Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ QUẢN LÝ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.87 KB, 16 trang )

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
Nghề luật sư đang ngày càng phổ biến hơn và trở thành một trong những nghề đặc biệt
của xã hội. Nghề luật sư rất đặc biệt bởi vì nghề luật sư không lấy điểm xuất phát là vốn hay
dựa vào vốn đề có thể phát triển. Nghề luật sử dụng một công cụ đặc biệt là kiến thức và kỹ
năng hành nghề. Nghề luật sư đòi hỏi phải có sự độc lập, liêm chính, nhân đạo và dũng cảm,
đồng thời khi hành nghề luật sư đòi hỏi phải có một kĩ năng cá nhân tốt, uy tín nghề nghiệp
của luật sư đáng tin cậy.
Nghề luật sư cũng là một nghề tự do có những đặc thù riêng nên việc quản lý hành
nghề luật sư có những điểm khác biệt trong việc quản lý so với các ngành nghề khác.
Việc quản lý hành nghề luật sư ở Việt Nam là sự kết hợp giữa quản lý nhà nước và tổ
chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư.
Theo quy định của Luật Luật sư thì nội dung quản lý nhà nước được thể hiện ở các
công việc như: Quyết định chiến lược, chính sách phát triển nghề luật sư, thực hiện các biện
pháp hỗ trợ phát triển nghề luật sư, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về luật sư, thực

1


hiện đăng ký hoạt động hành nghề luật sư, kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm về tổ chức luật
sư và hành nghề luật sư.
Còn đối với tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư thì việc quản lý hành nghề luật
sư ở Việt Nam được Luật Luật sư quy định hình thức tự quản. Tức là, tự mình trông nom,
quản lý công việc của mình, theo đó hoạt động tự quản của Luật sư và hành nghề Luật sư của
tổ chức xã hội nghề nghiệp Luật sư có thể được hiểu: Luật sư tự giác tuân thủ các quy định
của pháp luật và của tổ chức Luật sư khi hoạt động hành nghề và tổ chức xã hội nghề nghiệp
luật sư tự giám sát kiểm tra hoạt động nghề nghiệp luật sư thông qua Điều lệ, các quy chế nội
bộ và các quy định của pháp luật về luật sư.
Khi quản lý luật sư và hành nghề luật sư cần được thực hiện dựa trên nguyên tắc kết
hợp quản lý nhà nước và chế độ tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ chức


hành nghề luật sư để đảm bảo hoạt động được thực hiện một cách hiệu quả cả về mặt quản lý
tổng thể dựa trên quản lý nhà nước và cụ thể, chi tiết dựa trên chế độ tự quản của tổ chức xã
hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư tạo thế chủ động, linh hoạt cho các
cá nhân, tổ chức hành nghề luật sư.
Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn về vấn đề quản lý hành nghề luật sư ở Viêt Nam hiện nay
chúng ta cần đi sâu phân tích những cơ sở pháp luật quy định hiện hành. Đồng thời, nghiên
cứu từ thực tiễn để thấy rõ hơn những hạn chế, vướng mắc còn tồn tại, cũng như đưa ra
những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý hành nghề luật sư ở Việt
Nam. Đó cũng là mục đích của tiểu luận: “Quản lý hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay
– Thực trạng và giải pháp để nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý” mong muốn
nhắm đến.
Đề tài nghiên cứu quản lý hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay thông qua:
- Quản lý của nhà nước đối với việc hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay.
- Quản lý của tổ chức xã hội – nghề nghiệp luật sư đối với việc hành nghề luật sư ở
Việt Nam hiện nay.

2


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN – CƠ SỞ PHÁP LÝ
1. Một số vấn đề lý luận về quản lý hành nghề luật sư ở Việt Nam
Quản lý là việc nhà nước, tổ chức xã hội – nghề nghiệp luật sư thông qua các hoạt
động của mình để điều chỉnh hoạt động hành nghề luật sư trong đời sống hành ngày. Việc
quản lý này thể hiện thông qua các quy định của pháp luật trong đó có Luật Luật sư 2006 sửa
đổi, bổ sung năm 2012 và quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư. Thông qua các quy
định, quy tắc đạo đức này việc hành nghề luật sư được điều chỉnh theo đúng pháp luật. Tuy
nhiên, trước khi đi sâu vào nghiên cứu việc quản lý hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay
chúng ta cần làm rõ một số khái niệm sau:
1.1. Khái niệm về luật sư, hành nghề luật sư
Luật sư đó là những người hành nghề liên quan đến lĩnh vực pháp luật khi có đủ các

tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề cần thiết để hành nghề theo quy định của pháp luật. Luật sư
thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (gọi chung là khách
hàng). Luật sư cung cấp các dịch vụ pháp lý như: tư vấn pháp luật, soạn thảo văn bản, tổ chức
đàm phán, thương lượng về các vấn đề pháp luật, và có thể đại diện cho thân chủ hoặc bảo vệ
quyền lợi của thân chủ trước tòa án trong quá trình tiến hành tố tụng.
Trong các quy định của pháp luật có định nghĩa về luật sư, định nghĩa này được thể
hiện tại Điều 2 Luật Luật sư 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012 như sau: “Luật sư là người có
đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật luật sư, thực hiện dịch vụ pháp lý
theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức”.
Luật sư là một chức danh tư pháp độc lập, chỉ những người có đủ điều kiện hành nghề
chuyên nghiệp theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện việc tư vấn pháp luật, đại diện
theo ủy quyền, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức và nhà nước trước tòa
án và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác.
Về tiêu chuẩn luật sư được quy định tại Điều 10 Luật Luật sư 2006 sửa đổi, bổ sung
năm 2012 như sau: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và
pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng Cử nhân Luật, đã được đào tạo nghề luật sư,
đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể
trở thành Luật sư”.

3


Cần lưu ý rằng, người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 10 của Luật luật sư 2006 sửa
đổi, bổ sung năm 2012 muốn được hành nghề luật sư thì chưa đủ điều kiện để hành nghề luật
sư mà họ còn phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư thì mới có
thể hành nghề luật sư tại Việt Nam.
Hành nghề luật sư tại Việt Nam trước hết đòi hỏi phải có kiến thức pháp luật, độc lập
thực hiện các hoạt động trong phạm vi hành nghề theo quy định của pháp luật và quy chế
trách nhiệm nghề nghiệp, nhằm mục đích phụng sự công lý, góp phần bảo vệ pháp chế và xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Hành nghề luật sư có những tính chất cơ bản như sau:

- Tính chất trợ giúp: nghĩa là hành nghề luật sư nhằm mục đích giúp đỡ, bênh vực
không vụ lợi cho những người ở vào vị thế thấp kém. Tính chất này thể hiện hoạt động của
việc hành nghề luật sư không chỉ là bổn phận mà còn là thước đo lòng nhân ái và đạo đức của
luật sư.
- Tính chất hướng dẫn: hành nghề luật sự đó là hướng dẫn cho khách hàng hiểu đúng
tinh thần và nội dung của pháp luật, để từ đó họ biết cách tháo gỡ vướng mắc sao cho phù
hợp với pháp lý và đạo lý, cũng như để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ.
- Tính chất phản biện: đưa ra biện luận nhằm phản bác lại lý lẽ, ý kiến quan điểm của
người khác mà mình cho là không phù hợp với pháp lý và đạo lý. Hành nghề luật sư cần lấy
pháp luật và đạo đức xã hội làm chuẩn mực để xem xét mọi khía cạnh của sự việc để từ đó đề
xuất những biện pháp phù hợp bảo vệ lẽ phải, loại bỏ sai trái, bảo vệ công lý.
Từ các tính chất, đặc thù của nghề luật sư, chúng ta nhận thấy hành nghề luật sư diễn
ra phụ thuộc nhiều vào cá nhân và mang tính chất tự do. Do do, việc quản lý hành nghề luật
sư cũng cần phải có sự quan tâm, theo sát của nhà nước cũng như tổ chức – nghề nghiệp luật
sư để đáp ứng kịp thời quá trình phát triển nghề luật sư theo đúng định hướng của nhà nước,
cũng như phù hợp với pháp luật, đạo đức nghề nghiệp luật sư.
1.2. Quản lý hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay
Nguyên tắc quản lý luật sư và hành nghề luật sư được quy định tại Điều 6 Luật Luật sư
2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012 như sau:
Điều 6. Nguyên tắc quản lý luật sư và hành nghề luật sư

4


1. Quản lý luật sư và hành nghề luật sư được thực hiện theo nguyên tắc kết hợp quản
lý nhà nước với chế độ tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ chức hành
nghề luật sư.
2. Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư thực hiện quản
lý luật sư và hành nghề luật sư của tổ chức mình theo quy định của Luật này, Điều lệ của
Liên đoàn luật sư Việt Nam và Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam.

Nhà nước thống nhất quản lý về luật sư và hành nghề luật sư theo quy định của Luật
này.
Quy định như vậy nhằm nâng cao chức năng tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp
của luật sư và tổ chức hành nghề luật sư, phù hợp với đặc thù của hoạt động luật sư, đồng
thời xác định rõ vai trò quản lý của Nhà nước đối với luật sư và hành nghề luật sư.
Theo quy định trên thì việc quản lý hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay được thực
hiện theo nguyên tắc có sự kết hợp chặc chẽ giữa quản lý của nhà nước với chế độ tự quản
của tổ chức – nghề nghiệp của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư. Có thể hiểu một cách cụ thể
như sau:
- Về quản lý nhà nước: là sự chỉ huy, điều hành xã hội của các cơ quan nhà nước để
thực thi quyền lực nhà nước, thông qua các văn bản, thư viện mẫu văn bản quy phạm pháp
luật. Đối với sự quản lý của nhà nước về hành nghề luật sư Việt Nam hiện nay được Luật
Luật sư 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012 quy định:
+ Về nguyên tắc quản lý hành nghề luật sư : “Quản lý hành nghề luật sư được thực
hiện theo nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước với phát huy vai trò tư quản của tổ chức xã
hội – nghề nghiệp của luật sư, bảo đảm việc tuân theo pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng xử
nghề nghiệp của luật sư”. (Điều 6 Luật Luật sư 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012)
+ Trách nhiệm quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư: Chính phủ thống
nhất quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư; giao cho Bộ Tư pháp thực hiện quản
lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư ở trung ương; Các bộ, cơ quan ngang bộ trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc
quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư và UBND các tỉnh thành phố trực thuộc
trung ương thực hiện quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư tại địa phương đối với
một số nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Điều 83 Luật Luật sư 2006 sửa đổi, bổ sung
năm 2012.
5


- Theo quy định của Luật Luật sư, chủ thể quản lý nhà nước về luật sư ở trung ương là
Chính phủ. Tiếp theo, Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà

nước về luật sư và hành nghề luật sư. Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc quản lý nhà nước về
luật sư và hành nghề luật sư. Ở địa phương Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương thực hiện quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư tại đại phương.
Còn đối với chế độ tự quản của tổ chức – nghề nghiệp của luật sư, tổ chức hành nghề
luật sư được hiểu như sau:
- “Tự quản” có thể được hiểu là tự mình trông nom, quản lý công việc của mình. Luật
sư tự giác tuân thủ các quy định của pháp luật và của tổ chức Luật sư khi hoạt động hành
nghề và tổ chức xã hội nghề nghiệp luật sư tự giám sát kiểm tra hoạt động nghề nghiệp luật
sư thông qua Điều lệ, các quy chế nội bộ và các quy định của pháp luật về luật sư. Vấn đề
“phát huy chế độ tự quản” của các tổ chức xã hội – nghề nghiệp nói chung và của tổ chức luật
sư nói riêng là chủ trương đã được Đảng ta khẳng định trong Nghị quyết số 49/NQ-TƯ ngày
2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và đã được thể chế
hóa trong Luật Luật sư 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012 quy định như sau:
+ Về tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư: đã quy định cụ thể vị trí, chức năng,
nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động của tổ chức luật sư toàn quốc; đồng thời
quy định rõ thành viên của tổ chức luật sư toàn quốc là các Đoàn luật sư và các luật sư trong
cả nước, chuyển giao cho tổ chức luật sư toàn quốc, các nhiệm vụ quyền hạn bao gồm: ban
hành Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, cấp Thẻ luật sư, tổ chức bồi dưỡng thường
xuyên nghiệp vụ chuyên môn cho luật sư, tổng kết, trao đổi kinh nghiệm hành nghề, quy định
mẫu trang phục, quy định việc miễn, giảm thù lao... đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc
nâng cao vai trò tự quản của tổ chức luật sư.
+ Trách nhiệm tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư: “Tổ chức xã hội
– nghề nghiệp của luật sư thực hiện tự quản luật sư và hành nghề luật sư theo quy định của
Luật này và Điều lệ của mình. Tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư phối hợp với các cơ
quan quản lý nhà nước trong việc quản lý luật sư và hành nghề luật sư.”
Như vậy, với quản lý hành nghề luật sư đến từ nhà nước cùng với đến từ tổ chức xã
hội – nghề nghiệp của luật sư đã bao quát toàn bộ các hoạt động diễn ra khi hành nghề luật
sư. Sự quản lý này góp phần giúp quá trình hành nghề luật sư dễ dàng hơn, đồng thời đảm
6



bảo việc thực hiện các hoạt động đúng theo các quy định của pháp luật. Tránh xảy ra các hiện
tượng vi phạm pháp luật cũng như vi phạm các quy tắc đạo đức ứng xử của luật sư. Khi quản
lý như vậy nếu có những bất cập sẽ dễ dàng nhận thấy từ đó có những thay đổi để phù hợp
quá trình phát triển cũng như đảm bảo hoạt động hành nghề luất sư diễn ra một cách tốt nhất.
Như vậy, quản lý luật sư và hành nghề luật sư gồm hoạt động quản lý nhà nước, hoạt
động này là thống nhất và hoạt động quản lý của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư, tổ
chức hành nghề luật sư. Do đó, đặc thù nghề nghiệp luật sư nhà nước quy định nguyên tắc kết
hợp quản lý nhà nước với chế độ tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư, tổ
chức hành nghề luật sư. Hai hoạt động quản lý này thống nhất với nhau đảm bảo sự tuân thủ
của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư đối với Hiến pháp và pháp luật đồng thời đảm bảo luật
sư, tổ chức hành nghề luật sư tuân theo quy tắc đạo đức nghề nghiệp.

7


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ
HIỆU QUẢ QUẢN LÝ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2. Thực trạng và giải pháp quản lý hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay
2.1. Vai trò của việc quản lý hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay
Nghề luật sư là một nghề tự do có những đặc thù riêng của mình nên việc quản lý luật
sư và hành nghề luật sư có vai trò rất quan trọng, đồng thời nghề luật sư là một nghề dựa trên
sự hiểu biết pháp luật và áp dụng pháp luật. Do đó, rất cần đến sự quản lý của nhà nước. Việc
quản lý nghề luật sư không thể chỉ giao cho tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư, mà nhà
nước cũng có vai trò rất quan trọng trong việc quản lý nghề. Nhà nước có vai trò quan trọng
trong việc tạo hành lang pháp lý nghề luật sư, tạo điều kiện và khuyến khích luật sư trong
hành nghề.
Việc quản lý luật sư và hành nghề luật sư không hoàn toàn giao phó cho các tổ chức
xã hội – nghề nghiệp, mà trong một phạm vi nhất định, cũng có sự can thiệp của Nhà nước.

Nhà nước đảm bảo cho luật sư hành nghề đúng pháp luật, người hành nghề luật sư phải hội
đủ các tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật và những người có đủ tiêu chuẩn đều có quyền
hành nghề luật sư.
Bên cạnh sự quản lý của nhà nước cũng cần phải chú trọng đến vai trò tự quản của các
tổ chức – nghề nghiệp của luật sư. Việc quản lý này được phối hợp chặc chẽ giữa nhà nước
với các tổ chức – nghề nghiệp của luật sư. Trách nhiệm của các tổ chức – nghề nghiệp là
giảm sát luật sư về mặt đạo đức nghề nghiệp và giúp đỡ, bảo vệ luật sư trong khi hành nghề.
Với việc phối hợp quản lý từ Nhà nước và từ các tổ chức – nghề nghiệp của luật sư sẽ
tạo điều kiện phát triển đội ngũ luật sư Việt Nam tăng cao về số lượng, mạnh về chất lượng,
phát huy vai trò của họ trong nền kinh tế theo cơ chế thị trường và có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.2. Thực trạng nghề luật sư ở Việt Nam
2.2.1. Thực trạng nhà nước quản lý luật sư ở Việt Nam hiện nay
8


Nhà nước quản lý toàn bộ các lĩnh vực hoạt động trong xã hội. Trong lĩnh vực hoạt
động hành nghề Luật sư cũng như vậy, vấn đề quản lý nhà nước thể hiện qua chức năng xây
dựng, thể chế về luật sư và hành nghề luật sư trong đó xây dựng quyết định chiến lược phát
triển nghề luật sư, ban hành chính sách hỗ trợ cho Đoàn luật sư các tỉnh đặc biệt khó khăn và
các chính sách hỗ trợ phát triển nghề luật sư. Ngoài ra, Nhà nước cấp phép hành nghề luật sư
cho tổ chức, cá nhân hành nghề luật sư trong nước, cấp phép thành lập cơ sở đào tạo nghề
luật sư, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo về tổ chức luật sư và
hành nghề luật sư.
Theo quy định của Luật Luật sư 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012 thì nội dung quản lý
nhà nước được thể hiện ở các công việc như: Quyết định chiến lược, chính sách phát triển
nghề luật sư, thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển nghề luật sư, ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật về luật sư, thực hiện đăng ký hoạt động hành nghề luật sư, kiểm tra, thanh tra,
xử lý vi phạm về tổ chức luật sư và hành nghề luật sư.
Công tác quản lý hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay được nhà nước thực hiện

thông qua các hoạt động như:
- Tạo được cơ chế chủ động, thống nhất trong việc quản lý nhà nước đối với hoạt động
hành nghề luật sư, cụ thể hóa các quy định pháp luật của Trung ương phù hợp với tình hình đặc
thù của hoạt động hành nghề luật sư. Công tác quản lý nhà nước của địa phương hỗ trợ cho
hoạt động hành nghề của luật sư nhưng vẫn đảm bảo việc quản lý nhà nước đối với hoạt động
hành nghề luật sư.
- Công tác chỉ đạo, đôn đốc các cơ quan, tổ chức liên quan thực hiện công tác tuyên
truyền, phổ biến rộng rãi trong nhân dân về mục đích, ý nghĩa của hành nghề luật sư, cũng như
quản lý hành nghề luật sư. Chỉ đạo cho các tờ báo như: Báo Pháp Luật, Báo Tuổi trẻ, Báo
Thanh niên… có loạt bài phản ánh hoạt động thực tiễn của luật sư, mở chuyên mục trên báo để
các luật sư tham gia tư vấn pháp luật cho người dân.
- Các quy trình, thủ tục hành chính liên quan đăng ký hoạt động, hành nghề luật sư Việt
Nam và nước ngoài theo định hướng cải cách hành chính (Đề án 30 của Thủ tướng Chính phủ);
áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo TCVN ISO 9001:2008 và tin học hóa hoạt động
quản lý luật sư. Có thể khẳng định, thủ tục hành chính trong việc đăng ký hoạt động luật sư đã
được công khai, minh bạch, quy trình thủ tục giải quyết hồ sơ rất chặt chẽ và đảm bảo đúng
thời hạn quy định. Bên cạnh đó, xây dựng và áp dụng phần mềm trong quản lý hành nghề luật
9


sư, phần mềm này đã hỗ trợ hiệu quả cho việc giải quyết hồ sơ được khoa học cũng như góp
phần tích cực cho công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động hành nghề của luật sư.
- Chỉ đạo các cơ quan quản lý nhà nước như Bộ Tư pháp, các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương... tăng cường công tác quản lý đối với hoạt
động hành nghề luật sư. Theo đó, các cơ quan đã đẩy mạnh công tác phối hợp quản lý và kiểm
tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến hành nghề luật sư. Định kỳ và đột xuất,
chủ động hoặc phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các cơ
quan, tổ chức liên quan tiến hành kiểm tra, thanh tra hoạt động hành nghề luật sư. Qua đó, đã
kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các cá nhân, tổ chức mạo danh luật sư hành nghề trái pháp luật
cũng như xử lý luật sư có hành vi sai phạm, góp phần bảo đảm trật tự kỷ cương hành nghề, bảo

vệ uy tín, thương hiệu cho những luật sư và tổ chức hành nghề luật sư nghiêm túc trong hoạt
động nghề nghiệp.
- Chủ động khảo sát, nắm bắt những khó khăn, vướng mắc của các luật sư, tổ chức
hành nghề luật sư cũng như những ý kiến phản ánh của các cơ quan, tổ chức liên quan về
những tồn tại, thiếu sót trong hoạt động hành nghề luật sư. Trên cơ sở đó, có những giải pháp
phù hợp để tháo gỡ những rào cản không đáng có, nhằm tạo điều kiện cho hoạt động của luật
sư được thông suốt, thuận lợi và hiệu quả hơn cũng như kịp thời chấn chỉnh những thiếu sót
trong hoạt động hành nghề luật sư trên địa bàn Thành phố.
- Chủ động, tích cực tham gia đóng góp ý kiến đối với các dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật của Trung ương liên quan đến hoạt động hành nghề của luật sư.
Nhìn chung, nhà nước đã thực hiện việc quản lý hành nghề luật sư một cách chủ động
thông qua các cơ quan đề thực hiện hoạt động giám sát, điều chỉnh, phát triển các hoạt động
liên quan đề hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời công tác quản lý nhà nước đối
với hoạt động hành nghề luật sư đạt được hiệu quả, đảm bảo trật tự, kỷ cương, đồng thời góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay.
Những tồn tại, bất cập trong công tác quản lý hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động
hành nghề luật sư ở Việt Nam còn tồn tại một số vấn đề như sau:

10


- Cho đến nay một số quy định của Luật Luật sư đã bộc lộ những điểm chưa phù hợp
hoặc có một số quy định rõ ràng, cụ thể nhưng không hợp lý. Những bất cập này đã ít nhiều
ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước về hành nghề luật sư.
- Số lượng luật sư, tổ chức hành nghề trong cả nước nhiều nhưng việc phối hợp giữa cơ
quan quản lý nhà nước chưa kịp thời và hiệu quả, từ đó dẫn đến việc chưa đảm bảo thực hiện
tốt nguyên tắc quản lý hành nghề luật sư theo quy định tại Điều 6 Luật Luật sư 2006 sửa đổi,
bổ sung năm 2012.
- Việc thực hiện các hoạt động nhằm tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức của các

cơ quan, tổ chức và người dân về vị trí, vai trò của luật sư chưa đạt được hiệu quả cao.
- Chưa thật sự xác lập được những giải pháp quản lý mang tính chiến lược nhằm đảm
bảo hiệu quả quản lý nhà nước đồng thời góp phần nâng cao chất lượng hoạt động hành nghề
của luật sư.
- Số lượng luật sư, tổ chức hành nghề luật sư tương đối nhiều, hơn nữa đặc thù của luật
sư là hành nghề tự do nên công tác nắm bắt kịp thời, toàn diện đối với toàn bộ hoạt động hành
nghề luật sư đôi lúc có những khó khăn, vướng mắc nhất định... Trong khi đó, cơ chế phối hợp
của các cơ quan, tổ chức liên quan đến hoạt động quản lý hoạt động hành nghề chưa thật sự đạt
được những hiệu quả như mong muốn, điều đó đã phần nào ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả
của công tác quản lý hoạt động hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay.
- Dù hoạt động thanh tra, kiểm tra các tổ chức hành nghề luật sư trong thời gian qua đã
được tăng cường, tuy nhiên, hiệu quả của hoạt động này vẫn chưa thật sự đáp ứng được yêu
cầu; nhiều trường hợp khi phát hiện vi phạm chỉ dừng lại ở mức độ nhắc nhở, cảnh báo, chưa
nghiêm khắc trong xử phạt, nên chưa đủ sức răn đe, phòng ngừa vi phạm, thậm chí còn làm
cho một bộ phận luật sư có phần chủ quan, thiếu nghiêm túc trong việc tuân thủ pháp luật.
- Tình hình nhân sự tại các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý hoạt động
hành nghề luật sư còn mỏng về lực lượng, từ đó làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác theo dõi,
quản lý, hoạch định chính sách về luật sư và hành nghề luật sư.

11


2.2.2. Thực trạng tổ chức – nghề nghiệp của luật sư thực hiện quản lý hành nghề luật sư ở
Việt Nam hiện nay
Liên đoàn luật sư Việt Nam luôn hướng tới việc tổ chức bồi dưỡng thường xuyên về
kiến thức pháp luật, kỹ năng hành nghề và tổng kết, trao đổi kinh nghiệm hành nghề luật sư
trong cả nước. Thời gian qua, công tác của các Đoàn luật sư đối với nghề luật sư đã có nhiều
chuyển biến tích cực. Căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn được giao, các Đoàn luật sư đã thực
hiện tương đối tốt công tác giám sát, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật, tuân theo Quy tắc đạo
đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư, Điều lệ Đoàn luật sư của luật sư, tổ chức hành nghề luật

sư; kịp thời nhắc nhở, uốn nắn và có biện pháp xử lý nghiêm minh các trường hợp luật sư vi
phạm. Các Đoàn luật sư tích cực tham gia đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật, tham gia
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân, trợ giúp pháp lý, tư vấn miễn phí,
bào chữa miễn phí.
Sự tác động hoạt động tự quản của Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các đoàn luật sư
đến hoạt động hành nghề luật sư của luật sư thành viên là cần thiết và phải được thực hiện
thường xuyên nhằm nhắc nhở luật sư thành viên cần phải tuân thủ pháp luật trong quá trình
hoạt động hành nghề, nhằm giữ gỉn đạo đức, ứng xử nghề nghiệp luật sư. Song song để đảm
bảo việc kết hợp hoạt động quản lý nhà nước với vai trò tự quản của tổ chức xã hội nghề
nghiệp luật sư thì khi kiểm tra hoạt động nghề luật sư của các tổ chức hành nghề luật sư nên
có sự kết hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước với tổ chức xã hội nghề nghiệp luật sư thông
qua đó tổ chức xã hội nghề nghiệp luật sư mới có thể kiểm tra giám sát hoạt động của luật sư
thành viên và thông qua sự kết hợp này tổ chức xã hội nghề nghiệp luật sư nắm được mức độ
tự giác tuân thủ pháp luật của luật sư thành viên trong quá trình hành nghề qua đó có thể tác
động góp ý cho các luật sư thành viên của mình tuân thủ ngày càng tốt hơn các quy định của
pháp luật.
Công tác tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư cũng còn tồn tại một
số hạn chế:
- Thứ nhất, hoạt động quản lý, điều hành của Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư còn kém
hiệu quả. Các quy định về quản lý nội bộ cần thiết cho việc quản lý hành nghề luật sư như:
12


giám sát việc tập sự, giám sát, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật, tuân theo quy tắc đạo đức
nghề nghiệp luật sư... chưa được quan tâm xây dựng hoặc đã được ban hành nhưng nội dung
còn sơ sài, chưa phát huy tác dụng trong thực tế.
- Thứ hai, chưa thực hiện tốt chức năng đại diện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
các luật sư. Chưa chủ động tìm hiểu, giải quyết những bức xúc, khó khăn, vướng mắc của
luật sư trong hoạt động nghề nghiệp hoặc đại diện cho luật sư trong việc kiến nghị với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền tạo điều kiện cho tổ chức và hoạt động luật sư hay hoàn thiện

thể chế về luật sư và hành nghề luật sư. Công tác giám sát tập sự, giám sát việc tuân thủ pháp
luật, tuân theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp còn hạn chế, mang tính hình thức, hiệu
quả chưa cao. Việc quản lý hành nghề của luật sư có lúc, có nơi còn có biểu hiện buông lỏng
hoặc vượt quá tầm kiểm soát. Việc xử lý kỷ luật đối với luật sư vi phạm pháp luật, vi phạm
đạo đức nghề nghiệp luật sư chưa nghiêm, chưa kịp thời.
- Thứ ba, công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, kỹ
năng hành nghề và đạo đức nghề nghiệp cho luật sư chưa được quan tâm đúng mức.
- Thứ tư, chưa nhận thức đúng về vai trò quản lý nhà nước, muốn thoát ly khỏi sự
quản lý của Nhà nước dẫn đến việc phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương
trong việc quản lý luật sư và hành nghề luật sư kém hiệu quả.
Một trong những nguyên nhân cơ bản và quan trọng làm hạn chế, yếu kém hiệu quả
quản lý hành nghề luật sư là do một số quy định của Luật Luật sư 2006 sửa đổi, bổ sung năm
2012 đã bộc lộ bất cập so với thực tiễn. Thể chế về tổ chức, hoạt động luật sư mặc dù đã từng
bước hoàn thiện, song vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Nội dung, chương trình đào tạo nghề
luật sư chưa gắn kết với việc đào tạo các chức danh tư pháp khác nên chưa tạo được sự liên
thông giữa các chức danh luật sư, thẩm phán, kiểm sát viên theo tinh thần cải cách tư pháp.
Thủ tục để luật sư tham gia tố tụng như việc cấp Giấy chứng nhận tham gia tố tụng còn rườm
rà, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư hành nghề. Quy định về điều kiện thành lập tổ
chức hành nghề luật sư còn đơn giản nên dẫn đến các tổ chức hành nghề luật sư phát triển
nhanh về số lượng, nhưng đa phần là manh mún và nhỏ lẻ. Chưa có quy định về chế độ bồi
dưỡng bắt buộc đối với luật sư để nâng cao năng lực, chất lượng hành nghề. Còn thiếu chính
13


sách phù hợp khuyến khích đào tạo luật sư hội nhập quốc tế, phát triển luật sư tại các vùng
miền... Tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư mặc dù đã được củng cố thành hệ thống từ
Trung ương đến địa phương, nhưng về cơ cấu tổ chức chưa thống nhất, chưa sử dụng chung
một Điều lệ nên còn tình trạng “cát cứ”, chưa thông suốt trong triển khai hoạt động. Còn
thiếu một số quy định để phát huy hơn nữa vai trò tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp
của luật sư.

2.3. Giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện
nay
Trên cơ sở thực trạng quản lý hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay, xin được liệt kê
một số ý kiến thể hiện phương hướng, giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao chất lượng và
hiệu quả quản lý hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay như sau:
- Thứ nhất, cần sớm ban hành các quy định điều chỉnh và giám sát nhằm cải tiến nội
dung, phương pháp để nâng cao chất lương đào tạo nghề luật sư, nâng cao chất lượng tập sự
hành nghề luật sư thông qua việc các Đoàn luật sư thực hiện nghiêm túc cơ chế giám sát
người tập sự hành nghề luật sư, luật sư hướng dẫn, tổ chức hành nghề luật sư trong việc tuân
theo Quy chế tập sự hành nghề luật sư; tạo điều kiện thuận lợi để người tập sự được nghiên
cứu, tiếp cận những kiến thức pháp luật mới, đồng thời tạo cơ hội cho người tập sự được trực
tiếp tham gia hoạt động nghề nghiệp, nâng cao kỹ năng hành nghề luật sư.
- Thứ hai, cần sửa đổi, bổ sung để làm rõ nguyên tắc quản lý hành nghề luật sư được
thực hiện theo nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước với chế độ tự quản của tổ chức xã hội –
nghề nghiệp của luật sư theo quy định của Luật Luật sư 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012 và
Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam, phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội – nghề
nghiệp của luật sư và tổ chức hành nghề luật sư, đồng thời quy định Nhà nước thống nhất
quản lý về luật sư, hành nghề luật sư.
- Thứ ba, cần sửa đổi, bổ sung, quy định rõ nội dung tự quản, thẩm quyền tự quản
nhằm phát huy vị thế và vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, theo đó:

14


+ Hoạt động chung thống nhất theo một Điều lệ do Liên đoàn luật sư Việt Nam ban
hành để cơ cấu tổ chức và hoạt động của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư từ Trung
ương đến địa phương tăng cường tính thống nhất, phát huy vai trò của tổ chức luật sư. Các
Đoàn luật sư không có Điều lệ riêng như hiện hành và cũng không được ban hành nghị quyết,
quyết định, quy định về phí, khoản thu và các quy định khác trái với Điều lệ của Liên đoàn
luật sư Việt Nam.

+ Cần được rà soát, sửa đổi, bổ sung cụ thể những nội dung chính trong Điều lệ như
quy định về việc quản lý hành nghề luật sư. Xóa bỏ những nội dung đã lỗi thời, bổ sung
những nội dung phù hợp để phát triển công tác quản lý hành nghề luật sư trong hiện tại cũng
như xu hướng phát triển đất nước trong tương lai.
+ Về nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư cũng cần được
rà soát để sửa đổi, bổ sung phù hợp với lý luận thực tiễn tự quản của tổ chức xã hội – nghề
nghiệp của luật sư để nâng cao và phát huy vai trò tự quản của các Đoàn luật sư, Liên đoàn
luật sư Việt Nam, đảm bảo tính thống nhất trong việc áp dụng Điều lệ của Liên đoàn luật sư
Việt Nam. Cần thiết phải phân định rõ nội dung tự quản, trách nhiệm tự quản của Đoàn luật
sư và Liên đoàn luật sư Việt Nam.
- Thứ tư, về trách nhiệm quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư cũng cần
được sửa đổi, bổ sung phù hợp với nhiện vụ quyền hạn của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của
Luật sư. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất
định nhưng để tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý cần phân định rõ trách nhiệm quản lý
của các cấp từ Trung ương tới địa phương, xây dựng mối quan hệ trong quản lý giữa cơ quan
nhà nước với tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư theo hướng nhà nước chỉ làm những gì
mà pháp luật cho phép, quản lý luật sư và hành nghề luật sư theo quy định của pháp luật,
không can thiệp vào hoạt động hành nghề của luật sư và quan hệ nội bộ của tổ chức xã hội –
nghề nghiệp của luật sư. Cả Nhà nước và đối tượng quản lý hành nghề luật sư, tổ chức xã hội
– nghề nghiệp của luật sư cùng đồng tâm, đồng lòng thực hiện tốt pháp luật về luật sư và
hành nghề luật sư thì chúng ta mới xây dựng và phát triển nghề luật sư ở Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân.
15


CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN
Quản lý hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay đang từng ngày đạt được những bước
phát triển đáng ghi nhận, chất lượng và hiệu quả quản lý hành nghề luật sư trong xã hội ngày
một được nâng cao từ đó uy tín của luật sư ngày một lớn hơn, hoạt động hành nghề của luật

sư, các tổ chức hành nghề luật sư ngày phát triển theo hướng chuyên nghiệp hóa.
Tuy còn nhiều hạn chế trong quản lý hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay do luật
còn nhiều bất cập, người quản lý cũng như chính sách quản lý chưa thật phù hợp. Nhưng quá
trình hoàn thiện, thay đổi cho phù hợp với tình hình phát triển đất nước thì luôn được chú
trọng qua từng năm. Chất lượng và hiệu quả quản lý hành nghề luật sư không ngừng được
nâng cao trong quá trình hoạt động của tổ chức – hành nghề Luật sư, các chính sách của nhà
nước. Việc quản lý hành nghề luật sư luôn được chú trọng đảm bảo hoạt động hành nghề luật
sư đạt được hiệu quả nhất, bảo vệ tốt nhất cho quyền lợi của nhà nước, quyền lợi của luật sư
cũng như quyền lợi của thân chủ.
Quản lý hành nghề luật sư có một vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển của
nghề luật ở Việt Nam hiện nay. Khi hoạt động về nghề luật ngày càng gần gũi hơn với cuộc
sống thì lúc này quản lý hành nghề luật sẽ công cụ quan trọng đảm bảo quá trình thực hiện
tuân thủ pháp luật, không vi phạm các quy định của pháp luật, đảm bảo sự thông suốt giữa
nhà nước với tổ chức – nghề nghiệp của Luật sư.
Thực hiện các giải pháp được nêu trên sẽ phần nao giúp nâng cao chất lượng và hiệu
quả quản lý hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, cơ chế quản lý hành nghề
luật sư sẽ chặc chẽ và phù hợp hơn với quá trình phát triển không ngừng của đất nước.
Cuối cùng, dù pháp luật về quản lý hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay có hoàn
thiện đến đâu chăng nữa nhưng ý thức pháp luật, ý thức thực thi pháp luật về quản lý hành
nghề luật sư của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư
và các cơ quan, tổ chức còn yếu kém thì pháp luật về quản lý hành nghề luật sư cũng không
được thực thi trong xã hội. Vì vậy, nâng cao nhận thức người dân cũng đóng một vai trò vô
cùng quan trọng trong quá trình nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý hành nghề luật sư.
Đó cũng là yếu tố đảm bảo quản lý hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay đạt hiệu quả cao
nhất.

16




×