Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TIEU LUAN: ĐỔI MỚI NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM VÀ CÁC ĐOÀN THỂ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.42 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là hệ thống các tổ chức chính trị - xã
hội mà nhờ đó nhân dân lao động thực thi quyền lực của mình đối với xã hội. Hệ
thống chính trị này bao trùm và điều chỉnh quan hệ chính trị giữa các giai cấp,
tầng lớp xã hội, giữa các dân tộc trong cộng đồng xã hội, giữa các yếu tố xã hội,
tập thể và cá nhân về vấn đề quyền lực, về hoạch định đường lối, chủ truơng,
chính sách phát triển xã hội, là một hệ thống các thiết chế và thể chế gắn liền với
quyền lực chính trị của nhân dân và để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn do
nhân dân giao phó và uỷ quyền. Như vậy, về thực chất hệ thống chính trị không
phải là một hệ thống tổ chức có quyền lực tự thân, quyền lực của hệ thống chính
trị bắt nguồn từ quyền lực của nhân dân, phát sinh từ sự ủy quyền của nhân dân.
Ở nước ta, hệ thống chính trị tồn tại với tư cách là cơ chế thực thi quyền
lực chính trị của nhân dân. Do đó, toàn bộ hoạt động của hệ thống chính trị phải
xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của các
tổ chức trong hệ thống chính trị là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Đồng thời
trong một chỉnh thể dân chủ, việc thực hiện quyền lực chính trị đòi hỏi phải bảo
đảm tính thống nhất của quyền lực đồng thời loại bỏ mọi nguy cơ độc quyền
quyền lực từ bất kỳ một tổ chức hay lực lượng chính trị nào. Vì vậy, việc thực
hiện quyền lực chính trị luôn cần đến sự phân công, phối hợp giữa các tổ chức
trong việc thực hiện quyền quyết định đường lối chính trị, quyền thi hành đường
lối chính trị và quyền kiểm tra, giám sát đối với việc quyết định đường lối chính
trị và thực thi đường lối chính trị. Điều này có ý nghĩa quan trọng bảo đảm cho
quyền lực chính trị luôn phục vụ lợi ích và ý chí của nhân dân, ngăn ngừa nguy
cơ lạm quyền, tha hoá quyền lực làm phương hại đến quyền lực của nhân dân.
Tất cả quyền lực chính trị đều thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện
quyền lực của mình chủ yếu thông qua Nhà nước, Nhà nước quản lý xã hội chủ
yếu bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngoài Nhà
1


nước, nhân dân thực hiện quyền lực chính trị thông qua tổ chức Đảng, các tổ


chức chính trị - xã hội và thông qua tư cách cá nhân công dân, cử tri tham gia
vào việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, vào việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vì lợi ích xã hội, lợi ích tổ chức và cá
nhân. Qua đó phấn đấu thực hiện một mục đích: dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Vì vậy nắm vững bản chất, đặc điểm và sự cần thiết phải
đổi mới Hệ thống chính trị ở nước ta có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn
đối với mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân, là điều kiện cần thiết góp phần nâng
cao nhận thức và quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới trên con đường đi lên
xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.

NỘI DUNG
1. Bản chất, đặc điểm hệ thống chính trị ở nước ta
Hệ thống Chính trị Việt Nam ra đời từ Cách mạng Tháng tám năm 1945
sau khi lật đổ sự thống trị của thực dân, phong kiến thiết lạp Nhà nước Cộng hòa
dân chủ nhân dân đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Các tổ chức hợp thành hệ
thống chính trị hiện nay ở nước ta bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân. Mỗi một tổ chức đều có vị trí, vai trò và phương thức hoạt
động khác nhau với những chức năng, nhiệm vụ khác nhau dưới sự lãnh đạo của
một Đảng duy nhất cầm quyền, sự quản lý của Nhà nước nhằm thực hiện quyền
lực chính trị của nhân dân vì mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh” [5, tr.70].
1.1. Bản chất của hệ thống chính trị ở nước ta
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai
cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam, nhân dân ta đã đứng lên làm cách mạng, giành lấy quyền lực Nhà
nước và tổ chức ra hệ thống chính trị của mình. Do đó, nhân dân thực hiện
2



quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và
các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.
Bản chất của hệ thống chính trị nước ta được quy định bởi các cơ sở nền
tảng sau:
Cơ sở chính trị của hệ thống chính trị nước ta là chế độ nhất nguyên chính
trị với một Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội trên nền
tảng dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Cơ sở kinh tế của hệ thống chính trị là nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ,
phù hợp. Đồng thời, cơ sở kinh tế này tạo ra các xung lực để đổi mới, hoàn thiện
hệ thống chính trị, nâng cao khả năng tác động tích cực vào quá trình phát triển
kinh tế.
Cơ sở xã hội của hệ thống chính trị là dựa trên nền tảng liên minh giai cấp
giữa công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Với cơ sở xã hội là khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hệ thống chính trị nước ta
không chỉ là hình thức tổ chức của chính trị nhằm thực hiện quyền lực của nhân
dân mà còn là hình thức tổ chức đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền lợi
của mọi tầng lớp nhân dân, là biểu tượng của đại đoàn kết toàn dân tộc.
Cơ sở tư tưởng của hệ thống chính trị là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là các căn cứ lý luận để xây dựng hệ thống chính trị với chế độ nhất
nguyên chính trị và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Sự nhất quán về cơ sở chính trị, kinh tế, xã hội và tư tưởng là nhân tố
vừa bảo đảm tính định hướng chính trị vừa bảo đảm tính năng động và khả
năng thích ứng của hệ thống chính trị trước sự vận động phát triển của đất
nước và thế giới.
Hệ thống chính trị ở nước ta là một hệ thống các thiết chế và thể chế gắn
liền với quyền lực chính trị của nhân dân và để thực hiện các nhiệm vụ, quyền
3



hạn do nhân dân giao phó và uỷ quyền. Về thực chất, hệ thống chính trị không
phải là một hệ thống tổ chức có quyền lực tự thân, quyền lực của hệ thống chính
trị bắt nguồn từ quyền lực của nhân dân, phát sinh từ sự uỷ quyền của nhân dân,
thể hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Mọi quyền hành và lực lượng đều
ở nơi dân. Trong chế độ do nhân dân là chủ thể duy nhất và tối cao của quyền
lực chính trị, nhân dân uỷ quyền cho một hệ thống các tổ chức bao gồm Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
nhân dân.
Hệ thống chính trị ở nước ta là một hình thức tổ chức thực hành dân chủ;
mỗi một tổ chức trong hệ thống chính trị đều là những hình thức để thực hiện
dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp của nhân dân. Các tổ chức này được tổ
chức và hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc dân chủ và vì các mục tiêu dân chủ.
Điều đó bắt nguồn từ bản chất của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa. “Dân chủ
xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự phát triển đất nước” [5, tr.84-85]. Mỗi một tổ chức trong hệ thống chính trị
vừa là một hình thức thực hành dân chủ, tổ chức các quá trình dân chủ vừa là
công cụ bảo đảm dân chủ trong xã hội, một trường học dân chủ để giáo dục ý
thức dân chủ, nâng cao năng lực làm chủ của nhân dân.
1.2. Đặc điểm của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay
Thứ nhất, tính nhất nguyên chính trị của hệ thống chính trị
Chế độ chính trị Việt Nam là thể chế chính trị một Đảng duy nhất cầm
quyền, mặc dù trong những giai đoạn lịch sử nhất định, trong chế độ chính trị
Việt Nam ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam còn có Đảng Dân chủ và Đảng Xã
hội. Tuy nhiên hai Đảng này được tổ chức và hoạt động như những đồng minh
chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, thừa nhận vai trò lãnh đạo và vị trí
cầm quyền duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do vậy, về thực chất chế độ
chính trị không tồn tại các đảng chính trị đối lập.
4



Hệ thống chính trị ở Việt Nam gắn liền với vai trò tổ chức và lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Mỗi tổ chức thành viên của hệ thống chính trị đều do
Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập vừa đóng vai trò là hình thức tổ chức quyền
lực của nhân dân (Nhà nước), tổ chức tập hợp đoàn kết quần chúng, đại diện ý
chí và nguyện vọng của quần chúng (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể nhân dân) vừa là tổ chức đóng vai trò là phương tiện để Đảng Cộng sản thực
hiện sự lãnh đạo chính trị của mình.
Toàn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức và hoạt động trên nền tảng tư
tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó quy định
tính nhất nguyên tư tưởng, nhất nguyên ý thức hệ chính trị của toàn bộ hệ thống
và của từng thành viên trong hệ thống chính trị.
Thứ hai, tính thống nhất của hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí, vai
trò, chức năng khác nhau nhưng lại quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau tạo thành
một thể thống nhất. Sự đa dạng, phong phú về tổ chức và phương thức hoạt
động của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị tạo điều kiện để phát
huy “tính hợp trội” của hệ thống, tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh trong toàn bộ
hệ thống để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của mỗi tổ chức thành
viên và của toàn bộ hệ thống chính trị.
Nhân tố quyết định tính thống nhất của hệ thống chính trị nước ta là sự lãnh
đạo thống nhất của một Đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam
theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc quán triệt và thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động là nhân tố cơ bản bảo đảm cho hệ
thống chính trị có được sự thống nhất về tổ chức và hành động nhằm phát huy
sức mạnh đồng bộ của toàn hệ thống cũng như của mỗi tổ chức trong hệ thống
chính trị. Đồng thời, tính thống nhất của hệ thống chính trị còn thể hiện ở mục
tiêu chính trị là xây dựng xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nội dung: dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hệ thống chính trị được tổ chức như
một chỉnh thể thống nhất từ Trung ương đến địa phương và cấp cơ sở.

5


Các quan điểm và nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh đều được các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta vận dụng, ghi rõ
trong Điều lệ của từng tổ chức.
Thứ ba, hệ thống chính trị gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát
của nhân dân
Hệ thống chính trị Việt Nam là một hệ thống không chỉ gắn với chính trị,
quyền lực chính trị mà còn gắn với xã hội. Do vậy trong cấu trúc của hệ thống
chính trị bao gồm các tổ chức chính trị như Đảng, Nhà nước và các tổ chức vừa có
tính chính trị vừa có tính xã hội như Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Hệ thống chính trị không đứng trên xã hội, tách khỏi xã hội như những lực
lượng chính trị áp bức xã hội như trong các xã hội bóc lột mà là một bộ phận
của xã hội, gắn bó với xã hội. Sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị với
nhân dân được thể hiện ngay trong bản chất của các bộ phận cấu thành hệ thống
chính trị: Đảng Cộng sản Việt Nam là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc; Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân là hình thức tập hợp, tổ chức của chính các tầng
lớp nhân dân.
Sự gắn bó giữa hệ thống chính trị với nhân dân còn được xác định bởi ý
nghĩa: hệ thống chính trị là trường học dân chủ của nhân dân; mỗi tổ chức trong
hệ thống chính trị là phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ tư, hệ thống chính trị có sự kết hợp chặt chẽ giữa tính giai cấp và dân tộc
Từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc. Giai cấp và dân tộc hoà đồng, các giai cấp, tầng lớp xã hội đoàn kết, hợp tác
để cùng phát triển. Trong mọi giai đoạn xây dựng và phát triển của hệ thống
chính trị (kể cả thời kỳ còn mang tên hệ thống chuyên chính vô sản) vấn đề dân

tộc, quốc gia luôn là cơ sở đoàn kết mọi lực lượng chính trị - xã hội để thực hiện
6


thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Vấn đề đặt ra đối với tổ chức
và hoạt động của hệ thống chính trị là đoàn kết giai cấp, tập hợp lực lượng trên
nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội quy định hệ thống chính trị mang bản
chất giai cấp công nhân, đại diện trung thành lợi ích của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã gắn kết vấn
đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Do vậy trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, sự
phân biệt giữa dân tộc và giai cấp đều mang tính tương đối và không có ranh
giới rõ ràng, tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị. Nhờ vậy
hệ thống chính trị luôn là đại biểu cho dân tộc, là yếu tố đoàn kết dân tộc, gắn bó
mật thiết với nhân dân và là hệ thống của dân, do dân, vì dân.
2. Đổi mới hệ thống Chính trị ở nước hiện nay
2.1. Sự cần thiết phải đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta
Hệ thống chính trị chỉ phát huy tác dụng khi sự vận hành các yếu tố của nó
phù hợp với những quy luật khách quan. Từ khi thực hiện đường lối của Đảng
đến nay, hệ thống chính trị ở nước ta đã có những đổi mới đáng kể: Đảng đã được
củng cố cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức; vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội
ngày càng tăng; Nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện theo hướng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân; Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể chính trị - xã hội từng bước đổi mới nội dung và phương thức hoạt
động, đem lại hiệu quả thiết thực; quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực
kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá, tư tưởng được phát huy...
Tuy nhiên bên cạnh những thành công quan trọng đó, hệ thống chính trị ở
nước ta cũng còn bộc lộ nhiều nhược điểm: chức năng, nhiệm vụ của các bộ
phận trong hệ thống chính trị chưa được xác định rành mạch, trách nhiệm không
rõ; nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới, còn nhiều biểu hiện của

cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp.
7


Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi
phạm. Việc thực hành dân chủ còn mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng
dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến trật tự, an
toàn xã hội. Việc tuyên truyền, vận động, tập hợp, thu hút nhân dân tham gia các
phong trào, cuộc vận động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân còn hạn
chế. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân chưa sâu sát các
tầng lớp nhân dân và cơ sở.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu
phát triển kinh tế và quản lý đất nước. Năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều
hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu. Tổ chức bộ máy ở nhiều cơ quan còn
chưa hợp lý, biên chế cán bộ, công chức tăng thêm; chức năng, nhiệm vụ của
một số cơ quan chưa đủ rõ, còn chồng chéo. Cải cách hành chính chưa đạt yêu
cầu đề ra; thủ tục hành chính còn gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Công
tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề ra. Quan liêu,
tham nhũng, nhũng nhiễu, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện
tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội.
Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một
số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác
tư tưởng còn hạn chế; thiếu sắc bén trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn
“diễn biến hoà bình”.
Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu,
những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục
diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng và sự yếu
kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành, ngày càng làm tăng

thêm bức xúc trong nhân dân, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và
Nhà nước, đe doạ sự ổn định, phát triển của đất nước.
8


Việc đổi mới công tác cán bộ còn chậm. Tình trạng chạy chức, chạy quyền,
chạy tội, chạy bằng cấp, huân chương chưa được khắc phục. Công tác cán bộ thiếu
tầm nhìn xa. Môi trường làm việc, chính sách cán bộ chưa tạo được động lực để
khuyến khích, thu hút, phát huy năng lực, sự cống hiến của cán bộ; chưa cổ vũ ý
chí phấn đấu vươn lên, sự gắn bó, tận tuỵ của cán bộ đối với công việc.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp;
công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội
dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu. Việc xây dựng tổ chức
cơ sở đảng trong doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
còn chậm, vai trò của tổ chức đảng ở đây mờ nhạt.
Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và thi
hành kỷ luật đảng, chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao; chưa coi
trọng việc kiểm tra, giám sát thực hiện đường lối, chủ trương, chỉ thị, nghị
quyết, thi hành Điều lệ Đảng, kiểm tra, giám sát phòng ngừa tiêu cực và phát
huy nhân tố tích cực. Sự đoàn kết, nhất trí ở không ít cấp uỷ chưa tốt.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân trên một số nội dung chưa rõ, chậm đổi mới. Phong cách,
lề lối làm việc đổi mới chậm; hội họp vẫn nhiều. Nguyên tắc tập trung dân chủ
còn bị vi phạm, ảnh hưởng đến sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi một hệ thống chính trị
tương thích. Đất nước đang cần một hệ thống chính trị được tổ chức và hoạt
động không chỉ phù hợp với các yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế thị trường, của
chế độ pháp quyền và hội nhập quốc tế mà còn phải thật sự trở thành một nhân
tố thúc đẩy tích cực sự phát triển kinh tế thị trường, tăng cường dân chủ và đẩy

mạnh hợp tác quốc tế, đủ năng lực để giải quyết mọi khó khăn, các diễn biến
phức tạp về chính trị, kinh tế, xã hội trong tiến trình phát triển. Do vậy, tiếp tục
đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị đang và luôn là đòi hỏi có tính cấp thiết,
là một trong những nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa chiến lược to lớn đối với sự
phát triển bền vững của đất nước.
9


Bối cảnh mới của đất nước và thế giới ngày nay đang tạo ra nhiều cơ hội và
thách thức đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Để tranh thủ tối đa các
thời cơ phát triển và vượt qua các thách thức của thời đại, Đảng ta chủ trương
tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới một cách toàn diện, trong đó đổi mới hệ
thống chính trị là một trong những nhiệm vụ quan trọng đáp ứng yêu cầu, đòi
hỏi có tính khách quan đối với sự phát triển tiếp theo của đất nước. Do đó, cần
nhận thức rõ đổi mới kinh tế phải gắn liền với đổi mới hệ thống chính trị và sự
tương đồng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị là điều kiện tiên
quyết để tiếp tục phát triển đất nước, vượt qua thách thức, tiến kịp thời đại. Tuy
nhiên, tiếp tục đổi mới kinh tế và tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị chỉ có thể
được xác lập bền vững trên cơ sở một đường lối đổi mới nhất quán với các mục
tiêu, quan điểm, nguyên tắc đổi mới được xác định một cách khoa học và rõ
ràng với những lộ trình và bước đi thích hợp.
2.2. Quan điểm đổi mới hệ thống chính trị
Thứ nhất, đổi mới hệ thống chính trị nhằm tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm giữ vững độc lập dân
tộc, ổn định chính trị và sự phát triển bền vững của đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa
Đổi mới hệ thống chính trị không nhằm mục tiêu tạo ra một hệ thống chính
trị mới hay thay đổi bản chất của hệ thống chính trị hiện nay. Trên cơ sở tổ chức
và hoạt động của hệ thống chính trị hiện nay, việc đổi mới được thực hiện theo
hướng hoàn thiện để khắc phục các bất cập, yếu kém trong toàn bộ hệ thống và

trong từng tổ chức thành viên của hệ thống chính trị; tạo nên sự phù hợp của hệ
thống chính trị với các yêu cầu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân và chủ
động hội nhập quốc tế. Đổi mới hệ thống chính trị, đoàn kết các giai cấp, tầng
lớp nhân dân, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, góp phần củng cố nền
tảng xã hội của hệ thống chính trị, nhằm giữ vững ổn định chính trị, độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, chống lại mọi âm mưu “diễn biến hoà bình” đồng thời
khắc phục sự bảo thủ, trì trệ, tâm lý ngại đổi mới, sợ đổi mới.
10


Đổi mới hệ thống chính trị gắn liền với mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng, tăng
cường và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền. Tăng
cường và phát huy dân chủ theo hướng hoàn thiện các hình thức và phương thức
dân chủ của người dân thông qua Nhà nước và các tổ chức cấu thành hệ thống
chính trị; mặt khác đa dạng hoá các hình thức thực hành dân chủ để các tầng lớp
nhân dân có nhiều cơ hội tham gia tích cực vào các quá trình dân chủ trong đời
sống xã hội.
Dân chủ trong hệ thống chính trị chỉ thật sự được bảo đảm khi xây dựng và
thực hiện được cơ chế kiểm tra, giám sát ngay trong từng tổ chức trong hệ thống
chính trị và trong toàn bộ hệ thống chính trị cùng với sự kiểm tra, giám sát của
chính nhân dân. Dân chủ gắn liền với trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật. Do vậy,
phát huy dân chủ phải đồng thời tăng cường củng cố kỷ cương, trật tự kỷ luật
trong từng tổ chức của hệ thống chính trị và trong thực tiễn xã hội.
Thứ hai, đổi mới hệ thống chính trị trên cơ sở những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa truyền thống văn hoá,
lịch sử của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trên thế giới
Quán triệt các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc xây dựng

cơ sở lý luận và triển khai thực tiễn các giải pháp đổi mới hệ thống chính trị đòi
hỏi một mặt đấu tranh chống lối vận dụng giáo điều, rập khuôn máy móc hệ
thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam. Mặt khác,
phải vận dụng sáng tạo và không ngừng phát triển các quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin trong các điều kiện cụ thể của Việt Nam ở từng giai đoạn phát
triển.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền, về Nhà nước của dân, do dân,
vì dân, về dân chủ, về khối đại đoàn kết toàn dân tộc, về xây dựng, rèn luyện,
đào tạo đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị là những cơ sở lý luận và tư tưởng
11


trực tiếp đối với tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Việc nghiên cứu
tổng kết tư tưởng Hồ Chí Minh, phổ biến, tuyên truyền, giáo dục và học tập tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hoạt động cơ bản để tổng kết lý luận về hệ thống
chính trị, xây dựng luận cứ để đổi mới hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị của nước ta kế thừa truyền thống lịch sử chính trị và bản
sắc văn hoá Việt Nam được chắt lọc trong lịch sử xây dựng và trưởng thành của
dân tộc Việt Nam. Do vậy, các giá trị lịch sử truyền thống về chính trị, văn hoá,
các kinh nghiệm lịch sử của các thế hệ người Việt Nam được đúc kết từ lịch sử
hàng nghìn năm cần được quán triệt và vận dụng trong đổi mới hệ thống chính
trị. Đồng thời, đổi mới hệ thống chính trị vừa phải giữ vững bản chất và đặc
điểm của chế độ chính trị nước ta, vừa phải tiếp thu có chọn lọc các giá trị tư
tưởng chính trị tiến bộ của văn minh nhân loại, các kinh nghiệm tốt của nền
chính trị ở các nước trên thế giới.
Thứ ba, đổi mới hệ thống chính trị trên cơ sở nâng cao năng lực cầm
quyền và hiệu quả lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, là lực lượng lãnh
đạo Nhà nước và toàn xã hội nên trong đổi mới hệ thống chính trị, vấn đề có ý
nghĩa quyết định nhất là xây dựng được một Đảng Cộng sản cầm quyền trong

sạch, vững mạnh, kết tinh được tinh hoa, trí tuệ, đạo đức của dân tộc, được nhân
dân tin tưởng, ủng hộ, bảo vệ; nhờ đó chính quyền được giữ vững, địa vị cầm
quyền của Đảng được khẳng định.
Đổi mới hệ thống chính trị nhằm nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu
quả lãnh đạo của Đảng trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, phát
huy mạnh mẽ dân chủ, đòi hỏi phải đổi mới toàn diện công tác xây dựng Đảng
về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cán bộ. Đổi mới tổ chức và hoạt động của
Đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân là tiền đề để đổi mới Nhà nước và các tổ chức
12


khác trong hệ thống chính trị. Phát huy dân chủ trong Đảng là cơ sở để phát huy
dân chủ trong toàn bộ hệ thống chính trị và xã hội. Do vậy, đổi mới hệ thống
chính trị phải được bắt đầu từ chính quá trình đổi mới và chỉnh đốn Đảng.
Đổi mới hệ thống chính trị vừa củng cố vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, vừa bảo đảm tính
độc lập của các tổ chức này trên cơ sở xử lý hài hoà các quan hệ lãnh đạo và
quan hệ đối thoại dân chủ của Đảng với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội trong tư cách Đảng là hạt nhân lãnh đạo chính trị, đồng
thời là thành viên của hệ thống chính trị.
Thứ tư, đổi mới hệ thống chính trị bảo đảm Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa là trụ cột của hệ thống chính trị, tập trung xây dựng bộ máy tinh gọn,
năng động, trong sạch và hiệu quả
Nhà nước là tổ chức trụ cột của hệ thống chính trị, do đó việc đổi mới, hoàn
thiện nhà nước có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả tổ chức và hoạt động của toàn
bộ hệ thống chính trị. Các giải pháp đổi mới nhà nước nhằm hướng tới mục tiêu
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do vậy, Nhà nước trong hệ thống chính trị

đổi mới phải thể hiện được các giá trị phổ biến đặc trưng cho Nhà nước pháp quyền
nói chung và các giá trị đặc thù của Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải xây dựng và thực
hiện được một hệ thống các nguyên tắc tổ chức quyền lực Nhà nước một cách
thật sự dân chủ và khoa học; cơ cấu lại chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong
các điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; hoàn
chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước bảo đảm quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phân nhiệm và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan thực
hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Bộ máy Nhà nước phải được đổi mới đồng bộ cả ở trung ương và địa
phương để tạo ra một nền hành chính hiệu quả và thông suốt, bảo đảm sự quản
13


lý, điều hành thống nhất của trung ương và quyền tự chủ của các cấp chính
quyền địa phương. Do vậy việc đổi mới, kiện toàn các cấp chính quyền địa
phương cần phải được nhận thức đầy đủ tính cấp thiết trước các yêu cầu phát
triển hiện nay của đất nước.
Tăng cường vai trò, hiệu lực của Nhà nước trong hệ thống chính trị là tăng
cường năng lực, trách nhiệm phục vụ nhân dân của bộ máy công quyền. Do vậy,
mọi giải pháp cải cách bộ máy Nhà nước đều nhằm mục tiêu bảo đảm để nhân
dân thật sự là chủ thể duy nhất của quyền lực nhà nước, tham gia tích cực vào
quá trình thực hiện quyền lực Nhà nước.
Để bảo đảm yêu cầu này, bộ máy Nhà nước phải được cơ cấu gọn nhẹ,
năng động, trong sạch và hiệu quả. Mọi hoạt động Nhà nước đều công khai,
minh bạch, thật sự dân chủ. Có như vậy mới thật sự khắc phục được tình trạng
tha hoá quyền lực, quan liêu hoá và tham nhũng trong bộ máy công quyền.
Thứ năm, đổi mới hệ thống chính trị bảo đảm Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân thật sự là các tổ chức đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân

dân và thực hiện chức năng phản biện, giám sát xã hội đối với hoạt động của
các cơ quan Đảng, Nhà nước, của cán bộ, đảng viên, công chức.
Đổi mới Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong hệ thống chính
trị cần được tiến hành trên cơ sở tôn trọng và phát huy vị trí, vai trò của Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức quần chúng. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
là các tổ chức quần chúng gắn bó với Đảng, có vai trò tập hợp quần chúng, là
các hình thức dân vận của Đảng, có chức năng tổ chức thực hiện đường lối
chính trị của Đảng trong các tầng lớp nhân dân. Do vậy, tổ chức và hoạt động
của các tổ chức này đều chịu sự lãnh đạo của Đảng. Mặt khác, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân là tổ chức tự nguyện của quần chúng, là hình thức tập
hợp của chính quần chúng, thể hiện ý chí, nguyện vọng của quần chúng, bảo vệ
lợi ích của quần chúng, là phương thức hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các hội
14


viên. Trong ý nghĩa này, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức xã hội là các đối tác
dân chủ của Đảng, Nhà nước; độc lập với Nhà nước để thực hiện quyền của
nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ chức Đảng và Nhà nước vì các
mục tiêu dân chủ.
3. Một số giải pháp đổi mới hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn
hiện nay
Trong những năm qua, hệ thống chính trị ở nước ta đã có những đổi mới
đáng kể: Đảng đã được củng cố cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức; vai trò lãnh
đạo của Đảng trong xã hội ngày càng tăng; Nhà nước tiếp tục được xây dựng và
hoàn thiện theo hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân
và vì dân; Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội từng bước đổi mới nội
dung và phương thức hoạt động, đem lại hiệu quả thiết thực; quyền làm chủ của
nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá, tư tưởng được phát
huy... Bên cạnh đó, hệ thống chính trị ở nước ta còn bộc lộ nhiều nhược điểm:
Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà

nước, hiệu quả hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội chưa nâng lên kịp
với đòi hỏi của tình hình nhiệm vụ mới. Bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể
chậm được sắp xếp lại cho tinh giản và nâng cao chất lượng, còn nhiều biểu hiện
quan liêu, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân. Công tác tuyển chọn, bồi
dưỡng, thay thế, trẻ hoá, chuẩn bị cán bộ kế cận còn lúng túng, chậm trễ. Năng
lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị chưa tương xứng với
yêu cầu của nhiệm vụ. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách
mạng, tha hoá về phẩm chất đạo đức, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở
Đảng chưa cao. Hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay còn nhiều mặt yếu kém, bất
cập trong công tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần chúng.
Tình trạng tham nhũng, quan liêu, mất đoàn kết nội bộ, vừa vi phạm quyền làm
chủ của dân, vừa không giữ đúng kỷ cương, phép nước xảy ra ở nhiều nơi, có
những nơi nghiêm trọng. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống
chính trị chưa được xác định rành mạch, tránh nhiệm không rõ; nội dung và
15


phương thức hoạt động chậm đổi mới, còn nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung
quan liêu, bao cấp. Đội ngũ cán bộ cơ sở ít được đào tạo, bồi dưỡng; chính sách
đối với cán bộ cơ sở còn chắp vá. Để tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hệ
thống chính trị ở từ Trung ương đến cơ sở cần tập trung giải quyết mấy nhóm
giải pháp cơ bản đây:
3.1. Những giải pháp xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Tổng kết từ thực tiễn đổi mới, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng, một số nội dung xây dựng và chỉnh đốn Đảng được đặc biệt chú ý nhằm
phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối Nhà nước và xã hội.
Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn
Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao bản
lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước

hết của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình
huống nào. Kiên định đường lối đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc
chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên tắc.
Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận, làm sáng tỏ một
số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta và những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới, không ngừng
phát triển lý luận, đề ra đường lối và chủ trương đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước; khắc phục một số mặt lạc hậu, yếu kém của công tác nghiên cứu lý luận.
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu,
tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng, tuyên truyền, học tập chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền, cổ vũ động viên các nhân tố
mới, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, giáo dục truyền thống yêu
nước, cách mạng. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động
“diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh,
16


phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ ta; khắc
phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Mỗi
cán bộ, đảng viên không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thực sự
là một tấm gương về phẩm chất đạo đức, lối sống. Cán bộ cấp trên phải gương
mẫu trước cán bộ cấp dưới, đảng viên và nhân dân. Cán bộ, đảng viên phải nêu
cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc, trước Đảng và nhân dân, hết lòng, hết
sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Các tổ chức đảng tạo điều kiện để
đảng viên công tác, lao động có năng suất, chất lượng, hiệu quả, đóng góp vào
sự phát triển chung của đất nước. Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong sinh
hoạt đảng. Triển khai thực hiện tốt Quy chế dân vận trong hệ thống chính trị; đổi

mới và nâng cao chất lượng công tác vận động nhân dân. Định kỳ lấy ý kiến
nhận xét của nhân dân về tư cách, đạo đức của cán bộ, đảng viên. Xử lý nghiêm
mọi cán bộ, đảng viên vi phạm về trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, lối sống.
Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng. Kiện toàn, nâng cao
chất lượng các cơ quan tham mưu, đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu, nhất là
ở cấp chiến lược; củng cố và đổi mới mô hình tổ chức, phương thức hoạt động
của các tổ chức đảng, nhất là của đảng đoàn, ban cán sự đảng. Tập trung chỉ đạo,
củng cố những tổ chức đảng yếu kém; kịp thời kiện toàn cấp uỷ và tăng cường
cán bộ ở nơi có nhiều khó khăn, nội bộ mất đoàn kết. Coi trọng đổi mới và nâng
cao chất lượng sinh hoạt cấp uỷ, tổ chức đảng, chất lượng tự phê bình, phê bình
trong sinh hoạt đảng. Thật sự phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng từ sinh hoạt
chi bộ, sinh hoạt cấp ủy ở cơ sở đến sinh hoạt Ban Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Chấp
hành Trung ương; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, chống quan liêu,
bè phái, cục bộ, địa phương, độc đoán, vi phạm dân chủ, dân chủ hình thức.
Kiện toàn tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên. Củng cố
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tạo chuyển biến
rõ rệt về chất lượng hoạt động của các loại hình cơ sở đảng, nhất là tổ chức đảng
17


trong các đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Đổi mới,
tăng cường công tác quản lý, phát triển đảng viên, bảo đảm chất lượng đảng viên
theo yêu cầu của Điều lệ Đảng. Xây dựng các tiêu chí, yêu cầu cụ thể về tư tưởng
chính trị, trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức, lối sống của đảng viên đáp ứng yêu
cầu giai đoạn cách mạng mới; phát huy tính tiên phong, gương mẫu, chủ động,
sáng tạo của đội ngũ đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ được giao.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ. Thực hiện tốt Chiến
lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đổi mới tư duy,
cách làm, khắc phục những yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ. Xây
dựng và thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ; trọng dụng những người có đức, có tài. Nâng cao chất lượng
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp.
Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, chú ý cán bộ trẻ, nữ, dân tộc
thiểu số, chuyên gia trên các lĩnh vực; xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến
lược. Đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình
đã được bổ sung, hoàn thiện, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của
nhân dân làm thước đo chủ yếu.
Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát. Các cấp uỷ, tổ
chức đảng phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ kiểm
tra, giám sát theo Điều lệ Đảng. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và hoạt
động của hệ thống uỷ ban kiểm tra các cấp. Hoàn thiện quy chế phối hợp giữa
uỷ ban kiểm tra đảng với các tổ chức đảng và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong
việc xem xét khiếu nại, tố cáo và xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Tập trung rà soát, bổ
sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ thống các quy chế, quy
định, quy trình công tác để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với hoạt động của hệ thống chính trị. Khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm
thay hoặc buông lỏng lãnh đạo các cơ quan quản lý Nhà nước. Đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
18


nhân dân, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ
quan lãnh đạo của Đảng từ trung ương đến địa phương, cơ sở.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) cũng xác định một số nhiệm vụ trọng tâm đối với
công tác xây dựng Đảng: Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh
đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và

năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng
cường dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tự phê bình
và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Đảng chăm lo xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến
đấu cao theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp
người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc...
Để tạo chuyển biến mạnh mẽ về công tác xây dựng Đảng trong thời gian
tới, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã nhấn
mạnh: ngoài việc cần tiếp tục thực hiện tốt tám nhiệm vụ trong công tác xây
dựng Đảng mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề ra, coi đó
là những nhiệm vụ vừa cơ bản, vừa lâu dài và phải thực hiện thường xuyên, có
hiệu quả, đồng thời tập trung cao độ để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt ba vấn đề
cấp bách sau đây:
“Một là, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,
trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng.

19


Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp
trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế.
Ba là, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính
quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng” [6, tr.26].
Trong ba vấn đề nêu trên, vấn đề thứ nhất được Đảng ta xác định là trọng
tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất.

3.2. Những giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước
Để có được một chính quyền mạnh mẽ, bộ máy Nhà nước phải được tổ
chức và vận hành một cách khoa học, dân chủ phù hợp với các yêu cầu của nền
kinh tế thị trường vừa thể hiện được các giá trị chính trị, văn hoá, xã hội truyền
thống của dân tộc, vừa tiên tiến và hiện đại tương thích với các yêu cầu của thế
giới ngày nay. Theo đó, quyền lực Nhà nước phải được chế định chặt chẽ bởi
luật pháp, bảo đảm vừa có sự phân công, phối hợp vừa có sự kiểm soát giữa các
cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Trong cơ chế kinh tế thị trường, Nhà nước không thể ôm đồm nhiệm vụ,
công việc như trước đây, mà phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của mình
theo hướng phân định rành mạch quyền hạn và trách nhiệm giữa hệ thống kinh
tế, Nhà nước và hệ thống xã hội. Đây chính là cơ sở để tinh gọn bộ máy và nâng
cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động của bộ máy Nhà nước theo đúng các yêu cầu
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là
cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Hoàn thiện cơ chế bầu cử đại biểu Quốc hội. Nâng cao năng lực của đại biểu
Quốc hội theo hướng vừa bảo đảm cơ cấu đại diện vừa bảo đảm tiêu chuẩn chất
lượng, có cơ chế để đại biểu gắn bó chặt chẽ và có trách nhiệm với cử tri; tăng

20


hợp lý số lượng đại biểu chuyên trách. Cải tiến, nâng cao chất lượng hoạt động
của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội.
Nghiên cứu xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch nước
để thực hiện đầy đủ chức năng nguyên thủ quốc gia, thay mặt Nhà nước về đối
nội, đối ngoại và thống lĩnh các lực lượng vũ trang; quan hệ giữa Chủ tịch nước
với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng

nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực, hiệu quả;
tổ chức tinh gọn và hợp lý; tăng tính dân chủ và pháp quyền trong điều hành của
Chính phủ; nâng cao năng lực dự báo, ứng phó và giải quyết kịp thời những vấn đề
mới phát sinh. Tổng kết, đánh giá việc thực hiện chủ trương sắp xếp các bộ, sở, ban,
ngành quản lý đa ngành, đa lĩnh vực để có chủ trương, giải pháp phù hợp.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính; giảm mạnh và
bãi bỏ các loại thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Nâng
cao năng lực, chất lượng xây dựng và tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách.
Đẩy mạnh xã hội hoá các loại dịch vụ công phù hợp với cơ chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân
dân các cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết
định và tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp.
Nghiên cứu tổ chức, thẩm quyền của chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải
đảo. Tiếp tục thực hiện thí điểm chủ trương không tổ chức hội đồng nhân dân
huyện, quận, phường.
Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây
dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo
vệ quyền con người. Tập trung cải cách hệ thống toà án, bảo đảm cho toà án thật
sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử. Toà án cần được tổ
chức theo cấp xét xử và tích cực cải cách thủ tục tư pháp theo hướng tranh tụng,
21


bảo đảm quyền bình đẳng thật sự giữa các bên khi tham gia các quá trình xét xử
của toà án.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu
cầu trong tình hình mới. Rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lý cán bộ,
công chức; phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền của
mỗi cán bộ, công chức; tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm của

hoạt động công vụ. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản
lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý
Nhà nước. Có chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, công chức
hoàn thành nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn
thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân.
3.3. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân
Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và của
từng đoàn thể nhân dân vừa tránh được trùng chéo trong tổ chức, vận động, tập
hợp quần chúng nhân dân, vừa khắc phục tình trạng hành chính hóa, phát huy
vai trò nòng cốt tập hợp, đoàn kết nhân dân xây dựng cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân; thực hiện dân chủ. Trong điều kiện hiện nay, vai trò chính trị
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và của từng đoàn thể nhân dân cần được thể hiện
trong các hoạt động: tập hợp và phản ánh trung thực tâm tư, nguyện vọng của
đoàn viên, hội viên và bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của đoàn viên, hội
viên; tham gia thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; tham gia xây dựng chủ
trương, chính sách, luật pháp của Đảng và Nhà nước; góp phần xây dựng Đảng,
Nhà nước trong sạch, vững mạnh; giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà
nước, đội ngũ cán bộ, công chức và phản biện xã hội đối với các chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; xây dựng lực lượng cốt cán
chính trị - xã hội quần chúng tích cực trong tổ chức, giới thiệu quần chúng tiên
tiến cho Đảng đào tạo cán bộ…

22


Đổi mới tổ chức bộ máy của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
nhân dân theo hướng đa dạng, linh hoạt sát với tính chất, chức năng, nhu cầu
hoạt động của từng loại tổ chức, phù hợp với tính chất của một tổ chức quần
chúng. Do vậy, bộ máy của các tổ chức này cần được tổ chức gọn nhẹ, có khả

năng thích ứng linh hoạt với những biến đổi của đời sống xã hội và dân chủ.
Đa dạng hoá các hình thức tập hợp quần chúng, đồng thời củng cố, kiện
toàn tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng thu gọn
các “tổ chức cứng”, tinh gọn biên chế chuyên trách, hướng mạnh về cơ sở, lấy
cơ sở làm địa bàn hoạt động chủ yếu, nhất là đối với vùng có đông đồng bào dân
tộc thiểu số, nhiều người theo tôn giáo, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước…; xây
dựng cơ sở vững mạnh, thu hẹp số lượng tổ chức yếu kém, khắc phục tình
trạng “trắng” về tổ chức và hoạt động ở cơ sở.
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách hoạt
động trong các tổ chức Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể quần chúng để họ trở
thành những người hoạt động xã hội có tính chuyên nghiệp, gắn bó mật thiết với
các phong trào quần chúng, có phương pháp hoạt động xã hội và phong cách
công tác quần chúng, được chính quần chúng tín nhiệm và suy tôn.
Tạo chủ động trong việc sử dụng kinh phí được cấp và cơ chế tự chủ tài
chính cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân thông qua việc
tổ chức các hoạt động kinh doanh (được ưu đãi hoặc miễn thuế) và thu hút các
nguồn tài trợ, ủng hộ từ các nguồn tài chính hợp pháp trong xã hội để phục vụ
mục tiêu của tổ chức.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, nhằm phát huy tính độc lập, tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các tổ chức này theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

KẾT LUẬN

23


Đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta không có mục đích tự thân mà mục đích
sâu xa, bản chất, quan trọng nhất của nó là hướng vào xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ và vai trò thực sự

của người dân. Bằng sức mạnh của dân chủ và thực hành dân chủ rộng rãi theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, kiên quyết phòng ngừa và đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, bảo đảm quyền và lợi ích cao nhất của nhân dân lao động.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta nhằm làm cho
hệ thống chính trị trở nên mạnh hơn, hiệu quả hơn, dân chủ xã hội chủ nghĩa
được tăng cường, kỷ cương, kỷ luật và pháp chế được củng cố, chính trị được
giữ vững, kinh tế tiếp tục phát triển vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Quá trình đổi
mới cần nắm vững bản chất, đặc điểm của hệ thống chính trị ở nước ta, thực
hiện đồng thời các nhóm giải pháp những linh hoạt, vận dụng một cách phù hợp
trong mỗi giai đoạn, thời kỳ, từng cấp ngành và địa phương.
Trong tình hình hiện nay, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và diễn biến
phức tạp của tình hình thế giới, sự chống phá của các thế lực thù địch đối với
cách mạng Việt Nam đòi hỏi cần phải tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị, kết
hợp chặt chẽ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, đổi mới kinh tế làm trọng
tâm xây dựng Đảng là then chốt; trong đó tập trung nâng cao năng lực sức chiến
đấu của Đảng, nâng cao năng lực hoạch định đường lối, tổ chức thực hiện thắng
lợi đường lối, xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ, lãnh đạo thành công công
cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb CTQG, Hà Nội 1991.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb CTQG, Hà Nội 1996.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb CTQG, Hà Nội 2001.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb CTQG, Hà Nội 2006.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb CTQG, Hà Nội 2011.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết TW 4 (khóa XI) “một số vấn đề
cấp bách công tác xây dựng Đảng hiện nay”, Nxb CTQG, Hà Nội 2012.
7. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, Hà Nội 2000.
8. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội 2000.
9. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Tập bài giảng
Chính trị học, Nxb CTQG, H.2010.
10. Học viện Chính trị, Đổi mới hệ thống chính trị theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, Nxb QĐND, H. 2007.

25


×