Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Luận văn thạc sĩ khoa học triết học Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc Êđê trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (974.23 KB, 126 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI







NGUYỄN THỊ HẢI YẾN






GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HOÁ CỦA DÂN TỘC Ê ĐÊ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK HIỆN NAY






LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC
















HÀ NỘI, NĂM 2011

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI








NGUYỄN THỊ HẢI YẾN






GIỮ GÌN VÀ PHÁY HUY GIÁ TRỊ VĂN HOÁ CỦA DÂN TỘC Ê ĐÊ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK HIỆN NAY







Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.PHẠM VĂN CHÍN






HÀ NỘI, NĂM 2011

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc ñến các thầy, cô trong khoa Giáo dục Chính trị ñã trang bị cho tôi
những kiến thức chủ yếu, ñộng viên tôi về mặt tinh thần, tạo ñiều kiện
về vật chất trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tôi xin biểu lộ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc ñến
PGS.TS. Phạm Văn Chín, người ñã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo và

giúp ñỡ tôi một cách tận tình trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tuy còn nhiều thiếu sót, tôi mong muốn luận văn này sẽ ñóng góp
một phần nhỏ bé vào thực tiễn và có ích cho những nghiên cứu sau này.
Học viên


Nguyễn Thị Hải Yến






















LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam ñoan bản luận văn này là do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của
PGS.TS. Phạm Văn Chín. Các số liệu, tài liệu nêu trong luận văn là trung thực, bảo
ñảm tính khách quan, khoa học. Các tài liệu tham khảo ñều có xuất xứ rõ ràng, ñáng
tin cậy.
Đắk Lắk, ngày 20 tháng 10 năm 2011
NGƯỜI CAM ĐOAN


Nguyễn Thị Hải Yến
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

Viết tắt Nghĩa toàn bộ
BCH TW Ban chấp hành trung ương
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện ñại hóa
CNTB Chủ nghĩa tư bản
CNXH Chủ nghĩa xã hội
HĐND Hội ñồng nhân dân
HTXNN Hợp tác xã nông nghiệp
HTX Hợp tác xã
NQTW Nghị quyết trung ương
Nxb. Nhà xuất bản
XHCN Xã hội chủ nghĩa





MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1.Lý do chọn ñề tài 1
2.Lịch sử nghiên cứu 3
3.Mục ñích, ñối tượng, phạm vi nghiên cứu 4
4.Những luận ñiểm cơ bản và ñóng góp mới của luận văn 4
5.Phương pháp nghiên cứu 5
Chương 1: VĂN HOÁ VÀ GIÁ TRỊ VĂN HOÁ CỦA DÂN TỘC ÊĐÊ Ở TỈNH ĐẮK
LẮK
1.1.Quan ñiểm Mác xít về văn hoá và giá trị văn hoá 6
1.1.1.Khái niệm văn hoá 6
1.1.2.Giá trị văn hoá. 22
1.2.Giá trị văn hoá của dân tộc Êñê ở Đắk Lắk 32
1.2.1.Điều kiện nảy sinh và tồn tại của văn hoá dân tộc Êñê ở Đắk Lắk 32
1.2.2.Những nét ñặc thù của văn hoá dân tộc Êñê ở Đắk Lắk 39
Chương 2:GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HOÁ CỦA DÂN TỘC ÊĐÊ Ở
ĐĂK LẮK- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
2.1.Thực trạng của việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá Êñê ở Đắk Lắk hiện nay 52

2.1.1.Thực trạng hoạt ñộng của một số ngành chức năng ñối với việc giữ gìn và phát
huy giá trị văn hoá của dân tộc Êñê ở Đắk Lắk 52
2.1.2.Thực trạng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Êñê ở Đắk
Lắk hiện nay 68
2.1.3.Nguyên nhân của những hạn chế trong việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá
của dân tộc Êñê tại Đắk Lắk 93
2.2.Những giải pháp cơ bản ñối với việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá của dân tộc
Êñê ở Đắk Lắk 99
2.2.1.Căn cứ ñể có giải pháp 99
2.2.2.Giải pháp 101
KẾT LUẬN 109
TÀI LIỆU THAM KHẢO 113





BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI






NGUYỄN THỊ HẢI YẾN





GIỮ GÌN VÀ PHÁY HUY GIÁ TRỊ VĂN HOÁ CỦA DÂN TỘC Ê ĐÊ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK HIỆN NAY





Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80



TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.PHẠM VĂN CHÍN










HÀ NỘI, NĂM 2011


1
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn ñề tài
Văn hoá là một hiện tượng xã hội có tính kế thừa bền vững. Nó luôn luôn tồn
tại trong dòng chảy của sự vận ñộng, phát triển của lịch sử. Trên chiều dài lịch sử
ấy, bên cạnh những cái dở, cái lạc hậu lại có biết bao nhiêu những ñiều hay, ñiều tốt
do chính bản thân con người sáng tạo ra. Những cái gì trong quá khứ mà ông cha ta
ñã tạo nên dù hay dù dở cũng có thể có mặt trong hôm nay và trong những gì sắp
tới. Sẽ là sự may mắn của chúng ta nếu những gì tốt ñẹp, tinh tuý của ông cha ta
chọn lọc, mang theo mình và quyện vào trong một thời ñại mới. Nhưng sẽ là nổi
khổ và ñiều bất hạnh ñối với chúng ta nếu những gì của quá khứ mà chúng ta bê
nguyên xi không có chọn lọc ñể áp dụng vào hiện tại hôm nay.
Lịch sử phát triển của loài người ñang vào những năm ñầu của thế kỷ XXI

với nhiều mối quan hệ hữu cơ chằng chịt, tác ñộng qua lại lẫn nhau, ñan xen vào
giữa các sự vật, hiện tượng và các quá trình phát triển của thế giới. Đặc biệt toàn
cầu hoá ñược xem như là quá trình liên kết phát triển giữa các quốc gia, dân tộc trên
thế giới. Sự tác ñộng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ñang diễn ra mạnh
mẽ cuốn hút tất cả các nước, các dân tộc trên thế giới vào quá trình quốc tế hoá mọi
lĩnh vực của ñời sống xã hội. Các mâu thuẫn cơ bản vốn có của thế giới vẫn ñang
tồn tại và ngày càng diễn biến phức tạp. Điều ñó dẫn ñến một nguy cơ lớn dễ nhận
thấy là mối ñe doạ tiềm tàng về khả năng ñánh mất bản sắc văn hoá dân tộc ñối với
các nước có nền kinh tế chậm phát triển, trong ñó có Việt Nam, mặc dù nó cũng
ñem lại cho các quốc gia, dân tộc không ít những thuận lợi và cơ hội lớn.
Trong thời ñại ngày nay với vai trò sứ mệnh lịch sử của mình giai cấp vô sản
và quần chúng nhân dân lao ñộng ñã tự giác nắm lấy tất cả những gì tốt ñẹp, những
gì tinh tuý nhất của quá khứ, của hiện tại ñể làm phong phú và giàu ñẹp cho sự
nghiệp văn hoá của mình. Văn hoá cũng ñược xem như là “chứng minh thư” mà
thiếu nó thì mỗi quốc gia, dân tộc sẽ có nguy cơ ñứng bên bờ vực thẳm của sự ñánh
mất hay tiêu tan chính bản thân mình. Vì vậy, văn hoá ñóng một vai trò hết sức
quan trọng trong ñời sống của mỗi quốc gia, dân tộc “ văn hoá là nền tảng tinh thần
2
của xã hội, một ñộng lực thúc ñẩy sự phát triển kinh tế- xã hội, ñồng thời là một
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội” [9-51]
Việt Nam là một quốc gia ña dân tộc (54 dân tộc anh em) ñược phân bố ñều
khắp các vùng khác nhau của Tổ Quốc. Do ñặc ñiểm và ñiều kiện, hoàn cảnh ñịa lý
của tường vùng khác nhau dẫn ñến hình thành các vùng văn hoá khác nhau. Trong
các vùng văn hoá của Việt Nam, Đắk Lắk một tỉnh của Tây Nguyên là nơi tập trung
một vùng văn hoá dân tộc ñặc sắc của cộng ñồng dân cư lâu ñời. Nền văn hoá ấy
ảnh hưởng sâu xa ñến từng dân tộc, từng con người Đắk Lắk. Nó biểu hiện ở thế
giới quan, nhân sinh quan, phong cách, tư duy lối sống, sinh hoạt, ứng xử….của con
người. Vì sự vận ñộng, biến ñổi của thế giới luôn diễn ra không ngừng, ñiều ñó
không thể không ảnh hưởng ñến văn hoá Đăk Lăk, ñó là giá trị văn hoá của dân tộc
Êñê ở Đăk Lăk. Hơn nữa, vấn ñề quan trọng ñược ñặt ra là không thể có bình ñẳng

dân tộc nếu không giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc. Dân tộc Ê ñê,
một dân tộc bản ñịa trên ñịa bàn tỉnh Đắk Lắk, cùng với quá trình sinh sống và phát
triển của mình dân tộc Êñê ñã ñể lại những giá trị văn hoá ñộc ñáo, sâu sắc. Đó là
trường ca Đam San với chàng Đam San mạnh mẽ không chịu khuất phục trước số
phận và trước sức mạnh của thiên nhiên, là không gian văn hoá cồng chiêng cùng
với những lễ hội kéo dài hàng tuần cùng với nó là những ché rượu cần làm ngây
ngất lòng người, ñó là chiếc Kpan dài ñược làm từ cây cổ thụ ñược ñặt vào trong
nhà sàn dành cho các nghệ nhân ñánh chiêng khoe tài năng và sự khéo léo của
mình.
Thế nhưng một ñiều ñáng buồn hiện nay, dưới tác ñộng của nền kinh tế thị
trường, do ảnh hưởng mặt trái của nền văn hoá phương Tây; sự lợi dụng dân tộc và
tôn giáo của các thế lực thù ñịch ñể phá hoại nền văn hoá dân tộc bản ñịa Đắk Lắk,
nên ñã nảy sinh lối sống hướng ngoại, phủ nhận văn hoá dân tộc, sống thực dụng,
làm cho văn hoá các dân tộc bản ñịa Đắk Lắk ñang ñứng trước những thử thách
nghiệt ngã và có nguy cơ mai một. Sự chi phối của ñồng tiền ñã làm thay ñổi quan
niệm về những giá trị văn hoá ñó, những giá trị văn hoá ñó ñang bị xem thường,
ñang bị mai một dần theo thời gian không còn giữ ñược những giá trị nguyên sơ
3
như nó vốn có. Một ñiều ñáng buồn hơn nữa ñó là một số người trong chính những
cộng ñồng ñã tạo ra nó ñã từ chối sự tồn tại của nó, ñặc biệt là thế hệ trẻ của chính
dân tộc Êñê ñã không biết ñược những tập quán của mình. Cho nên, việc giữ gìn và
phát huy giá trị văn hoá của dân tộc Êñê trên ñịa bàn tỉnh Đắk Lắk mang tính thời
sự, cấp bách, nhằm góp phần bảo tồn bản sắc văn hoá, xây dựng và phát triển nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, ñậm ñà bản sắc dân tộc.
Với những lý do trên, tôi chọn ñề tài “Giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá
của dân tộc Ê ñê trên ñịa bàn tỉnh Đắk Lắk hiện nay. ” cho luận văn Thạc sĩ của
mình.
2.Lịch sử nghiên cứu
Từ trước ñến nay ñã có khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn ñề văn hoá
dưới các khía cạnh khác nhau:

Có nhiều bài viết, công trình khai thác về mối quan hệ giữa văn hoá và phát
triển: Trần Ngọc Hiên “ Văn hoá và phát triển-từ góc nhìn Việt Nam” NXB Khoa
học xã hội, HN, 1993; Phạm Văn Đồng “Văn hoá và ñổi mới” NXB Chính trị Quốc
gia, HN,1998; Hoàng Trinh “Vấn ñề văn hoá và phát triển” NXB Chính trị Quốc
gia, HN,1996;
Một số công trình, bài viết về văn hoá dưới góc ñộ triết học: Vũ Thị Kim
Dung-cách tiếp cận vấn ñề văn hoá theo quan ñiểm triết học Mác, tạp chí triết học
số 11/1998; Vũ Đức Khiển- Văn hoá với tư cách một khái niệm triết học và vấn ñề
xác ñịnh bản sắc dân tộc của văn hoá, tạp chí triết học số 6/2000; Nguyễn Huy
Hoàng “Văn hóa trong nhận thức duy vật lịch sử của C.Mác, NXB Văn hoá thông
tin, Viện văn hoá, Hà Nội, 2002.
Các bài viết làm rõ tầm quan trọng của văn hoá trong nền kinh tế thị trường
hiện nay như: Đặng Hữu Toàn-Vai trò của văn hoá trong sự phát triển lâu bền theo
hướng công nghiệp hoá, hiện ñại hoá, tạp chí triết học số 2/1999; Đặng Quang
Định-Vai trò của văn hoá ñối với sự phát triển kinh tế-xã hội trong thời kỳ ñẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện ñại hoá, tạp chí Lý luận Chính trị sô 12/2001.
4
Nhiều công trình viết về bản sắc văn hoá, dân tộc và bản sắc văn hoá các dân
tộc thiểu số ở Việt Nam như: Trần Ngọc Thêm “Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam”,
NXB.TP.HCM; Đỗ Huy- Trường Lưu “Bản sắc dân tộc của Việt Nam”, Viện văn
hoá,1999; Huy Cận “Suy nghĩ về bản sắc văn hoá dân tộc” NXB Chính trị QG,
HN,1994; Ngô Văn Lệ “Văn hoá các dân tộc thiểu số ở Việt Nam”, NXB Giáo dục,
HN, 1998; Ngô Đức Thịnh “ Văn hoá dân gian Êñê”, NXB Văn hoá dân tộc,
HN,1992; Phan Đăng Nhật “Sử thi Êñê”, NXB khoa học xã hội, HN, 1991; Chu
Thái Sơn “ Hoa văn cổ truyền Đắk Lắk”, NXB văn hóa dân tộc, HN, 1997; Y Thih-
Trương Bi “ Truyện cổ Êñê” (tập 1,2), Sở văn hoá thông tin Đắk Lắk, 1983; Lê Huy
Vũ “Lễ hội dân gian Êñê”, NXB văn hoá dân tộc, HN 1995.
Nhìn chung các công trình chưa ñi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống
“Vấn ñề giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá của dân tộc Êñê ở Đắk Lắk hiện nay”.
Vì thế, việc nghiên cứu “vấn ñề giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá của dân tộc Êñê

ở Đắk Lắk hiện nay” là một vấn ñề cần ñược ñi sâu làm rõ.
3. Mục ñích, ñối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1 Mục ñích
Nghiên cứu văn hóa dân tộc Ê-ñê ñể nhằm ñưa ra giải pháp giữ gìn và phát
huy giá trị văn hóa dân tộc Ê-ñê trên con ñường công nghiệp hoá, hiện ñại hoá hiện
nay.
3.2 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là giá trị văn hóa của ñồng bào dân tộc Ê-
ñê.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về văn hoá
và giá trị văn hoá, luận văn làm rõ giá trị văn hoá của dân tộc Êñê ở Đắk Lắk. Đồng
thời, vạch ra thực trạng và giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá của
dân tộc Êñê ở Đắk Lắk.
4. Những luận ñiểm cơ bản và ñóng góp mới của luận văn
5
Luận văn góp phần làm rõ giá trị và vai trò của giá trị văn hoá ñối với ñời
sống của ñồng bào Ê-ñê ñối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và ở Đắk
Lắk nói riêng.
5.Phương pháp nghiên cứu
-Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phương pháp duy vật biện chứng - duy
vật lịch sử; phương pháp phân tích - tổng hợp; phương pháp lôgic -lịch sử; phương
pháp so sánh - ñối chiếu.
-Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp ñiều tra; phương pháp
phỏng vấn; phương pháp quan sát; phương pháp thống kê toán học và các phương
pháp khác.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở ñầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 2
chương và 4 tiết















6
Chương 1
VĂN HOÁ VÀ GIÁ TRỊ VĂN HOÁ CỦA DÂN TỘC Ê ĐÊ Ở TỈNH
ĐĂK LĂK
1.1.Quan ñiểm Mác xít về văn hoá và giá trị văn hoá
1.1.1.Khái niệm văn hoá
Văn hoá là gì? Câu hỏi ñã ñược ñặt ra từ lâu với tư duy nhân loại. Trong lịch
sử lơài người, xuất phát từ những cách tiếp cận khác nhau bằng cách này hay cách
khác, ñã có rất nhiều ñịnh nghĩa về văn hoá. Trong tiếng Việt, văn hoá ñược dùng
theo nghĩa thông dụng ñể chỉ học thức ( trình ñộ văn hoá), lối sông (nếp sống văn
hoá); theo nghĩa chuyên biệt ñể chỉ trình ñộ văn minh của một giai ñoạn (văn hoá
Đông Sơn) … “Đề cương về văn hoá Việt Nam” của Đảng cộng sản Đông Dương
năm 1943 ñã xếp văn hoá bên cạnh kinh tế, chính trị và xem nó bao gồm cả tư
tưởng, học thuật, nghệ thuật, Uỷ ban Unesco của Liên hiệp quốc thì xếp văn hoá
bên cạnh khoa học và giáo dục, tức là ñặt hai lĩnh vực này ra ngoài khái niệm văn
hoá.
Ở phương Đông, từ ngữ “văn hoá” ñã xuất hiện rất sớm từ thời Tây Hán (thế

kỷ II TCN) ở Trung Quốc. Trong bài: “Chi Vũ”, sách Thuyết Uyển, Lưu Hương
viết: “Thánh nhân cai trị thiên hạ, trước hết dùng văn ñức, sau mới dùng vũ lực.
Phàm khi ñã dùng vũ lực thì không khuất phục nổi, văn hoá không sửa ñổi ñược
cuối cùng sẽ bị suy kiệt”
Ở phương Tây, từ ngữ “văn hoá” (tiếng La tinh là: Cultura) khởi ñầu có ý
nghĩa là vỡ ñất, chăm bón ñất ñai trong lao ñộng nông nghiệp. Sau này chuyển
nghĩa nói về tính chất khai trí, tính chất có giáo dục, có học vấn của con người.
Ngay từ những năm 45 trước công nguyên, Xixêrôn ñã coi triết học như là “văn hoá
của trí tuệ” ông khẳng ñịnh cần phải rèn luyện và vun xới trí tuệ như người nông
dân vun xới ñất ñai. Ông nhìn thấy nội dung cơ bản của văn hoá là sự phát triển các
năng lực tinh thần của con người.
Thời phục Hưng người ta bắt ñầu xem văn hoá như lĩnh vực tồn tại chân
chính của con người, lĩnh vực “tính người” thật sự, ñối lập với lĩnh vực “tính tự
7
nhiên”, “tính ñộng vật”. Văn hoá ñược coi như là sự phát triển của con người phù
hợp với bản chất của nó. Nhưng do quan niệm lệch lạc về bản chất con người nên
khái niệm văn hoá bị bóp méo.
Triết học tư sản do quan niệm duy tâm về lịch sử và bản chất con người, họ
ñã quy văn hoá chủ yếu vào lĩnh vực ý thức tinh thần thuần tuý ñộc lập với lĩnh vực
tồn tại vật chất của con người, tách rời các lợi ích thực tiễn.
Federico Mayor, tổng giám ñốc Unesco cho biết: “Đối với một số người, văn
hoá chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy và sáng tạo; ñối
với những người khác, văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác
với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện ñại nhất cho ñến tín ngưỡng,
phong tục tập quán, lối sống và lao ñộng. Cách hiểu thứ hai này ñã ñược cộng ñồng
quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hoá họp năm
1970 tại Venise”[51-21]. Với cách hiểu rộng này, văn hoá là ñối tượng ñích thực
của văn hoá học. Trong các công trình nghiên cứu, ngay cả với một cách hiểu cũng
ñã có rất nhiều ñịnh nghĩa khác nhau. Thông thường, do phải trình bày một cách rất
ngăn gọn ( mà ngắn gọn không phải bap giờ cũng ñầy ñủ), cho nên các ñịnh nghĩa

thường là ñầu mối của những cuộc tranh luận nhiều khi vô bổ.
Các quan niệm trên, ở khía cạnh này hay khía cạnh khác ñã phản ánh ñược
những nét ñặc trưng của văn hoá. Song văn hoá là một phạm trù hết sức rộng lớn,
phong phú và ña dạng, là một hiện tượng xen kẽ và thẩm thấu trong tất cả mọi hoạt
ñộng trong tất cả mọi hoạt ñộng của xã hội. Do vậy, những quan niệm về văn hoá
vừa rất linh hoạt vừa có nhiều nghĩa, khó có thể có ñược một công thức, một ñịnh
nghĩa gon gàng mà bao hàm ñầy ñủ ý nghĩa của nó. Hơn thế nữa ví văn hoá là một
hiện tượng xã hội khá phức tạp và phần nào ñó sẽ vượt ra ngoài những quan niệm
trên. Vì rằng: văn hoá là kết quả của quá trình lao ñộng và hoạt ñộng xã hội của con
người, nên ñề cập ñến vấn ñề này, các nhà lãnh ñạo Đảng và nhà nước ta ñã khẳng
ñịnh: “văn hoá sản sinh ra trong quá trình con người tác ñộng vào tự nhiên và tiến
hành ñấu tranh xã hội” [5-257].
8
Như vậy, văn hoá là sản phẩm trực tiếp của con người, văn hoá bao giời cũng
mang tính lịch sử, tính giai cấp. Hay nói khác ñi, ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau,
văn hoá cũng có những ñặc ñiểm riêng biệt là phục vụ lợi ích cho giai cấp thống trị.
Bởi lẽ, văn hoá bao gồm những tư tưởng, những giá trị, những chuẩn mực ñạo ñức
của một giai cấp nhất ñịnh trong xã hội. Chính từ cội nguồn của nó, người ta khẳng
ñịnh văn hoá ra ñời là nhờ lao ñộng.
Văn hoá trước hết phải có tính hệ thống. Mọi hiện tượng, sự kiện thuộc một
nền văn hoá ñều có liên quan mật thiết với nhau. Nhờ có tính hệ thống mà văn hoá,
với tư cách là một ñối tượng bao trùm mọi hoạt ñộng của xã hội, thực hiện ñược
chức năng tổ chức xã hội. Chính văn hoá thường xuyên làm tăng tốc ñộ ổn ñịnh của
xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện cần thiết ñể ứng phó với môi trường tự
nhiên và xã hội của mình.
Đặc trưng quan trọng thứ hai của văn hoá là tính giá trị. Trong từ “văn hoá”
thì văn có nghĩa là “vẻ ñẹp”, văn hoá có nghĩa là “ trở thành ñẹp, thành có giá trị”.
Văn hoá chỉ chứa cái ñẹp, chứa các giá trị. Nó là thước ño mức ñộ nhân bản của xã
hội và con người.
Đặc trưng thứ ba của văn hoá là tính nhân sinh. Văn hoá là một hiện tượng

xã hội, là sản phẩm hoạt ñộng thực tiễn của con người. Văn hoá ñối lập với tự
nhiên, nó là cái tự nhiên ñã ñược biến ñổi dưới tác ñộng của con người, là “phần
giao” giữa tự nhiên và con người.
C.Mác và Ăngghen ñã xuất phát từ chủ nghiã duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử ñể xem xét văn hoá. Các ông ñã nhìn nhận văn hoá là sản
phẩm của lịch sử, là kết quả hoạt ñộng cái thực tiễn qua nhiều thế hệ người tạo ra.
Trình ñộ phát triển văn hoá phụ thuộc vào trình ñộ khám phá, làm chủ tự nhiên, làm
chủ xã hội và làm chủ chính bản thân mình. Trong tác phẩm “ Hệ tư tưởng
Đức”C.Mác cho rằng, có thể xem lịch sử dưới hai mặt, có thể chia lịch sử tự nhiên
và lịch sử nhân loại. C.Mác cho rằng, con người là “một thực thể song trùng” thống
nhất “giữa cái tự nhiên và cái xã hội” trong ñó “tự nhiên là thân thể vô cơ của con
người” [38-91].
9
Trong quá trình hoạt ñộng, con người ñã khách thể hoá lực lượng bản chất
của mình vào trong tự nhiên chưa ñược khai phá ñể tạo nên: “thiên nhiên thứ hai”
cái mà vẫn ñược gọi thông thường là văn hoá, nhằm thoả mãn những nhu cầu chinh
phục về tự nhiên, xã hội và về bản thân mình. Nói cách khác cái “thiên nhiên thứ
hai” có ñược do cơ chế hoạt ñộng riêng của con người. Mác cho rằng, ñộng vật trực
tiếp ñồng nhất với bản thân mình. Nó không phân biệt nó với hoạt ñộng sống của
nó, bởi lẽ ñộng vật sinh ra ñã hoạt ñộng như ñúng loài của mình. Các hình thức,
phương thức và chương trình hoạt ñộng của chúng ñược truyền theo dòng máu, theo
cơ chế sinh học nên ñã nằm trên thân thể của nó từ khi mới ra ñời. Đối với con
người thì sự việc hoàn toàn khác. Nếu không ñược tiếp xúc với thế giới bên ngoài,
với thế giới văn hoá và cái gọi là thân thể vô cơ của con người, thì con người ngay
từ khi sinh ra chẳng bao giờ trở thành người với tư cách là người. Nhờ sự khách thể
hoá, các hình thức, phương thức hoạt ñộng của con người không chỉ tồn tại ở thân
thể của nó mà còn ở thân thể văn hoá, thân thể vô cơ của con người. Như vậy, xét
ñến cùng, văn hoá có nguồn gốc từ lao ñộng. Mọi hoạt ñộng sáng tạo của con người
nhằm biến ñổi xã hội bao giờ cũng bắt ñầu từ lao ñộng, mà văn hoá thường gắn liền
với sự sáng tạo và năng lực của con người, làm cho con người ngày càng trở nên

hoàn thiện hơn, thoát ly dần với bản năng ñộng vật và tiến tới bản chất “tộc loài”
của mình.
Như vậy, văn hoá ñược hình thành và phát triển trên cơ sở sự hình thành và
phát triển con người. Trình ñộ phát triển chung của văn hoá phụ thuộc vào trình ñộ
chinh phục tự nhiên của con người.
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc, bảo vệ và phát triển các nguyên lý của triết
học Mác, V.I.Lênin cũng phân tích sâu sắc thêm về mặt xã hội của văn hoá với cách
tiếp cận từ hình thái kinh tế-xã hội. Chính Lênin ñã ñề ra nguyên tắc quan trọng
trong quá trình xây dựng nền văn hoá mới. Đó là những nguyên tắc về tính ñảng,
tính nhân dân, tính dân tộc và tính nhân loại trong văn hoá; xác ñịnh sự nghiệp văn
hoá là một bộ phận trong guồng máy cách mạng vô sản dưới sự lãnh ñạo của Đảng
cộng sản.
10
Nói ñến bản chất của văn hoá, Hồ Chí Minh có quan niệm về văn hoá rất
rộng gắn liền với hoạt ñộng sống của cá nhân, cộng ñồng và ý nghĩa của văn hoá rất
bao quát, Người viết “ Vì lẽ sinh tồn cũng như mục ñích của cuộc sống, loài người
phải sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, ñạo ñức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và
các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh ñó tức là văn hoá.
Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó
mà loài người ñã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu ñời sống và ñòi hỏi của
sự sinh tồn” [41-4]. Khái niệm văn hoá trong cách diễn ñạt của Hồ Chí Minh nhấn
mạnh mục ñích của văn hoá là ñáp ứng nhu cầu ñời sống và sự sinh tồn. Cách ñặt
vấn ñề này nhắc nhở người ta cách ứng xử với văn hoá và cách sử dụng văn hoá.
Con người cần phải biết trân trọng văn hoá, giữ gìn và phát huy nó ñể ñến lượt
mình, nó ñáp ứng những nhu cầu của con người.
Sau cách mạng tháng tám 1945, trong bộn bề công việc chống thù trong giặc
ngoài, Hồ Chí Minh ñã không ngừng quan tâm ñến văn hoá. Trong diễn văn khai
mạc hội nghị văn hoá toàn quốc (11-1946), Hồ Chí Minh ñã nhấn mạnh ñến mối
liên hệ giữa văn hoá và chính trị. Đồng thời, Người ñề cao vai trò của văn hoá:

“Văn hoá soi ñường cho quốc dân ñi”. Văn hoá phải phục vụ ñắc lực cho sự nghiệp
kháng chiến kiến quốc, ñồng thời phải làm cho thế giới biết về những thành tích
kháng chiến kiến quốc của quân dân ta. Nhiệm vụ của văn hoá trở nên rộng hơn khi
Hồ Chí Minh yêu cầu: “Các nhà văn hoá ta phải có những tác phẩm xứng ñáng,
chẳng những ñể biểu dương sự nghiệp kháng chiến kiến quốc bây giờ, mà còn ñể
lưu truyền cái lịch sử oanh liệt kháng chiến kiến quốc cho hậu thế” [43-464]. Văn
hoá còn có nhiệm vụ ñào tạo con người mới cho cuộc kháng chiến kiến quốc và tẩy
trừ ñi mọi di tích thuộc ñịa và ảnh hưởng nô dịch của văn hoá ñế quốc.
Đất nước bước vào thời kỳ xây dựng hoà bình. Cuộc ñấu tranh giữa cái cũ và
cái mới diễn ra gay gắt trong mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị ñặc biệt là văn hoá. nền
văn hoá của nước Việt Nam mới ñang hình thành ñã phải chịu sự tác ñộng của
nhiều luồng văn hoá khác nhau: vốn cũ của nền văn hoá dân tộc, những tàn tích còn
11
khá nặng nề của văn hoá thực dân, văn hoá ngoại lai …Sự thoái hoá, biến chất của
một số cán bộ có chức quyền gây nhiều hậu quả xấu cho xã hội. Phải xác ñịnh rõ
hơn, cụ thể hơn những nhiệm vụ của văn hoá. Hồ Chí Minh quan niệm rằng văn hoá
luôn quan hệ với chính trị. Người làm công tác văn hoá phải xác ñịnh rõ: văn hoá
phục vụ ai? Nền văn hoá của nước Việt Nam mới phải nhằm phục vụ công nông
binh.Muốn vậy, cán bộ văn hoá phải sâu sát với dân, hiểu tâm tư nguyện vọng, hiểu
tâm lý của dân.
Trong quan ñiểm của Đảng ta, văn hóa là một lĩnh vực thực tiễn của ñời sống
xã hội, nó cũng có quy luật vận ñộng và phát triển riêng, trong ñó tính dân tộc ñược
coi là thuộc tính cơ bản của văn hóa, phản ánh mối quan hệ giữa dân tộc và văn hóa
trong ñiều kiện dân tộc ñã hình thành. Tính dân tộc là nội dung quan trọng luôn
ñược Đảng ta ñặt lên vị trí hàng ñầu. Trong bản ñề cương văn hóa (1943) Đảng ta
khẳng ñịnh nền văn hóa mới, phải ñảm bảo tính dân tộc, tức là bảo tồn và phát huy
những giá trị truyền thống của văn hóa dân tộc. Quan ñiểm này tiếp tục ñược khẳng
ñịnh trong suốt quá trình tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa. Tới hội nghị
Trung ương 5 khóa VIII quan ñiểm ñó ñược cụ thể hóa trong nghị quyết “xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt nam tiên tiến, ñậm ñà bản sắc dân tộc”. Tại Đại hội

IX, nghị quyết ñại hội một lần nữa khẳng ñịnh: “xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
ñậm ñà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là ñộng lực thúc ñẩy sự phát triển xã
hội”.
Như vậy, nói ñến văn hóa là nói ñến con người. Lịch sử văn hóa là lịch sử
của con người và loài người: con người tạo ra văn hóa và văn hóa làm cho con
người trở thành Người. Điều ñó có nghĩa là tất cả những gì liên quan ñến con người,
ñến mọi cách thức tồn tại của con người ñều mang trong nó cái gọi là văn hóa. Có
thể nói, văn hóa là sự phát triển lực lượng vật chất và tinh thần, là sự thể hiện những
lực lượng ñó trong lĩnh vực sản xuất vật chất và lĩnh vực sản xuất tinh thần của con
người. Từ ñó, văn hóa ñược chia làm hai lĩnh vực cơ bản: văn hóa vật chất và văn
hóa tinh thần. Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ có tính tương ñối, bởi cái gọi là “
văn hóa vật chất” về thực chất cũng chỉ là “vật chất hóa” các giá trị tinh thần, và các
12
giá trị văn hóa tinh thần không phải bao giờ cũng tồn tại một cách thuần túy tinh
thần, mà thường ñược “vật thể hóa” trong các dạng tồn tại vật chất. Ngoài ra còn các
giá trị tinh thần tồn tại dưới dạng phi vật thể, nhưng vẫn mang tính tồn tại vật chất
khách quan như văn hóa trong các lĩnh vực ñạo ñức, giao tiếp, ứng xử, lối sống,
phong tục tập quán…Văn hóa tồn tại và phát triển trong mối quan hệ thích nghi giữa
con người với tự nhiên, giữa con người với con người. Vì vậy, văn hóa không phải
là giá trị cố ñịnh, bất biến mà văn hóa luôn phát triển. Văn hóa là mục tiêu và ñộng
lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Văn hóa không phải là “cái chung trừu tượng” giống nhau ở mọi xã hội, mọi
cộng ñồng - dân tộc. Nếu mỗi cộng ñồng – dân tộc có ñời sống xã hội riêng biệt, ñặc
thù, một lịch sử hình thành và một hiện thực con người không ñồng nhất với các
cộng ñồng khác, thì tất nhiên văn hóa mang tính riêng biệt, ñặc thù của mỗi dân tộc.
Một dân tộc tồn tại là tồn tại cùng với nền văn hóa do chính mình tạo ra. Văn hóa in
dấu của mọi mặt ñời sống xã hội thuộc một dân tộc nhất ñịnh, của một cộng ñồng
riêng biệt, chúng ta gọi là “bản sắc dân tộc của văn hóa” hay “bản sắc văn hóa dân
tộc”.
Tháng 7 năm 1998, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 5 (khoá VIII) ra

Nghị quyết về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, ñậm ñà bản sắc dân tộc.
Toàn bộ tinh thần của Nghị quyết ñã làm sáng lên bức tranh của nền văn hoá ñất
nước trong tương lai. Đó là nền văn hoá với vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội,
là mục tiêu, ñộng lực thúc ñẩy kinh tế - xã hội phát triển, gắn với sự nghiệp công
nghiệp hóa - hiện ñại hóa (CNH- HĐH) ñất nước, gắn với những vấn ñề nảy sinh
trong xu thế toàn cầu hoá và nền kinh tế thị trường. Cần khẳng ñịnh rằng, ñó còn là
một tầm nhìn rộng và xa của Đảng về sự phát triển bền vững của ñất nước, ít nhất là
trong thời kỳ CNH, HĐH ñất nước.
Đến Đại hội IX, những tư tưởng chủ yếu của Đảng về phát triển văn hoá tiếp
tục ñược thể hiện trên cơ sở thực tiễn thực hiện Nghị quyết TW 5 (khoá VIII); nhấn
mạnh vị trí, vai trò của văn hoá trong lịch sử phát triển của dân tộc ta; khẳng ñịnh
13
sức sống lâu bền của những quan ñiểm, tư tưởng nêu trong nghị quyết TW 5 (khóa
VIII) trong ñời sống xã hội, trong sự nghiệp xây dựng và phát triển ñất nước trong
thời kỳ quá ñộ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Về ý nghĩa “văn hoá là nền tảng tinh
thần của xã hội”, Nghị quyết nhấn mạnh ñó là tầm cao, chiều sâu của sự phát triển
của dân tộc, khẳng ñịnh và làm rõ vị trí của văn hoá trong ñời sống dân tộc, trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tại hội nghị Trung ương 10 (khoá IX), Ban Chấp hành
Trung ương ñã tổ chức kiểm ñiểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá
VIII) và ra kết luận tiếp tục ñẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá làm
nền tảng tinh thần xã hội, gắn kết và ñồng bộ với phát triển kinh tế là trung tâm, xây
dựng Đảng là then chốt.
Đại hội X, Đảng xác ñịnh tiếp tục phát triển sâu rộng, nâng cao chất lượng
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, ñậm ñà bản sắc dân tộc. Gắn kết chặt chẽ hơn với
phát triển kinh tế xã hội. Làm cho văn hoá thấm sâu và mọi lĩnh vực ñời sống xã
hội. Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam. Bảo vệ và phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện ñại hóa, hội nhập
kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, sinh viên, học sinh,
ñặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, ñạo ñức và bản lĩnh văn hoá
Việt Nam. Đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng, kháng

chiến, di sản văn hoá vật thể, phi vật thể. Kết hợp hài hoà giữa bảo tồn, phát huy với
kế thừa và phát triển, giữ gìn di tích với phát triển kinh tế du lịch, tinh thần tự
nguyện, tính tự quản của nhân dân trong xây dựng văn hoá. Đa dạng hoá các hoạt
ñộng của phong trào “Toàn dân ñoàn kết xây dựng ñời sống văn hoá”. Xây dựng và
phát triển chương trình giáo dục văn hoá, thẩm mỹ, nếp sống văn hoá hiện ñại trong
nhân dân. Phát huy tiềm năng, khuyến khích sáng tạo văn học, nghệ thuật, tạo ra
những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Đồng thời tăng cường
quản lý nhà nước về văn hoá. Xây dựng cơ chế chính sách, chế tài ổn ñịnh. Tăng
cường mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hoá. Chống sự xâm nhập văn hoá
ñộc hại, lai căng, phản ñộng. Xây dựng, nâng cấp ñồng bộ hệ thống thiết chế văn
hoá. Tạo ñiều kiện cho các lĩnh vực xuất bản, thông tin ñại chúng phát triển. Nâng
14
cao chất lượng tư tưởng văn hoá, hiện ñại về mô hình, cơ cấu, cơ sở vật chất kỹ
thuật. Xây dựng cơ chế quản lý khoa học, phù hợp. Đảm bảo tự do, dân chủ cho
những hoạt ñộng sáng tạo văn hoá, văn học, nghệ thuật. Đi ñôi với phát huy trách
nhiệm công dân của văn nghệ sỹ. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt ñộng, cơ cấu
tổ chức của các hội văn học- nghệ thuật từ trung ương ñến ñịa phương.
Đại hội XI, nhiệm vụ chăm lo phát triển văn hóa ñược ñúc kết cô ñọng hơn,
cụ thể hơn, tập trung vào 4 nội dung quan trọng:
Một là: Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong
phú, ña dạng; tiếp tục ñẩy mạnh xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc
tang, lễ hội…; triển khai cuộc vận ñộng xây dựng gia ñình Việt Nam góp phần giữ
gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, còn người Việt Nam, nuôi
dưỡng giáo dục thế hệ trẻ.
Hai là: Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các
di sản văn hóa truyền thống, cách mạng. Theo ñó, tiếp tục phát triển nền văn học,
nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, ñậm ñà bản sắc dân tộc, giàu chất nhân văn, dân chủ,
vươn lên hiện ñại, phản ánh chân thật, sâu sắc ñời sống, lịch sử dân tộc và công
cuộc ñổi mới ñất nước; cổ vũ, khẳng ñịnh cái ñúng, cái ñẹp, ñồng thời lên án cái
xấu, cái ác. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các quy ñịnh của pháp luật về sở

hữu trí tuệ, về bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của
dân tộc. Xây dựng và thực hiện các chính sách, chế ñộ ñào tạo, bồi dưỡng, chăm lo
ñời sống vật chất, tinh thần, tạo ñiều kiện ñể ñội ngũ những người hoạt ñộng văn
hóa, văn học, nghệ thuật sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ
thuật.
Ba là: Chú trọng phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục, tổ chức
và phản biện xã hội của các phương tiện thông tin ñại chúng vì lợi ích của nhân dân
và ñất nước. Tập trung ñào tạo, bồi dưỡng, xây dựng ñội ngũ hoạt ñộng báo chí,
15
xuất bản vững vàng về chính trị, tư tưởng, nghiệp vụ và có năng lực ñáp ứng tốt yêu
cầu của thời kỳ mới.
Bốn là: Đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hóa, văn học,
nghệ thuật, ñất nước, con người Việt Nam với thế giới. Xây dựng một số trung tâm
văn hóa Việt Nam ở nước ngoài và trung tâm dịch thuật, quảng bá văn hóa Việt
Nam ra nước ngoài. Tiếp thu những kinh nghiệm tốt về phát triển văn hóa của các
nước, giới thiệu các tác phẩm văn học, nghệ thuật ñặc sắc của nước ngoài với công
chúng Việt Nam. Ngăn chặn, ñẩy lùi, vô hiệu hóa sự xâm nhập và tác hại của các
sản phẩm ñồi trụy, phản ñộng từ nước ngoài vào nước ta; bồi dưỡng và nâng cao
sức ñề kháng của công chúng nhất là thế hệ trẻ.
Như vậy, ñến Đại hội XI, các quan ñiểm của Đảng về xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam theo mục tiêu tiên tiến, ñậm ñà bản sắc dân tộc tiếp tục ñược
khẳng ñịnh. Nhưng từ thực tiễn ñời sống văn hóa của ñất nước những năm qua, ñặc
biệt là trong xu thế hội nhập, có sự tác ñộng nhiều chiều của quá trình toàn cầu hóa,
của nền kinh tế thị trường…, Đảng ta ñã xác ñịnh bốn ñầu việc cần ñược cấp ủy
ñảng, chính quyền các cấp và nhất là ngành văn hóa coi trọng, tập trung chỉ ñạo, tổ
chức thực hiện nhằm tiếp tục xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội. Trong ñó, việc
xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, ña dạng có ý nghĩa rất quan
trọng, chi phối và gắn bó hữu cơ với ba công việc sau. Cần nhận thức ñầy ñủ rằng,
xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh cũng chính là góp phần tạo ra môi trường
chính trị- xã hội ổn ñịnh, an toàn và bền vững trên cơ sở ñời sống kinh tế ñược ñảm

bảo.
Quá trình xây dựng môi trường văn hóa phải chú trọng xây dựng ñời sống
văn hoá, vì ñó là bước ñi ban ñầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá.
Xây dựng ñời sống văn hóa cần phải ñược tổ chức một cách bài bản, có chủ trương,
chiến lược và từ trong từng gia ñình Việt Nam, trong thôn, bản, khu phố, trong các
tổ chức ñoàn thể…, không chỉ là vài cuộc liên hoan văn nghệ quần chúng theo ñịnh
16
kỳ hay chào mừng, cổ vũ một vài ngày kỷ niệm, sự kiện nào ñó. Đối với văn học,
nghệ thuật hay bảo tồn phát huy các di sản văn hóa cũng phải có mục tiêu cụ thể,
nhằm ñạt tới kết quả cuối cùng là có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, thực sự phát
huy chức năng giáo dục, ñịnh hướng thẩm mỹ cho công chúng, nâng cao ý thức dân
tộc, trách nhiệm của mỗi người với những giá trị ñó. Các cơ quan thông tin, truyền
thông ñặc biệt là báo chí, xuất bản là những công cụ trực tiếp, ñắc lực, có trách
nhiệm tuyên truyền cho quá trình chăm lo phát triển văn hóa của ñất nước trên cơ sở
vì mục ñích, lợi ích của nhân dân và ñất nước. Đương nhiên, ñội ngũ ñó phải ñược
quan tâm, chăm lo ñào tạo, rèn luyện chính trị, tư tưởng, có năng lực chuyên môn
ñồng thời phải có ñạo ñức nghề nghiệp, trách nhiệm công dân, nếu không sẽ không
thể ñáp ứng ñược yêu cầu thông tin, giáo dục, tổ chức và xã hội phù hợp với môi
trường văn hóa lành mạnh theo quan ñiểm của Đảng.
Công việc ñổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hóa, văn học,
nghệ thuật, ñất nước, con người Việt Nam với thế giới…thực chất cũng là nhằm xây
dựng môi trường văn hóa lành mạnh, ña dạng, phong phú. Vì văn hóa Việt Nam
muốn phát triển không thể không có lộ trình, kế hoạch cụ thể ñể quảng bá ra nước
ngoài; muốn quảng bá phải có thiết chế, phải có ñầu tư về con người và cơ sở vật
chất cho nhiệm vụ này (một vài trung tâm văn hóa của Việt Nam ở nước ngoài như
hiện nay là không thể hoàn thành ñược). Đồng thời chọn lọc, giới thiệu những giá
trị văn hóa của bè bạn thế giới vào nước ta cũng là công việc cần ñược quan tâm ñể
làm ñẹp thêm bức tranh văn hóa nước nhà.
Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, ña dạng theo quan
ñiểm của Đảng nêu trên, là sự kiên ñịnh (kế thừa, bổ sung, phát triển) quan ñiểm

xây dựng và phát triển văn hóa của Đảng trong hơn nửa thể kỷ qua, ñưa quan ñiểm
ñó trở thành hiện thực trong ñời sống văn hóa của dân tộc sẽ tạo ra sức ñề kháng
khỏe mạnh trong cơ thể văn hóa Việt Nam.
17
Theo chúng tôi, văn hoá là khái niệm dùng ñể chỉ sự phản ánh tổng thể
những năng lực bản chất người trong tất cả các dạng hoạt ñộng của họ, là tổng thể
các hệ thống giá trị (cả giá trị vật chất lẫn giá trị tinh thần) do con người sáng tạo
ra trong quá trình hoạt ñộng thực tiến lịch sử xã hội của mình.
Với cách hiểu như vậy văn hoá ñược chia làm hai lĩnh vực cơ bản: văn hoá
vật chất và văn hoá tinh thần.
Văn hoá vật chất là toàn bộ những giá trị sáng tạo của con người ñược thể
hiện trong các của cải vật chất do xã hội tạo ra, bao gồm: các tư liệu sản xuất (trước
hết là công cụ lao ñộng) và tư liệu tiêu dùng của xã hội. Nó ñược hiểu như là những
giá trị vật chất phát triển của xã hội tuỳ thuộc vào từng giai ñoạn phát triển khác
nhau. Có thể gọi văn hoá vật chất là văn hoá sản xuất, văn hoá của môi trường sản
xuất, của ñiều kiện sản xuất và của người lao ñộng.
Văn hoá tinh thần là toàn bộ những giá trị của ñời sống tinh thần, bao gồm:
khoa học và mức ñộ áp dụng những thành tựu khoa học vào sản xuất và sinh hoạt;
trình ñộ học vấn, tình trạng giáo dục, y tế, văn hoá nghệ thuật, những chuẩn mực
ñạo ñức trong hành vi ứng xử của các thành viên trong xã hội và trình ñộ phát triển
nhu cầu của con người…Văn hoá tinh thần ñược trầm tích “trong các vật thể”, với
tất cả những cái ñó ñã bảo vệ toàn bộ sự giàu có của tinh thần con người; ñồng thời
nó còn bao gồm cả những phong tục tập quán, những phương thức giao tiếp và ngôn
ngữ.
Chủ nghĩa Mác-Lênin coi giữa văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần có sự
thống nhất chặt chẽ với nhau trong ñó cơ sở vật chất ñóng vai trò quan trọng quyết
ñịnh sự phát triển văn hoá nói chung. Là một hiện tượng lịch sử xã hội, văn hoá
không chỉ phản ánh sự khác biệt cơ bản giữa hoạt ñộng sống của con người với các
hình thức lịch sử trong hoạt ñộng của con người ở những giai ñoạn phát triển khác
nhau (như văn hoá cổ ñại…văn hoá xã hội chủ nghĩa). Song ñiều ñó không có nghĩa

là sự ñứt ñoạn trong sự phát triển văn hoá, là sự tiêu diệt hoặc từ chối những di sản
và truyền thống văn hoá quá khứ, mà mỗi hình thái kinh tế - xã hội mới tất yếu phải
kế thừa các thành tựu của văn hoá quá khứ.

×