyên liệu và cách chế biến đã có phần thay đổi.
+ Chăm: Bất cứ thịt thú nào thì người Chăm cũng có thể kho được, kể cả thịt
giông và thường được kho trong những cái trã bằng đất nung. Hai loại gia vị thảo
dược thường được dung trong những món thịt kho lá xả và sào lá giông. Ngày nay
món thịt kho của người Chăm có sự biến đổi như người ta có thể kho thịt với rau
quả và sử dụng nhiều gia vị mới như cari, ngũ vị hương. Ngoài ra, người Chăm có
những món kho được chế biến từ thủy sản: cá kho, lươn kho….
Từ xa xưa mắm cái là món đặc trưng không thể thiếu trong bữa ăn của
người Chăm. Mắm cái được làm từ cá nước ngọt và các nước mặn. Mắm cái cá
nước ngọt thường bằng các loại cá kích thước nhỏ như long tong, rô….. Cá bắt về
rửa sạch trộn với muối theo tỉ lệ để dung mau hay lâu. Ngoài ra để mắm có vị chua
và thơm, người ta hay trộn vào cá cơm nguội hoặc bắp rang giã thành bột. Mắm cá
biển cũng vậy, thường là cá có kích thước nhỏ như cá cơm, cá nục……có khi
người Chăm còn muối mắm cá mòi, cá thu. Tùy thời gian sử dụng mà trộn muối
20


theo thích hợp. Ngày nay, muối mắm cá nước ngọt có nơi còn trộn them đường ăn,
để mắm có màu hồng và vị chua ngọt.
+ Khmer: Do đặc điểm địa hình và sinh hoạt kinh tế, văn hóa Khmer ở Nam
bộ chịu tác động rất lớn của nền văn minh sông nước, mà ở đó người Việt là chủ
thể chính. Ở đó nguồn lương thực - thực phẩm chính là lúa, cá và rau quả kể cả các
loại rau đồng, rau rừng. Từ sự phong phú, dư dật ấy mà trải suốt quá trình khai

hoang dựng nghiệp, món ăn, thức uống hàng ngày của người Khmer cho dù trong
hoàn cảnh nào, thiếu thốn đạm bạc, hay đầy đủ ngỏa nguê, họ không thể không
khám phá và sáng tạo nhiều phương thức nuôi trồng, đánh bắt để chế biến vô số
miếng ngon một cách có bài bản từ những đặc sản của địa phương.
Cũng bởi nền văn minh lúa nước chi phối nên ta còn thấy được sự khác biệt
trong cách ăn uống của người Khmer. Người Khmer ở Nam bộ xa xưa vẫn thường
dùng tay không để đưa các loại thức ăn vào miệng thay cho đôi đũa. Bởi như vậy
sự ăn uống sẽ "gọn" và nhanh hơn. Nhưng hiện nay, dùng tay để đưa thức ăn vào
miệng đã không còn phù hợp với xu thế phát triển như vũ bão về văn hóa mới. Họ
đã dùng muỗng, nĩa để thay thế. Và vì phải sống quần cư với các dân tộc khác, nhất
là dân tộc Kinh nên đôi đũa đã trở thành công cụ chính thức thay thế muỗng, nĩa
hoặc đôi bàn tay chai sạm của người Khmer.
+ Dân tộc Hoa: là một dân tộc giữ gìn bản sắc dân tộc rất đậm nét, hầu như
các món ăn của người Hoa vẫn giữ được như truyền thống, không những vậy các
món ăn của người Hoa còn được tiếp thu thêm từ nhiều các dân tộc lân cận khiến
cho văn hóa ẩm thực càng thêm phong phú. Món ăn của người Hoa bị ảnh hưởng
của các dân tộc khác là do quá trình cộng cư lâu dài nên văn hóa của các dân tộc có
sự hòa hợp và giao thoa lẫn nhau.
Sự giao lưu trong văn hóa ẩm thực của các dân tộc được thể hiện ở hai phương
diện: thứ nhất, dân tộc này ăn các món ăn của dân tộc kia; thứ hai, dân tộc này sử
21


dụng các món ăn của dân tộc kia nhưng có chế biến lại cho phù hợp với khẩu vị của
mình.
Sự tiếp biến trong văn hóa ẩm thực của người Hoa như vậy đã làm cho các
món ăn dân tộc không ngừng phong phú qua việc tiếp thu rồi chế biến lại, tạo ra
hương vị khác. Bún nước lèo của người Khmer là một ví dụ. Món này vốn là đặc
trưng của người Khmer nhưng được người Hoa ưa thích. Bún nước lèo được chế
biến từ tôm, cá nấu nhừ, rồi rỉa bỏ hết xương, nêm vào nước lèo sả, ớt, củ ngải bún

được giã nhuyễn, sau đó nêm mắm bò-hóc vào cho đậm đà. Ăn kèm với món này là
các loại rau húng nhủi, húng quế, hẹ, bắp chuối... Nhưng khi bún nước lèo này qua
tay những thợ nấu người Hoa thì các nguyên liệu của nó không được giữ nguyên
như cũ, mà nó đã được thêm bớt cho phù hợp với cái “gu” của mình: người Hoa lại
cho thêm tép bóc vỏ, thịt heo quay và một số loại rau khác, mà những loại rau này
đôi khi nó khác hẳn nguyên gốc.
Một món ăn cũng đặc trưng của người Khmer đó là món canh xiêm lo. Canh
xiêm lo là một loại canh chua nói chung, được người Khmer nấu với đầu xương cá
khô và rau ghém (chuối cây non hoặc bắp chuối). Nấu món này người Khmer
thường dùng me hoặc cơm mẻ. Nhưng khi món canh xiêm lo này qua bàn tay chế
biến của các bà nội trợ người Hoa thì họ có cách làm hơi khác một chút: nấu canh
xiêm lo, người Hoa vẫn dùng rau ghém và đầu xương cá khô, nhưng lại không
dùng me hoặc cơm mẻ; cá khô dùng để nấu món canh này, người Hoa thường dùng
loại khô cá sửu, chứ không phải cá lóc như người Khmer. Đối với các món ăn của
người Hoa, dân tộc Khmer cũng có sự chế biến lại.
Bên cạnh đó, cả dân tộc Mnông, Xtiêng, Mạ, Chơro cũng đã bị ảnh hưởng
nhưng các món ăn của các dân tộc này gần như vẫn giữ được bản chất của nó.
Như vậy, quá trình cộng cư lâu dài giữa các dân tộc trên vùng đất Nam bộ này
đã khiến mọi mặt văn hóa hòa hợp và giao lưu lẫn nhau. Mỗi dân tộc, đều lưu giữ
một nền văn hóa riêng của mình, đồng thời cũng đóng góp vào nền văn hóa chung
22


của một vùng đất làm cho nền văn hóa Nam bộ nói chung, văn hóa ẩm thực ở Nam
bộ nói riêng có sự phong phú, đa dạng và nhiều màu sắc.


Giải pháp:

Việc duy trì, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa ẩm thực là rất cần thiết,

nhất là trong thời kỳ mở cửa, giao lưu hội nhập đang phát triển mạnh như hiện nay.
Cũng như hoạt động sinh hoạt văn hóa khác, sinh hoạt ăn uống truyền thống của
mọi tộc người đều chứa đựng cả cái tích cực và cái tiêu cực, lạc hậu cổ hủ. Đó là
tính tất yếu của sự phát triển. Đương nhiên trong thời đại mới, muốn duy trì những
gì thuộc về thời đã qua thì người ta phải xem xét, chắt lọc lấy những cái hay, cái
tích cực. Đây là vấn đề rất phức tạp, cần phải có những con người, những tổ chức
hay những cơ quan chuyên môn nhìn nhận và đánh giá.
Việc bảo tồn văn hóa truyền thống nói chung và bảo tồn văn hóa ẩm thực nói
riêng là trách nhiệm của các tổ chức, các cơ quan chức năng. Song sẽ không thành
công nếu việc làm đó không được nhân dân ủng hộ. Vì thế công việc của một bộ
phận các tổ chức, các cơ quan chức năng này phải tuyền truyền, giáo dục văn hóa
truyền thống cho cộng đồng, tạo nên ý thức giữ gìn di sản văn hóa cho mỗi người.
Hiện nay, nhiều nhà hàng phục vụ theo lối sinh hoạt ăn uống truyền thống. Đây là
biểu hiện của những tư duy mới, có ý thức trân trọng văn hóa truyền thống. Vì thế,
đây cũng là một hình thức bảo tồn văn hóa truyền thống dân tộc. Vấn đề ở đây là
các cơ quan chức năng, cơ quan chuyên ngành cần phối hợp chặt chẽ trong việc
định hướng cho loại hình văn hóa này đi đúng hướng, đúng mục đích và không xa
lạ với văn hóa truyền thống dân tộc.
1. Phương tiện vận chuyển:
Cũng chính vì đất nước ta ngày càng phát triển nên phương tiện vận
chuyển của các dân tộc cũng đã có sự thay đổi. Trước đây, phương tiện vận chuyển
của các dân tộc X tiêng, M nông, Chơro, Mạ chủ yếu là chiếc gùi được đan và tạo
hình với đặc trưng khác nhau để vận chuyển lương thực, hoa màu, nước, lâm thổ
23


sản và nhiều vật dụng khác trong lao động sản xuất và đời sống thường nhật. Các
dân tộc Khmer, Chăm ở Nam Bộ sử dụng xe trâu, bò để vận chuyển. Các tộc người
Khmer, Chăm, Hoa vùng sông nước miền Tây Nam Bộ có thuyền ghe để đi lại
hoặc buôn bán trên song trong nội địa hoăc qua biên giới….Bây giờ, hầu hết các

dân tộc đã sử dụng phương tiện hiện đại như xe đạp, xe máy, ô tô, xe tải,…..để làm
cho cuộc sống của mình tốt hơn, mức sống của người dân được nâng cao hơn.
Không phải các phương tiện hiện đại hiện nay đã vào cuộc sống của người đồng
bào dân tộc là họ không dùng các phương tiện truyền thống như xe bò, thuyền ghe
hay gùi nữa..mà tất cả những phương tiện đó được người dân sử dụng xen lẫn vào
nhau để đời sống thuận tiện hơn như thuyền ghe đã được gắn các thiết bị máy móc
hay đi lại thường ngày bằng xe máy, xe đạp,…
Sự biến đổi về phương tiện vận chuyển của cư dân Nam Bộ phù hợp với
sự phát triển của đất nước, đã tác động một phần nào đó vào đời sống của người
dân, khiến cho đời sống đồng bào có nếp sống cao hơn. Đây là một sự biến đổi tích
cực.
2. CÔNG CỤ SẢN XUẤT:
THỰC TRẠNG
Công cụ sản xuất là một giá trị văn hóa vật thể gắn bó và phản ánh trình độ
phát triển của loại hình kinh tế xã hội của các dân tộc vùng Nam Bộ. Trước kia các
dân tộc vùng Nam Bộ chủ yếu dùng các công cụ thô sơ gắn với đặc điểm kinh tế
ruộng nước như cày làm đất, nọc đất, hái cắt lúa.
Công cụ gắn với hoạt động kinh tế nương rẫy. tiêu biểu là chiếc chà gạc. chủ
yếu các công cụ này đều được làm bằng gỗ, tre, nứa, nên chất lượng còn kém và
không sử dụng được lâu dài. Ngoài các công cụ làm nương rẫy còn có các ngư cụ
để đánh bắt cá như : lưới, chài , đăng , đó , nơm,..

24


Ngày nay các dân tộc ở Nam Bộ đã biết sử dụng các công cụ tiên tiến hơn dần
thay thế những công cụ truyền thống lạc hậu. Họ biết sử dụng những công cụ bằng
sắt thay cho những công cụ bằng gỗ thô sơ, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống.
10.ĐỒ DÙNG SINH HOẠT
THỰC TRẠNG

Đồ dùng sinh hoạt là các giá trị văn hóa vật thể ( vật dụng phục vụ sinh hoạt
cá nhân và gia đình trong đời sống hằng ngày do các cộng đồng tộc người tự sản
xuất hay trao đổi, mua bán với các tộc người xung quanh. Đồ dùng sinh hoạt của
một gia đình hay cộng đồng phản ánh loại hình kinh tế, trình độ phát triển kinh tế
xã hội, truyền thống văn hóa của tộc người đó trong lịch sử và hiện tại.
Đồ dùng sinh hoạt của dân tộc Khơ Me, Chăm, Hoa ở Nam Bộ nhìn chung
khá đơn giản do nếp sống của người nông dân và luôn sống chung với nước lũ hàng
năm. Đồ dùng sinh hoạt của các dân tộc nơi đây nhìn chung cũng không thay đổi
nhiều chủ yếu là các loại đồ đựng như chum, bể đựng nước ngọt, các loại nồi để
nấu ăn....
Đồ dùng sinh hoạt các dân tộc M’nông, Xtiêng, Chơro, Mạ có rất ít do cuộc
sống trong xã hội cổ truyến còn khó khăn và chưa phát triển.
Trước kia đồ dùng trong sinh hoạt được làm bằng tre nứa ,nhưng ngày nay
đồ dùng sinh hoạt được thay thế bằng nhôm, sắt, inox,…chất lượng sử dụng đảm
bảo tiện nghi hơn. Cuộc sống người dân được nâng cao.
NGUYÊN NHÂN
- Trong thời đại ngày nay, văn minh công nghiệp trên phạm vi toàn cầu tác
động mạnh mẽ vào nền kinh tế đất nước ta. Nhiều yếu tố văn hóa mới của thời đại,
quốc tế, quốc gia từng ngày, từng giờ, tác động đến văn hóa các dân tộc vùng Nam
Bộ.
25


×