Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Luận văn thạc sĩ - tư tưởng đạo đức hồ chí minh với việc giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên đại học khoa học huế hiện nay”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.19 KB, 74 trang )

“Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc giáo dục
đạo đức cách mạng cho sinh viên Đại học Khoa học Huế
hiện nay”
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội ra đời rất sớm cùng với sự xuất
hiện của loài người. Khi đó con người đã là những cá nhân, những tập đoàn sản
xuất, trong đó các tư liệu sản xuất thuộc về tập thể và dựa trên nguyên tắc phân
phối đều nhau, ngay từ trên những quan hệ còn giản đơn của buổi bình minh lịch
sử này, quy luật tất yếu là phải có những quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp giữa
những con người với nhau, để họ có thể sinh tồn và phát triển.
Từ những quan hệ ban đầu đó, cùng với sự phát triển của xã hội thì quan
hệ giữa người với người ngày càng phức tạp hơn. Đặc biệt là khi tư hữu xuất
hiện, chính điều đó đòi hỏi mỗi cá nhân phải lựa chọn cách giao tiếp, ứng xử,
điều chỉnh thái độ, hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích của bản thân,
của cộng đồng và xã hội. Chính thế, đạo đức bao giờ cũng mang tính thời đại và
giai cấp, một mặt nó gắn liền với con người cụ thể, mặt khác nó cũng gắn với
mỗi giai cấp, mỗi tập đoàn, mỗi nghề nghiệp, với xã hội và dân tộc tạo nên nền
tảng đạo đức của mỗi xã hội nhất định.
Đạo đức là một trong những lĩnh vực được chủ nghĩa Mác-Lênin đặc biệt
quan tâm. Nội dung đạo đức được các nhà kinh điển bàn đến ở hầu hết trong tất
cả những bài viết, lời nói của họ. Hồ Chí Minh đã tiếp thu nền tảng đạo đức
Mác-Lênin, trên cơ sở nền tảng những chuẩn mực đạo đức dân tộc truyền thống
và thời đại mà tạo ra hệ thống những quan điểm về đạo đức mới của mình, nhằm
phục vụ sự nghiệp cách mạng đưa Việt Nam lên ngang tầm thời đại. Hồ Chí
Minh là một trong số hiếm các nguyên thủ quốc gia trên thế giới vừa nguyên thủ
quốc gia, vừa là nhà đạo đức học.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Việt Nam đạt rất nhiều thành tựu to lớn,
nhưng cũng đang đứng trước một thách thức xuống cấp về đạo đức. Nền kinh tế
thị trường và sự mở cửa, giao lưu hội nhập mạnh mẽ với văn minh nhân loại, đã


làm thay đổi diện mạo đời sống đất nước theo cả hai xu hướng tích cực và tiêu


cực. Sự mở cửa mang đến cho sinh viên lối sống phương Tây không chỉ các yếu tố
tích cực, mà chủ yếu lẫn nhiều tiêu cực. Trong đó nhiều yếu tố, giá trị đạo đức
không phù hợp với đạo đức truyền thống dân tộc, làm băng hoại đạo lý truyền
thống tốt đẹp của dân tộc. Có không ít sinh viên tỏ ra giao động, mất phương
hướng, lệch lạc về lý tưởng đạo đức cách mạng, thậm chí suy đồi về đạo đức.
Chính vì điều đó, trong các trường Đại Học và Cao Đẳng, sinh viên không
chỉ học tập nghiên cứu chuyên môn, mà còn phải học tập và rèn luyện mình theo
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là một tất yếu tối cần thiết. Đặc
biệt là rèn luyện theo tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh.

B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1.1. Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sức mạnh của đạo đức
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà Nho nghèo, yêu nước, Hồ Chí
Minh sớm tiếp thu được những giá trị đạo đức truyền thống quan trọng, thôi thúc
Hồ Chí Minh ra đi tìm đướng cứu nước, cứu dân.
Hồ Chí Minh là một trong những lãnh tụ tiêu biểu của nhân loại quan tâm
một cách toàn diện đến vấn đề đạo đức và nêu cao tấm gương đạo đức. Người
không để lại tác phẩm đạo đức lớn, nhưng những tư tưởng lớn của Người về đạo
đức đã nằm trong những bài nói, bài viết ngắn gọn, diễn đạt rất cô đọng, theo
phong cách Phương Đông, rất quen thuộc với con người Việt Nam. Bản thân
Người lại thực hiện trước nhất và nhiều nhất những tư tưởng ấy, thực hiện nhiều
hơn cả những điều Người đã nói, đã viết về đạo đức.
Có thể nói, quá trình hình thành nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
cũng phản ánh phương pháp tư duy mới rất biện chứng về sự tiếp nhận các
nguồn giá trị văn hoá của dân tộc và nhân loại, bất kể đó là thuộc nguồn gốc nào,
là Nho giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo, chủ nghĩa Mác-Lênin hay truyền thống
văn hóa đạo đức dân tộc. Hồ Chí Minh đã từng nói: “Học thuyết Khổng Tử có



ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo của Giê-su có ưu điểm
của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm
việc biện chứng, chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích
hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giê-su, Các Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có
ưu điểm chung đó sao? Họ điều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu
cầu phúc lợi cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ hợp lại
một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định sống chung với nhau rất hoàn mỹ như những
người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”[10; 870].
Câu nói nổi tiếng này của Hồ Chí Minh chẳng những phản ảnh rõ thái độ của
Người đối với các giá trị đạo đức truyền thống và tinh hoa đạo đức nhân loại, mà
còn thể hiện một quan điểm bao dung trân trọng đối với những di sản văn hoá
đạo đức có nguồn gốc và khuynh hướng tư tưởng khác nhau.
Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở tiếp thu,
phát triển nhiều nguồn tư tưởng đạo đức, chủ yếu là tư tưởng đạo đức của chủ
nghĩa Mác-Lênin, nhưng đối với Người nền đạo đức truyền thống, đặt biệt là các
hệ tư tưởng đạo đức của Nho giáo, Phật giáo, đã được dân tộc hoá cũng có vị trí
hết sức quan trọng. Trong quá trình chuyển hoá tư tưởng đạo đức cũ thành đạo
đức mới, Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách nhuần nhuyễn tư duy biện chứng
khi nhìn nhận các mặt đối lập trong xã hội, trong mỗi người và trong các phạm
trù đạo đức, để gạt bỏ đi những mặt cần gạt bỏ, cải tạo lại những gì có thể cải tạo
được và nhất là thấy rõ vị trí của mỗi mặt.
Cũng như các nhà kinh điển mác-xít, Hồ Chí Minh không chỉ tiếp nhận
những tinh hoa đạo đức hình thành trong thời đại cách mạng tư sản, mà Người
còn vận dụng nó rất sáng tạo trong điều kiện và trong hoàn cảnh cách mạng nước
ta. Nếu chú ý đến ý nghĩa và tính chất kết hợp giữa dân tộc và quốc tế, giữa độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữa truyền thống và hiện đại,... chúng ta sẽ thấy
rất rõ tinh thần sáng tạo của Hồ Chí Minh trên nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh
vực đạo đức. Hồ Chí Minh không chỉ tiếp nhận các khái niệm tự do, bình đẳng,
bác ái vốn là khẩu hiệu của giai cấp tư sản trong thời đại cách mạng tư sản đang



phát triển, mà Người còn tìm cách giữ lại, đồng thời phát triển nội dung các
phạm trù ấy trong các phạm trù cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư trong hệ
thống đạo đức truyền thống.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của
người cách mạng. Bắt nguồn từ chức năng điều chỉnh suy nghĩ và hành vi của
con người, đạo đức cách mạng tạo ra động cơ hành động đúng đắn, tạo ra ý chí
quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của con người. Từ đó Chủ tịch Hồ Chí Minh coi
đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng. Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo
đức là cái gốc của người cách mạng. Người thường khẳng định đạo đức là
nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, ngọn nguồn của
sông suối: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông
cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân”[3; 252-253].
Vai trò nền tảng của đạo đức cách mạng được Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là công việc
vẻ vang nhưng cũng rất khó khăn, nặng nề, “sức có mạnh mới gánh được nặng
và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới
hoàn thành được nhiệm cụ cách mạng vẻ vang”[2; 283]. Người cách mạng
muốn cho dân tin, dân yêu thì phải có tư cách đạo đức đã. Trong điều kiện
Đảng cầm quyền, Người luôn trăn trở với nguy cơ thoái hoá biến chất của cán
bộ, đảng viên. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải “là đạo đức, là văn
minh”. Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại không rụt rè,
lùi bước, khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất
phác, khiêm tốn, mới lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, lo hoàn thành nhiệm vụ
cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu,
không kiêu ngạo, không hủ hóa.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả

thực tế làm thước đo. Người luôn đặt đức - tài trong mối quan hệ gắn bó mật thiết.


Đức là gốc nhưng đức và tài, hồng và chuyên phải kết hợp, năng lực và phẩm chất
phải đi đôi, không thể có mặt này, thiếu mặt kia. Người phân tích: Người nào có
đức mà không có tài thì cũng chẳng khác gì ông bụt ngồi trong chùa, không
làm hại ai, nhưng cũng chẳng có ích gì. Ngược lại, nếu có tài mà không có đức
thì cũng chẳng khác gì một anh làm kinh doanh giỏi, đem lại nhiều lãi, nhưng
lãng phí, tham ô, ăn cắp của công, thì như vậy chỉ có hại cho dân, cho nước,
còn sự nghiệp của bản thân thì sớm muộn cũng đổ vỡ. Người thực sự có đức thì
bao giờ cũng cố gắng học tập, nâng cao trình độ, nâng cao năng lực, tài năng để
hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. “Có tài mà không có đức là người vô
dụng/ Có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó”.
Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội. Theo Chủ
tịch Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở lý tưởng cao
xa, ở mức sống vật chất dồi dào, ở tư tưởng được tự do giải phóng, mà trước hết
là ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của những người cộng sản luôn
sống và chiến đấu cho lý tưởng đó của loài người thành hiện thực.
Bác nói: “Đối với phương Đông một tấm gương sống còn có giá trị hơn 100
bài diễn văn tuyên truyền”. Và cuộc đời của Người chính là một tấm gương đạo đức
sáng ngời, chẳng những có sức hấp dẫn lớn lao, mạnh mẽ với nhân dân Việt Nam
mà còn cả với nhân dân thế giới. Tấm gương của Người trở thành nguồn cổ vũ,
động viên tinh thần quan trọng đối với nhân dân ta và nhân loại tiến bộ đoàn kết đấu
tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về các chuẩn mực cơ bản của đạo đức cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một tài sản tinh thần vô giá,
đó là tư tưởng của Người. Trong đó, nổi bật là tư tưởng đạo đức cách mạng. Bản
thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đã là một tấm gương mẫu mực, sáng ngời về thực
hành đạo đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng của mình, Lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc

giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại có tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về


vấn đề đạo đức. Có thể nói đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng
đầu của Bác trong sự nghiệp cách mạng.
Nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, nhất là qua các tác phẩm, bài
viết bài nói của người trong thời kỳ 1945-1954, chúng ta thấy Người đề ra những
chuẩn mục đạo đức cụ thể đối với từng đối tượng: cán bộ, đảng viên, công nhân,
nông dân, phụ nữ, thanh niên đó là những lời khen ngợi, biểu dương hay phê
bình nhắc nhở, hay đó là những lời khuyên nên tránh hay nên làm, cần xây hay
cần chống. Bao giờ Người cũng phân biệt mặt tốt với mặt xấu, cái thiện với cái
ác trong động cơ cũng như trong hành động của mỗi con người, trong mối quan
hệ xã hội vô cùng đa dạng, để làm rõ những vấn đề đạo đức cần phải xây dựng.
Người làm công việc ấy rất thường xuyên, gần như một ngừơi làm vườn cần
mẫn, hàng ngày bắt sâu, nhặt cỏ, tỉa lá cắt cành, vun xới cho những mầm cây.
Người đề ra những chuẩn mực đạo đức cụ thể phù hợp với yêu cầu, nhiệm
vụ, trách nhiệm của từng đối tượng người Việt Nam. Với thiếu niên nhi đồng,
Người viết: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt
Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được
hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”[3; 33]. Những
chuẩn mực đạo đức Bác Hồ dạy thiếu niên, nhi đồng là: “Yêu Tổ Quốc, yêu
đồng bào. Học tập tốt, lao động tốt. Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt. Giữ gìn vệ sinh.
Thật thà, dũng cảm”[2; 421]. Người đánh giá cao vai trò của thanh niên là người
chủ tương lai của đất nước. Người khẳng định nước nhà thịnh hay suy, mạnh hay
yếu phần lớn là do các thanh niên. Người khuyên thanh niên: “Không có việc gì
khó, Chỉ sợ lòng không bền. Đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên”[4; 95].
Người dạy thanh niên phải kiên quyết làm bằng được những điều sau: “a) Các sự
hy sinh khó nhọc thì mình làm trước người ta, còn sự sung sướng thanh nhàn thì
mình nhường người ta hưởng trước (tiên thiên hạ ưu, hậu thiên hạ lạc)./ b) Các

việc đáng làm, thì khó mấy cũng cố chịu quyết tâm làm cho kỳ được./ c) Ham
làm những việc ích quốc lợi dân, Không ham địa vị và công danh phú quý./ d)
Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, đối với việc./ e) Quyết tâm làm


gương về mọi mặt: siêng năng, tiết kiệm, trong sạch./ f) Chớ kiêu ngạo, tự mãn,
tự túc. Nói ít làm nhiều, thân ái đoàn kết...”[3; 185-186]. Với quân đội và công
an, Người quy định 12 điều kỷ luật, mà đòi hỏi những phẩm chất đạo đức của
lực lượng vũ trang là: “Trung với Đảng, hiếu với Dân, sẵn sàng chiến đấu hy
sinh vì độc lập, tự do của Tổ Quốc, vì Chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng
hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”[7; 350].
Với đảng viên, Người nhấn mạnh các chuẩn mực: “1. Quyết tâm suốt đời đấu
tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất./ 2. Ra sức làm việc
cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của
Đảng./ 3. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi
ích riêng của cá nhân. Hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà
đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc./ 4. Ra sức học tập chủ nghĩa
Mác-Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải
tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ.”[6; 285]. Với cán bộ công
chức nhà nước, Người quy định “6 điều không nên và 6 điều nên làm”[3; 409]
để cán bộ công chức Nhà nước phải là công bộc của dân, đầy tớ trung thành của
nhân dân. Với giáo viên, Bác dạy phải là tấm gương 4 mặt. Với đội ngũ y, bác sỹ,
Bác dạy “lương y như từ mẫu”. v.v.
Những chuẩn mực đạo đức chung, cơ bản và phổ cập đối với mọi người
do Người quy định có thể khái quát lại là:
1.2.1. Trung với nước, hiếu với dân
Từ xưa đến nay ở Việt Nam, trong quan hệ văn hoá - đạo đức, thì mối
quan hệ giữa dân với nước, giữa nhân dân và tổ quốc là mối quan hệ lớn nhất, có
vai trò chi phối mọi quan hệ khác. Do đó, trung với nước, hiếu với dân là phẩm
chất đạo đức hàng đầu. Trung - hiếu là những khái niệm đã có trong đạo đức

truyền thống. Trước kia, đạo đức Phong kiến dạy người ta phải “trung với Vua,
hiếu với Cha Mẹ”. Đó là hai điều lớn trong đạo ngũ luân, mà điều lớn nhất là
trung với Vua.


Trên cơ sở kế thừa, phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam,
Hồ Chí Minh nói: trung với nước, hiếu với dân. Ở đây, Hồ Chí Minh không chỉ
dùng từ “trung - hiếu” với ý nghĩa một trách nhiệm, bổn phận của con người, mà
với khái niệm mang tính truyền thống lịch sử, Người đã đưa vào đó một nội
dung, mang tính cách mạng, phản ánh đạo đức cao rộng hơn. Người viết: “Đạo
đức, ngày trước thì trung với Vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo
đức cũng phải mới. Phải trung với nước, phải hiếu với toàn dân, với đồng
bào”[4; 320-321]. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, trung là trung với nước, với
đảng, với lý tưởng cách mạng, còn hiếu không chỉ đối với cha mẹ mà còn bao
hàm một nội dung sâu rộng hơn là hiếu với dân, với đồng bào.
Đây là cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. Người viết: “Đạo đức
cũ như người đầu ngược xuống đất, chân chống lên trời. Đạo đức mới như người
hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời”[4; 320-321]. Theo Hồ
Chí Minh, “trung với nước” thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng,
xã hội, thể hiện trách nhiệm đối với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, với con
đường đi lên của đất nước. Ở đây, nước là của nhân dân và nhân dân là chủ nhân
của đất nước.
Theo Hồ Chí Minh, hiếu với dân nghĩa là bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao
nhiêu quyền hạn đều của dân, công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân,
sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân; chính quyền từ xã đến chính
phủ Trung Ương do dân cử ra: “Đoàn thể từ Trung Ương đến xã do dân tổ chức
nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng của dân rất to, việc dân vận rất quan
trọng. Dân vận kém việc gì cũng kém. Dân vận khéo việc gì cũng thành công”[4;
320-321]. Từ đó, Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “phải nhớ rằng dân là
chủ. Dân như nước, khi sắp tới dân mong, khi đi dân tiếc, chớ vác mặt làm quan

cách mạng cho dân ghét, dân khinh, dân không ủng hộ”[2; 101].
Mặt khác, ở Hồ Chí Minh, hiếu với dân không chỉ thể hiện ở chỗ thương
dân, mà chủ yếu là ở chỗ tin dân dựa vào dân, giúp đỡ dân, lo cho cuộc sống của
nhân dân ngày càng tốt hơn. Người khuyên cán bộ, đảng viên phải gắn bó với


dân, phải gần dân, thân dân, lấy trí tuệ ở dân, học hỏi dân, bởi có biết làm học trò
dân, mới làm được thầy học dân. Người xác định, cán bộ các cấp đều là công
bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân. Cán bộ phải cùng nhau bàn
tính kỹ càng, cùng nhau chia công việc rõ rệt, cùng nhau đi giải thích cho dân
hiểu, cổ động dân, giúp dân đạt kế hoạch tổ chức nhân công, sắp xếp việc làm,
khuyến khích theo dõi, giúp đỡ dân giải quyết những khó khăn.
Cán bộ phải đi sát với dân, thiết thực bày vẽ cho dân: “việc gì lợi cho dân,
ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh”[2; 56-57]. Trong
bài 6 điều không nên và 6 điều nên làm, chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “nước
lấy dân làm gốc, gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân
dân”[3; 409-410]. Đó là một sự tổng kết mang tính chân lý về mối quan hệ giữa
nước với dân.
Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ
nước, trung thành với con đường đi lên của đất nước; là suốt đời phấn đấu hy
sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành,
khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Vì nước là nước của dân, còn
nhân dân là chủ của đất nước. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng
hàng đầu. Hiếu với dân thể hiện ở chỗ thương dân, tin dân, gắn bó với dân, kính
trọng và học tập nhân dân, lấy dân làm gốc, phục vụ nhân dân hết lòng. Đối với
cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí Minh yêu cầu phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm,
thường xuyên quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí.
Trung với nước, hiếu với dân là hạt nhân cơ bản nhất của tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh, là tiêu chuẩn quan trọng nhất đối với mọi thế hệ.

1.2.2. Yêu thương đối với con người, sống có nghĩa tình
Hồ Chí Minh kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với
chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều
thế kỷ, cùng với việc thể hiện của chính bản thân mình qua thực tiễn hoạt động


cách mạng, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong
những phẩm chất cao đẹp nhất.
Đạo đức cộng sản chủ nghĩa yêu cầu phải thông cảm với mỗi người lao
động lương thiện, cái gắn bó ta với người này là thái độ yêu lao động, thiện tâm
và tình người. Thái độ tốt và tình yêu với con người - đó là chủ nghĩa nhân đạo.
Chủ nghĩa Mác hiểu chủ nghĩa nhân đạo là tình yêu thương, đây là tình
yêu đối với người lao động, đối với người lương thiện và chân chính. Chủ nghĩa
nhân đạo xã hội chủ nghĩa có căn cứ ở sự lương thiện, sự công bằng và lương
tâm. Nó yêu cầu quí trọng ở con người tất cả những gì tốt đẹp và lên án tất cả
những gì xấu ở con người.
Tình yêu với con người là tiêu chuẩn cuối cùng là bản chất của đạo đức.
Tất cả vì con người, vì sự no ấm và hạnh phúc của nó, đây là phương châm được
nêu lên trong cương lĩnh đảng cộng sản Liên Xô.
Nếu như mục đích và ý nghĩa cao nhất của cuộc sống con người là đấu
tranh cho hạnh phúc của con người, thì điều này không thể thực hiện bằng những
biện pháp rời rạc, lẽ tẻ, bằng con đường của chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa ích
kỷ, phải tổ chức bằng sự tổ chức hợp lý, thống nhất và có kế hoạch, bằng con
đường của chủ nghĩa tập thể.
Con người phải yêu những con người - Kalinin nói - nếu nó yêu những
con người thì nó sẽ sống tốt hơn, cuộc đời phải vui hơn, vì không có kẻ nào trên
đời này lại sống khốn khổ như kẻ yếm thế, kẻ có tư tưởng thù ghét con người.
Tình yêu thương đó là tình cảm rộng lớn. Trước hết dành cho những người
cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột. Tình yêu thương đó đã được
thể hiện ở Hồ Chí Minh bằng ham muốn tột bậc là làm cho nước được độc lập,

dân được tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.
Khi thực hiện nghĩa vụ của mình đối với mọi người, đối với xã hội mà con
người cảm thấy thoải mái yên ổn trong lòng chính là lúc bản thân họ cảm thấy
hạnh phúc, thấy sự thanh thản của lương tâm. Bao giờ cũng vậy, việc hoàn thành
nghĩa vụ đạo đức không những đem lại hạnh phúc cho chính chủ thể hành động.


Chính điều này càng thôi thúc con người hành động tốt hơn, hướng đến điều
thiện nhiều hơn và mong muốn đem lại hạnh phúc cho người nhiều hơn.
Một nhà văn Nga đã từng nói: “người ta nghiêng mình trước tài năng,
nhưng người ta bái phục trước thánh thiện” (Gornốp). Bởi lương tâm trong sạch
khiến người ta ý thức được nhân phẩm của mình, cảm thấy sự khoan khoái trong
tâm hồn và làm cho tình cảm đạo đức càng trở nên mãnh liệt hơn. Sự phát triển
đó là chỉ bảo xác nhận đức hạnh, góp phần hình thành tình cảm nhân cách ở mỗi
con người.
Tình yêu thương con người còn được thể hiện trong mối quan hệ bạn bè,
đồng chí với mọi người bình thường, trong quan hệ hàng ngày, nó đòi hỏi mọi
người phải luôn luôn chặt chẽ nghiêm khắc với mình, rộng rãi độ lượng với
người khác. Nó đòi hỏi thái độ tôn trọng con ngừơi phải biết cách nâng con
người lên, chứ không phải hạ thấp, càng không vùi dập con người. Điều này đặc
biệt quan trọng đối với những người ở cương vị lãnh đạo, bất cứ ở cấp nào.
Trong hai cuộc kháng chiến thần thánh ở thế kỷ XX, các thế hệ người
Việt Nam đã thể hiện mãnh liệt nhất tình cảm của mình đối với nghĩa vụ, đối với
trách nhiệm của một người dân mất nước. Cả dân tộc đã từng “nếm mật, nằm
gai”, đã từng phải “khoét núi, ngủ hầm”, đã từng chịu đựng “mưa dầm, cơm vắt”,
đến nỗi “máu trộn bùn non”. Nhưng kỳ lạ thay “gan không núng, chí không mòn”.
Với tinh thần đó, với tình cảm thiêng liêng giành cho Tổ quốc, cả dân tộc Việt
Nam đã vượt lên, đã chiến thắng tất cả mọi kẻ thù và đã không cảm thấy hổ thẹn
với truyền thống chống giặc của cha ông.
Tình yêu thương con người, còn được thể hiện đối với những người có

sai lầm khuyết điểm, nhưng đã nhận rõ những khuyết điểm và sai lầm, cố gắng
sữa chữa, kể cả những người lầm đường lạc lối đã hối cải, kể cả đối với những
kẻ thù đã bị thương, bị bắt hoặc đã chịu quỳ hàng. Chính tình yêu thương rộng
lớn đó mà Hồ Chí Minh đã đánh thức những gì tốt đẹp trong mỗi người, và
Người tin rằng ai cũng đều có, cũng theo.


Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương yêu
lẫn nhau. Đây chính là điều nhắc nhở cán bộ đảng viên phải luôn luôn chú ý đến
phẩm chất yêu thương con người. Đây là tình yêu trên nguyên tắc tự phê bình
một cách chân thành, nghiêm túc giữa con ngừơi cùng lý tưởng, cùng phấn đấu
cho một sự nghiệp chung. Nó hoàn toàn xa lạ với thái độ dĩ hoà vi quý, bao che
sai lầm khuyết điểm cho nhau, càng xa lạ với thái độ yêu nên tốt, ghét nên xấu,
bè cánh có thể đưa đến những tổn thất lớn cho Đảng, cho cách mạng.
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp truyền thống nhân
nghĩa với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại
qua nhiều thế kỷ, qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu
thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Tình yêu thương con
người trong tư tưởng Hồ Chí Minh có phạm vị rất rộng lớn, đó là tình thương
bao la dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột
không chỉ ở Việt Nam mà còn trên khắp thế giới. Yêu thương con người là
nghiêm khắc với mình, độ lượng với người khác; phải có tình nhân ái với cả
những ai có sai lầm, đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa, đánh thức những gì tốt đẹp
trong mỗi con người. Người nói “cần làm cho phần tốt trong con người nảy nở
như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi”. Bác căn dặn, Đảng phải có tình
đồng chí thương yêu lẫn nhau, trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình chân
thành, thẳng thắn, không “dĩ hoà vi quý”, không hạ thấp con người, càng không
phải vùi dập con người.
1.2.3. Cần kiên liêm chính, chí công vô tư
Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư là nét đặc trưng của đạo đức theo

quan niệm của Hồ Chí Minh. Đó là phẩm chất trung tâm của đạo đức cách mạng,
việc tu dưỡng, rèn luyện nó diễn ra hàng ngày, hàng giờ, trong công tác, sinh
hoạt gia đình, xã hội, ở mọi không gian, thời gian, và nhìn chung là lấy chính
bản thân mình làm đối tượng. Phẩm chất này là một biểu hiện cụ thể của phẩm
chất “trung với nước, hiếu với dân”, bởi vì “cần kiệm liêm chính, chí công vô
tư” sẽ tạo khả năng giữ vững độc lập, xây dựng đất nước.


Đây cũng là những khái niệm đạo đức truyền thống được Hồ Chí Minh
vận dụng, đưa vào những nội dung và yêu cầu mới, Người viết “bọn phong kiến
ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng không bao giờ làm, mà lại bắt
nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay chúng ta đề
ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để
lợi cho nước cho dân”[4; 320-321].
Ngay trong tác phẩm “Đường kách mệnh” viết năm 1927, “cần kiệm” đã
được Hồ Chí Minh nhắc tới và coi như là yêu cầu số 1 của tư cách một ngừơi
cách mạng. Ngừơi mong mỏi tha thiết mỗi người Việt Nam, nhất là cán bộ, đảng
viên phải lấy “cần kiệm liêm chính” là phương châm sống trong cuộc sống mới.
Đại Tướng Võ Nguyên Giáp kể lại: Trong dịp lễ sinh nhật của Người
(19/5/1946), các đại biểu trong ban vận động đời sống mới đến chúc thọ Người
và đề nghị Người như trong cuộc vận động, hãy ra một khẩu hiệu.
Hồ Chí Minh nói các chú muốn có khẩu hiệu thì Bác cho khẩu hiệu: Cần,
kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.
Khẩu hiệu đó - một đại biểu thưa với Bác - khẩu hiệu này đã quá quen thuộc,
xin Bác phải nêu khẩu hiệu mới để phù hợp cuộc sống vận động đời sống mới.
Bác cười và nói: “hàng ngày ta phải ăn cơm, uống nước, phải thở khí trời
để sống. Những việc đó ngày xưa ông cha ta làm, bây giờ chúng ta phải làm, con
cháu ta sau này cũng phải làm. Vậy ăn cơm thở khí trời để đem lại cuộc sống cho
con người thì đó là những việc không bao giờ cũ cả. Cần kiệm liêm chính, chí
công vô tư đối với đời sống đó cũng vậy”[13; 450].

Đến tháng 3/1947, do nhu cầu cuả cuộc sống kháng chiến kiến quốc,
Chủ Tịch Hồ Chí Minh kêu gọi thi đua xây dựng “đời sống mới, cần, kiệm, liêm,
chính”. Người giải thích cần, kiệm, liêm, chính một cách thiết thực và dễ hiểu:
- Cần: làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến trễ và về sớm. Làm cho
chóng, cho chu đáo. Việc ngày nào nên làm trong ngày ấy, chớ để chờ ngày mai.
Cần trong lao động là cần cù, siêng năng lao động có kế hoạch, tự lực cánh
sinh, sáng tạo, có năng suất cao, lao động có tinh thần trách nhiệm. Người nói:


Người siêng năng thì mau tiến bộ
Cả nhà siêng năng thì chắc ấm no
Cả nhà siêng năng thì là phồn vinh
Cả nước siêng năng thì nước giàu mạnh.
Cần là luôn luôn cố gắng, luôn luôn chăm chỉ, cả năm cả đời. Nhưng
không phải quá trớn. Phải biết nuôi dưỡng tinh thần và lực lượng của mình, để
làm việc cho lâu dài.
- Nói về kiệm, Người nói: kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí,
không bừa bãi. Cần với kiệm phải đi đôi với nhau như hai chân của con người
Hồ Chí Minh nói kiệm đối với cán bộ: giấy bút vật liệu đều tốn tiền của
chính phủ, tất là của dân; tức là ta cần phải tiết kiệm. Nếu một miếng giấy nhỏ
đủ viết thì chớ dùng một tờ to. Một cái phong bì có thể dùng hai, ba lần. Mỗi
ngày, công sở cả nước dùng hàng mấy vạn tờ giấy và phong bì. Nơi nào cũng tiết
kiệm một chút thì trong một năm đỡ được hàng vạn tấn giấy, tức là hàng triệu
đồng bạc...
- Liêm: tức là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân” và “không
xâm phạm một đồng xu, hạt thóc cuả nhà nước, của dân”, phải “trong sạch, không
tham lam” và không tham địa vị, không tham tiền tài, không ham sung sướng.
Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà phải quang minh chính đại, không
bao giờ hủ hoá. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ
Người chỉ ra những hành vi trái với chữ liêm, như: “...cậy quyền thế mà

đục khoét dân, ăn của đút, hoặc trộm của công làm của tư...”[3; 94]
- Chính: Người viết: “Một người phải cần kiệm, nhưng còn phải chính
mới là người hoàn toàn. Trên quả đất có hàng muôn triệu người, trong số người
ấy có thể chia làm hai hạng: người thiện và người ác. Trong xã hội, tuy có trăm
công nghìn việc. Trong những công việc ấy có thể chia làm hai thứ việc chính và
việc tà”[3;640].


Như vậy chính “nghĩa là không tà, thẳng thắn, đúng đắn”. Với mình.
Không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để
phát triển đều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người - không nịnh hót ngừơi trên, không xem khinh người dưới;
luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.
Đối với công việc - để việc công lên trên, lên trước việc tư. Đối với việc
dân, đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho bằng được, cho đến nơi đến chốn,
không sợ khó khăn, nguy hiểm, việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác dù
mấy nhỏ cũng vẫn tránh. Mỗi ngày càng làm một việc lợi cho nước, cho dân.
- Chí công vô tư: Người nói: Đem lòng chí công vô tư mà đối với ngừơi
với việc. Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ
mình nên đi sau; phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ.
Chí công vô tư, thực chất là nối tiếp cần, kiệm, liêm, chính. Người giải
thích: “trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp
thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục
khoét, có dịp ăn của đút, có dịp không chí công vô tư”[3; 641].
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư có quan hệ mật thiết với nhau. Cần
mà không kiệm thì chẳng khác nào “gió vào nhà trống”, “nước đổ vào chiếc thùng
không đáy”, “làm chừng nào xài chừng ấy”, rốt cuộc “không lại hoàn không”. Còn
kiệm mà không cần thì sản xuất được ít, không đủ dùng, không có tăng thêm,
không có phát triển. Ngừơi coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức chủ yếu của một
con người, như bốn mùa của trời (xuân, hạ, thu, đông), như bốn phương của đất

(đông, tây, nam, bắc) và kết luận: Thiếu một mùa thì không thành trời, thiếu một
phương thì không thành đất, thiếu một đức thì không thành người.
Hồ Chí Minh còn chỉ ra mối quan hệ giữa bốn điều đó rằng: cần, kiệm,
liêm là gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có cành, lá, hoa,
quả mới là hoàn hảo.
- Mặc dù mỗi đức tính có những nội dung riêng, nhưng chúng lại liên
quan mật thiết với nhau và tạo thành một chính thể, là thước đo văn minh tiến bộ


của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm,
chính là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn
minh tiến bộ. Ngoài ra, nó còn là một đặc điểm của một xã hội hưng thịnh và
những điều đó trái lại là những đặc điểm của một xã hội suy vong.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là cái cần để “làm việc, làm người,
làm cán bộ... phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, tổ quốc và nhân loại”.
Tóm lại, ở Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao
động có kế hoạch, sáng tạo năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh
sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Kiệm là tiết kiệm sức lao
động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân dân, của đất nước, của bản
thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to; “Không xa xỉ, không hoang phí,
không bừa bãi”[3; 636], nhưng không phải là bủn xỉn. Kiệm trong tư tưởng của
Người còn đồng nghĩa với năng suất lao động cao. Liêm là “luôn luôn tôn trọng
giữ gìn của công và của dân; không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà
nước, của nhân dân”. Phải trong sạch, không tham lam địa vị, tiền của, danh
tiếng, sung sướng. Không tâng bốc mình. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham
làm, ham tiến bộ. Hành vi trái với chữ liêm là:... cậy quyền thế mà đục khoét, ăn
của dân, hoặc trộm của công làm của riêng. Dìm người giỏi, để giữ địa vị và
danh tiếng của mình là trộm vị. Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm,
không dám làm là tham uý lạo. Chính là không tà, thẳng thắn, đứng đắn đối với
mình, với người, với việc. Đối với mình, không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học

tập cầu tiến bộ, luôn kiểm điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở. Đối
với người, không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ
chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc. Đối với việc, để việc
công lên trên việc tư, làm việc gì cho đến nơi, đến chốn, không ngại khó, nguy
hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân cho nước. Theo Hồ Chí Minh, Cần, kiệm,
liêm, chính là “tứ đức” không thể thiếu được của con người. Bác cũng nhấn
mạnh: Cần, kiệm, liêm, chính càng cần thiết đối với người cán bộ, đảng viên.
Nếu đảng viên mắc sai lầm thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, nhiệm vụ của


cách mạng. Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững
mạnh về tinh thần, sự văn minh của dân tộc. “Nó” là cái cần thiết để “làm việc,
làm người, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân,
phụng sự Tổ quốc và nhân loại”. Chí công vô tư là ham làm những việc ích quốc,
lợi dân, không ham địa vị, không màng công danh, vinh hoa phú quý; “phải lo
trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Thực hành chí công vô tư là nêu cao chủ nghĩa
tập thể, nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá
nhân chỉ biết đến mình, muốn “mọi người vì mình”. Nó là giặc nội xâm, còn nguy
hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Hồ Chí Minh viết: “Một dân tộc, một đảng và mỗi
con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay
vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu
sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Người cũng phân biệt lợi ích cá nhân và chủ nghĩa cá
nhân. Chí công vô tư là tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm.
Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là để người
cách mạng vững vàng qua mọi thử thách: “Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó
không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”.
1.2.4. Có tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung
Đạo đức cộng sản chủ nghĩa không những yêu cầu tôn trọng dân tộc mình,
văn hóa và truyền thống của nhân dân mình, mà đối với những dân tộc khác, đối
với mọi nhân dân nói chung, nó cũng đặt ra yêu cầu ấy.

Cương lĩnh của đảng đề xướng nguyên tắc đoàn kết anh em với những
người lao động của mọi nước, với nhân dân của mọi nước. Nguyên tắc này dựa
trên quy luật phát triển lịch sử hợp tự nhiên của nhân loại, quy luật phát triển lịch
sử của văn hoá và văn minh nhân loại.
Người nào muốn tổ quốc mình có nhiều người bạn, có nhiều người thân
thiết có thiện chí, người ấy phải có tinh thần quốc tế. Như vậy, tinh thần quốc tế,
không những tự nó là một điều hay, điều tốt, như là sự biểu hiện những xu
hướng tự nhiên của con người, đồng thời nó là còn một phương tiện biểu hiện
lòng yêu nước. Người nào yêu tổ quốc thì người ấy phải cố gắng tranh thủ thật


nhiều bạn cho nhân dân mình. Người nào không tìm bạn cho mình thì người ấy
thù địch với bản thân mình.
Tinh thần quốc tế vô sản đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ
Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề “Bốn phương vô sản đều là anh em”. Đó là
tinh thần đoàn kết các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động mà Hồ Chí Minh
đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và
bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc.
Đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người
tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội. Sự đoàn kết ấy là
nhằm những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội, là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hữu nghị với
tất cả các nước, các dân tộc. Tinh thần quốc tế ấy vẫn được gọi là chủ nghĩa quốc
tế của giai cấp công nhân.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu
nước, hơn nữa phải là chủ nghĩa yêu nước chân chính là chủ nghĩa quốc tế vô
sản trong sáng. Nếu tinh thần yêu nước không chân chính và tinh thần quốc tế
không trong sáng thì có thể dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, so sánh biệt lập,
kỳ thị chủng tộc, hoặc chủ nghĩa bành trướng bá quyền, như thế giới thường nói
hiện nay. Tất cả những khuynh hướng lệch lạc ấy có thể dẫn đến chỗ phá vỡ cả

một quốc gia dân tộc hay một liên bang đa quốc gia dân tộc, phá vỡ tình đoàn kết
quốc tế trong cuộc đấu tranh chung, thậm chí có thể đưa đến tình trạng đối đầu,
đối địch.
Hồ Chí Minh viết: Quan san muôn dặm một nhà, bốn phương vô sản đều
là anh em. Chỗ khác Hồ Chí Minh dạy “họ là thân thích ruột rà, cộng đồng thế
giới là đều anh em”. Hồ Chí Minh lại viết rằng: “tứ hải giai huynh đệ” - tức là
bốn biển đều là anh em. Quan điểm của Người về chính sách đối ngoại của nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1946 - 1947: “Nước Việt Nam sẵn sàng
làm bạn với các nước dân chủ, không gây thù oán với một ai”. Tuỳ vào những
hoàn cảnh và điều kiện cụ thể mà đề ra những chính sách phù hợp.


Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm chất đạo đức, là yêu cầu đạo đức
nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt qua khuôn khổ quốc gia, dân tộc. Không
phải đối với bất cứ ai, vào bất cứ lúc nào cũng thấy được tinh thần quốc tế có
hay không, trong sáng hay không trong sáng, nhưng việc giáo dục của Đảng và
việc rèn luyện của cá nhân mỗi người về tinh thần quốc tế lại không thể coi nhẹ.
Trong thời kỳ đổi mới việc đoàn kết quốc tế là một việc làm rất cần thiết để vừa
học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới vừa hợp tác và cạnh tranh lạnh
mạnh và tích cực.
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đạo
đức cộng sản chủ nghĩa. Nó được bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công nhân.
Nội dung của chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn và sâu
sắc. Đó là sự tôn trọng, hiểu biết, thương yêu và đoàn kết với giai cấp vô sản
toàn thế giới, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những người tiến
bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và phân biệt
chủng tộc; chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sô vanh, chủ nghĩa bành trướng, bá
quyền. Người khẳng định: “Bốn phương vô sản đều là anh em”; giúp bạn là tự
giúp mình; thắng lợi của mình cũng là thắng lợi của nhân dân thế giới. Người đã
góp phần to lớn, tạo ra một kiểu quan hệ quốc tế mới: đối thoại thay cho đối

đầu, kiến tạo một nền văn hoá hoà bình cho nhân loại.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về các nguyên tắc cơ bản của rèn luyện đạo đức
cách mạng
Nghiên cứu các tác phẩm của Hồ Chí Minh để lại, chúng ta thấy Người
không chỉ nêu ra những chuẩn mực cơ bản về đạo đức, mà còn chỉ ra những
nguyên tắc để rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng cho tốt. Những nguyên tắc
xây dựng đạo đức mới đó là:
1.3.1 Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
Có thể nói lý luận đi liền với thực tiễn, lời nói đi đôi với việc làm. Điều
này được Hồ Chí Minh nói rất nhiều, trong suốt cuộc đời của mình, Người đã
giáo dục mọi người và chính bản thân Người thực hiện điều đó có một cách


nghiêm túc và đầy đủ nhất. Hơn nữa chúng ta còn thấy Người nói ít nhưng làm
nhiều, có những vấn đề đạo đức Người làm mà không nói. Phải đi sâu vào hành
vi đạo đức của Người, chúng ta mới khám phá ra được từng bản chất sâu xa của
những tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm thì mới đem lại hiệu
quả thiết thưc cho bản thân mình, có tác dụng đối với người khác. Nếu nói nhiều
làm ít, nói mà không làm, hơn nữa nói một đàng, làm một nẻo thì chỉ đem lại
những hậu quả phản tác dụng. “Hãy làm theo tôi nói, đừng làm theo tôi làm”,
thói đạo đức giả ấy là đặc trưng đạo đức của các giai cấp bóc lột đã từng tồn tại
trong lịch sử xã hội loài người, trong mỗi quốc gia dân tộc; nó hoàn toàn xa lạ
với đạo đức cách mạng, với nền đạo đức mới mà chúng ta cần xây dựng. Chúng
ta cần phấn đấu để làm sao trong xã hội ta không còn những kẻ đạo đức giả, càng
không cho phép những kẻ đạo đức giả vẫn đi dạy dỗ người khác về đạo đức.
Lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chủ nghĩa xã hội một phần quan trọng
phụ thuộc vào vấn đề này.
Từ đó chúng ta thấy rằng không ở lĩnh vực nào mà vấn đề nêu gương lại
được đặt ra như trong lĩnh vực đạo đức. Trong gia đình thì đó là tấm gương của

bố mẹ đối với con cái, của anh chị đối với những người em; Trong nhà trường
thì là tấm gương của thầy cô giáo đối với học sinh; Trong tổ chức, tập thể Đảng,
nhà nước là tấm gương của những người phụ trách, lãnh đạo của cấp trên đối với
cấp dưới; Trong xã hôị đó là tấm gương của người này đối với người khác,
những “gương người tốt việc tốt” mà Hồ Chí Minh đã phát hiện để mọi người
học tập và noi theo.
Nêu gương đạo đức là một nguyên tắc cơ bản trong giáo dục đạo đức mới.
Đạo đức cách mạng. Điều này đã được Hồ Chí Minh đề cập từ rất sớm. Từ giữa
thế kỷ XX, ngay trên trang nhất của tác phẩm “Đường kách mệnh”, Hồ Chí
Minh đã nêu 23 điều của tư cách một người cách mạng.
Một trăm bài diễn văn hay không bằng một tấm gương sáng - điều mà Hồ
Chí Minh nói về Lênin, đã đặt ra cho việc xây dựng đạo đức mới một nguyên tắc


rất cơ bản là sự nêu gương về đạo đức trong sáng, tuyệt vời với một cuộc đời
trọn vẹn.
Trong xã hội, tấm gương của các thế hệ trước đối với các thế hệ sau là đặc
biệt quan trọng. Mỗi thế hệ đều có trách nhiệm của mình, nhưng thế hệ trước bao
giờ cũng có trách nhiệm rất nặng nề đối với thế hệ sau trong việc giáo dưỡng,
nhất là trong việc bồi dưỡng, về đạo đức. Đương nhiên, trong cuộc sống không
phải bao giờ cũng chỉ diễn ra một chiều ảnh hưởng, tác động như vậy. Do đó, Hồ
Chí Minh cũng đã nói đến việc người già có thể học tập người trẻ không ngừng
hoàn thiện đạo đức của minh. Người lấy gương quần chúng giáo dục quần chúng
là phương châm rất sinh động và có sức thuyết phục rất lớn.
Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã tự nêu tấm gương đạo đức trong sáng tuyệt với,
tiêu biểu cho tinh hoa và khí phách dân tộc, được toàn dân tin yêu theo, thế giới
ngưỡng mộ. Đó là tấm gương suốt đời hy sinh phấn đấu cho lý tưởng cứu nước,
cứu dân; hết lòng thương yêu nhân dân theo tinh thần “nước lấy dân làm gốc”,
suốt đời không ngừng học tập và rèn luyện, thực hiện cần, kiêm, liêm, chính, chí
công, vô tư, sống giản dị, khiêm tốn, thanh cao.

Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đã nêu ra một luận điểm quan
trọng: “trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “Cộng sản” mà
ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức.
Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt
chước”[3;552]. Luận điểm ấy đã khăng định rất rõ vấn đề noi gương có tầm quan
trọng đặc biệt trong đời sống đạo đức, nhất là đối với trách nhiệm của cán bộ,
Đảng viên.
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, với cương vị chủ tịch nước, Hồ Chí
Minh kêu gọi đồng bào sẻ cơm nhường áo. Chính Người gương mẫu thực hiện
nghĩa cử cao đẹp đó. Người nói “từ tháng giêng đến tháng 7 năm nay, ở Bắc Bộ
đã có hai triệu người chết đói, kề đó lại bị nước lụt, nạn đói lại càng tăng thêm,
nhân dân càng khốn khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với


đồng bào cả nước, và tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi
tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó để cứu dân nghèo...”[2;31].
Tấm gương đạo đức của Bác Hồ là tấm gương chung cả dân tộc, cho các
thế hệ người Việt Nam mãi mãi về sau. Nhưng còn nhiều tấm gương của những
người tiêu biểu trong từng ngành, từng tập thể, những tấm gương “người tốt việc
tốt” rất gần gũi trong đời thường, Hồ Chí Minh đã từng nói: “từng giọt nước nhỏ
thấm vào lòng đất, chảy về một hướng mới thành suối, thành sông. Biết bao
nhiêu giọt nước nhỏ hợp lại mới thành biển cả. Một pho tượng một lầu đài cũng
phải có cái nền rất vững chắc mới đứng vững được. Nhưng người ta dễ nhìn thấy
pho tượng và lâu đài mà không chú ý đến cái nền. Như thế là chỉ thấy cái ngọn
mà quên mất cái gốc.
Người tốt việc tốt nhiều lắm. Ở đâu cũng có. Ngành giới nào, địa phương
nào, lứa tuổi nào cũng có”[4; 549]. Những tấm gương đạo đức đã được hiểu theo
một nghĩa rộng. Có những tấm gương chung và riêng, lớn và nhỏ, xa và gần, một
nền đạo đức mới chỉ được xây dựng trên một cái nền rộng lớn, vững chắc, khi
những phẩm chất đạo đức, những chuẩn mực đạo đức đã trở thành hành vi đạo

đức ngày càng phổ biến trong toàn xã hội, mà những tấm gương đạo đức của
những người tiêu biểu, những người tốt việc tốt có ý nghĩa thúc đẩy cho quá
trình đó.
Nói đi đôi với làm được Hồ Chí Minh coi là nguyên tắc quan trọng bậc
nhất trong xây dựng một nền đạo đức mới. Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi
với việc làm thì mới đem lại hiệu quả thiết thực cho chính bản thân và có tác
dụng đối với người khác. Nếu nói nhiều, làm ít, nói mà không làm, hơn nữa, nói
một đằng, làm một nẻo thì chỉ đem lại hiệu quả phản tác dụng mà thôi. Nói mà
không làm gọi là đạo đức giả. Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp trong truyền
thống phương Đông. Hồ Chí Minh khẳng định: “Nói chung thì các dân tộc
phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá
trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”[1; 263]. Nói đi đôi với làm phải gắn
với nêu gương về đạo đức. Hồ Chí Minh cho rằng, trong việc xây dựng một nền


đạo đức mới, đạo đức cách mạng phải đặc biệt chú trọng đạo làm gương. “Lấy
gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một cách tốt nhất để
xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc
sống mới”[8; 558] Phải luôn chú ý phát hiện, xây dựng những điển hình người
tốt, việc tốt trong mọi lĩnh vực của đời sống.
Nêu gương về đạo đức phải diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi. Trong gia đình, đó
là tấm gương của bố mẹ đối với con cái, của anh chị đối với các em, của ông bà
đối với con cháu; trong nhà trường, đó là tấm gương của thầy cô giáo đối với học
sinh; trong tổ chức, tập thể là tấm gương của người lãnh đạo, của cấp trên đối
với cấp dưới; trong xã hội là tấm gương của người này đối với người kia, của thế
hệ trước đối với thế hệ sau,… Tấm gương đạo đức của Hồ Chủ tịch là tấm
gương chung cho cả dân tộc, cho các thế hệ người Việt Nam mãi mãi về sau.
1.3.2. Xây đi đối với chống và phải là phong trào quần chúng rộng rãi
Xã hội mới Việt Nam thoát thai từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến,
do vậy nhiều tàn dư của văn hoá nô dịch thực dân vẫn còn ăn sâu, bén rễ trong

xã hội. Vả lại, trong mỗi con người, vì những lý do khác nhau, không phải người
nào cũng tốt, người nào cũng hay. Mỗi người đều có cái thiện, cái ác trong lòng.
Hồ Chí Minh khẳng định:” tất cả chúng ta đều sinh trưởng trong xã hội cũ, dưới
sự thống trị của đế quốc phong kiến. Mọi người chúng ta dù muốn hay không
muốn đều bị thói xấu của đế quốc phong kiến truyền vào người”[5; 36].
Vì vậy, một trong những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới theo quan
điểm của Người là phải kết hợp xây đi đôi với chồng. Điều đó có nghĩa là, một
mặt, phải không ngừng trau dồi, xây đắp, phát triển đạo đức mới. Đạo đức cách
mạng, tăng cường cái đúng, cái tốt. Cái tốt được tăng cường, phát triển thì cái
xấu thì bị đẩy lùi. Mặt khác, cũng với việc xây cái thiện phải đấu tranh chống lại
cái ác, cái xấu trong bản thân mỗi con người.
Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo
dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới từ trong gia đình đến nhà
trường và ngoài xã hội, nhất là trong những tập thể - nơi mà phần lớn thời gian


cuộc đời mỗi người gắn bó bằng hoặt động thực tiễn của mình. Những phẩm
chất chung nhất, cơ bản nhất lại được cụ thể hoá cho sát hợp với từng giai tầng,
từng lớp đối tượng khách nhau. Đó là điều Hồ Chí Minh đã làm công việc giáo
dục đạo đức cho cán bộ, Đảng viên, cho công nhân, nông dân, phụ nữ, tri thức,..
sau khi dành được chính quyền, trong quá trình hình thành cách mạng dân tộc,
dân chủ nhân dân, chuẩn bị điều kiện tiền đề đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh đã nhận thấy và chỉ ra những suy thoái, những bệnh đã nảy
sinh ra và xuất hiện trong cán bộ, Đảng viên. Người coi những suy thoái, những
bệnh ấy là “giặc ở trong lòng”, “giặc nội xâm”, là “đồng minh của thực dân
phong kiến, là “tội ác”... đối với độc lập dân tộc của chủ nghĩa xã hội. Những kẻ
địch ấy rất nguy hiểm đối với cách mạng, bởi vì “việc tranh đấu với kẻ địch ở
tiền tuyến bằng súng, bằn gươm còn dễ, nhưng việc tranh đấu với kẻ địch ở
trong con người, trong nội bộ, trong tinh thần, là một khó khăn, đau xót”[4; 496].
Vấn đề quan trọng trong việc giáo dục đạo đức là phải khơi dậy ý thức

đạo đức lành mạnh ở mỗi người. Mọi người tự giác nhận thức được tránh nhiệm
đạo đức của mình đã nói, cảm nhận thật sâu sắc việc trau dồi đạo đức cách mạng
là việc làm “sung sướng vẻ vang nhất trên đời này”.
Tiếp nhận sự giáo dục đạo đức là vấn đề cấp thiết không thể thiếu được,
nhưng sự tự giác giáo dục, tự trau dồi đạo đức ở mỗi người còn quan trọng hơn
nhiều. Sức mạnh của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là khơi dậy
sự tự giác của mỗi người nhằm đấu tranh tự loại bỏ cái thấp hèn để vươn tới caí
cao đẹp, loại bỏ caí ác, cái phi đạo đức để vươn tới cái thiện, cái đạo đức.
Trong khi xây dựng, bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức mới, phải đồng
thời chống lại cái xấu, cái sai, cái vô đạo đức vẫn thường diễn ra. Điều quan
trọng là phải phát hiện sớm, hướng mọi người vào cuộc đấu tranh cho sự trong
sạch lành mạnh về đạo đức. Hơn nữa còn phải thấy trước những gì có thể xảy ra
để đề phòng, ngăn chặn. Đối với những cán bộ, đảng viên.
Người đã dẫn lời Khổng tử để giải thích rõ hơn luận điểm này: “Khổng tử
nói: “mình phải chính tâm tu thân” là việc gì cũng phải làm kiểu mẫu; có thế mới


“trị quốc bình thiên hạ” được. Trị quốc bình thiên hạ đây tức là ta kháng chiến
đánh Pháp, kiến quốc xây dựng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hoà bình thế giới. Muốn
cải tạo xã hội thì lòng mình phải cải tạo. Nếu lòng mình còn tham ô, lãng phí,
muốn cải tạo xã hội làm sao được. Người đã trích dẫn khá dài những ý kiến rất
quyết liệt của Lênin về vấn đề này: “Cần phải nêu những đồng chí đã ăn hối lộ ra
để cho dư luận quở trách và cần phải đuổi họ ra khỏi Đảng... Phải lập tức đề nghị
một đạo luật để trừng trị những vụ hối lộ. Ít nhất cũng phải phạt 10 năm giam
cầm và 10 năm khổ sai”[6; 293].
Người đã vạch rõ nguồn gốc của mọi thứ tệ nạn, đó là chủ nghĩa cá nhân.
Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ tệ nạn. Muốn xây dựng đạo đức mới, chung
quy lại là phải chống cho được chủ nghĩa cá nhân.
Để xây và chống có kết quả, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng
rãi. Hồ Chí Minh đã phát động nhiều phong trào mới như: phong trào vận động

“nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ
thuật”, gọi tắt là cuộc vận động “3 xây, 3 chống”. Có phong trào, có cuộc vận
động chung cho toàn Đảng, toàn dân. Có phong trào, có cuộc vận động riêng cho
từng ngành, từng giới. Qua đó lôi cuốn mọi người vào cuộc đấu tranh nhằm xây
dựng, xây gì, chống gì rất cụ thể, rõ ràng, thôi thúc trách nhiệm đạo đức cá nhân,
để mọi người phấn đấu tự bồi dưỡng nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng.
Xây dựng đạo đức mới là phải giáo dục những phẩm chất, những chuẩn
mực đạo đức mới cho con người Việt Nam trong thời đại mới theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, từ gia đình, nhà trường, đến xã hội. Phải khơi dậy ý thức đạo đức lành
mạnh ở mọi người. Bên cạnh đó, phải không ngừng chống lại những cái xấu, cái
sai, cái vô đạo đức. Xây đi đôi với chống, muốn chống phải xây, chống nhằm
mục đích xây. Để xây và chống có kết quả phải tạo thành phong trào quần chúng
rộng rãi đấu tranh cho sự trong sạch, lành mạnh về đạo đức, phải kiên quyết loại
trừ chủ nghĩa cá nhân.


×